Tổng quan về Báo chí Việt Nam trước
năm 1945 (phần 3)
TỔNG LUẬN VLỊCH SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM
TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1945
(Tài liệu tham khảo đặc biệt)
III. BÁO CHÍ - MỘT NGHỀ MỚI MỘT SỰ NGHIỆP
Lưu ý một lần nữa rằng, Văn minh tân học sách, tác phẩm danh xuất hiện
khoảng 1902, vốn được coi là “Tuyên ngôn” của xu hướng cải cách “Hóa dân
cường quốc đầu thế kỷ, khi đề ra 6 đường(sáu phương châm, biện pháp mở
mang n trí), đã coi phát triển báo chí một trong 6 biện pháp quan trọng nht
bên cnh việc dùng chQuốc ngữ”, hiu đính sách v”, “c nhân tài”, chấn
hưng công nghệ”...
Cũng khoảng m 1909, ớc ta, nổi lên trong dư luận câu ca:
Mở tân giới xoay nghề tân học
Đón Tân trào dựng cuộc Tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi, miệng nói xa gần thiếu đâu
Cũng giống như ở Trung Quốc, ớc đi ban đầu của nghề làm báo ở nước ta
bqui định bởi sxâm nhập, cuộc đụng đvà tiếp xúc văn minh Đông - Tây, s
du nhập Kitô giáo vào Việt Nam và dĩ nhiên trong bối cảnh sxâu thuộc địa
của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Theo Qua Công Chn trong cuốn Lch s khoa học báo chí Trung Quốc t
nếu muốn tìm cái gọi là báo chiện đại Trung Quốc thì sm nhất là Chinese
Monthay Magazine, ra ngày 5/8/1815) do một Giáo sĩ người Anh tên là Robert (hết
p.238) Morrison cùng vi Lương Á Phát, mục Tin Lành đầu tiên người Trung
Hoa được thụ phong sáng lập1[1].
nước ta, từ Bùi Đức Tịnh (xem Phần đóng góp của văn hoc Nam Hà -
Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết thơ nói, Lửa Thiêng, Sài n, 1973)
cho đến Bằng Giang gần đây đều khẳng định vai trò độc đáo này của những trí
thức Công giáo.
Bằng Giang nhận xét: Trong snhững tác giả tiêu biểu của n học Quốc
ngNam Kỳ buổi sơ khai, có mấy người kể tên theo thttuổi tác sau đây đều
là tín đ Thiên Chúa giáo: Huỳnh Tnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng
Quản, Trần Chánh Chiếu...”2[2].
thm rộng nhận xét đó là, phần lớn nhng tờ báo chữ Quốc ngữ những
thập kđầu tiên Sài n cuối thế k XIX đầu XX, các chủ bút đều người
Công giáo.
Tuy vậy, theo nhận xét của Quản Chi, trong Thtìm long mạch của tờ báo ta,
thì chính “nhng học trò Khổng Tửlại vtrí quan trọng trong sự phát triển
nghlàm báo nước ta. Tác giviết Kcũng là hiện tượng ti lạ, vì tbáo
sản phảm của đời mới, thế mà nhà Nho, phái người cũ, lại là tay y dng đng
lên phất cờ đánh trống trên din đàn xnày bui đầu, nhà n học c y chỉ đóng
một vai tuồng phụ...”3[3] (hết p.239).
Nhận xét nay mun ghi nhn những đóng p của các y bút vốn người
Nho học: Từ Hoàng ng Bí, Dương Trạc (Trung Bắc n Văn), Nguyn
Trác, Đông Cu, Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Đôn Phục (Nam Phong), Tn Đà (An
Nam Tạp C Hữu Thanh), N Đức Kế (Hu Thanh), Huỳnh Thúc Kháng
(Tiếng Dân), của những nhà Nho - y học như Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyn
Học... Những cây bút loại này báo giới xứ Nam Kỳ là những bậc tiền bối như
Nguyễn Liên Phong, Nguyên Chánh St, Nguyên TThức, Lê Sum...
Nhưng dù thế nào cũng phải thừa nhận rằng, động lực quan trọng nhất
trong báo gii c đó những nhà báo Tây học, thực sự “cầm bút sắt”. H
thuộc những thế hệ khác nhau - khác nhau khi rất lớn về phương pháp tư
tưởng, quan niệm, vbáo chí, nhưng v phương diện nghề nghiệp, thẩy đều góp
phần tạo nên ngôi n báo c Việt Nam. Đó những y bút tiên phong:
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Văn Tố đến những Phan Văn
Trường, Nguyễn An Ninh, Bùi Quang Chiêu, Hoàng Tích Chu, Sương Nguyệt
Ánh, Nhất Linh, Khái ng, Đào Trinh Nhất, Vũ Bng, Thế Lữ, Phùng Bảo
Thạch, Phùng Tất Đắc, Nguyễn Tường Phượng, Hoa Bằng, Đinh Gia Trinh, Vũ
Đình Hòe, Nguyên Tuân, Nguyễn Vỹ...
thế nào, chính hcũng đem cái tđọc nhật trình vào đời sống thường
ngày, dù chúng mi chỉ thịnh hành ở đô thị.
Đầu những năm 40, Hoa Bằng nhận xét: Nghlàm báo xta mới xuất hin
độ hơn 70 năm nay. y giờ, nht báo, tạp chí, sớm gióng trng, tối khua chuông,
đổi mới tai mắt dân chúng, không phải là mới là nữa… (hết p.240)
Những phải i là cũng như đời sống trí thức nói chung dưới thi thuộc địa,
làm báo một nghề gian truân có khi nhục nhã như Vũ Bằng m sự: “Nghlàm
báo là nghề đưa ta đến bất cứ đâu miễn là thoát được nó ra”4[4].
Cuộc Cách mng tháng m 1945 đại, không những là một biến clịch sử
dân tộc, bước nhảy vọt đầu tiên của cách mạng ớc ta hơn nửa thế kỷ qua mà
còn là shồi sinh, sự phục hưng của nền báo chí.