Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm giải trình của chính phủ theo pháp luật Việt Nam
lượt xem 1
download
Luận án cung cấp các luận chứng về lý luận và thực tiễn, nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam trong tương lai.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm giải trình của chính phủ theo pháp luật Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN QUYẾT THẮNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 9 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Minh Đoan Phản biện 2: PGS.TS.Nguyễn Văn Mạnh Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Minh Mẫn Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Thời gian: vào hồi giờ ngày tháng năm 2020 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trách nhiệm giải trình của Chính phủ là một đòi hỏi tất yếu để kiểm soát hoạt động của Chính phủ trong tổ chức và vận hành của các nhà nước đương đại. Tại Việt Nam, trách nhiệm giải trình của Chính phủ với những tên gọi khác nhau đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia và được Chính phủ thực hiện trên thực tiễn qua các thời kỳ. Đặc biệt, trong hai nhiệm kỳ 2011-2016 và 2016-2021, trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam đã được định danh và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp lý. Các vấn đề về chủ thể, nội dung, phương thức và hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ cũng đã được định hình và liên tục được hoàn thiện. Cũng trong giai đoạn này, trách nhiệm giải trình của Chính phủ đã được thực hiện và có những cải tiến, nâng cao hiệu lực và hiệu quả trước các chủ thể giám sát, chủ yếu là trước Quốc hội và nhân dân. Tuy nhiên, cả thực tiễn pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế như: - Về thực tiễn pháp luật: Cho đến nay, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước nói chung và của Chính phủ nói riêng chưa được ghi nhận bằng một bản luật cụ thể, thay vào đó mới chỉ được thể chế hoá tập trung ở cấp độ một văn bản dưới luật với Nghị định 90/2013/NĐ-CP ban hành ngày 08/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và tản mát ở một số văn bản quy phạm pháp luật khác như Luật Thanh tra năm 2010; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018… Ở mỗi văn bản quy phạm khác nhau, trách nhiệm giải trình được giải thích có những sự khác nhau nhất định. Chính việc chưa được tập hợp hoá đã khiến cho hành lang pháp lý về trách nhiệm giải trình ở Việt Nam hiện nay chưa được hoàn thiện và thống nhất. Đồng thời, các cấu thành trách nhiệm giải trình của Chính phủ như: chủ thể, nội dung, phương thức và hệ quả cũng chưa được ghi nhận tập trung, đầy đủ và còn nhiều sự chồng chéo, vướng mắc. - Về thực tiễn thực hiện: Trên cơ sở những thiếu hụt về hành lang pháp lý, cùng với những hạn chế về mặt tư duy mà trên thực tiễn, mặc dù hoạt động trách nhiệm giải trình nói chung và trách nhiệm giải trình của Chính phủ nói riêng đã và đang được thực thi nhưng chưa mang đến những hiệu quả như mong đợi. Cụ thể: các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ mặc dù có sự phân định nhưng chưa thực sự hoạt 1
- động có hiệu quả. Quốc hội và các cơ quan chuyên môn của Quốc hội chưa yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ một cách toàn diện; Toà án chưa có được các hành lang pháp lý để yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ và người dân chưa có những nhận thức sâu sắc về quyền và nghĩa vụ của mình cũng như thiếu hụt các cơ chế tiếp cận thông tin để yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ; các nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ cũng chưa được thực hiện đầy đủ do vướng mắc cơ chế xác định phạm vi nội dung không thuộc trách nhiệm giải trình và các chủ thể giám sát thiếu tính chuyên môn để yêu cầu và giám sát một số nội dung đặc thù; các phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình mang tính truyền thống, chưa áp dụng các phương thức mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại và thói quen của xã hội; các hệ quả pháp lý, đặc biệt là những hệ quả bất lợi đối với trách nhiệm giải trình của Chính phủ còn chưa đảm bảo tính răn đe và ít được áp dụng trên thực tiễn. Từ những hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam đó đã đặt ra một nhu cầu thiết yếu cần có những nghiên cứu khoa học nhằm xác lập cơ sở lý thuyết về trách nhiệm giải trình của Chính phủ, đồng thời khảo sát thực trạng thể chế pháp lý và việc thực hiện các thể chế pháp lý về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam, nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu sâu rộng hơn và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện các vấn đề thực tiễn về trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong bối cảnh xây dựng nền hành chính công mới ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu về trách nhiệm giải trình nói chung và trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo pháp luật nói riêng còn ít. Cho đến nay, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu trách nhiệm giảii trình của Chính phủ, do đó vấn đề lý luận chưa được thống nhất, nội hàm khảo sát, đánh giá thực tiễn chưa đầy đủ, vì thế các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo pháp luật chưa tạo ra được nhiều đột phá. Trên cơ sở các nhu cầu thực tiễn và khoa học kể trên, có thể khẳng định rằng nghiên cứu về trách nhiệm giải trình nói chung và trách nhiệm giải trình của Chính phủ nói riêng là đòi hỏi cấp thiết của hiện tại và là một hướng nghiên cứu đang dần phổ biến trong tương lai. Việc lựa chọn và triển khai đề tài “Trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo pháp luật Việt 2
- Nam” trong quy mô một luận án tiến sĩ Luật học là hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn đó. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án cung cấp các luận chứng về lý luận và thực tiễn, nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam trong tương lai. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: Thứ nhất, thu thập, hệ thống hoá các công trình khoa học về trách nhiệm giải trình của Chính phủ có tính tiêu biểu, chọn lọc, phân tích, đánh giá các tài liệu này theo những nội dung cụ thể và đưa ra các bình luận về xu hướng nghiên cứu trách nhiệm giải trình trong thời gian qua; xác định nội dung nghiên cứu mới về trách nhiệm giải trình của Chính phủ; Thứ hai, luận giải những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm giải trình của Chính phủ như: khái niệm; vai trò; các cấu thành của trách nhiệm giải trình, gồm: chủ thể, nội dung, phương thức và hệ quả; Thứ ba, xem xét và đánh giá thực trạng các quy định pháp lý và việc thực hiện các quy định pháp lý về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam hiện nay. Qua đó chỉ ra được những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân, tạo tiền đề cho việc đề xuất các giải pháp; Thứ tư, đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam trong tương lai. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo pháp luật ở các phương diện: lý luận; thực tiễn pháp lý và thực tiễn thực hiện; giải pháp. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu trách nhiệm giải trình của Chính phủ dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Trong đó: Chính phủ trong luận án được xem xét ở nghĩa là một tổ chức đứng đầu hành pháp, mang ý “nội các” – nghĩa hẹp. Không nghiên cứu Chính phủ với tư cách là bộ máy hành pháp – nghĩa rộng; Luận án chỉ tập trung nghiên 3
- cứu trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo quy định của pháp luật mà không nghiên cứu trách nhiệm giải trình trước đảng chính trị. - Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu lý thuyết về trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong phạm quốc tế và nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong phạm vi Việt Nam. - Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam theo các giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay. Trong đó chú trọng phân tích thực trạng trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong 2 nhiệm kỳ (2011-2016 và 2016-2021) - thời kỳ có những thay đổi mạnh mẽ trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và sự tiến bộ của các giá trị dân chủ trong nước. Đồng thời, trên cơ sở các thực trạng đó, tác giả dự báo xu hướng thay đổi của các yếu tố cấu thành trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong mười năm tiếp theo nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình theo pháp luật của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2020-2030. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận là những nguyên lý của Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quyền lực nhà nước và pháp luật; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về giám sát quyền lực nhà nước; các thể chế pháp lý ghi nhận việc giám sát quyền lực nhà nước nói chung và giám sát quyền lực của Chính phủ nói riêng và các quy định pháp lý về trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng phương pháp luận “Khế ước xã hội” về chu trình quyền lực, nơi chủ quyền thuộc về nhân dân. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau tuỳ thuộc vào vấn đề lý thuyết hoặc thực tiễn. Cơ bản các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết; Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết; Phương pháp mô hình hoá; Phương pháp mô tả các định chế; Phương pháp lịch sử; Phương pháp so sánh luật học. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: Phương pháp quan sát khoa học; Phân tích, tổng hợp kinh nghiệm; Phương pháp chuyên gia. 4
- 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Tác giả xác định các điểm mới về khoa học của luận án bao gồm: Thứ nhất, hệ thống hoá và phân tích tổng hợp tình hình nghiên cứu về trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Qua đó so sánh tình hình nghiên cứu vấn đề này của Việt Nam với thế giới, nhằm chứng minh tính cấp thiết cũng như xu hướng mở rộng nghiên cứu trách nhiệm giải trình nói chung và trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam hiện nay nói riêng; Thứ hai, xác lập được khái niệm trách nhiệm giải trình, qua đó tăng khả năng nhận diện trách nhiệm giải trình trong hoạt động nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Khoa học Chính trị và Khoa học Quản lý nhà nước; Thứ ba, phân tích sâu sắc hơn các vai trò của trách nhiệm giải trình của Chính phủ dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Qua đó chứng minh tính tất yếu của trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ; Thứ tư, chỉ ra và phân tích các chủ thể trong quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ với hai nhóm đối tượng gồm: nhóm chủ thể chịu trách nhiệm giải trình và nhóm chủ thể có quyền yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình Chính phủ. Qua đó cho thấy được địa vị chính trị và pháp lý của Chính phủ trong tổ chức và vận hành của quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa Chính phủ và các chủ thể khác trong chu trình quyền lực đó; Thứ năm, khoanh vùng được các nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Dựa trên vai trò, chức năng hành pháp của Chính phủ, luận án phân tích chi tiết hơn các nội dung Chính phủ phải có trách nhiệm giải trình. Qua đó đóng góp một giá trị quan trọng trong xác định giới hạn trách nhiệm giải trình của Chính phủ chính là giới hạn thẩm quyền của Chính phủ; Thứ sáu, tổng hợp được các phương pháp thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trước các chủ thể yêu cầu. Mỗi nhóm phương pháp gắn liền với mối quan hệ giữa Chính phủ và các chủ thể và phụ thuộc vào trình độ phát triển của tư duy chính trị cũng như công nghệ truyền thông. Qua đó cho thấy xu hướng ứng dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện vào thực hiện trách nhiệm giải trình trở thành một lựa chọn hiệu quả của các Chính phủ đương đại; Thứ bảy, xác lập được các hệ quả Chính phủ phải gánh chịu trong trường hợp trách nhiệm giải trình thất bại. Từ nghiên cứu chỉ ra rằng, mọi hệ quả bất lợi mà Chính phủ phải gánh chịu đều được quy về ba nguy cơ: thay đổi chính sách; thay đổi nhân sự Chính phủ và Chính phủ bị giải thể. 5
- Với những đóng góp mới đó, tác giả mong muốn xác lập tính cấp bách đối với xu hướng nghiên cứu trách nhiệm giải trình trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Các kết quả nghiên cứu sẽ làm phong phú hơn hệ thống tri thức, hiểu biết về nội dung trách nhiệm giải trình; đồng thời, ở một chừng mực nào đó, Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị về mặt lý luận cho những nghiên cứu liên quan sau này. Qua đó, gợi mở hướng nghiên cứu mới về vấn đề trách nhiệm giải trình nói riêng và kiểm soát quyền lực Chính phủ nói chung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Các kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng như một giá trị tham khảo cho hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật và các văn bản liên quan điều chỉnh trách nhiệm giải trình của Chính phủ; các giải pháp nếu được sự đồng thuận từ các nhà quản lý cũng có thể trở thành những phương án tham khảo hoặc lựa chọn ứng dụng vào nâng cao hiệu quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong tương lai; ngoài ra, nghiên cứu cũng có thể trở thành một nội dung được bổ sung vào chương trình giảng dạy các học phần: Luật Hiến pháp; Luật Hành chính và các học phần liên quan đến ngành Quản lý nhà nước. 7. Kết cấu của luận án Luận án được kết cấu thành hai nhóm nội dung gồm: Nhóm thứ nhất, những nội dung liên quan đến nội dung luận án gồm: Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và Danh mục tài liệu tham khảo. Nhóm thứ hai gồm các nội dung chính của luận án được kết cấu theo bố cục: 4 chương, 14 mục và các tiểu mục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Trách nhiệm giải trình (TNGT) được nhiều công trình nước ngoài nghiên cứu ở đa dạng các khía cạnh: lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp với những góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể tới như: - Nghiên cứu TNGT như một yêu cầu bắt buộc của tổ chức và vận hành của một hệ thống chính trị. Dưới góc độ tiếp cận này, TNGT được xác 6
- lập là cơ sở để đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước từ cả bên trong lẫn bên ngoài. - Nghiên cứu TNGT như một đòi hỏi công khai, minh bạch của chính phủ. Khía cạnh này cho thấy, trong hoạt động hành pháp của mình, chính phủ nói chung sử dụng TNGT như một phương thức quan trọng và tối ưu cho mục tiêu công khai, minh bạch thông tin. - Nghiên cứu TNGT như một phương thức phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Đây là hướng nghiên cứu phổ biến trên thế giới và được nghiên cứu thực tiễn ở nhiều tổ chức quốc tế như: tổ chức tiền tệ, tổ chức ngân hàng, tổ chức phi chính phủ… - Nghiên cứu TNGT là một đòi hỏi tất yếu của xu hướng phi tập trung hoá giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Theo đó, xu hướng phi tập trung hoá là một quá trình trao quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương và đồng nghĩa với việc cấp chính quyền có nhiều hơn TNGT trước chính quyền trung ương về các hành vi công vụ của mình. Bên cạnh đó còn nhiều góc độ tiếp cận nghiên cứu khác về TNGT. Tuy chưa xác lập được các xu hướng nghiên cứu rõ ràng, song những góc độ nghiên cứu đó góp phần đa dạng hoá nội dung nghiên cứu về TNGT trên thế giới. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Khác với tình hình nghiên cứu ở nước ngoài, ở phạm vi trong nước, TNGT chưa được nhiều công trình nghiên cứu, do đó góc độ tiếp cận cũng chưa có sự đa dạng, việc nhận diện khái niệm TNGT cũng chưa có sự thống nhất chung. Có bản có thể kể tới một số xu hướng nghiên cứu về TNGT tiêu biểu như: - TNGT là một trong bốn trụ cột của quản trị nhà nước tốt. Quan điểm này cho rằng TNGT cùng với: sự tham gia của người dân; công khai minh bạch; sự dự đoán được trở thành bốn cấu thành của hoạt động quản trị nhà nước tốt. Trong đó TNGT giữ vai trò trọng tâm. - TNGT là một phương tiện để công khai - minh bạch nhằm phòng, chống tham nhũng. Xu hướng nghiên cứu này mặc dù trùng với xu hướng nghiên cứu thế giới, tuy nhiên các nghiên cứu trong nước đã chỉ ra rằng mục tiêu của việc công khai - minh bạch nhằm đảm bảo sự trong sạch của bộ máy nhà nước, tránh được các nguy cơ tham nhũng và lạm quyền. - TNGT là một điều kiện của xu hướng tự chủ giáo dục. Góc độ nghiên cứu này chủ yếu đến từ các bài viết phân tích điều kiện của tự chủ 7
- đại học. Theo đó, phạm vi tự chủ tỷ lệ thuận với phạm vi TNGT của các trường đại học. - TNGT là một yêu cầu trong xây dựng và thực thi chính sách công. Mặc dù góc độ tiếp cận của các nghiên cứu này chưa hoàn thiện, song cũng đã xây dựng được một định hướng nghiên cứu về vai trò của TNGT trong chu trình chính sách công trong thời gian tới. Bên cạnh đó, cũng có nhiều các cách tiếp cận khác nhau về TNGT. Tuy nhiên, các cách tiếp cận đều có mối liên hệ mật thiết với gốc độ xem TNGT là phương tiện để đảm bảo công khai - minh bạch, hoặc xem công khai minh bạch là mục tiêu của TNGT hoặc thậm chí xem TNGT chính là công khai - minh bạch. 1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu đề tài 1.3.1. Những vấn đề liên quan đến chủ đề luận án đã được nghiên cứu sáng tỏ, có kết luận thống nhất và được luận án kế thừa, phát triển trong nghiên cứu đề tài Thứ nhất, các công trình đã làm rõ được nhiều khía cạnh về lý luận của TNGT như: khái niệm TNGT nói chung đã được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thứ hai, chủ thể yêu cầu TNGT của CP cũng đã được một số công trình liệt kê. Thứ ba, nội dung TNGT của CP cũng đã được một số công trình đề cập. Thứ tư, một số phương thức giải trình của CP cũng đã được đề cập, làm rõ. Thứ năm, các hệ quả phải gánh chịu hậu TNGT cũng đã được một số công trình nhắc tới với trọng tâm là việc thay thế nhân sự CP. Thứ sáu, thực tiễn pháp luật về TNGT của Việt Nam cũng đã được một số công trình nghiên cứu đề cập. Thứ bảy, thực tiễn thực hiện TNGT của bộ máy nhà nước nói chung trong thực thi công vụ và của CP nói riêng trong hoạch định và thực thi chính sách công cũng đã được một số công trình nghiên cứu và chỉ ra được kết quả cũng như các bất cập. Thứ tám, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả TNGT của nhà nước nói chung và CP trong lĩnh vực chính sách công nói riêng cũng đã được đề cập. 8
- 1.3.2. Những vấn đề liên quan đến chủ đề luận án nhưng chưa được giải quyết thấu đáo, còn nhiều tranh luận hoặc chưa được đặt ra nghiên cứu, còn nhiều vướng mắc Thứ nhất, khái niệm TNGT của CP theo pháp luật hiện nay vẫn chưa được xác lập bởi bất kỳ công trình nào. Thứ hai, vai trò TNGT dưới góc độ là một nghĩa vụ của CP – cơ quan hành chính nhà nước cao nhất chưa được đánh giá một cách toàn diện và trọng tâm vào chủ thể này. Thứ ba, các cấu trúc của TNGT của CP như: chủ thể, nội dung, phương thức và hệ quả TNGT của CP chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, do đối tượng nghiên cứu là hoạt động giải trình của cơ quan nhà nước nói chung hoặc của CP trong góc độ nhất định. Thứ tư, thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về TNGT của CP theo pháp luật cũng chưa được các công trình nghiên cứu. Thứ năm, mặc dù có nhiều giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao TNGT của CP được đề xuất, tuy nhiên với hai góc độ tiếp cận kể trên của thực tiễn, các giải pháp cũng không trọng tâm vào TNGT theo pháp luật của CP. 1.4. Những vấn đề đặt ra cần được luận án nghiên cứu Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ khái niệm TNGT của CP theo pháp luật. Khái niệm cần xác định chi tiết nội hàm của TNGT theo hướng phân biệt giữa TNGT với các khái niệm có tính tương đồng và thống nhất cách hiểu về CP. Thứ hai, cần tiếp tục làm rõ vai trò của TNGT đối với hoạt động của CP nói riêng và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung. Thứ ba, cần xây dựng các cấu trúc của TNGT được pháp luật ghi nhận và phân tích sâu sắc các cấu trúc đó, như: chủ thể; nội dung; phương thức và hệ quả. Thứ tư, cần tiếp tục cập nhật, phản ánh thực trạng các cấu trúc TNGT được ghi nhận trong môi trường pháp lý Việt Nam. Thứ năm, thống kê các kết quả thực hiện TNGT của CP từ quá khứ đến hiện tại, đặc biệt trong hai nhiệm kỳ gần nhất để cho thấy thực trạng và xu hướng diễn biến TNGT của CP. Thứ sáu, cần đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả TNGT của CP Việt Nam vừa gắn liền với đặc trưng chính trị, pháp lý của Việt Nam, nhưng đảm bảo có sự học hỏi, tiếp thu các 9
- giá trị tiên tiến của thế giới, cũng như tôn trọng các giá trị dân chủ đang ngày càng được xác lập rõ nét trong đời sống chính trị quốc gia. Tiểu kết Chương 1 Qua nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, có thể kết luận, TNGT là nội dung đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới và bắt đầu xuất hiện như một xu hướng nghiên cứu tiềm năng ở Việt Nam những năm gần đây. Những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp về TNGT nói chung bước đầu đã được các công trình nghiên cứu làm rõ. Đây là những giá trị quan trọng, đóng vai trò là nền tảng cho nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, việc nhận diện TNGT còn chưa được đồng nhất và có nhiều nhầm lẫn với những khái niệm tương đồng. Các công trình nghiên cứu TNGT nói chung có số lượng lớn, song nghiên cứu TNGT của CP lại ít và chủ yếu tập trung ở một vài khía cạnh nhất định như: phòng, chống tham nhũng; hoạch định và thực thi chính sách công; kiểm soát quyền lực CP… việc trực tiếp nghiên cứu TNGT theo pháp luật của CP chưa được bất kỳ công trình nào xem xét cả ở ba khía cạnh: lý luận, thực tiễn và giải pháp. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ THEO PHÁP LUẬT 2.1. Khái niệm trách nhiệm giải trình của Chính phủ Dựa trên những phân tích, đánh giá khái niệm TNGT của các nghiên cứu trong và ngoài nước đã được thực hiện trước đó và dựa trên kết quả những nghiên cứu riêng của NCS về TNGT, có thể định nghĩa TNGT của CP như sau: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ là nghĩa vụ của Chính phủ, đại diện Chính phủ hoặc các thành viên Chính phủ, khi có yêu cầu, phải cung cấp và giải thích thông tin trước các chủ thể giám sát nhằm làm cơ sở để các chủ thể này đánh giá trách nhiệm trong thực hiện và kết quả thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. 2.2. Vai trò của trách nhiệm giải trình của Chính phủ TNGT của CP có bốn vai trò cơ bản gồm: Thứ nhất, trách nhiệm giải trình là công cụ kiểm soát quyền lực Chính phủ. Thứ hai, trách nhiệm giải trình của Chính phủ là một cấu thành quan trọng của quản trị nhà nước tốt. Thứ ba, trách nhiệm giải trình của Chính phủ là cơ sở để xây dựng và duy trì Chính phủ liêm chính. 10
- Thứ tư, trách nhiệm gải trình là phương tiện để Chính phủ ban hành và thực thi chính sách công hiệu quả. 2.3. Chủ thể và nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.3.1. Các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.3.1.1. Chủ thể có trách nhiệm giải trình Thứ nhất, Chính phủ có trách nhiệm giải trình với tư cách là một tập thể. Thứ hai, các thành viên của Chính phủ có trách nhiệm giải trình với tư cách cá nhân. - Trách nhiệm giải trình của người đứng đầu Chính phủ: Người đứng đầu CP có thể chịu TNGT với tư cách là người lãnh đạo CP – “Bộ trưởng thứ nhất” và với tư cách là một thành viên của CP. - Phó Tổng thống/Phó Thủ tướng: Phó Tổng thống hoặc Phó Thủ tướng chịu TNGT với tư cách “Bộ trưởng thứ hai” và TNGT với tư cách thành viên CP. - Bộ trưởng: Bộ trưởng chịu TNGT với hai tư cách: vừa là công chức hành pháp (thành viên Chính phủ - chính khách) vừa là công chức hành chính (Bộ trưởng). 2.3.1.2. Chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ - Nghị viện/ Quốc hội/ Nhân đại: Nghị viện bao gồm: Nghị viện nói chung, các Uỷ ban chuyên môn của Nghị viện, Thanh tra Nghị viện, Kiểm toán và các Nghị sĩ. Nghị viện yêu cầu TNGT của CP nhằm đảm bảo giám sát hoạt động của CP – cơ quan do Nghị viện thành lập. - Tòa án: Toà án yêu cầu CP có TNGT nhằm đảm bảo sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Quyền này có thể được bằng Toà Bảo hiến hoặc chức năng bảo hiến của toà án thông thường. - Nguyên thủ quốc gia: Nguyên thủ Quốc gia yêu cầu TNGT của CP với tư cách là người đứng đầu quốc gia và người đứng đầu hành pháp. - Nhân dân: Nhân dân bao gồm: cá nhân công dân đơn lẻ, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế tư nhân… đây là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hoạt động thực thi thẩm quyền của CP. 2.3.2. Nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, chính sách pháp luật. Chính sách pháp luật là những tư tưởng, quan điểm, sáng kiến lập pháp của CP. Thứ hai, các văn bản pháp lý do Chính phủ ban hành. CP được trao quyền tự mình ban hành các văn bản để thực hiện thẩm quyền. CP phải có 11
- TNGT các văn bản này để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và không sa vào nguy cơ lạm quyền. Thứ ba, hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách công. Ban hành và thực hiện chính sách công là hoạt động trọng tâm của CP. Đất nước hưng thịnh hay suy vọng đều phụ thuộc mạnh mẽ vào chất lượng và hiệu quả từ các chính sách của CP. Do đó, CP tất yếu phải có TNGT về các chính sách này. Thứ tư, sử dụng ngân sách nhà nước. Việc sử dụng ngân sách này tiềm ẩn nguy cơ về tham nhũng, kém hiệu quả hay thất thoát, lãng phí. TNGT sẽ ràng buộc CP chi tiêu ngân sách thân trọng và hiệu quả hơn. Thứ năm, vấn đề nhân sự của Chính phủ. TNGT về vấn đề nhân sự của CP đảm bảo sự chọn lựa được công khai với những tiêu chí đầy đủ về tài năng và đức độ. Đồng thời hiệu quả hoạt động của các thành viên CP sẽ được giam sát chặt chẽ bởi các chủ thể có thẩm quyền yêu cầu TNGT. Thứ sáu, dịch vụ công. CP mặc dù không trực tiếp cung cấp dịch vụ công, tuy nhiên lại đóng vai trò quyết định nội dung, chất lượng và giá cả của dịch vụ công. Thứ bảy, thủ tục hành chính. CP lại đóng vai trò xác lập nội dung, trình tự, lệ phí… và các vấn đề khác của thủ tục hành chính trên phạm vi toàn quốc. Do đó, CP phải có TNGT về những vấn đề thuộc lĩnh vực này. 2.4. Phương thức và hệ quả thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ 2.4.1. Phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, Chính phủ báo cáo hoạt động thường xuyên trước Nghị viện và người dân. Thứ hai, Chính phủ trả lời chất vấn trước Nghị viện. Thứ ba, Chính phủ tham gia điều trần trước các Uỷ ban của Nghị viện. Thứ tư, Chính phủ trả lời các câu hỏi của nghị sĩ trong quá trình giám sát. Thứ năm, Chính phủ báo cáo, tham gia điều trần trong hoạt động tố tụng của Toà án. Thứ sáu, Chính phủ trả lời yêu cầu của người dân. Thứ bảy, Chính phủ thực hiện trách nhiệm giải trình thông qua các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. 2.4.2. Hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, hệ quả Chính phủ phải thay đổi chính sách. Thứ hai, hệ quả Chính phủ phải thay đổi nhân sự. Thứ ba, hệ quả Chính phủ có thể bị giải thể. 12
- Tiểu kết Chương 2 Qua nghiên cứu, có thể thấy TNGT của CP là một khái niệm còn gây ra nhiều bàn cãi trong học giới. Tuy nhiên, góc độ tiếp cận nào cũng có giá trị của riêng nó. Sự phong phú trong quan niệm không làm cho vấn đề trở nên khó nắm bắt, mà ngược lại, tạo cơ hội cho sự suy lý về TNGT trở nên đầy đủ hơn. Trong giới hạn nghiên cứu của luận án, Chương 2 đã tiếp cận TNGT của CP dưới góc độ là một nghĩa vụ cung cấp, giải thích thông tin để xem xét, đánh giá trách nhiệm của CP trong hoạt động thực thi công vụ của các chủ thể có thẩm quyền giám sát CP. Đây có thể là một cách tiếp cận tiếp tục gây ra sự bàn cãi, song sẽ mang đến một hướng nhìn nhận mới về vấn đề nghiên cứu. TNGT của CP là một đòi hỏi tất yếu của hầu hết các quốc gia dân chủ đương đại trên thế giới. Đó không chỉ là phương thức để giúp kiểm soát và cân bằng quyền lực mà còn là cơ sở cho hoạt động của một CP hiện đại, liêm chính và hiệu quả. Mặc dù mỗi thể chế có những quy định riêng về hoạt động này, tuy nhiên điểm chung lớn nhất được ghi nhận chính là các cơ chế ràng buộc để hoạt động này trở thành một trách nhiệm trong sự ràng buộc thay vì là một lựa chọn của CP. Chương 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM 3.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.1.1. Các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.1.1.1. Chủ thể chịu trách nhiệm giải trình Chủ thể TNGT của CP Việt Nam cũng có những tương đồng với CP các quốc gia thuộc Đại nghị chế trên thế giới khi tồn tại hai nhóm gồm: Thứ nhất, Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình với tư cách tập thể. Thứ hai, các thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình với tư cách cá nhân với ba nhóm đối tượng gồm: - Thủ tướng chịu TNGT với tư cách là người đứng đầu CP – “Bộ trưởng thứ nhất” và với tư cách là một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. - Phó Thủ tướng chịu TNGT với tư cách là người đứng thứ hai CP – “Bộ trưởng thứ hai” và với tư cách là một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. 13
- - Bộ trưởng chịu TNGT với tư cách là người đứng đầu ngành, lĩnh vực – Bộ trưởng và với tư cách là thành một thành viên CP trong cơ chế lãnh đạo tập thể. 3.1.1.2. Chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Thứ nhất, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Các chủ thể của nhóm này bao gồm: - Quốc hội. - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. - Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội. - Đại biểu Quốc hội. Thứ hai, Chủ tịch nước. Thứ ba, Toà án nhân dân. Thứ tư, Nhân dân. 3.1.2. Nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Thứ nhất, trách nhiệm giải trình các dự thảo luật. Thứ hai, trách nhiệm giải trình chính sách công. Thứ ba, trách nhiệm giải trình hoạt động lập quy. Thứ tư, trách nhiệm giải trình các vấn đề về nhân sự và nguồn gốc tài sản tăng thêm. 3.1.3. Phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Thứ nhất, Chính phủ báo cáo hoạt động trước Quốc hội, UBTVQH và Chủ tịch nước. Thứ hai, Chính phủ trả lời chất vấn trước Quốc hội. Thứ ba, Chính phủ tiếp xúc với Nhân dân. Thứ tư, Chính phủ giải quyết khiếu nại, tố cáo. 3.1.4. Hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam Theo pháp luật hiện hành, hệ quả nếu TNGT thất bại, CP sẽ phải gánh chịu là: Thủ tướng bị bãi nhiệm, miễn nhiễm; Phó Thủ tướng, Bộ trưởng bị miễn nhiệm, cách chức; bãi bỏ văn bản pháp luật của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ,... Đặc biệt từ năm 2001, Quốc hội được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, trong đó có người đứng đầu và các thành viên khác của Chính phủ 3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.2.1. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 2001 14
- Giai đoạn này được đánh dấu bởi thời điểm thành lập chính thể cộng hoà với sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1946, đến năm 2001- thời điểm Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung. Đây là giai đoạn ghi nhận nhiều biến cố, thay đổi của đất nước với ba thời kỳ: giai đoạn thứ nhất chiến tranh giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai xây dựng kinh tế theo mô hình tập trung; và giai đoạn thứ ba đổi mới đất nước. 3.2.2. Giai đoạn từ năm 2002 đến nay Giai đoạn sau năm 2002 đến nay, với những chính sách mở cửa hội nhập, bên cạnh những tiến bộ về kinh tế, những vấn đề chính trị, pháp lý cũng được đổi mới theo hướng du nhập nhiều giá trị tiến bộ của thế giới. Năm 2002 cũng là năm đầu tiên Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 đi vào đời sống xã hội. TNGT của CP cũng được chú trọng và không ngừng hoàn thiện cho đến ngày nay. 3.3. Đánh giá thực trạng trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.3.1. Đánh giá thực trạng các chủ thể trong mối quan hệ trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam 3.3.1.1. Đánh giá thực trạng chủ thể chịu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - CP ngày càng có TNGT hơn trước Quốc hội và Nhân dân, đặc biệt trong lĩnh vực chính sách công. - TNGT của các cá nhân trong CP cũng được xác lập và từng bước đề cao hơn TNGT tập thể. - Các chủ thể có TNGT trong CP đã thay đổi tích cực nhận thức về TNGT. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, Chính phủ hoạt động theo nguyên tắc tập thể, theo nguyên tắc này Thủ tướng sẽ là “Bộ trưởng thứ nhất”. Tuy nhiên trên thực tế thực hiện TNGT, Thủ tướng tham gia trả lời chất vấn trước Quốc hội không phân định nội dung trả lời thuộc thẩm quyền của cá nhân Thủ tướng hay của tập thể CP. Đồng thời với sự hiện diện của các Phó Thủ tướng, trách nhiệm của Thủ tướng cũng được chia nhỏ như chính thẩm quyền. Vấn đề xác định trách nhiệm trực tiếp của Thủ tướng hậu TNGT chưa được thực hiện rõ nét. Thứ hai, vị trí Phó Thủ tướng được đảm nhiệm bởi nhiều thành viên. Sự đa cấp bậc này không làm tăng TNGT, mà ngược lại trở thành lực cản 15
- để xác định chủ thể trọng tâm phải gánh chịu trách nhiệm và vì thế, các hệ quả hậu TNGT cũng sẽ không áp đặt được cho đúng người phải gánh chịu. Thứ ba, Bộ trưởng mặc dù được quy định với hai vai trò, nhưng trên thực tế, quy chế pháp lý chú trọng vai trò là người đứng đầu bộ, ngành hơn là vai trò thành viên Chính phủ. 3.3.1.2. Đánh giá thực trạng chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Quốc hội trở thành thiết chế yêu cầu và giám sát TNGT của CP chủ yếu và có hiệu quả nhất. - Các Uỷ ban của Quốc hội cũng đã có sự chuyên môn hoá sâu nhằm tăng khả năng lắng nghe TNGT của CP và giám sát hoạt động gánh chịu trách nhiệm hậu TNGT. - Người dân và các tổ chức xã hội dân sự chủ động hơn trong hoạt động yêu cầu CP chịu TNGT. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động yêu cầu và giám sát TNGT của CP vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, các quy định về quyền yêu cầu Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình và áp đặt các hệ quả chính trị của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội chưa trực tiếp và rõ ràng, dẫn đến thiếu căn cứ pháp lý để các chủ thể này yêu cầu và giám sát. Thứ hai, Quốc hội và các thiết chế khác của Quốc hội chưa đảm bảo yêu cầu, lắng nghe và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ một cách hiệu quả. - Quốc hội Việt Nam được tổ chức và hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp để yêu cầu TNGT của CP một cách khách quan và lắng nghe TNGT một cách hiệu quả: + Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị. + Quốc hội Việt Nam được hình thành theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Song trên thực tế, tư tưởng đại diện chi phối việc hình thành này. + Đại biểu Quốc hội chuyên trách hiện nay chỉ chiếm 35% tổng số đại biểu Quốc hội. + Cơ chế miễn trừ trong lời nói, phát biểu và biểu quyết của Đại biểu đã không được xác lập. - UBTVQH khó khăn trong việc yêu cầu CP chịu TNGT vì sự đa dạng thành viên của tổ chức này chưa đủ độ bao phủ các lĩnh vực quản lý của CP để có thể yêu cầu và lắng nghe TNGT một cách hiệu quả. - Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn cũng gặp khó khăn tương tự khi không thể giám sát được mọi mặt của hoạt động CP để yêu cầu TNGT. - Khuyết thiết chế Thanh tra Quốc hội. 16
- Thứ ba, Toà án không đóng vai trò quan trọng trong việc yêu cầu và giám sát TNGT của CP. Thứ tư, vai trò trên thực tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ chưa được đảm bảo. Thứ năm, các thiết chế xã hội, bao gồm: Nhân dân, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp cũng chưa có được những ghi nhận pháp lý cụ thể để yêu cầu Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình. 3.3.2. Đánh giá thực trạng nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Sự phân định ba quyền: lập pháp; hành pháp và tư pháp tiến tới rõ ràng là cơ sở đảm bảo cho phân biệt thẩm quyền của CP và làm rõ mối quan hệ giữa CP và các cơ quan khác, các nội dung phải có TNGT của CP vì thế được xác định cụ thể. - Phạm vi thẩm quyền của CP ngày càng được mở rộng, vì thế nội dung TNGT của CP cũng ngày càng được tăng lên. - Nội dung chính sách công trong thời gian qua đã có những cơ chế pháp lý và sức ép xã hội về TNGT của CP trong cả hoạch định và thực thi. Tuy nhiên, trên thực tế các nội dung thuộc TNGT của CP còn một số hạn chế như: Thứ nhất, dự thảo luật. Theo quy định pháp luật hiện hành, TNGT của CP đối với dự thảo luật chỉ được tiến hành một lần trước Quốc hội. Điều này khác với “ba lần đọc” ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự hạn chế số lần dẫn đến hai vấn đề: CP không thể theo đuổi để bảo vệ chính sách pháp luật của mình đến cùng trước Quốc hội và CP không có trách nhiệm đối với sự thất bại của một dự thảo luật. Thứ hai, chính sách công. Đối chiếu với các căn cứ pháp luật hiện hành, quy định về TNGT chính sách công của CP chưa được cụ thể hoá. Thứ ba, xác định các nội dung không thuộc đối tượng trách nhiệm giải trình. Quyền xác định các thông tin thuộc bí mật nhà nước được trao cho cơ quan hành pháp thay vì lập pháp, cộng với sự thiếu hụt cơ chế bảo hiến mạnh mẽ dễ gây ra tình trạng cơ quan hành chính nhà nước tùy tiện xác định những nội dung thuộc bí mật nhà nước nhằm né tránh TNGT. 3.3.3. Đánh giá thực trạng các phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - CP trả lời chất vấn trước Quốc hội và các Uỷ ban cho thấy hiệu quả vượt trội. - Các phương thức thực thi TNGT mang tính trực tiếp được ứng dụng rộng rãi hơn, đồng nghĩa với việc các phương thức gián tiếp sẽ dần bị hạn chế. 17
- - Nhiều phương thức dựa trên nền tảng truyền thông đa phương tiện bước đầu đã được khai thác và mang đến hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc vận dụng các phương thức thực hiện TNGT của CP hiện nay vẫn còn các hạn chế sau: Thứ nhất, phương thức chủ yếu theo quy định của pháp luật hiện hành vẫn là văn bản. Thứ hai, phương thức trả lời chất vấn mặc dù có nhiều sự thay đổi theo hướng linh động hơn, song trên thực tế thực hiện “hỏi nhanh, đáp gọn” vẫn tồn tại các hạn chế. Thứ ba, trang thông tin điện tử của Chính phủ chưa tạo ra được sự tương tác qua lại giữa người dân và đại diện Chính phủ. Thứ tư, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các phản ánh bằng đơn thư dân nguyện cũng gặp phải hạn chế khi trên thực tế cách thức thực hiện đa tầng nấc. Thứ năm, việc sử dụng nền tảng của phương tiện thông tin đại chúng tuy được ứng dụng ngày càng rộng lớn và có tính cởi mở hơn, song trên thực tế, các hoạt động như “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời” chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội khi các yêu cầu trách nhiệm giải trình từ phía người dân bị hạn chế và kiểm duyệt chặt chẽ. 3.3.4. Đánh giá thực trạng hệ quả trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam - Hoạt động lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đã được triển khai thực hiện và cơ bản đã phản ánh được thực trạng niềm tin của đại biểu dân cử đối với CP. - Trong những năm gần đây, nhiều thành viên CP đã bị cách chức do những sai phạm. - Hệ quả thay đổi hoặc bác bỏ chính sách của CP cũng được Quốc hội áp dụng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hệ quả TNGT của CP vẫn còn một số hạn chế sau: Thứ nhất, số lượng các chính sách bị Quốc hội bác bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi không nhiều. Thứ hai, với hệ quả thay đổi nhân sự, Quốc hội sẽ yêu cầu thành viên Chính phủ phải từ chức hoặc bị xem xét miễn nhiệm sau khi Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên hệ quả này chỉ giới hạn sau hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm. Tiểu kết Chương 3 Qua nghiên cứu có thể thấy, TNGT của CP Việt Nam mặc dù trong những năm gần đây đã có những chuyển biến tích cực theo hướng: gia tăng phạm vi chủ thể; xác lập các nội dung TNGT trọng tâm; đa dạng hoá trong 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 313 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 191 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 281 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 273 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 157 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 225 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 188 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 64 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 215 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 22 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 126 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 10 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 29 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 175 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn