18
NINH VIẾT GIAO



TÍN NGƯỠNG VÀ LÊ TỤC DÂN GIAN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI TỰ NHIÊN
NINH VIẾT GIAOP)

Năm 1980, Hiệp hội quốc tế uà bảo Uệ thiên nhiên (LTUCN), Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNBP) và Quï quốc tế uề Bdo uệ thiên nhiên (WWF) đã công bố bản Chiến lược bao uệ toàn cầu. Chiến lược này nhấn mạnh rằng, loài người tồn tại như một bộ phận của thiên nhiên. Họ sẽ không có tương lai nếu thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên không được bảo vệ.
Chiến lược này đưa ra lời kêu gọi: “Cứu lấy trái đất”. Cứu lấy trái đất là cải thiện tình trạng của trái đất (bởi vì trái đất đã bị nền văn minh và sự tham lam quá đỗi của con người bòn rút quá nhiều, tàn phá quá nhiều những nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên) và các điều kiện sống của con người trên thế giới bằng cách thực hiện hai yêu cầu khẩn thiết: Một là phải xây dựng được nền đạo đức mới một cách sâu rộng, đạo đức vì sự sống, vì sự phát triển bền vững của nhân loại và biến những nguyên lí đó thành hiện thực. Hai là phải đảm bảo sự kết hợp giữa bảo vệ và phát triển: bảo vệ nhằm giới hạn hoạt động của chúng ta trong khả năng chịu đựng của trái đất; phát triển là tạo
'PGS, Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An.
điều kiện cho con người bất kì ở đâu cũng có cuộc sống đầy đủ, lành mạnh và lâu đài.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn nhìn lại một vài khía cạnh dân tộc học trong di sản văn hoá cổ truyền ở một nước nông nghiệp đối với môi trường sinh thái tự nhiên để cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
Đối với một dân tộc, đi sản văn hoá cổ truyền là một tài sản vô giá. Mà văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trưởng tự nhiên và xã hội. Với một quá trình sáng tạo, nhào nặn, xây dựng, trùng tu, tái tạo và nâng cao qua thời gian của một cộng đồng người nhất định, cộng đồng ấy đã để lại một di sản văn hoá lâu ngày và được lưu truyền từ đời nọ qua đời kia; nó được khẳng định, đứng vững rồi trở thành vốn văn hoá cổ truyền của một dân tộc. Trong vốn văn hoá cổ truyền ấy có những đi sản văn hoá vật thể như thành quách, lâu đài, đình, đền, miếu, phủ, nhà thánh, nhà thờ, nhà ở có những đi sản văn hoá phi vật thể, bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sở thấy được”, được lưu truyền và biến đổi như các loại truyện kể dân gian, ca dao, âm nhạc dân gian, phong tục tập quán, luật tục, hương ước, lễ hội, y dược dân gian, bí quyết và qui trình công nghệ của các nghề truyền thống, kĩ thuật nấu các món ăn, quan niệm về tâm hồn, về tín ngưỡng tổ tiên, về các đấng thần linh, về mọi sự huyền bí trong vũ trụ, trong xã hội, trong con người... Cố nhiên là giữa cái “vật thể” và cái “phi vật thể” có sự gắn bó hữu cơ với nhau. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
19


Như đã nói ở trên, bài viết này chỉ nói về vài khía cạnh của di sản văn hoá cổ truyền phi vật thể của một dân tộc mà eụ thể là dân tộc Việt Nam trong mối tương tác với môi trường tự nhiên qua trường kì lịch sử. Đó là tín ngưỡng và lễ tục dân gian đối với môi trường sinh thái tự nhiên. Sự tương tác ấy đã diễn ra ở hai phương diện: bảo vệ và phát huy. Mà bảo vệ và phát huy môi trưởng sinh thái tự nhiên thì đó là một hành động văn hoá mang tính nhân văn để phát triển và tôn tại. Bởi vì: “Văn minh nếu như nó phát triển một cách tự phát và không được hướng dẫn một cách tự giác thì sẽ để lại phía sau nó một hoang mạc” (K. Marx). Đó là lời cảnh báo đối với xã hội văn mình.
Thiên nhiên đã phú cho con người một môi trường tự nhiên mà lâu nay ta thường gọi là môi trường sinh thái thật đa dạng và giàu có. Từ ngàn xưa, khi loài người đang còn mông muội, cuộc sống hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên, các nhà sử học gọi là thời đại công xã nguyên thủy. Thời đại này kéo dài hàng vạn năm. Vào thời kì công xã thị tộc, tôn giáo của người nguyên thuỷ là fín ngưỡng tô tem. Với tôn giáo sơ khai đó, mỗi thị tộc thờ một con vật, một cái cây hay một vật thể gì đó làm vật tổ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vật tổ của người Việt là con chim lạc (con chim báo thời tiết) và con rắn (có người cho là con cá sấu) và sau được thể hiện là con rồng. Quốc gia Việt Nam có nhiều dân tộc. Đối với người Thái con hùm là vật tổ của các họ Lộc, Lữ, Lương: con chim tăng lo là vật tổ của họ Lô, con rắn là vật tổ của họ Ngân, con mè niểu là vật tổ của họ Vĩ, eon chim bìm bịp là vật tổ của họ Hạ (hoặc Kha), con chỉïm quốc là vật tổ của họ Quang. Đối với dân
tộc Khơ Mú, vật tổ của họ Rval là con hổ, của họ Moong là con chồn, của họ Seo là con chim sim ôm, của họ Hung là con phượng hoàng, của họ Soong là cây guột, họ Cụt là con chim én,.. Đối với dân tộc Mnông, vật tổ của họ Và là con chim đại bàng, của họ Xồng là con gấu của họ Hà là con chim chích, của họ Hồ là con khỉ, của họ Lầu là con hổ, họ Già là con dê... Cứ thế, mỗi họ tôn sùng một hay vài vật tổ nào đó. Đa số vật tổ là con vật, song cũng không ít vật tổ là một loài cây, một loại đá hay một đồ vật nào đó.
Ai cũng biết rằng tín ngưỡng tô tem là tín ngưỡng “tôn sùng vật tổ,” tức họ nào thờ con vật nào thì không ăn thịt con vật đó, thờ cây nào thì không chặt phá thứ cây đó, thờ hiện tượng tự nhiên nào thì không làm hại hiện tượng tự nhiên đó như nguồn nước, đá... chẳng hạn. Tất cả đều là thiên nhiên. Nó bắt nguồn từ lòng biết ơn, biết ơn những gì có lợi cho cuộc sống để khắc ghi, nhớ mãi và cũng bắt nguồn từ lòng kinh sợ, kinh sợ những gì có hại đến con người, cũng để nhớ mãi, tránh xa. Sâu xa hơn là từ quan niệm của người nguyên thuỷ cho rằng vạn vật đều có linh hồn mà sau này nhiều người cho đó là nguồn gốc của chủ nghĩa duy linh.
Tôi không muốn phân tích sâu hơn ý nghĩa của vật tổ, mà chỉ muốn nói rằng, Uuề một khía cạnh nào đó, tín ngưỡng tô tem có tác dụng ngăn chặn sự giết chóc, phá hoại cúa con người đối uới môi trường sinh thái tự nhiên, cho thiên nhiên là đồng loại uới mình. Trong các buổi lễ có ăn thịt vật tổ, có những nghi thức tôn sùng vật tổ cũng là để đồng hoá và củng cố bản chất của mình.
Sản xuất phát triển, của cải dư thừa thì nội bộ thị tộc có sự phân hoá và giữa các thị tộc có chiến tranh. Thị tộc thất bại 20
NINH VIẾT GIAO


bị sát nhập hoàn toàn vào thị tộc thắng lợi. Một thị tộc bị như vậy; hai, ba, bốn... thị tộc bị như vậy, thị tộc thắng lợi sẽ hình thành bộ tộc (bộ lạc). Quá trình hình thành bộ tộc cũng là quá trình các thị tộc nhỏ yếu liên minh với nhau để chống một bộ tộc hùng mạnh. Từ thị tộc đến bộ tộc đến bộ tộc liên hiệp rồi dân tộc, người thị tộc trưởng trở thành tù trưởng, lãnh chúa, lãnh tụ quốc gia. Trở thành người đứng đầu có quyền lực, họ thiết lập các tổ chức thi thố và bảo vệ quyền lực của mình, mà tổ chức quan trọng nhất là Nhà nước và binh lính.
Thế vẫn chưa đủ. Cần phải có một thế lực siêu nhiên vô hình nấp sau, càng vì đại, càng hùng tráng thì người anh hùng (tù trưởng, lãnh chúa) càng có chỗ đứng vững chắc để tự tin rằng sức mạnh của tập thể đã tập trung vào cá nhân mình và qua đó làm chủ phần hồn mọi người dân lớn nhỏ trong khu vực, trong lãnh địa của mình.
Vật tổ tượng trưng cho sức mạnh cả “giống”, cả “loài” cho một cộng đồng thì lúc này ý thức ấy tập trung vào một cá nhân, vinh dự của cả cộng đồng chỉ là mơ hồ. Như vậy, về mặt tư tưởng, một con vật, một cái cây... là vật tổ giờ đây không đủ sức biện minh cho anh hùng cá nhân với quyền lực to lớn hơn. Các hiện tượng tự nhiên vĩ đại, đữ dội như núi, sông, sấm chớp, biển cả... được thay thế để các anh hùng dựa vào đó tự coi mình (hoặc được cộng đồng tôn sùng) không phải là người bình thường mà là tỉnh tuý của đá, của đất, của núi, của sông, của biển, của nước, của cây, của sao trời, gió, sấm, mây, mưa... để làm hào quang cho sức mạnh, cho quyền lực của mình. Do đó mà có thần Núi, thần Sông, thần Biển, thần
Cây, thân Đá, thần Nước, thần Sấm, thân Mưa, thần G1ó... ra đời. Và chúng ta có Sơn Tình, Thuy Tĩnh, Thạch Tỉnh, Vân Tình, Vũ Tình, Mộc Tỉnh, Hùm Tình, Long Vương, Hà Bá... Sơn Tình là tỉnh linh của núi, Thạch Tỉnh là tỉnh linh của đá, Thuỷ Tình là tình linh của nước, Mộc Tỉnh là tỉnh linh của cây... Cùng với quan niệm vạn vật có linh hồn, nhân dân cũng tôn sùng và thờ cúng các tình linh ấy. Tín ngưỡng về các hiện tượng kì vĩ của thiên nhiên như vậy tạm gọi là fín ngưỡng nhiên thần, trong đó có thiên thần. Tôi không nói thêm về ý nghĩa nhân sinh quan, thế giới quan của tín ngưỡng này mà chỉ nói rằng về một mặt nào đó nó cũng có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái, ngăn chặn sự phá hoại, sự bòn rút tài nguyên, bảo vệ môi trường thiên nhiên, sự giết chóc động vật trong thiên nhiên. Tín ngưỡng vật tổ chỉ bảo vệ, tôn sùng một thứ cây, một con vật, một hiện tượng tự nhiên. Tứi ngưỡng nhiên thần bảo uệ, tôn sùng cả một dấy núi, một khu rừng, một con sông nghĩa là bao quát hơn, rộng lớn hơn uà linh thiêng hơn. Chính đó là bdo uệ tính đa dạng sinh học tức là bảo uệ tất cả các loài động uật, thực uật cùng các tổ chức sống khác, bảo uệ cả uốn gien di truyền có trong môi loài uà các dạng hệ sinh thái khác nhau cùng tài nguyên thiên nhiên trong môi trường ấy. Xã hội phát triển thêm một bước thì có tín ngưỡng nhân thần. Tín ngưỡng nhân thần biểu hiện các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người trong đó có lòng biết ơn. Tín ngưỡng nhân thần phong phú, đa dạng bởi chủ yếu thần là những người có công với nước, với dân, những người dựng nước, cứu nước, những người khẩn hoang, lập ấp, lập làng, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
21


những tổ sư các nghề nghiệp... Tín ngưỡng nhân thần bành trướng, phổ biến thì đứn ngưỡng uật tô tem vần còn rơi rót và tín ngưỡng nhiên thần vẫn tôn tại. Có nơi tôn tại dưới dạng nguyên hình, có nơi tồn tại dưới dạng nhân thế hoá, lịch sử hoá. Đối với núi, có nơi vẫn gọi là thần Núi hay Sơn thần, nhiều nơi gọi là Cao Sơn, Cao Các. Về Cao Sơn, Cao Các cả nước Việt Nam có 2017 xã thôn phụng thờ Cao Sơn, 1519 xã thôn phụng thờ Cao Các, 335 nơi phụng thờ cả Cao Sơn và Cao Các. Theo chúng tôi, Cao Sơn, Cao Các là hai vị thân khác nhau hay là một vị thần thì cũng chỉ là thần Núi (Sơn thân). Sau đó thân Núi được lịch sử hoá, mang một hay nhiều lí lịch nhân thế mà ngày nay lấy những tiêu chuẩn của sử học, dân tộc học hay bất cứ một nghành khoa học nào khác cũng không thể giải thích được. Có nơi cho đó là Cao Hiển, một tiến sĩ đời Tống làm quan đến chức Thừa tướng có công dẹp giặc Đông Di, có nơi cho đó là Tan Viên sơn thánh, có nơi cho là Quý Minh sơn thánh, là Cao Lỗ (tướng của An Dương Vương)... Thần Nước cũng vậy, có nơi gọi là Đức Ông sông nước, Hà Bá thuỷ quan, nhiều nơi gọi là Long Vương. Long Vương là vua Rồng. Rồng chỉ là hư cấu, toàn thấy Rắn. Rắn là một dạng thần Nước được thờ tại nhiều nơi ở Việt Nam. Thần Nước cũng được nhân thế hoá, lịch sử hoá là Tứ Vị Thánh Nương với các dị bản khác nhau. Văn bản dược nhiều người đề cập là 4 mẹ con nhà Nam Tống. Như Cao Sơn, Cao Các, cả nước Việt Nam có hàng trăm đến thờ Tứ Vị Thánh Nương thì cũng là thờ thần Nước (có người nói là thần Cá). Thần Cây, thần Gió, thần Mưa.... cũng vậy, đều được nhân thế hoá, phàm tục hoá.
Cùng với các nhân thần là những người có công với nước, với dân. Các thiên thần và nhiên thần nói trên một khi đã được nhân thế hoá, phàm thế hoá, lịch sử hoá đều được nhân dân thờ ở các làng. Mỗi làng thờ một vị thần hoặc hai, ba vị thần. Đến một lúc nào đó, tuỳ theo sự linh dị của thần mà được nhà vua phong tước Vương với chức danh là Thành hoàng. Tín ngưỡng Thành hoàng khá phổ biến ở Việt Nam. Thành hoàng có đền thờ với những kiến trúc truyền thống trong một khuôn viên rộng hẹp nhất định tuỳ theo điều kiện về đất đai của mỗi làng. Thành hoàng thuộc về thế giới tâm linh nên khuôn viên thờ thần dù rộng hay hẹp đều là chốn thiêng liêng, ở đó mọi cái cây, ngọn có, mọi con vật cùng đền thờ, đồ tế khí đều là của thần, không ai được xâm phạm, chặt phá, trộm cắp. Đã bao người bị chết chỉ vì tham lam một cành cây, giết một con rắn trong khuôn viên thờ thần.
ĐI đôi với tín ngưỡng Thành hoàng là ín ngưỡng thổ địa hay thổ thần. Thổ thần thường được thờ trong một cái miếu nhỏ hay trong một ngôi chùa, thờ chung với các đức Phật. Thổ thần cai quản phần âm tức là phần dưới đất và những người đã qua đời. Khi đào móng xây nhà, đào huyệt chôn người chết, đào giếng lấy nước ăn... đều phải làm lễ cúng, xin phép thổ thần. Nói cách khác, thổ thần không cho người ta đào phá lung tung trên diện tích đất đai mà mình cai quản.
Bên cạnh Thành hoàng và Thổ dịa, ở mỗi làng còn có thần cây đa, cây đề, cây trôi, tức là các cây cổ thụ. Mỗi cây là một sinh linh sống lâu năm với dân làng, chứng kiến bao vui buồn của dân làng. Cũng như ở miền núi, có ma ruộng, ma 22
NINH VIẾT GIAO


suối, ma cánh rừng... thì ở miền xuôi cũng có ma lùm cây, ma cánh bãi, ma vườn dâu, ma hồ nước... Rồi đạo Phật với 15 điều giới răn, trong đó có điều giới răn người ta không được sát sinh. Đạo Mẫu với tam toà tứ phủ là các mẫu Thượng Thiên, mẫu Địa, mẫu Thuỷ, mẫu Thượng Ngàn cai quản phần nhân thế, phần đất đai, phần sông nước và miền rừng núi. Các mẫu đều bảo vệ thiên nhiên, giúp cho thiên nhiên phát triển.
Ngân ấy lực lượng siêu nhiên, thần bí làm cho con người kính, tin, kinh và sợ đã hạn chế sự phá phách và góp phần bảo vệ môi sinh, giữ gìn tính đa dạng sinh học. Vừa là còn kém cói, chưa hiểu hết được mọi thần bí thiên nhiên, mới làm chủ được thiên nhiên phần nào đó, vừa là cam thấy bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên và sự tàn phá thiên nhiên bởi các sức mạnh khác cũng của thiên nhiên trong đó có eon người nên con người đã để cho các thần thánh, các tín ngưỡng, từ tín ngưỡng sơ khai đến các tín ngưỡng có tổ chức, có kinh kệ, giáo lí sau này tham gia vào việc quản lí thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên.
Lực lượng siêu nhiên tức là các thần thánh này có mặt khắp nơi trên mặt đất để bảo vệ, quản lí các hệ sinh thái:
- Hệ sinh thái sông biển có các thần Đức Ông sông nước, Đại Hải đại vương, Đông Hải đại vương, Nam Hải đại vương, Hà Bá đại vương, Tứ vị Thánh vương... Ấy là chưa kể mỗi vùng biển, mỗi con sông lại có một thần cai quản.
- Hệ sinh thái rừng núi có các thần núi như Quý Minh sơn thánh, Cao Sơn quốc chủ đại vương, Sơn thần... Mỗi núi có một thần, như núi Nùng ở Hà Nội có
Nùng Lĩnh đại vương, núi Hồng ở xứ Nghệ có Hồng Lãnh tôn quí linh thần, rồi Tùng Lãnh đại vương, Cô Sơn linh thần,... Núi thì phải có đá nên có Cự Thạch đại vương, Bạch Thạch linh thần, Thạch Tỉnh lĩnh thần.
Về rừng có các thần: Lâm thần, Mộc thần thường được gọi là Đức thánh Thái Giám Giá Mộc, Đại Mộc tôn thần, Mộc Lôi linh ứng, kể cả Thượng Ngàn công chúa, Bạch Y thần nữ...
- Hệ sinh thái đồng bằng cũng có các thần linh đã nói trên, song nhân thần là chủ yếu.
Cả một hệ thống dày đặc thần thánh với các nhiên thần, thiên thần, nhân thần có biết bao linh diệu huyền bí đã tham gia vào việc quản lí một cách vô hình các hệ sinh thái từ ngọn suối mới phun ra từ lòng đất đến biển cả bao la, từ cái mầm cây mới mọc đến các cây cổ thụ tám chín người ôm không khít, từ con chìm non mới nở đến đại bàng vỗ cánh bay cao, từ cánh bãi, khu vườn, lùm cây đến cao nguyên mênh mông, dãy núi trùng điệp, cánh rừng bạt ngàn,
Chúng ta nói Trời, chúa Trời đã sáng tạo ra muôn loài, nên đã làm chúa tể của muôn loài. Song ý niệm về Trời, đức chúa Trời, Thượng Đế lại do con người tạo ra, nên con người mới là chúa tế của muôn loài. Đã là chúa tế của muôn loài thì phải quan tâm đến muôn loài, phải coi muôn loài, loài nào cũng có sinh linh. Một cành cây, ngọn có cho đến con thỏ, con chim sẻ, con mãng xà, con hổ, con báo, con voi, eon chó sói, con sư tử,... rồi cả một dãy núi, một dòng sông, một cao nguyên mênh mông, một dải đồng bằng màu mö.... tất cả đều có sinh linh. Là chúa tể của muôn NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
loài thì phải bảo vệ các sinh linh ấy, lo cho sự sống của muôn loài ấy. Chúng ta thường nói “dân vi bản” (lấy dân làm gốc) song điều này thường được thực thi ở những quốc gia có chế độ xã hội tốt đẹp. Thực ra, ta chưa tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng, dù chỉ cộng đồng một dân tộc. Mà khái niệm cộng đồng của chúng ta mới bó hẹp trong cộng đồng người, phải mở rộng đến mọi sinh linh trên trái đất. Bởi vì toàn thể các dạng sống trên trái đất tạo thành một hệ thống vĩ đại lệ thuộc lẫn nhau, tác động và phụ thuộc vào những thành tố vô sinh như đá, đất, không khí và nước. Việc làm rối loạn một bộ phận sẽ ảnh hưởng đến các hệ thống. Tất cả mọi loài sinh vật và mọi hệ thống thiên nhiên đều phải được tôn trọng, chưa kể đến sự ích lợi của nó đối với con người. Nhân dân trong thời công xã nguyên thuỷ, do trình độ hiểu biết còn thấp kém đã cho rằng vạn vật có linh hồn nên chúng đều được tôn trọng. Rồi sau đó là hệ thống các tỉnh linh (tín ngưỡng nhiên thần) và hệ thống các thần linh (tín ngưỡng Thành hoàng) sau này. Như vậy là ý thức tôn trọng các dạng khác của sự sống đã xuất hiện từ rất lâu trong các nền văn hoá của một xã hội (và các xã hội) đã cho chúng ta có thể nhấn mạnh rằng con người vừa là một bộ phận của thiên nhiên, vừa tách khỏi thiên nhiên, tách khỏi thiên nhiên để làm chủ (hay tiến tới làm chủ) thiên nhiên, làm chúa tế của muôn loài. Làm chúa tế của muôn loài con người phải đối xử tử tế với tất cả các sinh vật khác và bảo vệ chúng chống lại những hành vi hung bạo, dã man, những tổn thất có thể tránh được cũng như sự giết chóc không cần thiết để

bảo vệ tính đa dạng sinh học, hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm nguồn tài nguyên không tái tạo, nói cách khác là bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất để mưu cầu hạnh phúc cho con người, để xây dựng một xã hội bền vưng.
Trong quá khứ, môi trường sinh thái được các thần linh (dù ý thức không hiểu được như thế) góp vào việc bảo vệ và quản lí; con người còn muốn cho nó phát triển, cũng là cầu mong cho mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn. Đó là các nghi lễ đối với thần thánh. Nghỉ lễ này có hình thức đơn giản là một cây hương cắm tại một gốc đa giữa đồng; có hình thức nhiêu khê phức tạp theo định kì hàng năm hoặc hai ba năm một lần của Nhà nước hoặc một cụm dân cư nhỏ hẹp như làng, xã; có hình thức do một người thực thi các bước tín ngưỡng và chỉ trong thời gian rất ngắn; có hình thức do nhiều người cùng tiến hành với một nghi thức hoành tráng và kéo dài nhiều ngày... Qua các nghi thức thực hành tín ngưỡng ở Việt Nam, người ta dễ nhận thấy có sự trộn lân những hình thái tôn giáo sơ khai của bà con các dân tộc thiểu số miền núi với các hình thái tôn giáo của một xã hội văn minh, tất cả theo năm tháng, tầng tầng lớp lớp chất chứa, lắng đọng, bồi đắp, mang đủ loại ý niệm mà tư tưởng chủ yếu là niềm tin vào các thần thánh, coi thần thánh là biểu tượng quyền lực tỉnh thần tối cao, có nhiều linh dị, chi phối đời sống vật chất và tỉnh thần của mọi người dân trong cộng đồng và hơn thế nữa mọi sinh linh trên mặt dất.
Học giả Cadiere đã viết về tôn giáo người Việt: “Nơi người Việt ở các giai tầng xã hội, tâm thức tôn giáo thể hiện 24
một cách mãnh liệt và chế ngự cuộc sống con người: tâm thức ấy trong mỗi hành vì thường nhật, trọng đại hay bé nhỏ, kết thành một mạng lưới chằng chịt qua các biểu hiện thực hành, thứ thì hoành tráng lễ nghi ở đền đài miếu vũ công khai, thứ thì âm thầm nhẹ nhàng giây lát bên gốc cây, hòn đá. Lúc thì khấn vái kêu cầu với nhạc trỗi, cất cao múa hát, chiêng trống linh đình, lúc thì chỉ lâm râm vái cúi khi bước qua am qua miếu nhỏ linh thiêng và tự đáy lòng phát lời nguyện ước thẳm sâu nhất. Khi thì nghiêm trang bái lạy, cúi đầu cung kính với áo thụng lụa bóng, khăn mão uy nghỉ; khi thì tìm đến vị thầy bói mù loà, tìm đến cô đồng, cô đồng ngây ngất mắt ngời bí nhiệm, hoặc tìm đến thầy bùa thầy pháp, bói quẻ chân gà, hoặc xin xăm, xin thẻ ở bác giữ chùa. Họ đâng hương hoa thơm ngất lên chư Phật rực rỡ toà cao, toạ thiển thập định Đại Từ BỊ, Tam Tịnh, Tam Bảo nhưng họ cũng bái lạy trước những hình tượng mặt mày nhăn nhó thờ hổ, thờ rắn hoặc khâu miệng xác chết gây điều hiểm hoạ, nhét miệng đình, kim bọc lưới. Ma thuật với những thực hành kì quái, man dã ấy lại hoà trộn vào những hành vĩ tôn giáo cao cả nhất. Đạo Phật gần gũi với đạo Lão trên một nền tảng tín ngưỡng thần linh (Animisme) và cái đa dạng khách quan ấy phức tạp thêm vì cả một chuỗi thực hành tuỳ nơi tuỳ chỗ mà khó lòng nghiên cứu được một cách trọn vẹn, thể như cả một cánh đồng lớn ẩn chứa nhiều loài cây có không ai biết trước được”.
Cadiere đã cho ta thấy màu sắc tín ngưỡng của người Việt rất phức tạp, đủ mọi hình thức. Nhưng ở đây ta chỉ chú ý đến nghi thức thực hành tín ngưỡng đối
NINH VIẾT GIAO
với các thần thánh được đa số người Việt Nam quan tâm là lễ hội tại các làng hay còn gọi là hội làng. Đó là một lễ tục phổ biến mang nhiều dạng thức và nó biểu hiện rõ rệt nhất những gì là di sản văn hoá cổ truyền ở làng quê Việt Nam. Ở đây ta không xét toàn diện ý nghĩa của lễ hội tại các làng xã bởi lễ hội nào cũng hàm chứa một tâm tưởng vừa kín đáo sâu xa, vừa lan toa bao trùm là các vị thần thánh, mong các vị thần thánh phù hộ cho mọi người dân trong cộng đồng được an khang thịnh vượng.
Chúng ta chú ý đến lễ hội nông nghiệp. Tất cả lễ hội nông nghiệp đều làm sống lại diện mạo nông thôn Việt Nam trong trường kì lịch sử. Bằng những lễ thức và những hoạt động biểu diễn dân gian, lễ hội phản ánh cách làm ăn, cày cấy, ước mơ về những vụ mùa tốt tươi, cây cối phát triển, đời sống ấm no, con người cũng như gia súc, gia cảm mạnh khoẻ, không ốm đau, luôn sinh trưởng, luôn gặp những điều may mắn đồng thời cũng giới thiệu đời sống tỉnh thần, văn hoá của người tiểu nông trong cộng đồng.
Trong lễ hội có tục rước nước, rước nước để cầu nước, cầu mưa. Nước là tài sản của thiên nhiên. Nước không chỉ cần thiết đối với nghề nông mà quan hệ, tối quan hệ, không chỉ đối với con người mà cả động vật, thực vật, đất đai,... nghĩa là muôn loài, là toàn bộ các hệ sinh thái”.
Các tục đón mưa, gọi sấm (đánh trống, nổ pháo), đảo vũ, đua thuyền... đều mang ý nghĩa như trên là cầu nước, cầu mưa.
Ngược lại với tục rước nước để cầu nước, cầu mưa thì có tục cầu tạnh, cầu năng. Nước là tài sản vô cùng quí báu đối NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
20


với môi trường sinh thái, nhưng nước nhiều, mưa mãi cũng không được. “Thuỷ, hoa là đạo tặc,” nước cũng có sức phá hoại ghê gớm nên những khi mưa dài ngày, nước ngập lụt, con người lại cầu tạnh, cầu nắng.
Các trò tung cầu, cướp cầu, đánh phết, ném còn thể hiện điều đó. Quả cầu là tưởng tượng cho mặt trời. Đó là trò chơi giành giật mặt trơi, giành ánh sáng cho nghề nông, cho muôn loài. Chơi điều là thú vui tao nhã, nhưng đó là một phong tục ẩn giấu lòng cầu mong trời khô tạnh. Vì con điều được coi là biểu tượng dương, khô ráo, nắng nôi, trên không, đối ứng với cá, rắn, rồng là biểu tượng âm, tức nước, mưa, ẩm ướt.
Cũng trong lễ hội nông nghiệp ở nhiều làng còn có tục rước lúa thần, tục rước mạ, tục gọi gạo, thờ vỏ lúa, lễ cầu tằm cướp kén (nghề tầm tang), lễ mắc ách trâu bò, cho trâu bò ăn cỗ, lễ xuống đồng....
Rồi ở miền biển thường có lễ hội cầu ngư, cầu ngư không chỉ mong cho cá tôm ở biển cả sinh sôi nảy nở hằng hà sa số mà còn hàm ý bảo vệ các loài hải sản, cầu cho người đi biển không bị sóng gió. Trước thiên nhiên bao la, đời sống gặp toàn may rủi nên trong các lễ hội cầu ngư bà con thờ cúng, tế lễ,... không biết bao nhiêu thần (đa thần) và cho rằng thần nào cũng thiêng liêng, cũng linh diệu, cũng có tác động đến môi trường sinh thái.
Một số làng sống ven sông, kiếm ăn bằng cái nghề đánh bắt thuỷ sản, có lễ hội đăng mòi (cầu cho cá mòi phát triển để đăng đón được nhiều), lễ hội gieo hến, rước hến (thả hến xuống sông, cầu mong
trời đất làm cho hến chóng sinh sôi, nãy nở), lễ hội đánh cá, bắt cá, ươm cá, nuôi cá (đánh bắt cá vào một ngày nhất định theo một phương pháp nhất định với một mức độ nhất định) tại một khúc sông nào đó hay ngòi nước bên sông: rồi tục đánh cá thờ, rước cá thần, ăn gỏi cá....
Ấy là chưa kể lễ hội mở cửa rừng, rước tiếng hú, cúng ông thần rừng,... của những người đi săn, những người làm nghề rừng.
Bấy nhiêu lễ hội, miền xuôi, miền núi, dưới biển, trên rừng, hình thức này, hình thức khác, phạm vi rộng hẹp, qui mô, cách tiến hành, có khác nhau, tất cả đều muốn dựa vào thần linh, bảo vệ tính đa dạng của sinh học, duy trì và phát triển càng nhiều càng tốt hệ sinh thái tự nhiên, muốn cho mưa thuận gió hoà, đất đai màu mỡ, cây cối thú vật, chìm muông trên rừng; hoa màu, cây lương thực, gia súc, gia cầm ở đồng bằng; cá tôm dưới biển, dưới sông đều sinh sôi, nảy nở, làm cho đời sống con người được ấm no. Các lễ hội trên ít nhiều đã có tính phồn thực như sau phần lễ có các trò “tung còn,”
“câu tăm,” “cướp kén,” “đăng mòi,” “rước hến,” “gieo dắt,” “bắt chạch,” “leo cau,”
“múa ôm,”... Một hình thức dễ nhận thấy của loại lễ hội này là sự thờ cúng các sinh thực khí (linga và yonI) mà khi rước sách linh đình thường được thể hiện bằng mo nang, củ dứa và được đặt trên những cỗ kiệu sơn son thiếp vàng, có tàn quạt che phủ và sau khi tế lễ nghiêm trang vào ban đêm thường có bước cả dân làng được chứng kiến cảnh “náng mo đeo”. Cảnh này diễn ra trong không khí linh thiêng trước các vị Thành hoàng và ngay sau đó 26
NINH VIẾT GIAO


mọi đèn nến đều tắt và trong đêm tối mịt mù người ta quở quạng, chen nhau, ôm nhau, nghịch nhau, trong khoảng thời gian ngắn ngủi độ mươi năm phút.
Người dân quan niệm linga và yonl như là những năng lượng thiêng liêng, vì tin rằng mỗi cái £hực cụ thể đều có nguyên nhân nằm khuất nấp trong cái huyền. Cái huyền tộng lón đó là các thân Núi, thần Đá, thần Sông, thần Nước,... tóm lại Núi Sông, Đá/ Nước, Trời/ Đất vừa bổ sung điều hoà cho nhau vừa đối chọi với nhau. Đó là điều hoà và đối chọi Âm/Dương để sinh ra ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoá, Thổ tức sinh ra muôn loài và sự sống của chúng ta. Vì thế các nhà nghiên cứu thường cho rằng Núi, Sông, Đá, Nước.... gắn liền với tín ngưỡng phồn thực của một cư dân nông nghiệp. Mà cái cụ thể của tín ngưỡng phồn thực cùng với lễ tục của nó là tục thờ nga và yoni và hành u¡ tính giao như là những biểu tượng của thế giới huyền hùng mạnh, toàn năng có thể ban phát mọi sự nảy nở phôn vinh. Tín ngưỡng phồn thực và cách thức tiến hành lê hội phồn thực ấy không chỉ là mong thế giới huyền bảo vệ sự sống của muôn loài, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người mà chủ yếu là làm cho các sinh linh (thực vật, động vật, con người) ngày càng sinh sôi phát triển, ngày càng phong phú hơn, luôn luôn đa dạng như nó vốn có trong thiên nhiên để đảm bảo cho việc duy trì, xây dựng một xã hội bền vừưng.
Bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái không chỉ thể hiện ở niềm tin vô
thức tức là gửi gắm vào các tín ngưỡng
dân gian, các lễ hội dân gian như chúng tôi trình bày trên. Đó chỉ là sự cầu mong và tự nguyện thực hiện dưới quyền uy thiêng liêng của các bậc thần thánh qua lòng tin, kính và sợ. Con người tự ràng buộc mình vào nghĩa vụ phải bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, không cần ai kiểm tra đôn đốc. Họ nghĩ rằng lúc nào cũng có, nơi nào cũng có con mắt của các bậc thần thánh nhòm ngó mình, giám sát mình. Nếu mình phá hoại môi trường sinh thái, người trần có thể không biết, không thấy; lúc này, nơi này có thể không bị trừng trị nhưng thần thánh biết lúc khác, kiếp sau không mình thì con cháu mình sẽ bị trừng trị. Vì như đã nói trên, muôn loài đều là những sinh linh trên trái đất.
Trước đây ở nông thôn Việt Nam trong các làng bản nhỏ hẹp đã có những hương ước, luật tục được pháp lí hoá và cũng đạo đức hoá một số vấn đề liên quan đến bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái trong làng bản của mình. Các hương ước và luật tục ấy có những điều ước bão vệ chất đất, nguồn nước, hoa màu, đường xá, giếng nước, cây cối trong làng bản; bảo vệ khuôn viên các đình, đền chùa; các làm lòi, các ao hồ sông suối; các cây cối, thú vật chim muông tại các khu rừng, sườn núi.
Đó là một đề tài lí thú cho những al nghiên cứu khía cạnh đi sản văn hoá cổ truyền của một dân tộc đối với môi trường sinh thái.
Bao trùm lên tất cä các hương ước, luật tục ấy là cách đây hơn nửa ngàn năm, một vị hoàng đế của Việt Nam, vua Lê Thánh Tông đã ban hành bộ luật NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27
=========ễEEE==EễŸễŸễŸễŸễŸễŸễŸ======ỄẼỄẼỄẼỄẼỄẼE=== — - - — —————-
Hồng Đức vào năm 1483. Luật Hồng Đức có l3 chương với 722 điều bao quát các điều luật về hình sự, dân sự.... của xã hội Việt Nam thời Lê sơ, trong đó có một số điều nói về bảo vệ môi trường sinh thái. Như việc bảo vệ động vật hoang dã:
Điều 555: Đặt cạm bây:
Đặt những bây máy, hố sập (để bắt thú uật) thì xử phạt 80 trượng.'” Ở những nơi như núi cao, đồng rộng uè nơi có thú dữ làm hại thì cho phép đặt bây, làm hố, nhưng phải cắm tiêu, làm hiệu, nếu không thì phạt 60 trượng.
Điều 610: Chống cháy (bể cd cháy nhà, cháy rừng).
Thấy đám cháy mà bhông đi. báo hoặc hông ứng cứu hịp thời:
Người thấy lửa bốc cháy nên đi báo mà không đi báo, nên đến cứu mà không đến cứu thì xử phạt hơn tội đánh cháy 2 bậc. Những quan quân canh giữ cung điện kho tàng uàè uiên giữ tù đều không được rời bhỏi chỗ mà đi cứu lửa. Trái luật thì xử phạt 80 trượng.
Điều 635: Ngòi rãnh trong kinh thành hay làng quê đều phải bhai thông.
Những đường ngõ trong bình thành (ở hương thôn cũng uậy) nguyên có ngòi ranh cho nước chay mà các quan chức uà quân dân sở tại cậy thế chiếm đất làm hồ ao của mình để cho nước mưa không chảy thoát, trào ra làm hại thì xử tội biếm'” hay tội đồ,” nếu làm tổn hại đến lúa má hoa qud của quan hay của dân thì phúi bồi thường số thiệt hại.“
Có lẽ chỉ ba điều ấy cũng đủ để thấy cha ông chúng ta không chỉ dùng văn hoá tâm linh, văn hoá tín ngưỡng, lễ tục mà
còn nâng thành luật của Nhà nước để bảo vệ môi trưởng sinh thái tự nhiên. Có lẽ Việt Nam là nước đi đầu trên thế giới về vấn đề này.
Đến đây ta có thể rút ra mấy đề xuất:
1) Trong hàng ngàn năm trước đây, khi mà nền sản xuất còn thấp kém, sự hiểu biết về thiên nhiên của con người còn nông cạn, tín ngưỡng và lễ tục dân gian đã ngăn chặn, đã bảo vệ được tính đa dạng của môi trường sinh thái. Đáng lẽ, khi mà nền khoa học phát triển, công nghiệp hiện đại đạt đến trình độ cao, các hệ thống sinh thái sẽ được bảo vệ hơn, song ngược lại, nhân loại lại ra sức bòn rút tự nhiên, phá hoại môi trường sinh thái làm cho trái đất giờ đây không thể chịu đựng được nữa. Phải chăng trong nghiên cứu khoa học của chúng ta trong mấy chục năm gần đây, chú ý phần lớn đến khoa học tự nhiên, ít quan tâm đến khoa học xã hội, làm cho tính nhân văn của con người bị giảm sút. Mà tính nhân văn bị giảm sút lại cộng thêm với tính tham lam vô độ thì con người sẽ trở thành dã man. Tính đã man của con người ở xã hội văn minh có kiến thức và kĩ thuật hiện đại sẽ là mối tai hại vô bờ đối với môi trường sinh thái tự nhiên.
2) Song như thế vẫn chưa đủ, cần phải có một nền đạo đức mới với những tiêu chuẩn đúng đắn để xây dựng tư cách mới cho con người trước thiên nhiên. Với nền đạo đức mới này, con người phải đối xử tử tế với môi trường... sinh thái tự nhiên, với- tất cả các sinh vật trên trái đất và bảo vệ chúng thoát khỏi những hành vi hung bạo, những đau đớn có thể tránh 28
NINH VIẾT GIAO

được, cũng như sự chết chóc, chặt phá, huỷ hoại, làm ô nhiễm không cần thiết dù ở chế độ xã hội nào, nền văn hoá nào. Nền đạo đức mới này phải có những nguyên tắc những bài bản cụ thể được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, được giảng dạy trong các trường học, được rao giảng tại các thánh đường, phật đường, được thể hiện bằng các hình tượng nghệ thuật để trình diễn trước công chúng rộng rãi, được soạn thành những bài ngụ ngôn dân gian hấp dẫn, được soạn thảo thành những điều luật thích hợp,... Có như vậy mới mong con người tôn trọng tự nhiên, bảo vệ tự nhiên như tôn trọng bảo vệ những người thân và những gì liên quan đến sự sống còn của mình vậy.
3) Điều mà dân tộc Việt Nam và nhiều dân tộc khác cần phải tiến hành là khôi phục lại một cách hoành tráng những lễ tục cổ truyền. Không phải là chúng ta chưa khôi phục. Chúng ta đã khôi phục nhưng mới phát huy các khía cạnh bề nổi của nó như nghỉ thức tế lễ, rước sách, trình diễn nghệ thuật, trò chơi,... chưa phát huy hết ý nghĩa ẩn của nó, tức là mối quan hệ tâm linh đối với thiên nhiên mà cụ thể là đối với các hệ sinh thái. Việc mà cha ông chúng ta quan tâm là qua lễ tục thể hiện ý niệm của mình đối với thế giới thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái cao eä, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Thế giới thiêng liêng ấy có những quyền lực vô biên như hô phong hoán vũ, tiêu trừ những lực lượng hắc ám để không những bảo vệ môi trường sinh thái mà còn có khả năng làm cho các sinh vật nảy nở phát triển, giám sát việc thực hiện đạo đức của các thế lực
trong xã hội, làm cho cuộc sống ổn định, bền vững. Việc này các nhà tôn giáo, các nhà tư tưởng, các nhà văn hoá học cần phải có những hoạch định cần thiết về các nghi thức lễ tục, đồng thời nêu rõ mặt ý nghĩa của nó đối với các sinh linh của muôn loài qua những tư duy về tâm lĩnh.
4) Dù di sản văn hoá cổ truyền trong đó có tín ngưỡng và lễ tục có phát huy đến đâu chăng nữa thì môi trường sinh thái tự nhiên vẫn tiếp tục bị xâm hại, cho nên phải có những hiệp ước quốc tế của tất cả các nước về bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên. Rồi các Chính phủ, các nguyên thủ quốc gia phải thể hiện bằng những đạo luật cụ thể, hữu hiệu và có những lực lượng theo dõi, giám sát, trừng trị những kẻ không theo luật một cách nghiêm khắc để ngăn chặn sự phá hoại môi trường sinh thái và sự bòn rút quá đáng tự nhiên mà luật Hồng Đức là một ví dụ tiêu biểu.
N.V.G
(1) Dẫn theo Đỗ Trinh Tuệ trong cuốn: “Văn hoá tín ngương gia đình Việt Nam” qua nhãn quan học giả L. Cadiere, chủ tịch tạp chí “Bulletin des amis du 0uieux Huế” (1914 — 1844), Nxb Thuận Hoá, Huế, 3000.
(2) Ở miền núi tại Tây Nguyên cũng như Tây Bác, Việt Bắc, không chỉ khi bà con tô chức lễ hội mà đầu năm thường có lễ cúng các nguồn nước tại các đầu ngọn suối,
(3) Trượng: đơn vị đo lường dài 3 thước, 5 tấc (băng 1,4m). Ở đây là một công cụ đánh kẻ có tội thường làm băng cây song to.
(4) Tội biếm: tội giáng chức quan đối với những người có chức vụ phẩm hàm.
(5) Tội đồ: Tội bị kết án rồi đày đi xa, thường bị đưa đến những nơi hoang vu xa nơi xóm làng đông đúc.