Trung thực n xấu
“N xấu của h thống, theo đánh giá của NHNN, hiện đã tăng t mức 6%
lên mức 10%”. Thông tin này, dù không phải quá bất ng (bi trước đó,
đánh giá độc lập ca Fitch Ratings ước tính t l n xu h thng ngân hàng
lên ti 13% tng n) nhưng khiến luận không khi lo lắng, bi s
chính thức ca nguồnng bố. Tuy nhiên, việc nhìn thng vào vấn đề nhạy
cmy, đã làm ng niềm tin của NĐT vào s minh bch của các quan
quản lý.
Tuy nhiên, có mt điểm khiến th trường n khoăn là t l n xu theo đánh
giá ca NHNN là theo tiêu chuẩn nào? Bởi s kiện Habubank công bc
con s n xấu theo nhiều chuẩn mực khác nhau, cho thấy hoàn toàn có th
tồn tại những khác biệt trong chun mực đánh giá của quan quản th
trường vi các tiêu chun đánh giá theo chuẩn mực kế toán Việt Nam và
phân loi n tại các t chức tín dụng.
th trường mi ch ghi nhận con s n xấu toàn h thống khoảng 3,6%, mà
chưa tng ghi nhn t l n xu 6% trên tổng dư nợ. S khác biệt v con s
khởi điểm 6% n xấu so với các con s được công b trước kia khiến th
trường đặtu hi: Thống đốc công b t l n xấu được xác định theo tiêu
chuẩn đặc biệt của NHNN, hay con s 6% là t l n xấu ti một thi đim
rất gần trước thi gian báo cáo Quốc hội?
Ngoài ra, n tín dụng hin tp trung ch yếu vào một nhóm khong 10
ngân hàng lớn như: Vietinbank, Vietcombank, BIDV, Agribank... Trong đó,
Vietinbank, Vietcombank, BIDV... qua báo cáo của mình,…đều có t l n
xấu rất thấp. Vy thì, nhng ngân hàng còn lại phi có t l n xu là bao
nhiêu để có th t l n xấu toàn h thng mức 10%?
Tuy nhiên, b qua một bên những thắc mắcy, thì rõ ràng, s minh bạch
tương đối t khi ngân hàng cũngđiều đáng mơ ước ca NĐT đối với
nhóm CTCK. Cũng mt t chức mà i đó, ngườin, NĐT gửi tiền vào,
cũngnhững hoạt động vay/h tr vốn, nhưng rõ ràng, bức tranh tài chính
của phn đông CTCK vẫnn rấtmù.
Không ging như h thống ngân hàng, đối vi CTCK, khái niệm n xấu đến
thời điểmy vẫn chưa được chun hóa, ngoại tr quy định liên quan đến
cách hạch toán các khon n theo Chun mực kế toán Việt Nam. NĐT rất d
dàng tìm được những CTCK có khon phi thu, phải phi tr lên tới hàng
trăm, ng nghìn t đồng, nhưng lại quá kkhăn để tìm được một thuyết
minh của CTCK v thực trng cũng như kh ng thu hồi các khoản phải thu
ấy.
Khi CTCK đứng ra vay n của một đơn vị, khoản vay y hiện hữu trên báo
cáo tài chính và là con s bắt buộc phải trả. Nhưng đầu ngược lại, khi
CTCK s dụng tin để cho T vay t tt c nhữngmà c đôngn
ngoài biết được ch là một con s tng các khon phải thu, mà không có
đánh giá chi tiết nào v nguy mất mát. Ghi nhn thực tế cho thy, ngoài
việc hạch toán dưới dng này, CTCK còn ghi nhận khoản cho vay NĐT dưới
dạng các hợp đồng hợp tác đầu tư, cho vay khác, hoặc thm chạch toán
ngoại bng (trong vai trò đơn v trung gian đơn thun, dù CTCK đứng ra bo
lãnh khon vay)...
Có th nói, với nhng quy định hiện ti, những ai muốn tìm hiu bản chấti
sản CTCK s liên tc gặp nhng mê cung và vì thế, phn đông mới ch tiếp
cận tình hìnhi chính của khốing ty này theo kiu cưỡi ngựa xem hoa”.