intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 127

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:9

75
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tư tưởng triết học Nho gia, quan hệ con người, triết học phương Đông thời cổ đại,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 127

  1. BÀI LÀM Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì ấn Độ  Và Trung Quốc là những Trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong  phú nhất của nền văn minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông thời đó mà ý nghĩa   của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức,   chính trị­ xã hội đó là những tư tưởng triết học của Nho Gia. 1­Những tư tưởng triết học Nho gia Nho gia xuất hiện vào khoảng thế  kỷ  VI trước công nguyên, dưới   thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng tử  (1551 tr CN­479 trCN). Đến  thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử  và Tuân Tử    hoàn thiện và   phát triển theo  hai xu hướng khác nhau; duy tâm và duy vật trong đó dòng  Nho gia Khổng­ Mạnh có  ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử  Trung Hoa và một số nước lân cận. Kinh điển của Nho giáo thường kể  tới là Tứ  thư  (Luận ngữ, Đại  học, Trung dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu).  Những tư tưởng triết học bảnthể luận và những tư  tưởng biến dịch  của vũ trụ  có thể  xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh   Dịch. Theo tư tưởng của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ , của vạn vật  là thái cực. Thái cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng   nghi. Sự  tương tác giữa hai thế  lực âm­ dương mà sinh ra tứ  tượng. Tứ  tượng tương thôi sinh ra bát quái và bát quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến  đổi có gốc rễ ở sự biến đổi âm ­dương. Những tư  tưởng triết học về  chính trị­ đạo đức của Nho gia được   khảo sát chủ  yếu trong sách “luận ngữ”. Ngoài racòn có thể  bổ  cứu thêm  1
  2. trong Ngũ kinh: “Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như  “đại học”, “Trung dung”   Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết  về xã hội, chính trị­ đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.  Quan điểm về chính trị­ đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những   tư tưởng chủ yếu sau: Thứ  nhất:  Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã  hội giữa con  người với con người nhưng Nho gia coi những quan  hệ chính trị ­ đạo đức   là những quan hệ  nền tảng của xã hội, đề  cao vai trò của những quan hệ  ấy và thâu tóm những quan hệ  này vào ba rường mối chủ  đạo (gọi là tam  cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ  vua­ tôi, cha­ con và chồng­  vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên­ dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp   theo chiều ngang của quan hệ  thì vua­ cha­ chồng xếp  ở  hàng làm chủ.   ”..Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho   gia. Để  giải quyết đúng đắn các quan hệ  xã hội, mà trước hết là mối  quan hệ  “tam cương”, Khổng Tử  đã đề  cao tư  tưởng “chính danh”.   Để  thực hiện chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không  phải “pháp trị Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong  kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng   của Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự  trên dưới, có vua sáng­ tôi hiền, cha từ­ con thảo, trong  ấm­ ngoài êm; trên  cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên  từ vua chúa, quan lại đến thứ  dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc  cũ cũng như của  giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên. 2
  3. Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo   huyết thống và chủ  trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất  thân của người  ấy. Trong việc chính trị  vua phải biết “trọng dụng người   hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự...”. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được   đức nhân, “lế” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy   phạm nguyên tắc đạo đức.  Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua,  cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô   đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh. Về  đạo cha  con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ  hiếu làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự  ái làm trọng. Trong đạo  hiếu của con đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở  tâm  thành kính. “Đời nay hễ  thấy ai nuôi được cha mẹ  thì người ta khen là có   hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho  nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.” Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án   những ông vua không lấy điều  nhân nghĩa làm gốc, chỉ  vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức   mạnh để  đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ  thái độ  khinh  miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất   phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ. Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới  xã hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ  sở  kinh tế và kỹ  thuật   của xã hội, cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn  luyện  đạo  đức con người.  Trong bảng giá trị  đạo đức  của Nho gia thì  chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín,  Trung, Hiếu...đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ  Nhân trong triết học  Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất.  Nó được coi là  3
  4. nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ  giữa người với người từ  trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các  phạm trù đạo đức chính trị khác như  một hệ  thống triết lý chặt chẽ, nhất  quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông. Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ”   nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu   là thời kỳ đang trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ  trương dùng nhân đức để giáo hoá con người, cải tạo xã hội. Người có đức  nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ  “cung, khoan, tín mẫu,  huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người   tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có nhân theo  Khổng Tử    là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu  hoạch hết quả”. Như  vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con  người, nên “nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức   tạp, phong phú nhưng chung quy lại chỉ  là những điều sống với mình và  sống với người. là “mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình  muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình không  muốn chớ đem cho người”.  Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ  có  trí, con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán  được sự  việc, phân biệt được phải trái, thiện ác, để  trau dồi đạo đức và   hành động hợp với “thiên lý”. Nhưng người muốn đạt “nhân” chỉ  có “trí”  thôi chưa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Người  nhân có dũng phải là  người có thể  tỏ  rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể  hành động   một cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn  lạn. Người nhân có dũng mới tự chủ  đựoc mình, mới quả  cảm xả  thân vì  4
  5. nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực khó không nao núng làm mất nhân cách   của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý. Thứ tư: Vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề  chính trị  – xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như  nhiều học thuyết khác của  Trung hoa thời cổ  phải đặt ra và giả  quyết vấn đề  bản tính con người.   Trong Nho gia  khong có sự  thống nhất quan điểm về  vấn đề  này nhưng  nổi  bật  là quan điểm  của Mạnh Tử. Theo  ông “bản tính người vốn là  thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới   sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa... Mạnh Tử  thần bí hoá những giá trị  chính trị­ đạo đức đến mức coi   chúng là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia  đề  cao sự  giáo dục để  con người   trở  về  đường thiện với những chuẩn  mực đạo đức sẵn có. Đối lập với Mạnh Tử  coi tính người là thiện, Tuân Tử  lại coi bản   tính con người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo  hoá thành thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về  tính người, Tuân tử đã chủ  trươngđường lối trị nước kết hợp Nho gia với pháp gia. So với các học thuyết khác, nho gia là học thuyết có nội dung phong  phú và mang tính hệ  thống hơn cả; hơn thế  nữa nó còn là hệ  tư  tưởng  chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội   phong kiến. Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn   thiện qua nhiều giai  đoạn lịch sử  trung  Đại; Hán, Đường, Tống, Minh,   Thanh nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với  tên tuổi của các bậc danh Nho như  Đổng Trọng Thư  (thời Hán), Chu Đôn  Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình DI (thời Tống). 2­Ý nghĩa phương pháp luận 5
  6. ­ Trong bối cảnh nước Trung Quốc thời Xuân Thu, một xã hội loạn  lạc, cha không ra cha, con không ra con, mọi giá trị đạo đức bị đảo lộn. Chủ  trương dùng “Nhân” để giáo hoá con người, cải biến xã hội từ  loạn thành   trị  của Nho gia   đã biểu hiện tính tích cực, tính nhân bản của đạo Nho.  Nhưng do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của các sự  biến lịch sử  và bị  những quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp cải biến con người và  xã hội của Khổng Tử  chỉ  đạt  ở  mức cải lương, duy tâm chứ  không phải   bằng cách mạng hiện thực. ­Trong   triết   học   của   Khổng   Tử   các   phạm   trù   “nhân”   “lễ”,   “trí”,  “dũng”.....có nội dung hết sức phong phú, thống nhất với nhau và luôn thâm  nhập vào nhau vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó luôn cố gắng giải  đáp những vấn đề đặt ra của lịch sử và đây có lẽ  là thành quả rực rỡ nhất  trong triết lý nhân sinh của ông.  ­Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp nên trong  triết   học của Khổng Tử  luôn chứa đựng những mâu thuẫn giằng co, đan xen  giữa những yếu tố duy vật, vô thần với những yếu tố  duy tâm, giữa những   tư  tưởng tiến bộ    với những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng bị  giằng xé của ông trước biến chuyển của thời cuộc.Tính không nhất quán   ấy của ông đã là cơ sở để  các thế hệ sau khai thác, xuyên tạc theo khuynh   hướng duy tâm, tôn giáo thần bí. Nhưng dù sao ông cũng xứng đáng với  lòng suy tôn của nhân dân Trung Quốc. Triết học của Mạnh Tử tuy còn nhiều yếu tố duy tâm, thần bí, nhất   là những quan niệm của ông về  tự  nhiên về  lịch sử  xã hội cũng như  về  luôn lý đạo đức, nhưng trong học thuyết về  chính trị  xã hôị  với tư  tưởng  “nhân chính”, “bảo dân”... có ý nghĩa tiến bộ phù hợp với yêu cầu và xu thế  phát triển của lịch sử  xã hội. Vì thế  Mạnh Tử  xứng đáng được hậu thế  phong ông là bậc á thánh. 6
  7. ­Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ thì những tư tưởng của triết học  Nho gia tuy còn nhiều yếu tố duy tâm khi lý giải về những vấn đề xã hội,   thiếu khách quan khoa học  nhưng so với các quan điểm duy tâm, tôn giáo,  chiết trung, nguỵ  biện của bọn quý tộc cũ, đã là một bước tiến dài trong   lịch sử triết học Trung Quốc thời cổ đại. ­Những tư  tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế  kỷ  VI  trước công nguyên, trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho gia đã để  lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức chính trị – xã hội   rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Nhất là trong giai đoạn hiện nay nước ta  đang chuyển sang nền kinh tế  thị  trường, mở  cửa quan hệ  với các nước  trên thế giới, với sự du nhập của văn hoá phương Tây, ở một khía cạnh nào   đó, một số  giá trị  đạo đức cũng bị  thay đổi, thì những tư  tưởng về  chữ  Nhân của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế  hệ trẻ hiện nay,  Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị  trường, nhiều người vì chạy theo lợi nhuận mà đôi khi làm lợi cho mình  nhưng lại làm hại cho người khác, điều này là trái với những tư tưởng của   đạo Nho. Trong kinh doanh, việc đạt chữ  Tín lên  đầu có ý nghĩa rất lớn nhất   là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mở cửa quan hệ với các nước trên trế  giới, với việc đầu tư  của các  nhà tư  bản lớn trên thế  giới thì một sự  bất  tín vạn sự bất tin. Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư  tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Hiện nay, trong mối quan hệ thầy trò,  mối quan hệ  giữa người với  người trong xã hội, chữ  “lễ”, chữ  “nghĩa” đôi khi đã bị  xem nhẹ. Do vậy,   7
  8. vận dụng những tư  tưởng đạo đức của Nho gia vào việc giáo dục con   người là hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên bên cạnh đó những tư  tưởng của Nho gia cũng có một số  hạn chế đó là lối sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh   nữ. Trong gia đình người cha, người chồng, người anh cả    là người có  quyền lực cao nhất, người phụ  nữ  trong gia đình bị  phụ  thuộc hoàn toàn  vào chồng, không có quyền tham gia vào những việc đại sự trong gia đình.  Đặc biệt đạo “tam tòng” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu từ  tòng  tử), (ở nhà thì phải nghe theo cha, đi lấy chồng theo chồng, chồng chết theo   con) đã trói buộc người phụ nữ họ không có quyền tự chủ quyết định cuộc  đời và tương lai của mình. 8
  9. HÃY NÊU MỘT NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC  PHƯƠNG ĐÔNG THỜI CỔ ĐẠI VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP  LUẬN RÚT RA 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2