intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 118

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

66
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Bản chất và hiện tượng, những tồn tại khách quan, tồn tại xã hội,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 118

  1. Họ và tên : Nguyễn Hoài Nam Lớp : Quản trị kinh doanh ­ K38  Trường : Đại học Kinh tế Quốc dân BÀI KIỂM TRA 1) Từ một hiện tượng không thể kết luận đúng một sự vật. Bởi   vì: Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên   tương đối  ổn định ở  bên trong sự  vật, quy định sự  vận động và phát triển  của sự  vật đó. Còn hiện tượng là biểu hiện của những mặt, những mối   liên hệ ấy ra bên ngoài. Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối  ổn định của hiện  thực khách quan. Nó  ẩn giấu đằng sau cái vẻ  bề  ngoài của hiện tượng và  biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt   di động và biến đổi hơn của hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu  hiện của bản chất. Bản chất và hiện tượng không những tồn tại khách quan mà còn  ở  trong mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời   nhau. Mỗi sự  vật đều là sự  thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Sự  thống nhất đó thể  hiện trước hết  ở  chỗ  bản chất bao giờ  cũng bộc lộ  ra  qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất.   Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần tuý, nghĩa là không cần có  hiện tượng; ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự  biểu hiện của bản chất đấy.  Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể  hiện ở  chỗ  bất   kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua những hiện tượng tương  ứng, và  bất kỳ hiện tượng nào cũng là bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó, hoặc  1
  2. nhiều hoặc ít. Nói cách khác, bản chất và hiện tượng về  căn bản phù hợp  với nhau.  Như  vậy, bản chất bao giờ  cũng tự  bộc lộ  mình thông qua những   hiện tượng nhất định. Bản chất khác nhau sẽ  bộc lộ  ra thành những hiện   tượng khác nhau. Khi bản chất chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó  cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó  cũng biến mất. Bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau, nhưng đó là sự  thống nhất biện chứng, nghĩa là trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác   biệt : hiện tượng bản chất tuy thống nhất với nhau, về căn bản phù hợp  với nhau, nhưng chúng không bao giờ  phù hợp với nhau hoàn toàn. Vì bản  chất của sự  vật bao giờ  cũng được biểu hiện thông qua tương tác của sự  vật  ấy với các sự  vật chung quanh. Các sự  vật chung quanh này trong quá  trình tương tác đã  ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện   tượng những thay đổi nhất định. Kết quả là hiện tượng tuy biểu hiện bản  chất nhưng không còn là sự biểu hiện y nguyên bản chất nữa. Bản chất tương đối  ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không  ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Có tình   hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản   chất của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật chung tác động qua   lại với các sự  vật khác chung quanh lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy,  hiện tượng cũng thường xuyên biến đổi, trong khi đó bản chất là cái tương   đối ổn định, là cái giữ nguyên trong các biến đổi này của hiện tượng. Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối  ổn định  ở  bên trong sự  vật,  quy định sự vận động và phát triển của sự vật, còn hiện tượng là sự  biểu   hiện của bản chất ra bên ngoài, là cái không ổn định và biến đổi nhanh hơn   so với bản chất nên: trong quá trình nhận thức, để  hiểu đầy đủ  bà đúng  2
  3. đắn về  sự  vật, không nên dừng lại  ở  hiện tượng mà phải đi sâu vào tìm  hiểu bản chất của nó. Vì hiện tượng bao giờ  cũng biểu hiện bản chất dưới dạng đã cải  biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất, nên quá trình nắm bắt bản chất của sự  vật là một quá trình hết sức khó khăn, lâu dài công phu chứ  không thể  chỉ  qua một hiện tượng Để phân tích một bộ phận nào đó của ý thức xã hội trong giai   đoạn nào đó phải dựa trên trên cở tồn tại xã hội  Bởi vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hôi, ý thức xã hội phản ánh  tồn tại xã hội, phụ  thuộc vào tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội biến đổi,   nhất là phương thức sản xuất biến đổi, thì những tư  tưởng và lý luận xã  hội, những quan điểm về  chính trị  và pháp quyền, triết học, đạo đức…   sớm muộn gì cũng phải biến đổi theo. Vì thế, ở những thời kỳ lịch sử khác  nhau, người ta thấy có những lý luận, tư tưởng, quan điểm khác nhau chính  là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất xã hội, trước hết là   điều kiện kinh tế  xã hội quyết định. Điều này thể  hiện rất rõ qua các tư  tưởng cơ bản của mỗi thời đại 2) Vì sao nước ta hiện nay sản xuất nhỏ vẫn còn phổ biến           Phát triển kinh tế là vấn đề quan trọng nhất từ trước tới nay của xã   hội loai người. Kể  từ  khi con người xuất hiện, xã hội loài người đã trải   qua và hình thành xã hội: cuộc sống nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong  kiến, tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao đang huớng tới xã hội chủ nghĩa. Tương   ứng với mỗi tình thái xã hội trong một hình thái kinh tế mang nét đặc trưng   riêng. Tư  bản chủ  nghĩa cũng vậy, đây là một giai đoạn mà của cải vật   chất của xã hội được sản xuất ra nhiều hơn tất cả  các giai đoạn trước  cộng lại. Một giai đoạn chứng kiến bao sự biến đổi cả về mặt chất lẫn về  mặt lượng của xã hội loài người: kinh tế, khoa học kĩ thuật, chính trị, văn  3
  4. hoá ... Tuy nhiên trong giai đoạn này cũng là một giai đoạn phát triển còn   nhiều thiếu sót như phân biệt giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh   bất công bằng trong xã hội ... Từ  những khuyết tật đó, con người muốn   hướng tới một xã hội ở  đó con người có quyền bình đẳng , không còn đói   nghèo  và áp bức bóc lột , vật chất sản xuất ra có thể đáp ứng mọi nhu cầu   của con người... đó chính là chế độ xã hội chủ nghĩa. Để tiến lên xã hội chủ nghĩa thì cần phải trải qua hai giai đoạn: đó là   giai đoạn chủ  nghĩa xã hội và giai đoạn chủ  nghĩa cộng sản. Hiện nay  nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; một thời kì mang   tính chất quá độ, cái mới thì chưa thành cái cũ thì chưa hoàn toàn dứt bỏ,   thời kí này có sự giao nhập của nhiều tư tưởng. Nền kinh tế của chúng ta   trong giai đoạn này vẫn ở trình độ thấp, lực lượng sản xuất kém phát triển,   với nhiều hình thức sở  hữu tương  ứng với nhiều thành phần kinh tế  đan   xen. Vì vậy ở nước ta sản xuất nhỏ vẫn là chủ  yếu, mang tính chất manh  mún.   Dưới ngọn cờ của Đảng là kim chỉ nam là Mác ­ Lê nin và tư tưởng   Hồ  Chí Minh chúng ta cúng khong thể  đốt cháy giai đoạn hay phủ  nhận  hoàn toàn những thành tựu mà chủ  nghĩa tư  bản đạt được, nhất là chủ  nghĩa tư  bản nhà nước . Theo Lênin thì trong giai đoạn quá độ  lên xã hội   chủ  nghĩa , chúng ta không thể  vuứt bỏ  hoàn toàn chủ  nghĩa tư  bản nhà   nước mà phải thấy được những điểm mạnh của nó dể phát huy. Sau sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu , hệ thống các nước   theo chủ nghĩa xã hội bị   ảnh hưởng rất lớn . Tuy nhiên Đảng và nhân đân  Việt Nam vẫn kiên định đi theo con đường đã chọn và bảo vệ  thành quả  Cách mạng. Để  tiến lên Xã Hội Chủ  Nghĩa Việt Nam phải trải qua rất   nhiều khó khăn do xuất phát điểm rất thấp , nền kinh tế lạc hậu, khoa học   kĩ thuật thấp, trình độ  quản lí còn yếu kém ... Sau chiến thắng mùa xuân  năm 1975, đất nước thống nhất, cả  nước cùng quá độ  lên CNXH trong  4
  5. điều kiện đất nước chịu đựng những đảo lộn kinh tế và xã hộ`i với quy mô  lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài, tình hình thế  giới có những mặt   diễn biến không thuận lợi. Đây cũng là thời điểm mô hình kinh tế  tập  trung, quan liêu bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà  hậu quả  của nó là xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế  sâu sắc vào cuối  những năm 70 đầu những năm 80. *   Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VI của Đảng ­ bước ngoặt   trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội Đảng  lần thứ  VI thực sự  là đại hội của những quyết sách  lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự  phát  triển của đất nước ta. Ý nghĩa bước ngoặt được thể hiện ở mấy điểm sau  đây: ­ Thời kỳ tìm tòi, thử nghiệm từ năm 1979 đến năm 1986 đã chuẩn bị  tiền đề, điều kiện và những yếu tố  cần thiết cho công cuộc đổi mới cực   kỳ to lớn này. Đây là thời kỳ  vận động tiệm tiến với những đột phá quan   trọng để  đi đến bước nhảy vọt tại Đại hội Đảng lần thứ  VI.   Đại hội  Đảng lần thứ  VI là cột mốc mở  ra cục diện mới của nước ta trên con   đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ những quan điểm nêu trên của các Đại hội đại biểu toàn quốc lần  thứ VI, VIII, IX của Đảng và tư  cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời   kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội, ta có thể  rút ra một số  nhận xét về  đặc  trưng cơ bản và chủ yếu của mô hình kinh tế mới này là: ­ Chuyển nền kinh tế  từ  kinh tế  hiện vật, bao cấp là chủ  yếu sang   nền kinh tế  hàng hoá, vận hành theo cơ  chế  thị  trường, dưới sự  quản lý  của nhà nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Đó là cách tổ  chức sản  xuất tối ưu để xây dựng cơ sở vật chất ­ kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội mà   hiệu quả kinh tế cuối cung là năng suất lao động cao, chất lượng tốt, tạo ra  nhiều sản phẩm thặng dư. 5
  6. ­ Động viên mọi nhân tố  tích cực của các htành phần kinh tế  và duy  trì chúng trong một thời kỳ  lịch sử  laau dài theo quan điểm không xoá bỏ  vội vã một cách duy ý chí cơ  cấu kinh tế  khách quan, mà phải chấn hưng  thương nghiệp, công nghiệp nhỏ, sử  dụng và phát triển kinh tế  tư  bản tư  nhân trong mức độ  cần thiết; đồng thời xây dựng và củng cố  thành phần  kinh tế  nhà nước và kinh tế  hợp tác dần dần trở  thành nền tảng cuả  nền  kinh tế quốc dân. ­ Thu hút mạnh mẽ  đầu tư  của tư  bản bên ngoài và hướng sự  phát  triển ấy theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới những hình thức  và trình độ khác nhau. Mô hình kinh tế mới không đối lập chủ nghĩa tư bản  với chủ  nghĩa xã hội một cách trừu tượng như  trước, mà là sử  dụng chủ  nghĩa tư  bản vào sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội, vừa hợp tác vừa  đấu tranh. ­ Tuỳ theo trình độ lực lượng sản xuất đạt được trong thực tế mà xã   hội hoá sản xuất dưới những hình thức phù hợp với trình độ khác nhau của   lực lượng sản xuất để  mở  đường cho lực lượng sản xuất phát triển hơn  nữa, tiến dần đến trình độ  xã hội hoá nền kinh tế  trên cơ  sở  chế  độ  công  hữu vê các tư  liệu sản xuất chủ  yếu dưới những  hình thức thích hợp, từ  thấp đến cao. ­ Thực hành nhiều chế độ phân phối khác nhau tuỳ theo sự phát triển  của các quan hệ  sở  hữu, tiến dần đến sự  thống trị  của chế  độ  phân phối   theo số lượng và chất lượng lao động. Thực hiện nguyên tắc chung khuyến   khích bằng lợi ích vật chất đi đôi với giáo dục và động viên tinh thần. ­ Trong cơ chế mới, kế hoạch vẫn đóng vai trò quan trọng, là công cụ  quản lý vĩ mô của Nhà nước nhưng chủ  yếu mang tính chất định hướng,   hướng dẫn sự phát triển của thị trường, thị trường trực tiếp hướng dẫn các  tổ chức sản xuất ­ kinh doanh. 6
  7. ­ Nền kinh tế  được quản lý bằng các phương pháp kinh tế  là chủ  yếu, với động lực thúc đẩy là sự  kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã  hội,   lợi ích của tập thể  và lợi ích riêng của từng cá nhân, lợi ích lâu dài và lợi   ích trước mắt.... ­ Nền kinh tế mở hội nhập với nền kinh tế thế giới trên nguyên tắc   vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đảm bảo tính độc lập, tự  chủ  theo định   hướng xã hội chủ nghĩa. ­ Thực tiễn kinh tế đất nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới  đã và đang chứng minh tính khách quan khoa học, tính hiệu quả  của mô  hình kinh tế đó. Chỉ trong một thời gian ngắn, mô hình kinh tế mới đã đem  lại những thành tựu rất quan trọng, góp phần tích cực đưa đất nước thoát  khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế ­ xã  hội gay gắt và tạo ra những tiền đề  cho thời kỳ  phát triển mới, thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại  hoá. Là một mô hình kinh tế  hoàn toàn mới, thời gian đưa vào thực hiện  chưa được bao lâu nên chúng ta chưa thể  xem đó là một mô hình đã được   thiết kế  xong xuôi, hoàn chỉnh mà cần có thời gian và kinh nghiệm thực  tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện mô hình đó. 7
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2