TÍNH AN TOÀN CỦA HEPARIN TRỌNG

LƯỢNG PHÂN TỬ THẤP TRONG ĐIỀU

TRỊ NHỒI MÁU NÃO CẤP

TÓM TẮT

Cơ sở. Mặc dù thuốc kháng đông đã được sử dụng có hiệu quả trong một số phân

nhóm đột quỵ não do thiếu máu nhưng vẫn còn ý kiến chưa thống nhất về lợi ích

và tác dụng phụ của thuốc. Heparin trọng lượng phân tử thấp (TLPTT) với các ưu

điểm về dược lý học so với heparin chuẩn có thể đạt nhiều hiệu quả hơn , sử dụng

đơn giản và an toàn hơn heparin chuẩn trong điều trị thiếu máu não cấp.

Phương pháp.Trong thử nghiệm lâm sàng, phân nhóm ngẫu nhiên và mù đơn này,

heparin TLPTT được dùng điều trị nhồi máu não cấp (NMNC) nhằm đánh giá sự

an toàn và khảo sát các tác dụng phụ của phương pháp này. Bệnh nhân NMNC

trong 48 giờ sau khởi bệnh được tiêm dưới da Nadroparin 4100 UI hai lần/ ngày

cùng các thuốc truyền thống khác (nhóm điều trị ) hoặc chỉ dùng thuốc truyền

thống ( nhóm chứng ) trong 10 ngày. Ghi nhận kết quả ( tỉ lệ tử vong, các biến

chứng ) ở hai nhóm trong thời gian nhập viện .

Kết quả. Qua khảo sát 131 bệnh nhân (64 điều trị, 67 chứng) không có sự khác

nhau có ý nghĩa của tỷ lệ biến chứng (p =0,82) cũng như tử vong (p =0,95) ở

nhóm điều trị so với nhóm chứng. Các kết quả này phù hợp với y văn thế giới.

Kết luận: Với bệnh nhân NMNC trong vòng 48 giờ sau khởi bệnh, heparin TLPTT

dễ sử dụng, không cần xét nghiệm theo dõi phức tạp và có tính an toàn cao, không

gây biến chứng nặng ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh.

The safety of low-molecular-weight heparin in treatment of acute ischemic

stroke.

ABSTRACT

Background. Despite doubts about their efficacy and concern about their side

effects, anticoagulants have been used sucessfully to treat some sub-types of acute

ischemic stroke. Low-molecular-weight heparin with its pharmacological benefits

may be more effective and safer than standard ( unfractionated) heparin.

Methods. In this randomized clinical trial a low-molecular-weight heparin was

used to treat acute ischemic stroke to evaluate its safety and side effects of this

therapy. Patients were randomly assigned within 48 hours of the onset of

symptoms to receive nadroparin (4100 anti-factor Xa IU twice daily) and

traditional therapy or only traditional therapy for 10 days. Death and

complications of the two groups during the 10-day treatment period were

documented.

Results. Among 131 patients randomized (64 cases treated with nadroparin and 67

controls), there were no significant differences between the two groups in the

complications (p = 0,82) and the mortality (p =0,95).

Conclusions. For patients with ischemic stroke within 48 hours of the onset of

symptoms, low-molecular-weight heparin was administered easily without the

need for laboratory monitoring. It was safe and did not cause severe

complications.

MỞ ĐẦU

Việc sử dụng thuốc kháng đông (TKĐ) lâu dài đã được công nhận là có hiệu quả

trong việc phòng ngừa tái phát của đột quỵ não do thiếu máu ở những bệnh nhân

(BN) bị rung nhĩ 1,2 cũng như đang được theo đuổi như một liệu pháp điều trị dự

phòng nhồi máu não (NMN) thứ phát trên những nhóm BN thiếu máu não

khác3,4. Tuy nhiên vẫn còn ý kiến chưa thống nhất về sử dụng TKĐ trong điều trị

NMN do ít nhiều còn những băn khoăn cân nhắc giữa lợi ích và tác dụng phụ của

thuốc .

Gần đây so với heparin chuẩn việc sử dụng các heparin có trọng lượng phân tử

thấp (TLPTT) đạt nhiều ưu thế hơn do heparin TLPTT ít ức chế chức năng tiểu

cầu5 nên ít gây biến chứng giảm tiểu cầu hơn so với heparin chuẩn6. Ngoài ra

heparin TLPTT do có tính khả dụng sinh học tốt hơn, thời gian bán hủy dài hơn và

dễ dung nạp hơn7 nên việc sử dụng đơn giản và an toàn hơn giúp cho việc điều trị

NMN cấp có nhiều tiến bộ đầy hứa hẹn 8,9,10.

Trong thời gian từ 5/1998 đến 1/2002 tại bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Nhân

Dân 115 chúng tôi đã tiến hành và theo dõi một thử nghiệm lâm sàng có sử dụng

heparin TLPTT trong điều trị NMN cấp. Báo cáo này nhằm ghi nhận và phân tích

tính an toàn của heparin TLPTT cùng các tác dụng ngoại ý của phương pháp điều

trị này với mục đích góp phần làm sáng tỏ vai trò của TKĐ trong công tác điều trị

bệnh lý này tại nước ta.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu và thiết kế nghiên cứu

Là một thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đơn.

Đối tượng nghiên cứu ( được chia thành nhóm chứng và nhóm điều trị bằng

phương pháp phân nhóm ngẫu nhiên ) là các BN NMN cấp được nhập vào điều trị

tại hai bệnh viện (BV Chợ Rẫy và BV Nhân Dân 115) trong vòng 48 giờ sau khởi

bệnh. Không đưa vào nghiên cứu nếu BN có bất kỳ một trong các điều kiện sau:

hơn 80 tuổi; có hình ảnh xuất huyết não hoặc NMN diện rộng trên phim chụp cắt

lớp điện toán hoặc cộng hưởng từ; tăng huyết áp (HA) không kiểm soát được (HA

tâm thu hơn 180 mmHg hoặc HA tâm trương hơn 120 mmHg); viêm nội tâm mạc

cấp; đang điều trị thuốc kháng đông; vừa mới phẫu thuật hoặc có chảy máu ở bất

kỳ vị trí nào trong cơ thể; tiền căn dị ứng hoặc có phản ứng phụ với heparin, có số

lượng tiểu cầu dưới 150.000/ mL, có các xét nghiệm đông máu (PT và aPTT) bất

thường . Các BN NMN cấp với tất cả mức độ nặng nhẹ đều được đưa vào nghiên

cứu trừ những BN mà tử vong xem như chắc chắn xảy ra.

Phương pháp điều trị

Đối với nhóm chứng:

Bệnh nhân NMN cấp nhập viện trong vòng 48 giờ sau khởi bệnh được điều trị

theo phương pháp kinh điển : chống phù não (nếu có), oxy liệu pháp, hạ huyết áp

nếu quá cao, sinh tố B,C, dinh dưỡng, vận động liệu pháp.

Đối với nhóm điều trị:

Song song với liệu pháp kinh điển, BN được điều trị với Nadroparin Calcium

(Fraxiparine, Sanofi-Winthrop, Gentilly, France) với liều 0,4 ml dung dịch

Nadroparin Calcium có 4.100 IU Nadroparin tiêm dưới da mỗi 12 giờ.

Các đánh giá căn bản và xếp phân nhóm ( subtypes ) NMN

Các đánh giá căn bản: tuổi, giới tính, tiền sử bệnh ( tăng huyết áp, tiểu đường,

cơn đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim, NMN hoặc cơn thoáng thiếu máu não

trước đó, hút thuốc lá, thời gian từ lúc khởi bệnh đến lúc được điều trị, huyết áp và

các dữ kiện lâm sàng khác dùng chẩn đoán phụ loại của NMN11

Hệ thống xếp phân nhóm NMN : Nhồi máu toàn bộ tuần hoàn trước não là một

NMN có : (1) rối loạn chức năng cao cấp của não ( rối loạn ngôn ngữ hay rối loạn

thị giác không gian), (2) bán manh đồng danh và (3) tổn thương vận động một bên

thân tại ít nhất hai trong ba vùng: mặt, tay và chân. Nếu có rối loạn tri giác không

thể khám chức năng cao cấp của não hoặc thị trường thì xem như có tổn thương

toàn bộ. Nhồi máu một phần tuần hoàn trước não là một NMN có hai trong ba

tiêu chuẩn của nhồi máu toàn bộ tuần hoàn trước não hoặc tổn thuơng vận động

một bên thân tại một trong ba vùng mặt, tay, chân. Nhồi máu dạng lỗ khuyết là

dạng tổn thương vâïn động một bên thân tại ít nhất hai trong ba vùng mặt, tay,

chân mà không có rối loạn tri giác. BN bị rối loạn tri giác coi như không bị NMN

dạng lỗ khuyết nhưng có thể bị nhồi máu tại vùng tuần hoàn trước toàn phần hoặc

một phần. Nhồi máu tuần hoàn sau não là một NMN có tổn thương vận động một

bên thân hoặc tứ chi có kèm dấu hiệu tổn thương thân não hoặc tiểu não.

Theo dõi trong thời gian nhập viện

-Lâm sàng : tiến triển của các dấu thần kinh định vị, tri giác, các dấu hiệu thần

kinh mới xuất hiện, biến chứng xuất huyết trong và ngoài sọ.

-Cận lâm sàng : thời gian prothrombin( PT), thời gian cephalin-kaolin (aPTT),

chụp cắt lớp điện toán não hoặc cộng hưởng từ, số lượng tiểu cầu (làm lần thứ

nhất vào ngày đầu nhập viện và lần thứ hai sau 10 ngày điều trị)

Đánh giá kết quả

Kết quả khảo sát được đánh giá vào ngày đầu và sau 10 ngày nhập viện, tại thời

điểm 3 tháng và 6 tháng tính từ lúc phân nhóm. ( Kết quả ghi nhận tại thời điểm 3

và 6 tháng này không thuộc phạm vi của báo cáo này).

Việc đánh giá tình trạng tổn thương thần kinh trong thời gian điều trị tại bệnh viện

được tính theo Thang điểm đột quỵ não vùng Scandinavia (Scandinavian

Neurological Stroke Scale -SNSS) 12. Nghiên cứu cũng xác định căn nguyên gây

tử vong trong vòng 10 ngày đầu, ghi nhận các biến chứng làm ngưng sử dụng

thuốc hay các biến chứng xảy ra vào cuối đợt trị liệu.

Phân tích thống kê

Chúng tôi dùng số trung bình , độ lệch chuẩn , các phép kiểm T, kiểm Z, chi bình

phương một độ tự do để tính toán với khoảng tin cậy 95% (  = 0,05) )

KẾT QUẢ

Từ tháng 05/1998 đến tháng 1/2002 đã khảo sát và theo dõi được 131 BN . Các

BN này được phân nhóm ngẫu nhiên thành nhóm điều trị với Nadroparin (n = 64)

và nhóm chứng (n = 67). Giữa các nhóm này không thấy sự khác biệt có ý nghĩa

(P> 0,05) về các đặc điểm cơ bản : tuổi, giới tính, điểm số theo Thang điểm đột

quỵ não vùng Scandinavia, tiền sử bệnh, tiền căn hút thuốc, phụ nhóm đột quỵ,

thời gian từ lúc khởi phát đột quỵ đến lúc điều trị, huyết áp. ( Bảng 1)

Kết quả sau 10 ngày điều trị

Trong thời gian 10 ngày điều trị có 6 BN (4,58%) chết và 15 BN có biến chứng.

Nguyên nhân gây tử vong và phân loại biến chứng thể hiện trong bảng 2. Số BN

chết ở nhóm điều trị TKĐ là 3/64 trường hợp (4,69%) so với 3/ 67 trường hợp

(4,48%) chết ở nhóm chứng . Biến chứng ở nhóm dùng TKĐ là 7/ 64 trường hợp

(10,93%) so với nhóm chứng là 8/ 67 trường hợp (11,94%). Không thấy có sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm BN về tử vong (P=0,95) hoặc biến

chứng (P=0,82).

BẢNG 1 : Đặc điểm cơ bản của BN khảo sát theo nhóm điều trị

Nadroparin Nhóm chứng

( n = 64 ) ( n = 67 )

Tuổi ( TB ( ĐLC, năm ) 61,84  1,38 63,78  1,32

Giới tính ( nam/ nữ ) 36/28 38/29

Điểm số theo SNSS (TB ( ĐLC) 28,22  1,29 27,06  1,43

Tiền sử bệnh ( số BN )

+ Tăng huyết áp 47 49

8 + Đái tháo đường 7

5 + Đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim 6

+ Cơn thoáng thiếu máu não hoặc đột 11 12

quỵ não

Thuốc lá > 10 điếu/ ngày ( số BN ) 29 31

Phân nhóm đột quỵ ( số BN )

+ Tuần hoàn trước, hoàn toàn 8 10

+ Tuần hoàn trước, một phần 43 41

+ Tuần hoàn sau 5 6

+ Lỗ khuyết 8 10

Thuyên tắc mạch xuất phát từ tim 12 11

Thời gian từ khởi phát đến khi được điều

trị

( Giờ, số BN)

+ 0- 24 14 16

+ 25-48 50 51

Huyết áp ( TB ( ĐLC, mmHg)

+ Tâm thu 153,36  3,52 154,18  3,44

+ Tâm trương 86,72  1,32 85,54  1,08

TB : Số trung bình, ĐLC : Độ lệch chuẩn, BN : bệnh nhân, SNSS: Thang điểm

đột quỵ vùng Scandinavia.

BẢNG 2 : Kết quả sau 10 ngày điều trị : số tử vong, đánh giá lâm sàng thần kinh

theo SNSS và kết quả xét nghiệm cận lâm sàng

Nadroparin Nhóm chứng

( n = 64 ) ( n = 67 )

Chết

+ Do đột quỵ 2 3

+ Do NMCT 1 0

+ Tổng 3 3

Biến chứng

Biến chứng xảy ra sớm làm ngưng dùng 3 2

thuốc *

+ XH tiêu hóa nhẹ 1 1

+ Bầm máu tại chỗ tiêm 1 0

+ XH trong ổ nhồi máu 1 1

Biến chứng sau 10 ngày trị liệu 4 6

+ XH tiêu hóa nhẹ 1 1

+ XH trong ổ nhồi máu 1 2

+ NMN tái phát 2 3

Tổng 7 8

Điểm số theo SNSS ( TB ( ĐLC ) 39,08  1,59 37,02  1,70

Tiểu cầu ( TB ( ĐLC / mm3)

+ Trước khi điều trị 244.390,63  245.731,34 

8.681, 29 8.838,56

+ Sau 10 ngày điều trị 242.688,52  244.078,13 

7.945,77 8.313,79

PT (TB(ĐLC, %)

+ Trước khi điều trị 90,61  1,60 91,67  1,26

+ Sau 10 ngày điều trị 90,18  1,40 91,58  1,21

aPTT ( TB ( ĐLC, giây)

+ Trước khi điều trị 32,73  0,43 32,99  0,35

+ Sau 10 ngày điều trị 32,57  0,33 33,32  0,24

TB : Số trung bình, ĐLC : Độ lệch chuẩn, KĐ : kháng đông,XH : xuất

huyết, TQ: thời gian prothrombine, TCK : thời gian

cephalin-kaolin

* Ngưng sử dụng thuốc kháng đông

Trong 5 trường hợp xuất huyết trong ổ nhồi máu não ( tỉ lệ 3,82%) chỉ có 1 trường

hợp có triệu chứng lâm sàng ( trong nhóm điều trị TKĐ) nhưng không gây tử

vong. Không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm BN về tỉ lệ chuyển

dạng xuất huyết não (P=0,67).

Về kết quả cận lâm sàng, ở nhóm BN dùng heparin TLPTT khi so sánh các số liệu

trước và sau khi sử dụng thuốc kháng đông cho thấy không có khác biệt có ý nghĩa

thống kê về số lượng tiểu cầu (P=0,44), về trị số PT (P=0,98) cũng như trị số

aPTT (P=0,64).

BÀN LUẬN

Qua 64 trường hợp NMN có sử dụng nadroparin chúng tôi ghi nhận vấn đề sử

dụng TKĐ này rất đơn giản ( chỉ cần tiêm dưới da, dùng liều cố định 2 lần mỗi

ngày ) không như heparin chuẩn cần tiêm truyền tĩnh mạch dễ tạo điều kiện cho

viêm nhiễm tại chỗ ( theo Kalafut và cs13 tỉ lệ viêm tĩnh mạch là 8% trường hợp

sử dụng heprin chuẩn ). Chúng tôi cũng ghi nhận không có trường hợp nào bị dị

ứng với heparin TLPTT này.

Nhiều tác giả đề xuất không cần theo dõi các xét nghiệm đông máu khi sử dụng

heparin TLPTT14,15 ( thường là aPTT khi sử dụng heparin chuẩn ). Tuy vậy

trong khảo sát này chúng tôi vẫn thực hiện các xét nghiệm đánh giá chức năng

đông máu như PT, aPTT để có số liệu cơ sở so sánh giữa hai nhóm nghiên cứu.

Chúng tôi ghi nhận không có sự thay đổi có ý nghĩa về các chỉ số này khi so sánh

giá trị các xét nghiệm này trước và sau khi dùng kháng đông trên cùng một BN.

Ở nhóm 64 BN dùng TKĐ chúng tôi ghi nhận có 7 trường hợp (10,93 %) có biến

chứng trong đó có 5 trường hợp xuất huyết trong và ngoài sọ và không có trường

hợp nào tử vong trong nhóm bị biến chứng nàyï. Ghi nhận của các khảo sát sử

dụng heparin TLPTT khác cho thấy tỉ lệ biến chứng này là 16,67 % trong nghiên

cứu của Kay8 và 12,5% trong nghiên cứu của Kalafut13. Trong khảo sát của

chúng tôi tuy có 3 trường hợp bị biến chứng xuất huyết phải ngưng dùng TKĐ

sớm hơn dự định nhưng các trường hợp bị biến chứng xuất huyết này không có

trường hợp nào bị nặng thêm về triệu chứng lâm sàng hoặc xuất huyết nặng cần

truyền máu. Điều cần lưu ý là không thấy có sự gia tăng có ý nghiã các biến chứng

liên quan đến TKĐ so với nhóm chứng (P=0,82). Bath và cs10 trong một nghiên

cứu phân tích-tổng hợp 10 nghiên cứu sử dụng heparin TLPTT và heparinoids

trong điều trị NMN đã nhận thấy biến chứng xuất huyết trong não ghi nhận qua

chụp cắt lớp điện toán của 2.428 BN là không liên quan đến việc sử dụng TKĐ

(nguy cơ tương đối gần đúng OR =0,96 ). Như vậy heparin TLPTT có tính an

toàn khi dùng điều trị NMN như nhiều tác giả ngoài nước đã ghi nhận .

Khảo sát số lượng tiểu cầu trước và sau sử dụng nadroparin cho thấy không có

một trường hợp nào giảm tiểu cầu ( khi lượng tiểu cầu < 150.000 / ml 6) trong số

64 BN dùng heparin TLPTT cũng như không thấy có sự thay đổi nào có ý nghĩa

thống kê (P=0,44) của lượng tiểu cầu ghi nhận trước và sau khi dùng TKĐ trên

những BN này. Kalafut và cs cũng ghi nhận không có trường hợp nào giảm tiểu

cầu trong một nghiên cứu tương tự13. Giảm tiểu cầu là một biến chứng của việc

điều trị bằng heparin chuẩn đã được công nhận. Đã có những báo cáo cho thấy tỉ lệ

giảm tiểu cầu dao động trong khoảng từ 1%-26%( thường gặp nhất là 5%-10%)

các trường hợp sử dụng heparin chuẩn16. Chỉ số mới mắc (incidence) của tình

trạng giảm tiểu cầu giảm nhiều trên BN được chỉ định heparin TLPTT so với

heparin chuẩn6. Do biến chứng xuất huyết hiếm xảy ra nên heparin TLPTT ngày

càng được sử dụng nhiều hơn tại nhiều vùng của châu Aâu và Bắc Mỹ14, thậm chí

hai nghiên cứu gần đây17,18 nhận định hơn một nửa số BN bị huyết khối tĩnh

mạch có thể điều trị tại nhà một cách an toàn mà không nhất thiết phải nhập viện.

KẾT LUẬN

Khảo sát này bước đầu ghi nhận những bằng chứng cho thấy heparin TLPTT có

thể sử dụng an toàn trong điều trị nhồi máu não cấp do ít gây biến chứng xuất

huyết cùng các đặc tính dễ sử dụng, không đòi hỏi xét nghiệm theo dõi phức tạp

nên phù hợp với thực tế lâm sàng hiện nay. Cần tiếp tục các nghiên cứu khác nữa

về heparin TLPTT nhằm làm sáng tỏ hiệu quả của thuốc trên từng phân nhóm của

loại bệnh lý đa dạng này .

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. The European Atrial Fibrillation Trial Study Group. Optimal oral antico-

agulation therapy in patients with nonrheumatic atrial fibrillation and recent

cerebral ischemia. N Engl J Med. 1995;333:5–10.

2. Atrial Fibrillation Investigators. Risk factors for stroke and efficacy of

antithrombotic therapy in atrial fibrillation: analysis of pooled data from five

randomized controlled trials. Arch Intern Med. 1994;154: 1449–1457.

3. Kamashta MA, Cuadrado MJ, Mujic F, Taub NA, Hunt BJ, Hughes GRV.

The management of thrombosis in the antiphospholipid-antibody syndrome. N

Engl J Med. 1995;332:993–997.

4. Hart RG. Cardiogenic embolism to the brain: stroke octet. Lancet. 1992;

339:589 –594.

5. Salzman EW, Rosenberg RD, Smith MH, Lindon JN, Favreau L. Effect of

heparin and heparin fractions on platelet aggregation.J Clin Invest 1980;65:64-

73.

6. Warkentin TE, Levine MN, Hirsh J et al. Heparin-induced

thrombocytopenia in patients treated with low-molecular-weight heparin or

unfractionated heparin. N Engl J Med 1995;332:1330-5.

7. Handeland GF, Abildgaard U, Holm HA, Arnesen K-E. Dose adjusted

heparin treatment of deep venous thrombosis:a comparison of unfractionated

and low molecular weight heparin. Eur J Clin Pharmacol 1990;39: 107-12.

8. Kay R, Wang KS, et al. LMWH for the treatment of acute ischemic stroke.

N Engl. J Med .1995 Dec 14; 333(24):1588-93.

9. Albers GW, Easton JD, Sacco RL, Teal P. Antithrombotic and thrombolytic

therapy for ischemic stroke. Chest. 1998;114:683S– 698S.

10. Bath PMW, Iddenden R, Bath FJ. Low-molecular-weight heparins and

heparinoids in acute ischemic stroke: a meta-analysis of randomized controlled

trials. Stroke. 2000;13:1770 –1778.

11. Bamford Sandercock, et al. Classification and natural history of clinically

identifiable subtypes of cerebral infarction. Lancet 1991; 337 : 1521 – 26.

12. Scandinavian Stroke Study Group. Multicenter trial of hemodilution in

ischemic stroke: background and study protocol. Stroke 1985;16:885-890

13. Kalafut MA, Gandhi R, Kidwell CS, et al. Safety and cost of low molecular

weight heparin as bridging anticoagulant therapy in subacute cerebral ischemia.

Stroke.2000;31:2563-2568.

14. Wood AJJ. Weitz JI.Low molecular weight heparin. N Engl J Med

1997;337:688-698.

15. Hirsh J, Levine MN. Low molecular weight heparin. Blood. 1992;79:1-17.

16. Alving BM, Krishnamurti C. Recognition and management of heparin-

induced thrombocytopenia (HIT) and thrombosis. Semin Thromb Hemost.

1997;23:569 –574.

17. Levine M, Gent M, Hirsh J, et al. A comparison of low molecular weight

heparin administered primarily at home with unfractionated heparin

administered in the hospital for proximal deep-vein thrombosis. N Engl J Med.

1996;334:677-681.

18. Koopman MMW, Pradoni P, Piovella F, et al. Treatment of venous

thrombosis with intravenous unfractionated heparin administered in the

hospital as compared with subcutaneous low molecular weight heparin

administered at home. N Engl J Med. 1996;334:682-687.