
International Conference on Smart Schools 2022
64
VẬN DỤNG THUYẾT ĐA TRÍ TUỆ VÀO PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÔNG MINH TRONG BỐI CẢNH CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
APPLICATION OF MULTIPLE INTELLIGENCE TO THE DEVELOPMENT
OF INTELLIGENT UNIVERSITY MODEL IN THE CONCEPT
OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
TS. Đinh Văn Đ
Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng Thành phố Hồ Chí Minh
Email: dinhvande@lttc.edu.vn
Keywords:
TÓM TẮT:
Thuyết đa thông minh,
năng lc, giáo dục, đào tạo và
đáp ứng.
Multiple intelligence
theory, capacity, education,
training and responsiveness.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục nước ta đã có những thành tựu
và những bước phát triển đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưng nhân tài và đạt được một số kết
quả quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Việc
tìm kiếm phương pháp giáo dục mới để xây dựng mô hình đại học thông minh
trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là cần thiết hơn bao giờ hết.
Thuyết đa thông minh là một thành tố của lý thuyết giáo dục tối ưu tạo
nên niềm tin giúp khơi nguồn những năng lực phong phú nhất ẩn sâu trong
mỗi con người, tạo ra và định hướng cho những nguồn năng lực giúp thực
hiện những mục tiêu mong muốn. Thành công được khởi đầu từ niềm tin.
Niềm tin khởi nguồn từ một nhận định hoặc từ một ý tưởng mà ta tự nghĩ ra.
Thuyết đa thông minh là một chứng minh.
ABSTRACT:
In the past decades, our country's education has made remarkable
achievements and development steps, making an important contribution to
the task of raising people's knowledge, training human resources, fostering
talents and achieving a some important results in the construction, protection
and development of the country. Not content with what has been, Vietnamese
education continues on the path of development, linear and sustainable
development in which selective research methods, advanced teaching
theories apply to teaching practice. Motivational teaching inspires passion to
explore, learn and research to approach the modern scientific world.
The theory of multiple intelligences is an optimal theory that creates a
belief that helps to source the richest talents hidden deep in each person,
creating and directing the resources to help achieve desired goals. Success
begins with belief. Belief comes from a statement or from an idea that we
come up with ourselves. The theory of multiple intelligences is a proof.
1. MỞ ĐẦU
Những nghiên cứu về trí thông minh trước Howard Gardner
Năm 1905, Alfred Binet (1857 - 1911) nhà Tâm lý học người Pháp lần đầu tiên đã phát minh ra bài kiểm tra
IQ thực tế đầu tiên, đưa ra một bảng test làm thước đo về độ thông minh, với mục đích phân loại học sinh thành
những nhóm tương đương về trí tuệ để thuận tiện cho việc đào tạo.
Năm 1912, William Stern (1871 - 1938) nhà Triết học và Tâm lý học người Đức cho ra đời thuật ngữ IQ
(intelligence quotient). Ông đã sử dụng thương số giữa Tuổi trí tuệ (phản ánh mức độ phát triển trí tuệ của một
người) với Tuổi sinh học (tuổi thực tế của người đó) để tính toán sự phát triển trí tuệ của một cá nhân. Ông tin rằng
sự khác biệt của từng cá nhân, chẳng hạn như trí thông minh, có bản chất rất phức tạp và không có cách nào dễ dàng
để so sánh định tính các cá nhân với nhau. Các khái niệm như trí óc yếu ớt không thể được xác định bằng một bài
kiểm tra trí thông minh duy nhất, vì có nhiều yếu tố mà bài kiểm tra không kiểm tra, chẳng hạn như các biến số về
hành vi và cảm xúc.

International Conference on Smart Schools 2022
65
Năm 1916, Lewis M. Terman (1877 - 1956), một nhà Tâm lý học ở trường ĐH Stanford. Ông được ghi nhận
là nhà tiên phong trong lĩnh vực tâm lý giáo dục vào đầu thế kỷ 20. Ông cũng từng là chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý
Hoa Kỳ đã cải tiến cách tính này, bằng việc nhân thương số trên với 100 để bỏ bớt số lẻ sau dấu thập phân [6] và
[8].
Công thức tính chỉ số thông minh của ông: IQ = Tuổi trí tuệ
Tuổi sinh học x 100 đã được công nhận và sử dụng rộng rãi.
Ông cũng hoàn thiện thêm từ bảng test của Binet để tạo nên bản trắc nghiệm Stanford-Binet được coi là bản
gốc cho nhiều bài test IQ hiện nay.
Cơ sở cho học thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner
Howard Earl Gardner (sinh ngày 11/7/1943) là một nhà tâm lý học phát triển người Mỹ và là giáo sư nghiên
cứu về nhận thức và giáo dục. Ông là cha đẻ của thuyết đa trí tuệ; Theo Thuyết đa trí tuệ của Gardner, con người
có nhiều cách xử lý thông tin khác nhau và những cách này tương đối độc lập với nhau. Lý thuyết này là một bài
phê bình về lý thuyết thông minh tiêu chuẩn, trong đó nhấn mạnh mối tương quan giữa các khả năng, cũng như các
biện pháp truyền thống như các bài kiểm tra IQ thường chỉ tính đến khả năng ngôn ngữ, logic và không gian [8].
Howard phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn thường vẫn được đồng nhất và đánh
giá dựa trên các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ các khả năng tri thức đa
dạng của con người.
Theo ông, ở trường, một học sinh giải quyết dễ dàng một bài toán phức tạp chưa chắc đã thông minh hơn học
sinh khác loay hoay làm mãi không xong bài toán đó. Học sinh thứ hai rất có thể sẽ giỏi hơn trong các “dạng” thông
minh khác.
Lý thuyết “đa trí tuệ” của ông cho rằng, mỗi cá nhân hầu như đều đạt đến một mức độ nào đó ở từng “phạm
trù” trong hệ thống các dạng thông minh. Mức độ này thấp hay cao thể hiện hạn chế hay ưu thế của cá nhân đó trong
lĩnh vực này. Đặc biệt, mức độ này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời của họ mà sẽ có thể thay đổi (nâng
cao hay giảm đi) tùy vào điều kiện trau dồi.
Thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner lấy cơ sở từ những nghiên cứu của nhà phân tâm học Eric Erikson, nhà
xã hội học David Riesman và nhà tâm lý và nhận thức học Jerome Bruner. Ông đã học khóa học về nghiên cứu bản
năng của con người, đặc biệt con người suy nghĩ như thế nào.
Trong học thuyết trí thông minh đa dạng, Gardner đã thiết lập được các yêu cầu cần thiết đặc trưng mà mỗi
loại trí thông minh phải đạt được để có đủ điều kiện xác định đó là một loại trí thông minh hữu hiệu
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thuyết đa thông minh hay còn gọi là thuyết thông minh đa dạng do tiến sĩ Howard Gardner – Đại học Harvard
công bố năm 1983, Howard Gardner đưa ra học thuyết về Trí thông minh đa dạng gồm 7 trí thông minh. Năm 1996
ông tiếp tục bổ sung thêm trí thông minh thứ 8 là Trí thông minh về tự nhiên sau thời gian nghiên cứu và qui hoạch
thực nghiệm khả dĩ [6], và [8].
Năm 1999, ông chính thức thông báo với thế giới sẽ bắt tay tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý thuyết
sự tồn tại loại thông minh thứ 9 là “thông minh hiện sinh”; Theo GS. Howard Gardner: “Trí thông minh hin sinh
là một trí thông minh đặc bit, là cấu trúc hữu ích để đánh giá một trong những năng lc nổi trội của con ngưi”.
Sau hơn 20 năm nghiên cứu (ngày 08 tháng 7 năm 2020), Howard Gardner đã trả lời, trí thông minh hiện sinh vẫn
đang trong giai đoạn nghiên cứu và chứng minh sự tồn tại của nó.
Vậy trí thông minh hiện sinh chưa chính thức trở thành một loại hình thông minh trong thuyết đa trí tuệ; vì vẫn
chưa đủ cơ sở liên quan đến thông số não bộ nên việc phân tích sinh trắc học cho biết các thông số não bộ chưa đủ
cơ sở thể hiện sự tồn tại loại thông minh này.
Thế giới loài người sở hữu những loại thông minh khác nhau như: thiên nhiên, ngôn ngữ, tiếp xúc, vận động,
logic toán, thị giác, âm nhạc, nội tâm,... Những loại hình thông minh nêu trên được gọi chung là thuyết đa thông
minh.
Sự thông minh của con người không phải chỉ được đo bằng chỉ số IQ mà còn phụ thuộc 8 (tám) chỉ số thông
minh trong thuyết đa thông minh.

International Conference on Smart Schools 2022
66
H.1: Tám loại hình trí thông minh trong hc thuyết của Howard Gardner
Theo GS Gardner, trí thông minh được ông định nghĩa “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản
phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa” và trí thông minh
cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua logic toán học hay khả năng xử lý nhanh một bài toán cần giải.
Trí đa thông minh tùy thuộc vào cá nhân, không phải là hằng số mà là hàm toán học phi tuyến, có khả năng
biến thiên đến vô cùng trong miền xác định tùy thuộc vào điều kiện trao dồi tri thức của mỗi người học.
2.1. Thuyết đa thông minh
Khả năng học tập, biểu đạt trí tuệ và khả năng của mỗi người có thể biểu đạt qua 8 loại trí thông minh khác
nhau:
1. Trí thông minh ngôn ngữ
Trí thông minh bằng ngôn ngữ là lời nói thể hiện bằng từ ngữ, cách nói, cách diễn đạt hoặc chữ viết. Trí thông
minh này bao gồm cả khả năng sử dụng ngôn ngữ hiệu quả để thể hiện bản thân và thông hiểu ngôn ngữ bao gồm
các thành tố: ngôn ngữ chữ viết, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ hình thể.
Những người thiên về trí thông minh ngôn ngữ thường giỏi đọc, viết, nói và lắng nghe để ghi nhớ, thích thảo
luận và tranh luận, thường hay giải thích và có văn nói rất thiết phục. Người có trí thông minh này thường dùng sức
mạnh ngôn ngữ để diễn thuyết và hùng biện. Đặc biệt, người có trí thông minh ngôn ngữ sẽ học ngoại ngữ giỏi nhờ
vào trí nhớ từ vựng.
2. Trí thông minh giao tiếp xã hội
Trí thông minh giao tiếp xã hội thể hiện khả năng tương tác xã hội, hướng ngoại, hợp tác, có sức ảnh hưởng và
thuyết phục người khác. Nhạy cảm, đồng cảm, thân thiện, gần gủi, có tố chất lãnh đạo, tâm lý, trách nhiệm, có sức
lôi cuốn, thấu hiểu và giàu lòng trắc ẩn.
Là khả năng hiểu và làm việc được với những đối tượng khác; có khả năng cảm nhận và chia sẻ với tâm trạng,
tính cách, cảm xúc, khí chất, ý định và mong muốn của những người khác một cách dễ dàng.
Người có trí thông minh về giao tiếp xã hội có tính hướng ngoại, rất giàu lòng trắc ẩn và đầy tinh thần trách
nhiệm đối với xã hội, là người có sức lôi cuốn mọi người trong tổ chức, tập thể; thấu hiểu những người khác và nhìn
ra thế giới bên ngoài bằng chính đôi mắt của những con người đó.
Tóm lại, Trí thông minh giao tiếp xã hội thể hiện khả năng tương tác xã hội, hướng ngoại, hợp tác, có sức ảnh
hưởng và thuyết phục người khác. Nhạy cảm, đồng cảm, thân thiện, gần gủi, có tố chất lãnh đạo, tâm lý, trách
nhiệm, có sức lôi cuốn, thấu hiểu và giàu lòng trắc ẩn.
3. Trí thông minh âm nhạc
Là trí thông minh thiên về các kỹ năng nhận biết và sáng tác âm điệu, cao độ và nhịp điệu; cảm nhận, thưởng
thức và biểu diễn âm nhạc. Năng lực này có khả năng tạo ra các tiết tấu, nhịp điệu, ghi nhớ giai điệu, bài hát. Đây
là vùng trí tuệ với các giai điệu, âm nhạc và thính giác. Trí thông minh này thường rất nhạy với âm thanh, nhịp điệu
và âm vực.
Trí thông minh về âm nhạc có trong tiềm thức của mọi người, người có khả năng nghe tốt, có thời gian cho âm
nhạc, biết hát theo giai điệu và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các
giác quan.
Thông minh âm nhạc song song với thông minh về ngôn ngữ. Dưới góc độ âm nhạc, người thông minh về âm

International Conference on Smart Schools 2022
67
nhạc sẽ truyền tải nội dung bằng ngôn ngữ âm nhạc.
4. Trí thông minh thể chất
Thông minh về thể chất hay còn gọi trí thông minh vận động là khả năng sử dụng cơ thể hoặc một phần cơ thể
con người để giải quyết vấn đề, ra hiệu hay biểu đạt cảm xúc bao gồm cả khả năng của trí não điều khiển các hoạt
động đó để vân động các cơ nhỏ và sự phối hợp cơ bắp toàn thân.
Người có trí thông minh vận động là những người thực hành, nhạy cảm, thường xuyên muốn vận động cơ thể
của họ và có “phản ứng bản năng” với các tình huống, sự vật; thể hiện khả năng điều khiển thuần thục các chuyển
động của cơ thể.
5. Trí thông minh về không gian
Thông minh về không gian hay còn gọi trí thông minh thị giác - không gian là phạm trù liên quan đến phương
pháp suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau
của thế giới không gian trực quan sinh động.
Người có năng lực về trí thông minh thị giác - không gian có khả năng vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của
họ dưới dạng hình ảnh, đồ họa, cũng như họ có khả năng tự định hướng bản thân trong không gian 3 chiều một cách
dễ dàng. Trí thông minh này thể hiện ở khả năng cảm nhận, hình dung ra thế giới hình ảnh - không gian dưới nhiều
góc độ. Ngoài ra dạng người này còn có khả năng ghi nhớ hình ảnh, video, hình ảnh tuyệt vời.
6. Trí thông minh về tự nhiên
Là khả năng nhận biết và đánh giá mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên. Thuyết thông minh về
thiên nhiên giúp cho con người nhận thức, phân loại và rút ra được những đặc điểm của môi trường. Thông minh
về thiên nhiên bao gồm việc quan sát sâu sắc về môi trường tự nhiên xung quanh và có khả năng để phân loại
những thứ khác nhau tốt. Nó có thể thực hiện bằng cách khám phá thiên nhiên, làm cho bộ sưu tập cho các loài,
nghiên cứu chúng, và nhóm chúng lại với nhau.
7. Trí thông minh nội tâm
Kiểu người có trí thông minh nội tâm là người dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của chính bản
thân mình, phân biệt được nhiều trạng thái tình cảm bên trong và vận dụng chính những hiểu biết về bản thân mình
để làm phong phú thêm và vạch ra con đường cho cuộc đời mình; thường thích trầm tư suy nghĩ để nhận thức và
đánh giá những điểm mạnh yếu của bạn thân
Là người luôn trầm tư suy nghĩ ở trạng thái tĩnh lặng, là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính thẳng thắn cao
độ và cực kỳ tự giác, tính kỷ luật; quan điểm, lập rường, tự lập cao; thích làm việc một mình, độc lập hơn là làm
việc chung với người khác, nhóm; hướng nội với khả năng suy ngẫm nội tâm, lập kế hoạch và quản lý lập luận, hiểu
ngôn ngữ nội tâm. Họ có ý thức tự giác cao và có khả năng hiểu được cảm xúc, mục tiêu và động cơ của bản thân.
Người có trí thông minh nội tâm dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của chính bản thân mình,
phân biệt được trạng thái tình cảm bên trong và sử dụng chính những hiểu biết về bản thân mình tô đậm dường
hướng cho cuộc đời mình.
8. Trí thông minh logic – toán học
Thông minh logic - toán học khả năng lập luận, phân tích, tổng hợp và tìm ra bản chất và quy luật của các vấn
đề liên quan về số học, suy diễn các trình tự và tư duy theo phương hướng nguyên nhân – kết quả. Khả năng suy
luận, khả năng hiểu các vấn đề trừu tượng, khả năng xác định nguyên nhân, xâu chuỗi các sự kiện. có khả năng
phát hiện, suy diễn ra các trình tự, lý do và tư duy logic tốt.
Trí thông minh này có mối liên quan chặt chẽ với những ý tưởng khoa học và toán học, khả năng tạo ra các giả
thuyết, tìm ra các mô hình số học hoặc quy tắc dựa trên các khái niệm trên lý trí trong cuộc sống.
Những người có trí thông minh này thường nổi trội với các hoạt động trừu tượng hoặc những con số, nơi khả
năng toán học ít hơn khả năng suy luận. Đây cũng là vùng nhận dạng mẫu trừu tượng, tư duy khoa học và điều tra,
và khả năng để thực hiện các tính toán phức tạp.
Ngài Ken Robinson từng nói: “Tim năng con ngưi cũng như tài nguyên thiên nhiên, được chôn vùi rất sâu.
Bạn phải nổ lc tìm kiếm chứ nó không nằm ngay trên b mặt. Bạn thậm chí phải tạo ra hoàn cảnh để nó có thể
được bộc lộ”.
Mỗi chúng ta đều hội đủ tám trí thông minh nêu trên nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào khí chất
của mỗi người. Một số trí thông minh trong thuyết đa trí tuệ phát triển mạnh hơn và có thể không mạnh, tuy nhiên
thế mạnh – yến này không phải là vĩnh viễn, chúng có thể thay đổi tùy vào mức độ luyện tập, thúc đẩy và phát huy.
2.2. Thực trng của giáo dc nước ta hin nay

International Conference on Smart Schools 2022
68
Nhà trường truyền thống, cận đại và hiện đại thường đánh giá một SV qua sự ghi nhớ, tái hiện một đơn vị hoc
tập nào đó dù là đào tạo theo phương pháp truyền thống hay phương pháp tiếp cận năng lực. Theo Gardner, GV
đánh giá người học thông qua một đến hai loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về
logic/toán học mà thôi; cách đánh giá này không đảm bảo tính chính xác và tính khoa học [1].
Nhà trường đã bỏ rơi người học một số thiên hướng học tập tối ưu, vì ngoài trí thông minh về ngôn ngữ và
logic/toán học người học còn có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp…
Mặt khác, nhà trường hội tụ tất cả người học theo môt phương pháp và đường hướng chung cho một sự đánh
giá và phán xét; trong khi đó, người học có thể học tốt hơn nếu được tiếp thu kiến thức bằng chính những thế mạnh
về tính đa dạng, khí chất, niềm đam mê và hứng thú của mình.
Nhà trường chưa xem trọng tính đa dạng về trí tuệ của mỗi người học, vì mỗi loại trí tuệ đều rất quan trọng và
mỗi người học có nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau để phát huy năng lực học tập và nghiên cứu
một cách thành công. Archimedes đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”. Nhà trường
hãy là nơi giúp đ, khơi gợi niềm đam mê, tiềm năng, tạo điều kiện học tập theo các đường hướng khác nhau cho
các chủ nhân tương lai của xã hội. Hãy là đòn bẫy khích lệ để người học phát triển toàn diện.
Vận dụng phương pháp dạy học ứng dụng thuyết đa thông minh vào giáo dục Việt Nam chưa phát triển rộng,
các nhà sư phạm, các chuyên gia giáo dục đang tìm lời giải tối ưu cho vấn đề này. Thực nghiệm cho thấy, những
kết quả mang tính khả dĩ việc vận dụng thuyết đa thông minh trong việc tổ chức dạy học bằng áp dụng linh hoạt,
tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học cổ điển, cận đại và hiện đại để tích cực hóa người học có thể chấp nhận
được nhưng cần một số điều kiện cần và đủ để việc triển khai được thành công.
Môi trường triển khai hoạt động dạy và học theo thuyết đa thông minh chưa đáp ứng yêu cầu; chưa có qui định
mang tính pháp lý; mới xuất phát từ quan điểm tiếp cận hiện đại của một số GV, nhà quản lý và một số trường mang
tính đặc thù chịu đổi mới.
Trong kiểm tra đánh giá người học, GV hầu như chỉ căn cứ vào điểm số hc tập các môn hc để đánh giá s
thông minh của mỗi con ngưi. Đây là nguyên nhân chủ yếu khi SV bị người thân hoặc thầy cô vô tình dán nhãn
tiêu cực là yếu kém vì học tập chưa đạt điểm cao [2].
Nhà trường, gia đình và xã hội chưa chú tâm đến việc phát triển các loại trí thông minh khác ngoài ngôn ngữ
và logic/toán học trong 08 thuyết đa thông minh, đặc biệt là thuyết hiện sinh hiện chưa được công nhận.
Thuyết đa trí tuệ đã mang lại một cái nhìn nhân bản và cần thiết nhằm kêu gọi nhà trường và GV coi trọng sự
đa dạng về trí tuệ ở mỗi người học. Để giải quyết thực trạng trên, cần phải có giải pháp đồng với mục đích cuối
cùng vì sự tiến bộ của người học. Cùng với phương pháp giảng dạy kết hợp thuyết đa thông minh để triển khai
tường minh trong giáo dục và đào tạo.
2.3. Vận dng thuyết đa trí tu của Howard Gardner vo mô hình đi hc thông minh trong bối cnh
cuộc cách mng công ngh 4.0
Thomas Armstrong gửi thông điệp đến các bậc Phụ huynh và các nhà giáo: “Công vic của tôi, với tư cách là
một nhà giáo dục, nhà tâm lý trong lnh vc trí thông minh đa dạng và tài năng t nhiên của ngưi hc, được định
hướng bởi nim tin rằng mi ngưi đu được tri cho là những con ngưi. Mỗi con ngưi ra đi trên thế giới này
đu có những tim năng độc nhất vô nhị mà nếu được nuôi dưỡng thích hợp, con ngưi có thể góp phần làm cho
thế giới tốt hơn. Thách thức lớn nhất đối với các bậc cha m và thầy cô giáo là giải phóng những cản trở để những
tài năng tri cho được công nhận, tôn vinh và nuôi dưỡng”.
Giáo dục, đào tạo giữ vai trò cốt lõi đối với mỗi quốc gia, phát triển giáo dục phải đi đầu trong mọi lĩnh vực.
Người Thầy cần phải xem trọng sự đa dạng về trí tuệ ở mỗi người học, mỗi loại trí tuệ đều quan trọng và mỗi người
học đều có ít nhiều khả năng theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhà trường, thầy cô giáo, phụ huynh phải là nơi
giúp đ, khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện học tập và niềm đam mê theo các hướng khác nhau cho các con em là
chủ nhân tương lai của xã hội [6].
Thuyết đa thông minh có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến phương pháp dạy và cách học. Thực tế khi được tác
động đến nhiều vùng thông minh, người học có cơ hội phát huy những sở trường, sở đoản của bản thân với một
môi trường học tập đáp ứng khả dĩ yêu cầu cơ bản việc học tập và nghiên cứu.
Với triết lý giáo dục phát triển toàn diện năng lực cho người học, nên việc giảng viên vận dụng thuyết đa thông
minh vào giảng dạy là cần thiết. Ở đó, người dạy khơi dậy niệm đam mê, năng lực và khát vọng cho người học, là
dường hướng khai phóng để những tài năng của người học công nhận, tôn vinh và nuôi dưng; người học có đủ
điều kiện, sở đoản và sở trường để vũ trang cho mình bằng những tri thức hiện đại là động lực cơ bản để phát triển
toàn diện năng lực trên nền tảng lý thuyết giáo dục tối ưu đã được lồng ghép trong thuyết đa thông minh [5].

