
Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Trang: 1
TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
Số tín chỉ: 2
Số giờ lý thuyết: 24
Số giờ tiểu luận: 12
Chương một
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Vài nét về hoàn cảnh ra đời sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất liền và
vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì
vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng,
để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu
và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì
không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế
độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp
và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác
dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự
nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể
hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống
thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Trang: 2
học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống,
về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường, lịch
pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước phương Đông. Vì
vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người đã nhiều lần đến
phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà
triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình,
dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã
được suy tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây vì
vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan và là một hệ
thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng
thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…Ph.
Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình thức muôn vẻ của triết học Hi
Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy,
con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất
thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng
biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép
biện chứng.

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Trang: 3
III. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
HERACLITTE (khoảng 540 - 475)
Ông được xem là trung tâm trong lịch sử của phép biện chứng Hi Lạp cổ đại.
Lênin coi ông là một trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Tư tưởng của ông
có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của phép biện chứng sau này.
1. Về khởi nguyên của vũ trụ
- Lửa là khởi nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng ngày gần
gũi cho đến những hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái, không
phải do thần thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn
lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của những cái
đang lụi tàn”.
- Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ là một ngọn
lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa,
các mùa,…theo ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là những trạng
thái khác nhau của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của không khí, cái chết của
không khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh
ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
- Thế giới vận động theo trật tự mà ông gọi là logos: logos khách quan và
logos chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và
như vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con
người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này.
2. Về sự vận động là phổ biến
Quan niệm về vận động đã được một số nhà triết học trước đó đề cập nhưng
phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học thuyết về vận động với câu nói
nổi tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng và là sự hài hoà giữa
các mặt đối lập. Đồng nhất được xem là giới hạn theo nghĩa cùng tồn tại trong một
tương quan để so sánh, nếu thiếu thì không còn sự so sánh nữa như là không thể quý
sức khoẻ khi không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật.

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Trang: 4
Tính chất của sự đồng nhất là tương đối. Bản chất của sự vật chỉ có thể được
xác định trong mối liên hệ với các sự vật khác. Nhưng ở những tương quan khác
nhau sẽ cho những kết quả so sánh khác nhau. “Con khỉ đẹp nhất trong loài khỉ cũng
không thể so sánh với con người. Con người sáng suốt nhất so với Thượng đế cũng
chỉ là con khỉ xét về trí tuệ, sắc đẹp”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các
trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Ông viết: “Cùng một thứ ở trong ta như sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già,
vì sau khi biến đổi cái này trở thành cái kia và ngược lại”.
Thứ ba, Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự đối lập mà còn là sự
thống nhất giữa các mặt đối lập, là điều kiện của tồn tại
Trái với quan điểm đang thịnh hành lúc bấy giờ xem đấu tranh như một hiện
tượng hoàn toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất động
mang tính chất phá huỷ, Hêraclit khẳng định đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hoà
về sự thống nhất.
Theo ông, cái vốn có ở trong hài hoà là đấu tranh và đó là điều kiện để hài
hoà. Ở đâu không có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là
nguồn gốc của mọi cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và tồn tại.
Vì vậy đấu tranh là phổ biến tất yếu.
Từ quan niệm về dòng chảy, về vận động là phổ biến, Heraclit đã kháiinh ra
một khái niệm triết học mới đó là Độ. Độ là cái tạo ra sự hài hoà, tính chu ky, tính
ổn định, sự biến đổi của sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Với cách
hiểu như vậy, độ chính là logos của logos.
Với nội dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời
cũng là hạn chế của Heraclit. Hình ảnh so với khái niệm là cùng một lúc có thể thu
tóm được các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung và cái riêng, gây được những ấn
tượng trực quan sinh động, những mối liên tưởng so sánh nhưng do tính chất đa
nghĩa của nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất của vấn đề vì vậy thường phải
viện dẫn đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu làm quen thuộc của văn học
chứ không phải triết học.
3. Về nhận thức luận và nhân bản học

Triết học phương Tây GV: ThS. Trịnh Đình Thanh
Trang: 5
Về mặt nhận thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các
giác quan để con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò
không giống nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt
nhất nhưng mắt tốt hơn tai”.
Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính. Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận
thức lý tính là con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
Về nhân bản học. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và lửa.
Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều thiện, làm
cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn ngừa những cám
dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục
vọng mà ở chỗ phải biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo
logos.
Tóm lại, Heraclit được xem là mọt trong những người sáng lập ra phép biện
chứng. Giá trị mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.
ĐÊMOCRITE (khoảng 460-370)
Chiếm vị trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng nguyên tử
luận mà đại biểu là Lơxip và Đêmocrit. Là một trong những nhà triết học duy vật
lớn nhất thời cổ đại.Ông cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là
phần tử vật chất bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. Học thuyết
nguyên tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật trong thế giới cổ
đại. Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu tạo
vật chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc đối với
lịch sử triết học.
Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới
vĩnh viễn phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán
thiên tài. Theo ông, vận động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrits nêu ra khái niệm không gian.
Theo ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận
động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể