Dân sự (KDTM, HNGĐ...) Hình sự Hành chính
TUYỂN TẬP 207 CÔNG VĂN GIẢI ĐÁP VƯỚNG MẮC, HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ CỦA TAND TỐI CAO (Từ năm 1986 đến tháng 7/2023)
0941767076
amilawfirm.com
MỤC LỤC
TUYỂN TẬP 207 CÔNG VĂN GIẢI ĐÁP VƯỚNG MẮC, HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TRANG
STT 1
13
2
14
3
15
4
18
5
19
6
20
7
21
8
22
9
23
10
24
25
11 12
29
13
31
14
33
15
34
16
35
VĂN BẢN Công văn 555/NCPL ngày 13/05/1986 hướng dẫn thủ tục xét xử một số việc tranh chấp trong lao động Công văn số 951-NCPL ngày 30/07/1986 về việc xin hủy bỏ việc nuôi con nuôi Công văn 03-TATC ngày 22/10/1987 hướng dẫn về Điều 109 Bộ Luật Hình sự Công văn 785/HS ngày 17/9/1987 về việc xử lý các tội phạm gây thiệt hại cho các công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống tải điện, dẫn chất đốt Công văn 37/NCPL ngày 24/02/1989 về việc thi hành án tử hình Công văn số 32/TK ngày 02/3/1989 về việc hoãn phiên tòa trong trường hợp vắng mặt người bào chữa Công văn 38/NCPL ngày 04/3/1989 về việc ghi họ và tên hội thẩm nhân dân trong quyết định đưa vụ án ra xét xử Công văn 48/VP ngày 16/3/1989 về việc xét xử hành vi cắt phá đường dây thông tin liên lạc Công văn 93/HS ngày 22/02/1989 về thủ tục cho những người tham gia tố tụng xem biên bản hòa giải Công văn 02/CT-TATC ngày 19/3/1990 về việc xét xử nghiêm đối với các hành vi cắt phá dây điện Công văn số 101/NCPL ngày 05/7/1990 tố tụng dân sự Công văn 08/CT-TATC ngày 06/12/1990 về đường lối xử lý một số tội phạm phục vụ chỉ thị 416-CT ngày 3/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường công tác điều tra, thanh tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu Công văn 169/TATC ngày 26/7/1990 về việc toà án phục vụ cuộc đấu tranh chống tham nhũng Công văn 40/NCPL ngày 06/5/1991 hướng dẫn việc xét xử tội làm tiền giả Công văn 133/NCPL ngày 20/12/1991 hướng dẫn đường lối xử lýđối với người trốn đi nước ngoài đã tự nguyện hồi hương Công văn 28/NCPL ngày 02/4/1992 về việc toà án phục vụ cuộc đấu tranh chống sử dụng điện trái phép...
17
36
38
18 19
39
20
43
21
44
22
46
23
48
24
49
25
50
26
57
27
65
28
66
29
67
30
69
31
72
32
76
33
78
34
85
35
93
Công văn 29/NCPL ngày 06/4/1992 về việc giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngoài Công văn 240/TK ngày 17/7/1992 về việc hoãn phiên toà Công văn 481/NCPL ngày 18/11/1992 về việc tạm giam và thi hành án phạt tù Công văn số 271/NCPL ngày 21/05/1993 về thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp cụ thể Công văn 328/NCPL ngày 22/6/1993 về việc rút quyết định truy tố Công văn số 517/NCPL ngày 09/10/1993 về việc ly hôn với một bên đang ở nước ngoài Công văn 20/NCPL ngày 18/01/1994 trả lời một số vấn đề về tố tụng hình sự Công văn 88/NCPL ngày 1/3/1994 về việc không tiếp tục áp dụng Thông tư liên ngành số 10/TTLN ngày 25/10/1990 Công văn số 442/KHXX ngày 18/7/1994 về việc áp dụng một số quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Công văn số 457/KHXX ngày 21/7/1994 về việc áp dụng một số quy định của pháp luật phá sản doanh nghiệp Công văn 09/KHXX ngày 15/02/1995 thông báo kết luận của liên ngành về một số hướng dẫn truy cứu trách nhiệm đối với một số loại tội phạm Công văn 13/KHXX ngày 7/3/1995 hướng dẫn việc giảm thời hạnchấp hành hình phạt tù Công văn 73/TK ngày 2/3/1995 về đường lối xét xử loại tội phạm tình dục trẻ em Công văn 05/KHXX ngày 15/1/1996 về việc thực hiện các quy định về cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt pháo Công văn số 11-KHXX ngày 23/01/1996 hướng dẫn pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Công văn 33/KHXX ngày 11/6/1996 hướng dẫn giải quyết một số trường hợp cụ thể trong công tác xét xử và thi hành án phạt tù Công văn số 39/KHXX ngày 06/7/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính Công văn số 40/KHXX ngày 06/7/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động Công văn số 07/KHXX ngày 21/02/1997 về việc thẩm quyền của VKSND kiểm sát công tác xét xử của TAND
36
94
37
95
38
99
39
100
40
102
41
103
42
105
43
106
44
107
45
108
46
109
47
163
48
177
49
179
50
181
51
182
52
184
53
185
54
186
Công văn số 46/KHXX ngày 17/05/1997 về việc thẩm quyền xử lý Hợp đồng kinh tến vô hiệu Công văn 59/KHXX ngày 6/6/1997 về việc áp dụng một số quy định của luật sửa đổi, bổ sung một số Công văn số 78/KHXX ngày 19/7/1997 về việc chia thừa kế mở trước ngày 01-07-1991 trong đó có di sản là nhà ở Công văn số 81/KHXX ngày 21/7/1997 về việc trao đổi về nghiệp vụ với TAND tỉnh Cần Thơ Công văn số 82/KH ngày 23/7/1997 về việc trao đổi về nghiệp vụ với TAND tỉnh Kon Tum Công văn số 92/KHXX ngày 08/8/1997 về việc hướng dẫn thi hành thông tư liên tịch về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất Công văn 98/KHXX ngày 21/8/1997 về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật Công văn 42/1998/KHXX ngày 21/4/1998 về việc người bị hại vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm Công văn 140/1998/KHXX ngày 11/12/1998 về việc hướng dẫn áp dụng Điều 109 Bộ Luật Hình sự Công văn 05/1999/KHXX ngày 19/1/1999 về việc xác định giá trị tài sản theo Điều 136 và Điều 159 Bộ Luật Hình sự Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/2/1999 về một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật Công văn 52/1999/KHXX ngày 15/6/1999 về việc thực hiện một số quy định của BLTTHS đối với bị cáo là người chưa thành niên Công văn số 57/1999/KHXX ngày 15/6/1999 về việc giải thích thông tư liên tịch số 01/TTLT/19-6-1997 Công văn số 56/1999/KHXX ngày 17/6/1999 về việc đính chính một số điểm trong TTLT số 01/1999/TTLT-TANDTC- VKSNDTC ngày 25-01-1999 Công văn 53/1999/KHXX ngày 25/6/1999 về việc hướng dẫn áp dụng Điều 181 Bộ Luật Hình sự Công văn số 68/1999/KHXX ngày 13/7/1999 về việc giải quyết tranh chấp chia di sản thừa kế là nhà ở mở trước ngày 01/07/1991 Công văn 73/1999/KHXX ngày 16/7/1999 về việc điều kiện giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và truy nã đối với bị cáo Công văn số 81/1999/HKXX ngày 24/7/1999 về việc đề nghị giải thích quy định tại điều 3 nghị định số 17/1999/NĐ-CP
55
189
56
191
57
194
58
196
59
197
60
199
61
201
62
203
63
206
64
207
65
209
66
210
67
212
68
213
69
215
70
217
71
219
72
220
Công văn số 87/1999/KHXX ngày 6/8/1999 về việc thẩm quyền và thủ tục giải quyết việc tuyên bố một người là đã chết Công văn 10/2000/KHXX ngày 10/01/2000 về việc thi hành mục 3 nghị quyết của quốc hội về việc thi hành Bộ Luật Hình sự Công văn 12/2000/KHXX ngày 24/01/2000 về việc ra quyết định thi hành án phạt tù và truy nã người bị kết án phạt tù bỏ trốn Công văn số 29/2000/KHXX ngày 15/3/2000 về việc thẩm quyền ra quyết định thi hành án Công văn số 30/2000/KHXX ngày 17/3/2000 về việc thủ tục giải quyết vụ án khi nguyên đơn có uỷ quyền, nhưng bị chết Công văn 34/2000/KHXX ngày 20/3/2000 về việc áp dụng điểm c mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội về việc thi hành BLHS Công văn số 35/2000/KHXX ngày 20/3/2000 về việc thi hành án phạt tù Công văn số 81/2000/KHXX ngày 3/7/2000 về việc uỷ quyền tham gia tố tụng tại toà án nhân dân Công văn 90/2000/KHXX ngày 20/7/2000 về việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21/7/2000 về việc xác định giá quyền sử dụng đất Công văn 93/2000/KHXX ngày 31/7/2000 về việc thẩm quyền xét xử của toà án liên quan đến việc thi hành Điều 7 Bộ Luật Hình sự 1999 Công văn 41/2001/KHXX ngày 24/4/2001 về việc hướng dẫn áp dụng các Điều 61, 62 BLHS và các Điều 231 và 232 BLTTHS Công văn số 62/2001/KHXX ngày 13/6/2001 trả lời một số trường hợp ly hôn Công văn số 109/2001/KHXX ngày 4/9/2001 về việc xác định giá quyền sử dụng đất và định giá nhà Công văn số 112/2001/KHXX ngày 14/9/2001 về việc xác định thời điểm thụ lý vụ án về hôn nhân và gia đình Công văn 127/2001/KHXX ngày 8/10/2001 về việc khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can Công văn số 164/2001/KHXX ngày 7/12/2001 về việc xác định thời điểm xét xử sơ thẩm để tính lãi xuất chậm trả Công văn 166/2001/KHXX ngày 14/12/2001 về việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị
73
223
74
225
75
227
76
229
77
261
78
262
79
263
80
265
81
267
82
268
83
270
84
272
85
274
86
275
87
278
88
279
89
281
90
283
91
285
Công văn số 176/2001/KHXX ngày 31/12/2001 về việc giải quyết đơn yêu cầu toà án xác định con Công văn số 04/2002/KHXX ngày 10/01/2002 về việc thẩm quyền xác định cha cho con Công văn số 61/2002/KHXX ngày 20/5/2002 về việc công nhận thuận tình ly hôn Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ Công văn 96/2002/KHXX ngày 8/7/2002 về việc hoãn chấp hành hình phạt tù Công văn số 128/2002/KHXX ngày 27/8/2002 về việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị Công văn số 129/2002/KHXX ngày 27/8/2002 về việc trao đổi về trách nhiệm bồi thường thiệt hại Công văn số 130/2002/KHXX ngày 29/8/2002 về việc trưng cầu giám định Công văn số 131/2002/KHXX ngày 29/8/2002 về việc xác định thẩm quyền giải quyết việc xin thay đổi nuôi con sau khi ly hôn Công văn số 132/2002/KHXX ngày 29/8/2002 về việc thể lệ hợp thức hoá giấy tờ, tài liệu Công văn số 134/2002/KHXX ngày 29/8/2002 việc thay đổi việc nuôi con sau khi ly hôn Công văn 148/2002/KHXX ngày 30/9/2002 về việc hướng dẫn áp dụng Điều 46, 47 BLHS Công văn 162/2002/KHXXngày 4/11/2002 về việc áp dụng hình phạt tiền Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15/11/2002 về việc đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng Công văn 172/2002/KHXX ngày 25/11/2002 về việc giải quyết đề nghị của luật sư về xác định tuổi của người bị hại bằng giám định xương Công văn 173/2002/KHXX ngày 25/11/2002 về việc áp dụng pháp luật khi xét xử tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi Công văn 174/2002/KHXX ngày 26/11/2002 về việc giải quyết yêu cầu của bị can, bị cáo, người bị hại về giám định lại hoặc giám định bổ sung Công văn 175/2002/KHXX ngày 27/11/2002 về việc thực hiện chỉ thị số 19/2002/CT/TTG của Thủ Tướng Chính phủ Công văn số 177/2002/KHXX ngày 5/12/2002 về việc của đương sự trong giao dịch dân sự
92
286
93
288
94
290
95
293
96
295
97
theo
thiệt
Nghị
thường
296
98
298
99
299
100
301
101
304
102
310
103
311
104
313
105
315
106
317
107
319
108
320
109
321
Công văn số 178/2002/KHXX ngày 5/12/2002 về việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Công văn số 77/2003/HĐTP ngày 27/6/2003 về việc tiếp tục giải quyết các vụ án nêu tại Điểm b Mục 1 Phần 2 của Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Công văn số 189/2002/KHXX ngày 04/7/2003 về việc quyết định về án phí trong bản án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính Công văn số 54/2003/KT ngày 04/7/2003 về việc trao đổi nghiệp vụ Công văn 97/2003/KHXX ngày 05/8/2003 về việc xác định tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân Công văn 98/2003/KHXX ngày 5/8/2003 về việc giải quyết bồi quyết hại 388/2003/NQ/UBTVQH11 Công văn 99/2003/KHXX ngày 5/8/2003 về việc hoãn chấp hành hình phạt tù Công văn 105/2003/KHXX ngày 18/8/2003 về việc áp dụng Điều 248 Bộ Luật Hình sự Công văn 120/2003/KHXX ngày 18/09/2003 về việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo Công văn 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 về việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự Công văn 138/2003/KHXX ngày 30/10/2003 về việc thi hành hình phạt tù, nhưng cho hưởng án treo Công văn 140/2003/KHXX ngày 31/10/2003 về việc thi hành Mục 3 Phần III Nghị quyết số 02/2003/NP/HĐTP Công văn 04/2004/KHXX ngày 15/1/2004 về việc thi hành Mục 4 Nghị quyết số 24/2003/QH11 của Quốc hội Công văn 41/2004/KHXX ngày 15/1/2004 về việc thi hành Mục 3 Phần III Nghị quyết số 02/2003/NG/HĐTP Công văn số 72/2004/KHXX ngày 21/04/2004 hướng dẫn thực hiện bồi thường thiệt hạn cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra Công văn số 89/2004/KHXX ngày 17/05/2004 về việc sử dụng hạn chế bất động sản liền kề Công văn số 100/2004/KHXX ngày 03/06/2004 về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết Công văn số 102/2004/KHXX ngày 07/06/2004 về việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
110
323
111
326
112
329
113
331
114
333
115
335
116
337
117
339
118
340
119
342
120
344
121
346
122
351
123
353
124
Thông
tịch
liên
tư
354
125
356
126
358
Công văn 117/2004/KHXX ngày 22/07/2004 về việc triển khai thi hành BLTTHS năm 2003 Công văn số 116/2004/KHXX ngày 22/07/2004 về việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo quy định của Luật đất đai năm 2003 Công văn số 118/2004/KHXX ngày 22/07/2004 về việc thi hành Mục 4 Nghị quyết số 32/2004/QH11 do Quốc hội ban hành Công văn 222/2004/KHXX ngày 17/12/2004 về việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra Công văn 242/CV/TA ngày 02/11/2004 về công tác đấu tranh chống tham nhũng Công văn số 227/2004/KHXX ngày 30/12/2004 về việc ủy quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân Công văn số 18/2005/KHXX ngày 02/02/2005 về việc tham gia phiên tòa phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân Công văn 106/2005/KHXX ngày 13/05/2005 về việc trang phục của bị cáo tại phiên toà xét xử vụ án hình sự Công văn số 132/2005/KHXX ngày 13/06/2005 về việc đòi cơ quan thi hành án trả lại tài sản Công văn số 133/2005/KHXX ngày 14/06/2005 về việc trợ giúp pháp lý và miễn giảm án phí, lệ phí Tòa án đối với đương sự là người nước ngoài Công văn số 134/2005/KHXX ngày 20/06/2005 về việc thành lập hội đồng định giá theo quy định tại điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự Công văn số 107/KHXX ngày 23/06/2006 về việc thông báo đính chính mẫu biên bản hòa giải thành Công văn số 109/KHXX ngày 30/06/2006 về việc xử lý các trường hợp không biết địa chỉ của người khởi kiện Công văn số 218/2005/KHXX ngày 29/09/2005 về việc giám đốc các quyết định giải quyết việc dân sự Công văn 225/2005/KHXX ngày 18/10/2005 về việc hiệu lực số của 21/2004/TTLT/BCA/TANDTC/VKSNDTC/BTP Công văn số 176/KHXX ngày 15/09/2006 về việc triển khai thực hiện các Nghị định của Chính phủ về thi hành Luật thương mại Công văn 187/KHXX ngày 12/10/2006 về việc miễn thi hành án đối với khoản tiền phạt trong vụ án hình sự
127
360
128
363
129
365
130
366
131
368
132
369
133
372
134
376
135
378
136
380
137
382
138
385
139
387
140
389
141
391
142
393
143
394
Công văn số 38/KHXX ngày 29/03/2007 hướng dẫn việc pháp nhân khởi kiện và ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự Công văn số 40/KHXX ngày 06/04/2007 hướng dẫn thụ lý giải quyết tranh chấp về họ Công văn 235/TATC/VP ngày 31/08/2007 về thực hiện chỉ thị số 16/2007/CT/TTG của Thủ Tướng Chính phủ Công văn số 122/KHXX ngày 04/09/2007 hướng dẫn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người mắc nợ, hoàn trả tài sản cho nhà nước theo quy định tại Điều 36 Luật phá sản Công văn số 165/KHXX ngày 18/10/2007 giải thích quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Bộ luật dân sự Công văn 99/TANDTC/KHXX ngày 01/7/2009 về thi hành quy định của văn bản quy phạm pháp luật Công văn 105/TANDTC/KHXX ngày 17/07/2009 về việc thi hành Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội Công văn 144/TANDTC/KHXX ngày 20/08/2009 về xác định công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia Công văn số 91/TANDTC-KHXX ngày 28/6/2011 về việc áp dụng nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27 tháng 07 năm 2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Công văn 245/TANDTC/TK ngày 16/08/2011 về thi hành án tử hình Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 về việc thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản Công văn số 143/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 về việc một số vấn đề liên quan đến việc khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan BHXH Công văn số 116/TA-TKTH ngày 15/11/2011 về việc Luật sư mặc trang phục khi tham gia phiên tòa Công văn 177/TANDTC/KHXX ngày 31/08/2012 xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ theo quy định của nghị định 62/2012/NĐ/CP Công văn 268/TANDTC/HS ngày 02/11/2012 áp dụng Điều luật đối với hành vi mua bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng Công văn số 244/TANDTC-KHXX ngày 05/11/2012 về việc mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam Công văn 27/TANDTC/KHXX ngày 17/02/2014 ấn định thời gian thử thách đối với người bị xử phạt tù được hưởng án treo
144
396
145
397
146
400
147
401
148
tư
liên
liên
tịch
sửa đổi Thông
403
149
406
150
410
151
412
152
414
153
417
154
428
155
522
156
529
157
533
158
536
159
537
160
539
Công văn số 74/TANDTC-KHXX ngày 10/04/2014 về việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND Công văn số 138/TANDTC-KHTC ngày 13/8/2014 về việc hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thực hiện thí điểm Thừa phát lại Công văn 234/TANDTC/HS ngày 17/09/2014 về xác định hàm lượng chất ma túy Công văn số 07/TANDTC-KHXX ngày 13/01/2015 về việc thi hành pháp luật trọng tài thương mại Công văn 315/TANDTC/PC ngày 11/12/2015 về thực hiện Thông tịch tư 17/2007/TTLT/BCA/VKSNDTC/TANDTC/BTP Công văn 326/TANDTC/PC ngày 31/12/2015 thi hành Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 109/2015/QH13 Công văn 80/TANDTC/PC ngày 29/03/2016 về xử lý hành vi đánh bạc trái phép dưới 5.000.000 đồng Công văn 99/TANDTC/PC ngày 12/04/2016 thực hiện việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên Công văn số 105/TANDTC-PC&QLKH ngày 14/4/2016 về việc thi hành Luật bảo hiểm xã hội Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 25/07/2016 về việc giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ Luật hình sự 2015 Công văn 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 V/v giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự Công văn 289/TANDTC-PC ngày 27/9/2016 V/v giám định chất ma túy (kèm theo Công văn 2955/CSĐT của Bộ Công an) Công văn 301/TANDTC/PC ngày 07/10/2016 về việc áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ Luật Hình sự 2015 Công văn 306/TANDTC/PC ngày 12/10/2016 áp dụng tình tiết bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản khi giải quyết vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Công văn 327/TANDTC/PC ngày 07/11/2016 viện dẫn các Điều khoản có lợi cho người phạm tội của Bộ Luật Hình sự 2015 trong bản án Công văn 330/TANDTC/V1 ngày 01/11/2016 về xét, đề nghị đặc xá trong trường hợp đặc biệt cho người bị kết án đang được
161
570
162
572
163
588
164
617
165
619
166
622
167
625
168
629
169
631
170
634
171
636
172
642
173
645
174
646
175
651
176
656
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù nhân dịp Quốc Khánh nước Việt Nam (02/09/2016) Công văn 06/TANDTC/PC ngày 19/01/2017 xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017 về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 11/4/2017 về việc Thống nhất áp dụng quy định về án phí trong vụ án ly hôn Công văn 90/TANDTC/PC ngày 27/04/2017 hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên Công văn số 91/TANDTC-PC ngày 28/4/2017 về việc hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên Công văn 144/TANDTC/PC ngày 04/7/2017 thi hành Nghị quyết 03/2017/NQ/HĐTP Công văn 146/TANDTC/PC ngày 11/7/2017 viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử Công văn 148/TANDTC/PC ngày 12/7/2017 triển khai, thi hành Bộ Luật Hình sự 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 Công văn số 146/TANDTC-PC ngày 14/7/2017 về việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử Công văn số 152/TANDTC-PC ngày 19/7/2017 về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu Công văn 154/TANDTC/PC ngày 25/7/2017 xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa Công văn số 155/TANDTC-PC ngày 28/7/2017 về việc áp dụng thống nhất các thể thức và kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng Công văn 256/TANDTC/PC ngày 31/7/2017 về thi hành Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 Công văn số 297/TANDTC-HTQT ngày 20/12/2017 về việc lưu ý khi yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự đối với Hồng Kông, Trung Quốc Công văn số 340/TANDTC-PC ngày 22/12/2017 V/v xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán “pháo hoa nổ” trong nội địa
177
658
178
664
179
667
180
669
181
672
182
673
183
675
184
676
185
677
186
679
187
681
188
683
189
685
190
706
191
720
192
722
Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ Công văn 04/TANDTC/PC ngày 09/01/2018 về áp dụng Bộ Luật Hình sự 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 Công văn 44/TANDTC/PC ngày 12/03/2018 về quán triệt thi hành văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành Công văn số 55/TANDTC-PC ngày 20/03/2018 về việc tiêu chí xác định vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành Công văn số 80/TANDTC-PC ngày 27/04/2018 về việc tài liệu hướng dẫn thực hiện tương trợ tư pháp Công văn 170/TANDTC/PC ngày 01/08/2018 thực hiện quy định của Bộ Luật Hình sự 2015 và Nghị quyết 01/2018 về tha tù trước thời hạn có điều kiện Công văn 196/TANDTC/PC ngày 04/09/2018 về áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ Luật Hình sự Công văn số 232/TANDTC_PC ngày 26/10/2018 về việc quán triệt thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ Công văn 254/TANDTC/PC ngày 26/11/2018 về người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 của Bộ Luật tố tụng hình sự Công văn số 263/TANDTC-PC ngày 05/12/2018 về việc xác định quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tranh chấp về di sản thừa kế Công văn 276/TANDTC/PC ngày 24/12/2018 về thi hành án đối với người bị kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày 01/01/2018 vi phạm nghĩa vụ Công văn 59/TANDTC-PC ngày 29/3/2019 V/v hướng dẫn bổ sung về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân Công văn 64/ TANDTC-PC ngày 03/4/2019 V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính Công văn 68/TANDTC/PC ngày 08/04/2019 về xét xử tội phạm xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em Công văn 79/TANDTC-PC ngày 12/4/2019 V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến số 64/TANDTC-PC
193
723
194
tư
liên
752
195
754
196
761
197
763
198
784
199
786
200
799
201
810
202
811
203
821
204
836
205
852
206
854
207
873
Công văn 212/TANDTC/PC ngày 13/09/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến vướng mắc trong xét xử Công văn 244/TANDTC/PC ngày 05/11/2019 về thi hành thông tịch 10/2018/TTLT/BTP/BCA/BQP/BTC/TANDTC/VKSNDTC Công văn số 03/2019/CT-CA ngày 30/12/2019 về việc nâng cao chất lượng áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Công văn số 323/TANDTC-HTQT ngày 31/12/2019 về việc thi hành thông tư liên tịch số 01/2019/TTLT-TANDTC-BNG Công văn 89/TANDTC/PC ngày 30/06/2020 về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử Công văn 136/TANDTC/PC ngày 25/8/2020 về việc đính chính Công văn số 89/TANDTC/PC ngày 30/06/2020 Công văn số 199/TANDTC-PC ngày 18/12/2020 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong giải quyết phá sản Công văn 33/TANDTC/HTQT ngày 17/03/2021 về công tác tương trợ tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài Công văn 58/TANDTC/PC ngày 06/05/2021 xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo Công văn 64/TANDTC-HTQT ngày 10/06/2021 về việc ủy thác tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài Công văn 01/2021/GĐ-TANDTC ngày 01/7/2021 giải một số vấn đề nghiệp vụ về hòa giải, đối thoại tại tòa án Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử Công văn 156/TANDTC/PC ngày 13/09/2021 về việc ra quyết định thi hành án, theo dõi việc thi hành án hình sự Công văn 114/TANDTC-HTQT ngày 17/9/2021 V/v xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài Công văn 206/TANDTC/PC ngày 27/12/2022 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 555/NCPL Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 1986
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 555/NCPL NGÀY 13 THÁNG 5 NĂM 1986 HƯỚNG DẪN THỦ TỤC XÉT XỬ MỘT SỐ VIỆC TRANH CHẤP TRONG LAO ĐỘNG
Thi hành Quyết định số 10/HĐBT ngày 14-1-1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển sang Toà án nhân dân xét xử một số tranh chấp trong lao động, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động và Tổng cục dạy nghề đã ra Thông tư Liên ngành số 02/TTLN ngày 2-10-1985 hướng dẫn thi hành Quyết định nói trên.
Hiện nay, một số địa phương đã thụ lý một số việc tranh chấp trong lao động nhưng qua thực tế Toà án nhân dân tối cao thấy cần giải thích một số vấn đề sau đây:
1. Toà án nhân dân chỉ xét những khiếu nại của công nhân, viên chức bị thi hành kỷ luật buộc thôi việc. Do đó, đối với những khiếu nại của công nhân, viên chức về "cho thôi việc" vì không đủ tiêu chuẩn chính trị đối với công tác, vì vi phạm chính sách sinh đẻ có kế hoạch, vì giảm nhẹ biên chế hoặc vì có khuyết điểm mà cơ quan cho thôi việc... không thi hành kỷ luật hoặc buộc thôi việc thì Toà án nhân dân không thụ lý. Những việc này vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan thì Toà án giải thích, hướng dẫn cho họ gửi đơn đến yêu cầu các cơ quan quản lý có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Thông tư số 06/LĐ-TT ngày 5-6-1973 của Bộ Lao động.
2. Trong điểm 5 phần IV của Thông tư liên ngành số 02/TTLN có nói là: đối với những khiếu nại vì bị buộc thôi việc mà một bên là cơ quan xí nghiệp Nhà nước thì không phải hoà giải, vì thủ trưởng cơ quan, giám đốc xí nghiệp là người được Nhà nước giao cho quyền hành kỷ luật đối với công nhân viên chức có khuyết điểm nghiêm trọng, chứ không thể xuê xoa nhân nhượng đối với những trường hợp đó. Tuy nhiên về phương pháp làm trong trường hợp thủ trưởng cơ quan hoặc giám đốc xí nghiệp thi hành kỷ luật không đúng thì Toà án cũng cần giải thích cho thủ trưởng cơ quan hoặc giám đốc xí nghiệp rõ, vì kinh nghiệm cho thấy rằng nếu họ tự nguyện nhận lại người đã bị buộc thôi việc không đúng, thì việc giải quyết việc tranh chấp nhanh chóng, nhất là tránh được việc phải thi hành án thường là một công việc rất khó khăn, phức tạp.
3. Mặc dầu thủ trưởng cơ quan hoặc giám đốc xí nghiệp tham gia tố tụng với tư cách một bên là đương sự nhưng Toà án nhân dân không nên dùng các giấy triệu tập thông thường để triệu tập họ đến Toà án, mà nên dùng hình thức giấy mời để tránh những trường hợp những người này cho rằng họ không được Toà án tôn trọng về mặt chức vụ, do đó có phản ứng và làm cho việc tiến hành tố tụng sẽ khó khăn.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 951-NCPL Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 1986
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 951/NCPL NGÀY 30 THÁNG 7 NĂM 1986 VỀ VIỆC XIN HUỶ BỎ VIỆC NUÔI CON NUÔI
Hiện nay, ở một số nơi, Toà án nhân dân có nhận được đơn của cha mẹ nuôi xin huỷ bỏ việc nuôi con nuôi vì con nuôi đã trưởng thành nhưng không chịu lao động, trộm cắp nhiều lần, cha mẹ nuôi không giáo dục được hoặc con nuôi đã đánh chửi cha mẹ nuôi.
Pháp luật nước ta chưa quy định đầy đủ về việc huỷ bỏ việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, căn cứ vào yêu cầu giải quyết vấn đề này trong thực tế và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án nhân dân địa phương về vấn đề này như sau:
1. Việc nhận người khác làm con nuôi chỉ có ý nghĩa khi giữa cha mẹ nuôi với người con nuôi có quan hệ tình cảm gắn bó với nhau, cha mẹ nuôi phải thực hiện đúng đắn nghĩa vụ của mình với con nuôi và con nuôi phải kính trọng, yêu mến cha mẹ. Vì vậy, nếu tình cảm hai bên không còn nữa, cha mẹ nuôi đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ với con nuôi hoặc con nuôi đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ với cha mẹ nuôi thì Toà án có thể huỷ bỏ việc nuôi con nuôi.
2. Trong việc huỷ bỏ việc nuôi con nuôi cần chú ý là:
- Nếu người con nuôi chưa thành niên thì Toà án chỉ huỷ bỏ việc nuôi con nuôi theo Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình, tức là vì lợi ích của người con nuôi.
- Nếu người con nuôi đã thành niên thì ngoài việc huỷ bỏ việc nuôi con nuôi vì lợi ích của người con nuôi. Toà án còn có thể huỷ bỏ việc nuôi con nuôi vì lợi ích của cha mẹ nuôi. Ví dụ: Con nuôi đã đối xử tàn tệ với cha mẹ nuôi, hoặc con nuôi có khả năng lao động mà không chịu lao động, hoạt động phạm pháp v.v... trở thành một gánh nặng cho cha mẹ nuôi.
3. Khi xét xử việc xin huỷ bỏ việc nuôi con nuôi. Toà án có thể quyết định huỷ bỏ việc nuôi con nuôi hoặc bác đơn xin huỷ bỏ việc nuôi con nuôi. Nếu Toà án quyết định huỷ bỏ việc nuôi con nuôi mà người con nuôi có đóng góp vào khối tài sản chung của cha đình cha mẹ nuôi thì cần phải giải quyết đúng đắn cả phần tài sản của con nuôi trong phần tài sản chung của gia đình.
Trong quá trình giải quyết các việc xin huỷ việc nuôi con nuôi, nếu có gì mắc míu, đề nghị các đồng chí báo cáo cho Toà án nhân dân tối cao biết.
Nguyễn Thị Ngọc Khanh
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 03-TATC Hà Nội, ngày 22 tháng 10 năm 1987
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 03-TATC NGÀY 22 THÁNG 10 NĂM 1987
Hướng dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự
A- Tại Nghị quyết số 04-NQ/HĐTP ngày 29-11-1986 hướng dẫn việc phân biệt giữa thương tích và thương tích nặng, giữa tổn hại cho sức khoẻ với tổn hại nặng cho sức khoẻ (tại các Điều 109, 110 và 103 Bộ Luật Hình sự). Nghị quyết đã hướng dẫn rõ rằng "trước hết, cần xem xét nhiều mặt để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như: phương tiện, công cụ được sử dụng để gây thương tích, bộ phận của cơ thể bị trực tiếp xâm phạm, thương tích ban đầu, kết quả cứu chữa..."Xét riêng về mặt thương tích Nghị quyết có hướng dẫn: "Tỷ lệ thương tích từ 10% trở xuống, không gây cố tật, là thương tích nhẹ, chưa đến mức cầ thiết phải xử lý về hình sự người gây thương tích đó."
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy rằng việc không xử lý về hình sự mọi trường hợp cố ý gây thương tích có tỷ lệ phần trăm thương tật từ 10% trở xuống là không hợp lý. Sau khi đã trao đổi với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thêm về vấn đề này như sau:
Nếu nạn nhân được giám định xác định tỷ lệ phần trăm thương tật (còn gọi là tỷ lệ phần trăm mất sức lao động), hoặc nếu nạn nhân thực sự có bị thương tích hay bị tổn hại đến sức khoẻ mà nếu có giám định thì cũng chỉ được xác định tỷ lệ phần trăm thương tật từ 10% trở xuống, thì kẻ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau đây:
1. Dùng hung khí nguy hiểm (như dao, súng, v.v.) hoặc dùng thủ đoạn có thể gây nguy hại cho nhiều người. Đây là các trường hợp, việc nạn nhân chỉ thương tích nhẹ là ngoài ý muốn của kẻ phạm tội (thí dụ: kẻ phạm tội dùng dao nhọn đâm nạn nhân, nhưng nạn nhân tránh được nên chỉ bị thương tích nhẹ...).
2. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
3. Phạm tội đối với nhiều người cùng một lúc.
4. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.
5. Phạm tội đối với người chưa thành niên (trừ các trường hợp ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ con cái theo quy định của Điều 147 Bộ luật hình sự), người già, phụ nữ đang có thai, người ở tình trạng không thể tự vệ được.
6. Phạm tội có tổ chức; phạm tội có đông người tham gia (trừ các trường hợp bị xử lý về tội gây rối trật tự công cộng theo quy định của Điều 198 Bộ luật hình sự).
7. Phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù, đang bị tạm giam về việc phạm tội, đang bị tập trung cải tạo.
8. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
9. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Trong các trường hợp 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 kẻ phạm tội bị xử phạt theo khoản 1 Điều 109 Bộ Luật Hình sự.
Trong các trường hợp 8, 9 kẻ phạm tội bị xử phạt theo khoản 2 Điều 109 Bộ Luật Hình sự. Kẻ dùng vũ lực chống người thi hành công vụ mà không gây thương tích hoặc không gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân hay gây thương tích không đáng kể, gây tổn hại không đáng kể cho sức khoẻ của nạn nhân, thì bị xử phạt theo Điều 205 Bộ Luật Hình sự về tội chống người thi hành công vụ.
B- Nghị quyết số 04-NQ/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nêu rằng: "Sự phân biệt mức độ thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cần phải dựa vào kết luận của giám định pháp y và khi cần thiết, dựa cả vào kết luận của bác sĩ điều trị". Việc giám định để xác định tỷ lệ phần trăm thương tật của nạn nhân là rất cần thiết đối với việc giải quyết các vụ án về gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có điều kiện tiến hành giám định thương tật trong mọi trường hợp, ở mọi nơi. Cho nên, tạm thời không nhất thiết phải có kết luận của giám định pháp y trong các trường hợp sau đây:
a) Do bị gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ mà nạn nhân đã bị thương tật như đã được liệt kê ở 4 điểm Thông tư Liên bộ số 32-TTLB ngày 27-11-1985 của Bộ Y tế- Bộ Lao động- Thương Binh và Xã hội quy định về tiêu chuẩn thương tật 4 hạng (mới) và hướng dẫn cách chuyển đổi từ các hạng thương tật cũ, cách khám giám định thương tật theo các hạng thương tật mới (văn bản này có ở tất cả các cơ quan y tế địa phương, đã được in trong tập san Toà án nhân dân số 6). Thí dụ: Một người bị đâm vào bụng, khi được cấp cứu, đã bị cắt bỏ lá lách. Đối chiếu với Thông tư nói trên thì nạn nhân được xác định tỷ lệ phần trăm thương tật là 30% đến 50%. Đối với trường hợp này không cần phải giám định cũng có thể truy tố, xét xử kẻ phạm tội theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự, vì việc cắt bỏ lá lách, một bộ phận quan trọng của cơ thể, được coi là bị cố tật nặng. Một thí dụ khác: Một người bị làm điếc một tai. Đối chiếu với Thông tư nói trên thì nạn nhân được xác định tỷ lệ phần trăm thương tật là từ 21% đến 25%. Đối với trường hợp này không cần phải giám định cũng có thể truy tố, xét xử kẻ phạm tội theo khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự.
b) Thương tích của nạn nhân thuộc loại thương tích nặng (nghĩa là loại thương tích mà nếu không được cứu chữa kịp thời thì nạn nhân sẽ bị thiệt mạng hoặc bị tổn hại nặng đến sức khoẻ), do được cứu chữa kịp thời nên nạn nhân không bị tổn hại nặng đến sức khoẻ, thí dụ: một người bị dao găm đâm thủng bụng, tuy không bị thương các cơ quan nội tạng, nhưng phải mổ bụng để vét máu trong ổ bụng; sau khi được cấp cứu và điều trị thì sức khoẻ không bị tổn hại đáng kể. Đối với trường hợp này, không cần phải giám định cũng có thể truy tố, xét xử kẻ phạm tội theo khoản 2 Điều 109 Bộ Luật Hình sự.
Trong các trường hợp này chứng nhận của cơ quan y tế và các tài liệu khác xác nhận về thương tích ban đầu của nạn nhân và tình hình thực tế về sức khoẻ của nạn nhân sau khi bị gây thương tích, bị gây tổn hại đến sức khoẻ là căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự của kẻ phạm tội.
c) Nạn nhân bị gây cố tật nặng, mặc dù sức khoẻ không bị tổn hại đáng kể (thí dụ: nạn nhân bị làm hỏng nặng diện mạo nhưng sức khoẻ không bị giảm sút đáng kể).
d) Phạm tội thuộc các trường hợp đã được nêu ở mục A.
Trên đây là hai vấn đề hướng dẫn sử dụng bổ sung để kịp thời giải quyết tốt các vụ án về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Toà án các cấp cần lưu ý thông báo công văn này cho các cơ quan công an và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để các cơ quan bạn phối hợp áp dụng.
Phạm Hưng
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 785/HS Hà Nội, ngày 17 tháng 09 năm 1987
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC XỬ LÝ CÁC TỘI PHẠM GÂY THIỆT HẠI CHO CÁC CÔNG TRÌNH, PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI, THÔNG TIN LIÊN LẠC, HỆ THỐNG TẢI ĐIỆN, DẪN CHẤT ĐỐT
Trong mấy năm gần đây tình hình phạm tội gây thiệt hại cho các công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống tải điện, dẫn chất đốt… chưa có chiều hướng giảm bớt, thậm chí có nơi, có lúc lại xảy ra nghiêm trọng hơn, có nhiều vụ đã gây ra thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng.
Tòa án nhân dân tối cao hàng năm đã nhắc nhở các Tòa án địa phương về việc cần đặc biệt quan tâm xét xử thật tốt các vụ án về loại tội phạm này. Nhiều Tòa án đã xét xử tốt, nghiêm trị đúng mức kẻ phạm tội, góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều trường hợp xét xử chưa tốt, xử sai, xử phạt quá nhẹ, áp dụng điều luật không đúng… Thí dụ: một số kẻ phạm tội vì những động cơ khác nhau đã đặt chướng ngại vật trên đường sắt, làm đổ tàu hỏa, nhưng chỉ bị kết án và bị xử phạt nhẹ về tội cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 187 Bộ luật hình sự, trong khi đó đáng lẽ bọn này phải bị phạt nặng về tội phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia theo Điều 94 Bộ luật hình sự. Một số kẻ cắt trộm dây điện thọai thuộc trường hợp phải bị phạt trên 10 năm tù, thì lại chỉ bị phạt năm năm tù!
Ngày 13-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đã gửi điện số 89/A7 chỉ thị cho các cơ quan bảo vệ pháp luật về việc xét xử nhanh chóng, xét xử công khai và xử thật nặng một số trường hợp phạm tội gây thiệt hại cho các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Nắm vững tinh thần của chỉ thị này các Tòa án địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Công an và Viện kiểm sát nhân dân xét xử thật tốt các vụ án về loại tội phạm này. Sau khi xét xử cần nhanh chóng đưa tin tức về kết quả xét xử trên báo chí, thông qua các cơ quan thông tin, tuyên truyền khác nhằm đề cao tác dụng giáo dục và phòng ngừa.
Để tránh các sai sót về định tội, các Tòa án địa phương cần nắm vững hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về tội “phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” về sự phân biệt giữa tội phạm này với các tội phạm khác như “phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” (Điều 79 BLHS), “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa” (Điều 138 BLHS), “cản trở giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 189 BLHS) (xem Nghị quyết số 04-NQ/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự).
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 42/1998/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 1998
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 42/1998/KHXX NGÀY 21 THÁNG 4 NĂM 1998 VỀ VIỆC NGƯỜI BỊ HẠI VẮNG MẶT TẠI PHIÊN TOÀ PHÚC THẨM
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước
Sau khi nghiên cứu Công văn số 20/CVTA ngày 6-3-1998 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tại Khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên toà. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt; trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên toàn".
Theo quy định trên thì nếu người bị hại có kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt có lý do chính đáng (do ốm đau, do bị tai nạn hay gặp rủi ro khác mà không thể có mặt tại phiên toà phúc thẩm được), Toà án có thể xử vắng mặt người bị hại, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho họ; trong trường hợp Toà án thấy có thể ra bản án, quyết định theo hướng không có lợi cho người bị hại vắng mặt, thì phải hoãn phiên toà. Nếu người bị hại đã được triệu tập hợp lệ, không gặp khó khăn, trở ngại đến mức không thế có mặt theo giấy triệu tập được, mà cố tình vắng mặt, thì Toà án có quyền xét xử vắng mặt người bị hại, kể cả việc ra bản án, quyết định không có lợi cho họ.
Bản án phúc thẩm có lợi cho người bị hại có kháng cáo là bản án, quyết định theo hướng chấp nhận một phần hoặc toàn bộ kháng cáo của người bị hại, xử tăng hình phạt, tăng bồi thường đối với bị cáo, huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng có lợi cho người bị hại. Trường hợp bản án phúc thẩm Quyết định bác toàn bộ kháng cáo của người bị hại, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm không bị coi là trường hợp ra bản án không có lợi cho người bị hại.
Trong trường hợp nêu tại Công văn của Quý Toà, người bị hại kháng cáo đã ba lần được triệu tập tham gia phiên toà nhưng cả ba lần đều vắng mặt không rõ lý do và chính quyền địa phương xác nhận rằng họ đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, cần được coi là trường hợp người bị hại vắng mặt không có lý do chính đáng, cố tình vắng mặt tại phiên toà. Vì vậy, trong trường hợp này Toà án cấp phúc thẩm có quyền xét xử vắng mặt người bị hại, kể cả việc ra bản án, quyết định không có lợi cho họ.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 32/TK Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 1989
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC HOÃN PHIÊN TÒA TRONG TRƯỜNG HỢP VẮNG MẶT NGƯỜI BÀO CHỮA
Tòa án nhân dân tối cao trả lời công văn số 153 ngày 20-2-1989 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa hỏi về việc hoãn phiên tòa do vắng mặt người bào chữa cho bị cáo bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức án tử hình như sau:
Tại khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự.
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Trong những trường hợp quy định tại điểm a và điểm b, khoản 2 này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa”.
Căn cứ vào điều khoản trên của Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án cần phân biệt hai trường hợp sau:
1. Nếu bị cáo không nhờ người bào chữa, đồng thời từ chối việc Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ, thì Tòa án lập biên bản, có chữ ký của bị cáo, hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo, để vào hồ sơ vụ án và tiến hành phiên tòa xét xử bình thường.
2. Trường hợp bị cáo không nhờ người bào chữa nhưng không từ chối việc Đoàn luật sư cử người bào chữa, thì Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư, hoặc Sở Tư pháp (nếu địa phương chưa có Đoàn luật sư) cử người bào chữa cho bị cáo. Nếu đã trao đổi, nhưng vẫn không có người bào chữa, hoặc người bào chữa vắng mặt mà không gửi bản bào chữa cho Tòa án, thì Hội đồng xét xử hỏi lại bị cáo có yêu cầu có người bào chữa không, nếu bị cáo vẫn yêu cầu thì phải hoãn phiên tòa như quy định ở Điều 165 Bộ luật tố tụng hình sự; nếu bị cáo không yêu cầu nữa, thì vẫn tiến hành xét xử bình thường.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 38/NCPL Hà Nội, ngày 04 tháng 03 năm 1989
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC GHI HỌ VÀ TÊN HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ
Một số Tòa án có hỏi Tòa án nhân dân tối cao về việc phải ghi họ và tên hội thẩm nhân dân trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Về vấn đề này Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau: Theo Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự thì sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, phải mở phiên tòa trong thời hạn 15 ngày. Theo điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ họ và tên hội thẩm nhân dân. Qua các quy định này chúng ta có thể thấy là Bộ luật tố tụng hình sự muốn nhấn mạnh việc dành thời gian cần thiết cho hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị cho việc tham gia xét xử tại phiên tòa một cách thiết thực.
Theo Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự thì quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Theo tinh thần của quy định này thì khi biết rõ ai sẽ là hội thẩm nhân dân tại phiên tòa bị cáo có thể sử dụng quyền được đề nghị thay đổi hội thẩm nhân dân (Điều 28 và điều 34 BLTTHS), và nếu đề nghị đó được chấp nhận thì Tòa án kịp thời thay thế bằng hội thẩm nhân dân khác trước ngày xét xử đã định trong quyết định đưa vụ án ra xét xử để khỏi phải hoãn phiên tòa.
Nếu phải thay đổi hội thẩm nhân dân trước khi mở phiên tòa vì đề nghị thay đổi hội thẩm nhân dân được chấp nhận hoặc vì lý do nào đó mà hội thẩm nhân dân không tham gia được phiên tòa vào ngày đã định, thì Tòa án mời hội thẩm nhân dân khác tham gia phiên tòa và thông báo ngay về sự thay đổi đó cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó mà chỉ khi mở phiên tòa rồi bị cáo mới được biết họ và tên hội thẩm nhân dân mới do có sự thay đổi hội thẩm nhân dân, thì việc này cũng không phải là lý do buộc Tòa án phải hoãn xét xử, phiên tòa vẫn được tiến hành bình thường và bị cáo vẫn có quyền đề nghị thay đổi hội thẩm nhân dân mới đó giống như trường hợp tại phiên tòa bị cáo mới đề nghị thay đổi hội thẩm nhân dân.
Nếu có hội thẩm nhân dân dự bị thì họ và tên hội thẩm nhân dân dự bị cũng cần ghi rõ trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 48/VP Hà Nội, ngày 16 tháng 03 năm 1989
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC XÉT XỬ HÀNH VI CẮT PHÁ ĐƯỜNG DÂY THÔNG TIN LIÊN LẠC
Trong mấy tháng gần đây, tình hình cắt phá đường dây thông tin liên lạc ở các địa phương nhất là các tỉnh biên giới phía bắc, đặc biệt là hệ thống thông tin đường sắt xảy ra khá nhiều, tính chất nghiêm trọng, gây hậu quả rất lớn về thông tin liên lạc trong chỉ huy, chỉ đạo sản xuất và chiến đấu.
Hầu hết những vụ xảy ra là do các phần tử tham lam tư lợi, cắt phá đường dây thông tin liên lạc để lấy nhôm, đồng, nhưng không loại trừ phần tử xấu hoạt động phá hoại.
Đây là loại tài sản đặc biệt thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia, đòi hỏi phải được bảo vệ thật nghiêm ngặt. Việc xử lý không nên chỉ nhận xét đánh giá về thiệt hại vật chất gây ra với số lượng ít mà cần nhận rõ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội để có thái độ xử lý thật nghiêm khắc loại tội phạm này trong tình hình hiện nay nhằm ngăn chặn có hiệu quả tội phạm. Việc xét xử không những chỉ xử lý những kẻ trực tiếp cắt phá mà cần xử lý nghiêm khác cả những kẻ chứa chấp, tiêu thụ chuyên nghiệp, lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được giáo dục nhưng không chịu sửa chữa. Cần lưu ý Điều 94 Bộ luật hình sự được áp dụng để xử lý những trường hợp phạm tội do động cơ tư lợi, còn nếu có mục đích chống chính quyền mà phạm tội thì phải trừng trị theo Điều 79 Bộ luật hình sự.
Để thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Quốc hội về công tác an ninh, trật tự an toàn xã hội, yêu cầu đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố đặc khu trực thuộc Trung ương, Tòa án quân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các ngành nội chính, các bộ chỉ huy quân sự các địa phương và ngành đường sắt theo dõi nắm tình hình loại tội phạm này ở các địa phương, nhanh chóng phát hiện tội phạm để lập hồ sơ và kịp thời đưa ra xét xử nghiêm minh theo tinh thần Hội nghị tổng kết công tác toàn ngành năm 1988 vừa qua. Cần mở các phiên tòa điển hình để xét xử bọn tội phạm này và sau khi xét xử có kế hoạch thông báo kịp thời bằng các phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục và ngăn ngừa chung.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 93/HS Hà Nội, ngày 22 tháng 02 năm 1989
CÔNG VĂN
VỀ THỦ TỤC CHO NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG XEM BIÊN BẢN PHIÊN TÒA
Một số Tòa án hỏi Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục cho những người tham gia tố tụng xem biên bản phiên tòa, Tòa án nhân dân tối cao trả lời vấn đề này như sau:
Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự về biên bản phiên tòa có quy định rằng “Bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của những người đó, được xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận”.
Cần hiểu rằng đây là quyền của những người tham gia tố tụng nói trên được xem biên bản phiên tòa sau khi đã kết thúc phiên tòa, chứ không phải là trong quá trình tiến hành phiên tòa; cho nên, nếu tại phiên tòa mà họ xin được xem biên bản phiên tòa, thì Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu đó của họ. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử có thể chỉ chấp nhận yêu cầu của người tham gia tố tụng được nghe lại một lời khai nào đó, một tài liệu nào đó đã được ghi vào biên bản phiên tòa.
Sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa cần tranh thủ kiểm tra ngay biên bản phiên tòa và cùng với thư ký phiên tòa ký tên vào biên bản đó.
Sau khi chủ tọa phiên tòa và thư ký phiên tòa đã ký tên để xác nhận biên bản phiên tòa, nếu có yêu cầu được xem biên bản phiên tòa, thì Tòa án tạo điều kiện cho người có yêu cầu sớm được xem biên bản đó, chậm nhất là trong thời gian 15 ngày sau khi tuyên án.
Người tham gia tố tụng có thể tự đến trụ sở của Tòa án thì được xem biên bản phiên tòa tại trụ sở của Tòa án dưới sự giám sát của cán bộ Tòa án, tốt nhất là của thư ký đã ghi biên bản phiên tòa.
Đối với bị cáo đang bị giam giữ, Tòa án có thể cho họ xem biên bản phiên tòa tại trại giam hoặc đề nghị trại giam dẫn giải họ đến trụ sở của Tòa án để Tòa án cho họ xem biên bản phiên tòa.
Sau khi người được xem biên bản phiên tòa đã xem xong biên bản đó, cần lập biên bản với nội dung là họ đã yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung gì vào biên bản phiên tòa, nếu họ không có yêu cầu gì thì cũng phản ánh vào biên bản.
Trong phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm không có điều khoản nào quy định về việc cho xem biên bản phiên tòa như quy định về việc cho xem biên bản phiên tòa sơ thẩm, nhưng Tòa án có thể giải quyết cho xem biên bản phiên tòa phúc thẩm như cho xem biên bản phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, đối với bị cáo bị giam giữ ở trại giam xa trụ sở của Tòa án, thì không nhất thiết phải tổ chức cho họ xem biên bản phiên tòa phúc thẩm.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 02/CT-TATC Hà Nội, ngày 19 tháng 03 năm 1990
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC XÉT XỬ NGHIÊM ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẮT PHÁ DÂY ĐIỆN
Trong những tháng đầu năm 1990 tình hình cắt phá hệ thống dây thông tin liên lạc và hệ thống tải điện tiếp tục xảy ra nhiều và nghiêm trọng. Theo báo cáo của Xí nghiệp liên hiệp vận tải đường sắt khu vực một, chỉ trong tháng 2-1990 riêng hệ thống thông tin đường sắt ở phía Bắc đã xảy ra 161 vụ, cắt phá 73.600m dây điện thoại phục vụ thông tin đường sắt, tăng 1,7% so với tháng 1-1990.
Để tích cực ngăn chặn tình hình phạm tội nghiêm trọng như trên, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp phối hợp với các cơ quan điều tra, truy tố, khẩn trương đưa ra xét xử trừng phạt thật nghiêm khắc đúng pháp luật những tên tội phạm nguy hiểm và những tên tội phạm đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Phiên tòa cần được tổ chức ngay tại địa bàn gây án hoặc nơi mà hành vi cắt phá đang xảy ra nhiều, phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương và Trung ương đưa tin kịp thời để đề cao tác dụng răn đe và phát động quần chúng tham gia đấu tranh chống loại tội phạm nghiêm trọng này.
Nhận được Chỉ thị này Tòa án các cấp cần triển khai ngay, đồng thời báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao (phòng tổng hợp thuộc Văn phòng Tòa án nhân dân tối cao) kết quả thụ lý, xét xử loại tội này trong 3 tháng đầu năm 1990, để Tòa án nhân dân tối cao có cơ sở theo dõi, chỉ đạo.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 101/NCPL Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 1990
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 101/NCPL NGÀY 7 THÁNG 5 NĂM 1990 VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Khoản 3 Điều 31 Pháp lệnh quy định là “Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải, các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc chịu án phí. Nếu họ không thoả thuận được thì Toà án quyết định mức án phí và người phải chịu án phí”, nhưng khoản 4 Điều này lại quy định là “nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, Điều 46 Pháp lệnh này thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước". Vậy quyết định án phí trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải thành được thì giải quyết như thế nào?
Án phí là vấn đề khá phức tạp nên sẽ được quy định cụ thể ở một văn bản riêng như Điều 30 Pháp lệnh đã quy định là "Hội đồng Bộ trưởng phối hợp với Toà án nhân dân tối cao quy định chế độ án phí". Trong Pháp lệnh chỉ mới quy định một số nguyên tắc về án phí. Thí dụ: khoản 4 Điều 31 chỉ nêu nguyên tắc là "nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước", nhưng chưa xác định rõ về mặt định lượng là sung một phần hay toàn bộ số tiền tạm ứng án phí, và cũng chưa giải quyết trường hợp nếu đương sự chưa nộp một phần hoặc toàn bộ số tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Pháp lệnh thì giải quyết vấn đề án phí như thế nào nếu họ không được miễn án phí... Vì vậy, việc áp dụng các quy định của Pháp lệnh cần được đặt trong mối liên hệ với các quy định và hướng dẫn có liên quan. Hiện nay, trong khi chưa có những quy định mới về chế độ án phí thì các Toà án vẫn thực hiện theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về cách tính án phí tại Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 và về mức thu án phí đã được sửa đổi tại Thông tư số 02/NCPL ngày 28-2-1989.
2. Trong trường hợp người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án thông báo hợp lệ việc phải nộp số tiền đó thì Toà án cấp sơ thẩm có phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm không? Nếu đương sự nộp đơn kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì giải quyết như thế nào?
Để thực hiện các quy định tại các Điều 31, 59, 66 của Pháp lệnh, các Toà án cần chú ý là:
Nếu người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án cấp sơ thẩm thông báo hợp lệ số tiền phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả của việc không nộp, thì coi như đương sự không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc thông báo đó.
Nếu đương sự kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra đầy đủ lý do của việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá
hạn và gửi báo cáo kèm theo hồ sơ vụ án lên Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn.
3. Khi quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời bị khiếu nại hay kiến nghị theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời bằng hình thức ra quyết định hay công văn trả lời?
Qua xem xét nếu thấy cần thiết phải sửa đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được thẩm phán quyết định thì Chánh án Toà án ra quyết định; còn nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được thẩm phán quyết định là đúng, thì Chánh án Toà án chỉ cần có công văn trả lời. Quyết định hoặc công văn trả lời của Chánh án Toà án giải quyết việc khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được gửi cho các đương sự có liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.
4. Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn như thế nào?
Thủ tục hoà giải quy định tại Điều 44 Pháp lệnh được áp dụng cho cả trường hợp giải quyết việc thuận tình ly hôn. Cụ thể là: theo quy định tại Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình thì hoà giải là một thủ tục bắt buộc khi cả hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn. Do đó, nếu Toà án đã hoà giải đoàn tụ nhưng hai bên đương sự vẫn kiên quyết xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn và gửi ngay bản sao biên bản này cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát phản đối việc thuận tình ly hôn đó, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn và quyết định này có hiệu lực pháp luật.
5. Điều 45 Pháp lệnh quy định là: “Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án...” vậy ai là người có thẩm quyền ra quyết định đó và nếu quyết định đó bị khiếu nại thì giải quyết như thế nào?
Điều 45 Pháp lệnh đã quy định cụ thể các trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, do đó, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên toà; còn tại phiên toà thì hội đồng xét xử ra quyết định đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Pháp lệnh thì quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm sẽ xét kháng cáo, kháng nghị, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm theo thủ tục quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh. Còn quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp phúc thẩm cũng như các quyết định khác của Toà án cấp phúc thẩm đều là chung thẩm có hiệu lực thi hành; nếu có khiếu nại hoặc kháng nghị sẽ được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.
Khi giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án cần lưu ý như sau: vì việc tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là việc chấm dứt việc giải quyết vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án lại tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án, cho nên ngay sau khi nhận được kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ cần kiểm tra lại việc tạm đình chỉ của mình để: nếu cho rằng việc tạm đình chỉ là đúng thì chuyển
ngay hồ sơ vụ án lên Toà án cấp trên để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; còn nếu thấy việc tạm đình chỉ là không đúng hoặc lý do của việc tạm đình chỉ đã hết, thì cần tiến hành ngay việc tiếp tục giải quyết vụ án và báo cho người đã kháng cáo, cho Viện kiểm sát đã kháng nghị biết để rút kháng cáo, kháng nghị nhằm khỏi phải giải quyết việc xem xét kháng cáo, kháng nghị ở Toà án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm một cách không cần thiết.
6. Đối với các quyết định công nhận việc hoà giải thành trước khi Pháp lệnh có hiệu lực thi hành mà có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có áp dụng thủ tục mới quy định tại các Điều 66, 70 của Pháp lệnh để giải quyết hay không?
Đối với các quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, công nhận việc thuận tình ly hôn trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không áp dụng thủ tục không mở phiên tòa theo quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh, mà vẫn phải mở phiên toà xét xử theo thủ tục đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trước khi có Pháp lệnh này.
7. Một số Toà án đề nghị giải thích rõ việc thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thì thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu "đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm", nếu "đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án".
Nên hiểu tinh thần của các quy định trên đây như sau:
- Thẩm phán đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia xét xử vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác. (Thí dụ: đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh), trừ trường hợp các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vẫn tham gia xét xử ở Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Pháp lệnh có quy định là các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng không quy định việc các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này
có nghĩa là: nếu Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh huỷ bỏ bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện và giao vụ án cho Toà án cấp huyện xét xử lại, mà việc xét xử sơ thẩm này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh không có quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cùng một vụ án đó một lần nữa, còn Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì cũng không có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp huyện vì theo quy định của khoản 2 Điều 74 và của Điều 81 Pháp lệnh thì Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh. Để tránh tình trạng này, có thể là khi huỷ bán án, quyết định của Toà án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án cấp tỉnh nên giữ vụ án lại ở Toà án cấp tỉnh để xét xử theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở cấp Toà án này không được tham gia xét xử vụ án đó ở cấp Toà án khác. Tuy nhiên, thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở một cấp Toà án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Toà án, bởi lẽ thẩm phán xét xử vụ án ở một Toà án thông thường chính là người đã tiến hành điều tra, hoà giải trước khi xét xử vụ án đó.
- Thư ký Toà án đã tham gia tiến hành tố tụng ở một cấp Toà án không được tham gia tố tụng với tư cách là thẩm phán ở cấp xét xử khác. Tuy nhiên, thư ký Toà án sau khi được bầu làm thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp Toà án mặc dù trước đó đã tham gia tố tụng với tư cách là thư ký Toà án trong giai đoạn điều tra, hoà giải;
- Người đã tham gia tố tụng với tư cách là kiểm soát viên, giám định viên, người phiên dịch trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia tố tụng đối với cùng một vụ án với tư cách là thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào và ở bất cứ cấp Toà án nào.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 08/CT-TATC Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 1990
CÔNG VĂN
VỀ ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ MỘT SỐ TỘI PHẠM PHỤC VỤ CHỈ THỊ 416-CT NGÀY 3-12-1990 CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐIỀU TRA, THANH TRA, XỬ LÝ CÁC VIỆC THAM NHŨNG VÀ BUÔN LẬU
Trong thời gian vừa qua trong việc triển khai chống tham nhũng, chống buôn lậu qua biên giới và một số loại tội phạm kinh tế khác, các cơ quan bảo vệ pháp luật của Trung ương và các địa phương đã có những cố gắng nhất định. Tuy nhiên, diễn biến của tình hình phạm tội trong thời gian vừa qua, cũng như những con số thống kê về điều tra, truy tố, xét xử cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm này chưa được khẩn trương như Nhà nước và nhân dân mong muốn (Thí dụ: Cho đến nay con số những vụ buôn lậu trái phép thuốc lá điếu của nước ngoài, buôn bán kim loại màu trái phép v.v… đã được truy tố và xét xử còn rất thấp, mặc dù các loại hành vi phạm tội này đã và đang xảy ra rất nghiêm trọng); còn nhiều trường hợp xử lý chưa nghiêm khắc đứng mực, nhất là các trường hợp có gây thiệt hại lớn hoặc rất lớn đến tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của công dân, các trường hợp phạm tội mà hàng phạm pháp có số lượng lớn hoặc rất lớn…
Để góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu và một số loại tội phạm kinh tế, Tòa án nhân dân tối cao lưu ý các Tòa án các cấp một số vấn đề như sau:
1. Việc cần thiết phải khẩn trương trong tất cả các khâu của quá trình tố tụng (khởi tố, điều tra, truy xét, xét xử) đã được nhấn mạnh trong Thông tư liên ngành của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp bà Bộ Nội vụ số 11/TTLN ngày 20-11-1990 hướng dẫn việc xử lý một số loại tội phạm. Các Tòa án các cấp cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cùng cấp để khẩn trương giải quyết các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, nhất là đối với các vụ án đã được xác định là các vụ án trọng điểm. Các Tòa án cần nắm vững Thông tư liên ngành số 10/TTLN ngày 25-10-1990 hướng dẫn một số vấn đề cấp bách về tín dụng, Thông tư liên ngày số 8/TTLN ngày 18/9/1990 hướng dẫn việc xử lý các hành vi nhập khẩu trái phép, buôn bán thuốc lá điếu của nước ngoài và Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20-11-1990 hướng dẫn xử lý một số loại tội phạm.
2. Về đường lối xét xử:
a) Theo Điểm 3 Thông tư số 10/TTLN ngày 25-10-1990 nói trên thì các Tòa án cấp huyện được xét xử các vụ án có liên quan đến tín dụng và chơi hụi (họ) về các tội phạm được quy định tại các điều 134, 135, 137, 157, 158, 174 Bộ luật hình sự trong các trường hợp thiệt hại đã gây ra là dưới 20 triệu đồng. Việc giao thẩm quyền này chỉ là tạm thời và cũng chỉ đối với 6 loại tội phạm nói trên có liên quan đến tín dụng hoặc chơi hụi (họ). Đối với các loại tội phạm nói trên nhưng
không liên quan đến tín dụng hoặc chơi hụi (họ), cũng như đối với các hành vi chiếm đoạt khác, thì mức thiệt hại về tài sản để coi là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng (chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn) vẫn là 5 tấn gạo và phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (chiếm đoạt tài sản với số lượng rất lớn) vẫn là 15 tấn gạo.
b) Các Tòa án cấp huyện khi xét xử các tội phạm có liên quan đến tín dụng hoặc chơi hụi (họ) đã được nêu tại điểm 3 Thông tư số 10/TTLN ngày 25-10-1990 cần quyết định đối với kẻ phạm tội mức hình phạt cao trong khung hình phạt mà Tòa án được áp dụng (khoản 1 điều 134, khoản 1 điều 135, điều 137, khoản 1 điều 157, khoản 1 điều 158, khoản 1 điều 174) trong các trường hợp gây thiệt hại về tài sản có giá trị tương đương với từ 5 tấn gạo trở lên đến dưới 20 triệu đồng.
c) Đối với các trường hợp chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, chiếm đoạt tài sản của công dân và các trường hợp gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa mà tài sản bị chiếm đoạt, bị gây thiệt hại có giá trị tương đương từ 50 triệu đồng trở lên, thì cần quyết định đối với kẻ phạm tội mức hình phạt cao trong khung hình phạt. Trong các trường hợp này thì dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ cũng không quyết định đối với kẻ phạm tội mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Trong trường hợp toàn bộ thiệt hại về tài sản đã được khắc phục trước khi xét xử và có nhiều tình tiết giảm nhẹ khác thì có thể áp dụng khoản 3 điều 38 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng không được quyết định hình phạt quá thấp, không được cho hưởng án treo.
d) Đối với các trường hợp gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên mà thiệt hại về tài sản chưa được khắc phục đáng kể, thì cần quyết đinh đối với kẻ phạm tội mức hình phạt tù có thời hạn cao nhất của khung hình phạt. Trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì cần quyết định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình nếu điều luật có quy định hai loại hình phạt đó.
đ) Đối với các trường hợp buôn bán hàng cấm, đầu cơ, buôn lậu qua biên giới mà hàng phạm pháp có số lượng lớn hoặc rất lớn, hàng phạm pháp là lương thực, kim loại màu, xăng dầu, hoặc có sử dụng vàng vào việc phạm tội, đưa hối lộ và nhận hối lộ mà của hối lộ có giá trị lớn hoặc rất lớn, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì cần quyết định đối với kẻ phạm tội mức hình phạt cao trong khung hình phạt.
e) Tinh thần chung là cần trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội gây thiệt hại lớn đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Qua việc xét xử các vụ án nếu phát hiện có kẻ vi phạm pháp luật có liên quan đến vụ án nhưng chưa bị xử lý về hình sự thì cần khởi tố để xử lý về hình sự theo quy định chung của pháp luật, đặc biệt là đối với những kẻ đã gây thiệt hại lớn đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 169-TATC Hà Nội, ngày 26 tháng 7 năm 1990
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 169-TATC NGÀY 26 THÁNG 7 NĂM 1990 VỀ VIỆC TOÀ ÁN PHỤC VỤ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG
Thi hành Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 240 ngày 26-6-1990 về đấu tranh chống tham nhũng, nhằm tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Toà án các cấp cần phối hợp với các ngành trong khối Nội chính, từ kết quả thanh tra, kiểm tra và sự tố giác của quần chúng kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, trừng phạt nghiêm khắc theo đúng pháp luật của các hành vi phạm tội "cố ý làm trái..., tham ô, hối lộ, trộm cắp tài sản của Nhà nước..." kẻ phạm tội là cán bộ có chức có quyền mức độ thoái hoá biến chất càng nặng, hậu quả về vật chất do tội phạm gây ra càng lớn thì mức hình phạt càng phải nghiêm. Phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật khi áp dụng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, chỉ áp dụng đối với những trường hợp ít nghiêm trọng, hậu quả vật chất gây ra không lớn, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, hành vi phạm tội cũng không gây ra sự căm phẫn, bất bình trong nhân dân.
Khi xét xử những vụ án thuộc loại này, nhất là những vụ có nhiều bị cáo là cán bộ có chức, có quyền, Toà án phải cử những thẩm phán có kinh nghiệm, có bản lĩnh và kiến thức pháp luật vững vàng, đảm bảo giữ vững nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", đề phòng sự can thiệp không đúng hoặc tiêu cực chen vào làm cho việc xét xử bị sai lệch. Trong trường hợp có sự chỉ đạo hoặc tác động không đúng của cơ quan hoặc cán bộ lãnh đạo làm cho Toà án gặp khó khăn, khó đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội thì cần báo cáo để Toà án nhân dân tối cao xem xét, hướng dẫn. Khi xét xử cần chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí, đài phát thanh của địa phương và Trung ương (phóng viên thường trú tại địa phương) để đưa tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài việc đưa tin xét xử, cần phân tích những sơ hở hoặc những việc làm sai trái của cơ quan, xí nghiệp, tổ chức xã hội đã là những nguyên nhân hoặc điều kiện gây ra tội phạm để giáo dục, phòng ngừa chung.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, các cấp Toà án cần có sự rà soát, chấn chỉnh về tổ chức cán bộ, không để những người có vi phạm về phẩm chất, đạo đức, vi phạm pháp luật làm công tác xét xử. Phát hiện và xử lý kịp thời các cán bộ Toà án sa sút phẩm chất, ăn hối lộ, nhận quà cáp biếu xén của đương sự, hoặc vì vụ lợi, nể nang mà xét xử sai. Cán bộ có vi phạm cần xử lý nghiêm minh tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật hành chính hoặc truy tố trước pháp luật, không để chậm trễ, kéo dài.
Việc chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 8 của Trung ương nên hàng tháng các Toà án cần thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo tình hình và kết quả công tác xét xử của Toà án. Đối với những vụ nghiêm trọng đã được phát hiện công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, vụ việc
thuộc địa phương nào Toà án địa phương cần báo cáo ngay cho Toà án nhân dân tối cao biết sự tham gia phối hợp của Toà án với các ngành nội chính địa phương. Khi thụ lý hồ sơ, cần báo sơ bộ nội dung vụ án hoặc gửi cho Toà án tối cao một bản cáo trạng để Toà án nhân dân tối cao theo dõi. Sau khi xét xử cần báo ngay kết quả phiên toà để Toà án tối cao có tài liệu báo cáo Ban Bí thư, Hội đồng Nhà nước và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng.
Phạm Hưng
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 40-NCPL Hà Nội, ngày 06 tháng 5 năm 1991
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 40-NCPL NGÀY 6 THÁNG 5 NĂM 1991 HƯỚNG DẪN VIỆC XÉT XỬ TỘI LÀM TIỀN GIẢ
Trong thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều vụ làm tiền Việt Nam giả, lưu hành tiền Việt Nam giả, trong đó có những vụ có tính chất đặc biệt nghiêm trọng cho nền kinh tế của đất nước. Để góp phần đấu tranh có hiệu quả chống loại tội phạm này, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án các cấp một số điểm như sau:
1. Các trường hợp sau đây bị coi là "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" theo khoản 2 Điều 98 Bộ Luật Hình sự:
- Làm tiền giả bằng phương pháp công nghệ (in máy);
- Làm tiền giả với số lượng từ một triệu đồng trở lên;
- Phạm tội có tổ chức, có màng lưới làm giả, lưu hành tiền giả ở nhiều địa phương khác nhau.
2. Đối với những người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì tuỳ trường hợp cụ thể cần trừng phạt thật nghiêm khắc với mức án cao của khung hình phạt theo khoản 2 Điều 98 Bộ Luật Hình sự (20 năm tù, tù chung thân, tử hình):
- Làm hàng trăm triệu đồng tiền giả;
- Đã lưu hành tiền giả với số lượng từ năm mươi triệu đồng trở lên.
3. Đối với người làm tiền giả đã lưu hành tiền giả do mình làm ra thì kết án với tội danh là "làm tiền giả, lưu hành tiền giả" và chỉ quyết định đối với kẻ phạm tội một hình phạt về tội phạm này.
4. Đối với người bóc tách một vài tờ tiền thật để nghiên cứu khi làm tiền giả mà đã bị truy tố về tội "phá huỷ tiền tệ" thì Toà án cũng kết án họ về tội phạm đó. Nhưng nếu Viện Kiểm sát không truy tố hành vi này về tội "phá huỷ tiền tệ" mà chỉ coi là tình tiết của việc làm tiền giả, thì Toà án không trả hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát để yêu cầu truy tố thêm về tội "phá huỷ tiền tệ" mà chỉ cần coi hành vi này là tình tiết nghiêm trọng của việc làm tiền giả.
5. Làm tiền nước ngoài để lưu hành ở Việt Nam, lưu hành tiền nước ngoài giả ở Việt Nam cũng bị xử lý như làm giả tiền Việt Nam, lưu hành tiền Việt Nam giả.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 133-NCPL Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1991
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 133-NCPLNGÀY 20 THÁNG 12 NĂM 1991 HƯỚNG DẪN ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝĐỐI VỚI NGƯỜI TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI ĐÃ TỰ NGUYỆN HỒI HƯƠNG
1. Tại Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 17-12-1991 Bộ Nội vụ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn đường lối xử lý đối với người trốn đi nước ngoài đã tự nguyện hồi hương. Tinh thần chung của Thông tư liên ngành này là chỉ không truy cứu trách nhiệm hình sự người lần đầu trốn đi nước ngoài, người mà ngoài hành vi trốn đi nước ngoài và đã hồi hương còn có hành vi tổ chức người khác trốn đi nước ngoài thuộc trường hợp không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được quy định ở các khoản 2, 3 Điều 88 Bộ Luật Hình sự. Trong Thông tư này đã nêu rõ là "Đối với người trốn đi nước ngoài đã hồi hương, nếu ngoài việc trốn đi nước ngoài lại có hành vi phạm tội khác, thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xuất cảnh trái phép, nhưng vẫn truy cứu trách nhiệm về tội khác mà họ đã thực hiện". Tinh thần của điểm hướng dẫn này cần phải hiểu là chỉ không truy cứu trách nhiệm người đó về tội xuất cảnh trái phép theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự, còn đối với tội phạm khác của họ thì việc truy tố, xét xử vẫn tiến hành bình thường như trường hợp họ không có hành vi xuất cảnh trái phép. Khi xét xử họ về tội khác đáng lẽ có thể coi việc họ trốn ra nước ngoài trong giai đoạn điều tra về tội khác đó là tình tiết để đánh giá xấu về nhân thân của họ, nhưng vì họ đã tự nguyện hồi hương, nên có thể không cần có nhận xét gì về tình tiết này.
2. Tinh thần chung của Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 17-12-1991 là có sự khoan hồng nhất định đối với người trốn đi nước ngoài đã tự nguyện hồi hương và sự khoan hồng này chỉ thể hiện ở việc không truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp; do đó, nếu trước khi trốn ra nước ngoài mà họ đã bị kết án (bị phạt tù hoặc các hình phạt khác) thì họ vẫn phải chấp hành bản án theo quy định chung.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 28-NCPL Hà Nội, ngày 02 tháng 4 năm 1992
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 28-NCPLNGÀY 2 THÁNG 4 NĂM 1992 VỀ VIỆC TOÀ ÁN PHỤC VỤ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG SỬ DỤNG ĐIỆN TRÁI PHÉP...
Trong thời gian qua việc sử dụng điện trái phép, phá huỷ hệ thống tải điện, trộm cắp các thiết bị về điện trên hệ thống tải điện xảy ra nhiều và nghiêm trọng, trong nhiều trường hợp, người có hành vi phạm tội khi bị phát hiện còn chống đối lại người thi hành nhiệm vụ. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có Chỉ thị số 89-CT ngày 14-3-1992 về việc chống lấy cắp điện.
Để góp phần tích cực ngăn chặn các hành vi phạm tội nghiêm trọng nói trên, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp cần phối hợp với các ngành trong khối Nội chính, từ kết quả thanh tra, kiểm tra và sự tố giác của quần chúng kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, theo đúng pháp luật các hành vi phạm tội đó và trừng phạt nghiêm khắc những tên cầm đầu những vụ phạm tội có tổ chức, những tên phạm tội nguy hiểm, những tên phạm tội đã gây ra hậu quả nghiêm trọng và những tên tái phạm. Các Toà án cần tổ chức phiên toà lưu động, đặc biệt là ở những nơi mà các hành vi phạm tội nói trên xảy ra nhiều, cần phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương và Trung ương đưa tin kịp thời để đề cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa và phát động quần chúng tham gia đấu tranh chống các loại tội phạm này.
Nhận được Công văn này các Toà án các cấp cần triển khai thực hiện ngay, kịp thời phục vụ cuộc đấu tranh chống sử dụng điện trái phép theo Chỉ thị số 89-CT ngày 14-3-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 29/NCPL Hà Nội, ngày 06 tháng 4 năm 1992
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 29/NCPL NGÀY 6 THÁNG 4 NĂM 1992 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐƯƠNG SỰ ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI
Kính gửi: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
Sau khi nghiên cứu Công văn số 42/DS-TA ngày 12-3-1992, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài (Đại sứ quán hoặc lãnh sự quán) được uỷ thác đã có giấy triệu tập dương sự để lấy lời khai, nhưng đương sự không đến để khai báo thì tuỳ trường hợp cụ thể mà giải quyết như sau:
- Nếu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài cho biết là đương sự đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn cố tình không đến để khai báo, cung cấp những tài liệu cần thiết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
- Nếu đương sự không có địa chỉ rõ ràng sống lưu vong, không ai quản lý, cho nên cơ quan ngoại giao của nước ta không thể liên hệ với họ được, thì Toà án yêu cầu thân nhân của đương sự đang ở nước ngoài gửi cho họ lời khai của đương sự trong nước và báo cho đương sự đang ở nước ngoài gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu đương sự ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của đương sự đang ở nước ngoài. Cũng theo cách thức liên hệ này và đã liên hệ được với đương sự đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp đương sự không có thân nhân ở trong nước, cũng như trong trường hợp không liên hệ được (không biết bị đơn đang ở đâu), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Đối với trường hợp này Toà án cần giải thích cho đương sự đang ở trong nước (nguyên đơn) biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích như đã hướng dẫn tại Nghị quyết số 3-HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài đã lấy được lời khai của đương sự, nhưng sau khi xét xử sơ thẩm thì việc giao bản sao bản án cho họ không thực hiện được vì họ không còn ở nơi ở cũ thì Toà án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó. Trong thời hạn ba tháng kể từ ngày Toà án gửi Công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài về việc đã niêm yết bản sao bản án, nhưng không có đơn, thư của đương sự đang ở nước ngoài về việc đương sự đang ở nước ngoài có kháng cáo, đồng
thời trong thời gian kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì Toà án có quyền đưa bản án ra thi hành.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 240/TK Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 1992
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 240/TK NGÀY 17 THÁNG 7 NĂM 1992 VỀ VIỆC HOÃN PHIÊN TOÀ Kính gửi: Đồng chí Chánh án các Toà án nhân dân và các Toà án quân sự các cấp,
Hiện nay ở một số Toà án có tình trạng sau khi mở phiên toà và đã thẩm vấn bị cáo và các đương sự, lại hoãn phiên toà kéo dài; có trường hợp phiên toà xét xử việc dân sự hoãn kéo dài đến hàng năm, quá thời hạn pháp luật tố tụng cho phép.
Việc hoãn phiên toà tuỳ tiện là vi phạm thủ tục tố tụng, gây khó khăn cho cơ quan Công an trong việc dẫn giải quản lý can phạm, gây phiên hà và làm mất thời gian của nhân dân và gây sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng của nhân dân đối với công tác xét xử của Toà án. Vì vậy Toà án nhân dân tối cao đề nghị đồng chí Chánh án các Toà án cần phổ biến đến các Thẩm phán quán triệt nguyên tắc chung của phiên toà là: "Xét xử trực tiếp bằng lời nói và liên tục". Như vậy: khi vụ án đã được đưa ra phiên toà và đã tiến hành thẩm vấn thì phải xét xử liên tục (trừ thời gian giải lao và nghị án) và phải công bố việc xét xử hay còn gọi là phải "tuyên án" không được hoãn tuyên án hoặc hoãn phiên toà tuỳ tiện, nếu có lý do chính đáng thì phải tuyên bố rõ lý do và khi lý do hoãn đó đã được khắc phục thì phải đưa ra xét xử tiếp. Nếu không có căn cứ để đưa ra xét xử thì phải có quyết định đình chỉ vụ án (Điều 155 và khoản 1 Điều 162 hoặc Điều 223 Bộ luật tố tụng hình sự nếu là vụ án hình sự, theo Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nếu là vụ án dân sự).
Đề nghị các đồng chí lưu ý và chấp hành nghiêm chỉnh.
Phạm Hưng
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 481-NCPL Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 1992
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 481-NCPL NGÀY 18 THÁNG 11 NĂM 1992 VỀ VIỆC TẠM GIAM VÀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Trong thời gian vừa qua một số Toà án đã có những thiếu sót trong việc áp dụng thay đổi biện pháp ngăn chặn là tạm giam, hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, giảm thời gian chấp hành hình phạt tù, miễn chấp hành hình phạt tù... Những thiếu sót này đã dẫn tới những trường hợp không thể mở đươc phiên toà vì bị cáo không đến phiên toà (thậm chí có trường hợp bị cáo được trả tự do trước khi xét xử đã trốn ra nước ngoài), không bắt được người bị phạt tù để buộc chấp hành hình phạt, người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trốn tránh việc tiếp tục chấp hành hình phạt (thậm chí có trường hợp bỏ trốn ra nước ngoài sau khi được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù)... Những thiếu sót này đã gây thiệt hai, gây khó khăn cho công tác xét xử và thi hành án, gây dư luận xấu trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành Toà án. Để khắc phục những thiếu sót này, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án các cấp lưu ý một số điểm sau:
1. Đối với bị can, bị cáo phạm tội thuộc các trường hợp nghiêm trọng, đặc biệt là đối với những người phạm tội thuộc loại tham nhũng (tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, nhận hối lộ, cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, lập quỹ trái phép, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc lạm quyền , lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công dân...), buôn lậu, buôn bán các chất ma tuý... nếu họ chưa bị tạm giam thì Toà án cần ra lệnh tạm giam họ để bảo đảm cho sự có mặt của họ tại phiên toà, cũng như để bảo đảm cho việc thi hành án khi họ bị phạt tù.
Theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự thì không tạm giam bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà họ có nơi cư trú rõ ràng, trừ trường hợp đặc biệt. "Trường hợp đặc biệt" theo điều luật này cần hiểu là các trường hợp bị can, bị cáo là phần tử nguy hiểm, phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
2. Đối với các bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên một năm thì Toà án cần ra lệnh tạm giam họ nếu họ không có nơi cư trú rõ ràng hoặc cư trú thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác. Trong các trường hợp này Toà án cần sớm mở phiên toà để xét xử vụ án.
3. Đối với các bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì tuyệt đối không được trả tự do cho họ vì các lý do như trả tự do để họ đi định cư ở nước ngoài, để đưa tang người thân thích: tuyệt đối không được trả tự do cho bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng.
4. Tại Công văn số 311/NCPL ngày 25-12-1990 Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý các Toà án các cấp một số điểm về hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù. (Công văn này đã
được đăng tải trong Tạp chí Toà án nhân dân số 12 năm 1990). Nay Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án các cấp thêm một số điểm như sau về hoãn thi hành án phạt tù:
a) Khi đã hết hạn hoãn chấp hành hình phạt tù theo các điểm 2, 3, 4 Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự (từ ba tháng đến một năm đối với phụ nữ có thai hoặc mới sinh đẻ, một năm đối với ngưới bị kết án là người lao động duy nhất trong gia đình, sáu tháng đến một năm đối với quân nhân bị kết án). Toà án phải ra ngay quyết định thi hành án đói với người đã được hoãn chấp hành hình phạt tù và theo dõi, đôn đốc để việc bắt họ chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh.
b) Đối với người được hoãn chấp hành hình phạt tù vì lý do họ ốm nặng (điểm 1 Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự) Toà án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú theo dõi bệnh trạng của họ để nếu thấy sức khoẻ của họ đã hồi phục thì ra ngay quyết định thi hành án phạt tù và theo dõi đôn đốc để việc bắt họ đi chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh.
c) Kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng tăng hình phạt tù hoặc giảm một phần hình phạt tù được coi là kháng nghị đối với một phần quyết định về hình phạt: do đó trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm theo các hướng này, Toà án vẫn ra quyết định thi hành án phạt tù và theo dõi đôn đốc để việc bắt người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh.
Trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng tuyên bố không phạm tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, cho hưởng án treo đối với người bị phạt tù thì Toà án đã xử sơ thẩm (hoặc Toà án đã được uỷ thác ra quyết định thi hành án) chưa ra quyết định thi hành án mà cần chờ kết quả xét xử giám đốc thẩm.
d) Tuyệt đối không cho người bị kết án hoãn chấp hành hình phạt tù ngoài các trường hợp đã được quy định tại các điểm 1, 2, 3, 4 Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự.
5. Toà án đã ra quyết định thi hành án chỉ được ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù trong trường hợp Viện kiểm sát hoặc Ban giám định trại giam đề nghị cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù vì các lý do được quy định tại các điểm 1, 2, 3 Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, khi các Toà án nhận được đơn của người bị kết án hoặc của thân nhân của họ hay cơ quan, tổ chức xin cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cần gửi ngay đơn đó cho Ban giám thị trại giam (nếu biết rõ nơi họ đang chấp hành hình phạt tù) hoặc gửi đơn đó cho Viện Kiểm sát cùng cấp (nếu không biết rõ nơi họ đang chấp hành hình phạt tù); đồng thời báo cho người hoặc cơ quan , tổ chức hữu quan biết và hướng dẫn cho họ biết rõ là chỉ có Ban giám thị trại giam hoặc Viện Kiểm sát mới có quyền đề nghị và Toà án chỉ xem xét khi các cơ quan này đã gửi cho Toà án văn bản đề nghị cho người bị kết án được tạm đỉnh chỉ chấp hành hình phạt tù.
6. Nếu Ban chấp hành giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát chỉ chuyển đơn cho Toà án mà không có văn bản chính thức đề nghị Toà án cho người bị kết án được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Toà án không có quyền ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù. Trong trường hợp này Toà án trả lại đơn cho Ban giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát cùng cấp để các cơ quan này giải quyết theo thẩm quyền, nghĩa là để các cơ quan này chính thức đề nghị Toà án cho người bị kết án được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu thấy có đủ căn cứ hoặc không đề nghị cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu không có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.
7. Nếu Ban giám thị trại giam hoặc Viện kểm sát đề nghị cho người bị kết án được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì lý do họ bị ốm nặng, nhưng chưa có kết luận của giám định y khoa, thì Toà án không tự mình tổ chức giám định y khoa và tuỳ trường hợp cụ thể mà yêu cầu Ban giám thị trại giam hoặc Viện kiểm sát tổ chức giám định sức khoẻ của người bị kết án và chỉ khi có kết luận của giám định y khoa thì Toà án mới xem xét để quyết định việc có cho ngưòi bị kết án đượoc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hay không.
8. Nếu Toà án có ấn định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thì khi hết thời hạn đó Toà án phải ra ngay quyết định thi hành án đối với người đã đựoc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và theo dõi, đôn đốc để việc bắt họ đi chấp hành hình phạt được thực hiện nghiêm chỉnh.
9. Đối với các trường hợp tạm đình chỉ thi hành án phạt tù vì lý do người bị kết án ốm nặng, các Toà án cần lưu ý một số điểm như sau:
a) Nếu Toà án có ấn định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù và khi hết thời hạn đó mà người bị kết án yêu cầu được tiếp tục tại ngoại để chữa bệnh vì chưa phục hồi sức khoẻ ,thì Toà án tổ chức giám định sức khoẻ của họ để kết luận về bệnh trạng của họ (kinh phí giám định do họ chịu). Nếu kết luận của giám định y khoa cho thấy sức khoẻ của họ đã phục hồi thì Toà án cần ra ngay quyết định thi hành án đối với họ và theo dõi, đôn đốc việc để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù được thực hiện nghiêm chỉnh. Còn nếu kết luận của giám định y khoa cho thấy là sức khoẻ của họ chưa được phục hồi, thì Toà án ra quyết định kéo dài việc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thêm một thời gian nữa hoặc cho đến khi sức khoẻ của họ phục hồi.
b) Nếu Toà án không ấn định thời hạn tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thì Toà án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền xã, phường thị trấn nơi ngưòi bị kết án cư trú theo dõi bệnh trạng của họ để nếu thấy sức khoẻ của họ đã phục hồi thì ra ngay quyết định thi hành án đối với họ. Nếu Toà án thấy khó đánh giá sức khoẻ của họ đã phục hồi hay chưa phục hồi thì cần tổ chức giám định sức khoẻ của họ (kinh phí giám định do họ chịu) và kết luận của giám định y khoa là căn cứ để Toà án quyết định việc cho họ được tiếp tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc buộc họ pháp tiếp tục chấp hành hình phạt tù.
10. Các Toà án các cấp cần rà soát lại các trường hợp hoãn thi hành án phạt tù và tạm đình chỉ thi hành án phạt tù mà hiện nay ngưòi bị kết án chưa chấp hành hoặc chưa chấp hành xong hình phạt tù do được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để nếu thấy có trường hợp nào không đúng với quy định của pháp luật và các hướng dẫn đã có, cũng như các hướng dẫn trong công văn này, thì cần có biện pháp khắc phục để việc thi hành án đối với họ được thực hiện nghiêm chỉnh. Đặc biệt là đối với các trường hợp đã có quyết định cho hoan hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù không đúng với quy định tại Điều 231, 232 Bộ luật Tố tụng hình sự thì cần huỷ quyết định đó và ra lệnh bắt họ chấp hành hình phạt tù.
11. Cần nghiêm chỉnh tuân thủ quy định của các điều 49, 51 Bộ luật Hình sự về thời gian đã chấp hành hình phạt để được xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù lần đầu là một phần ba thời hạn đối với các hình phạt tù 20 năm tù trở xuống , 10 năm tù đối với chung thân, về việc Toà án chỉ có thể xét giảm váo thời gian sớm hơn nếu ngưòi bị kết án có lý do đáng được khoan hồng như đã lập công ( cần hiểu là lập công trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù), đã quá già yếu, đang mắc bệnh hiểm nghèo.
12. Việc xét giảm thời chấp hành hình phạt phải theo đúng thủ tục đã được quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tại Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ về việc giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù. Cần chấm dứt việc đại diện các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát, Tư pháp, Nội chính đến trại giam cùng nhau xét duyệt và quyết định việc giảm hoặc không giảm thời hạn chấp hành hình phạt cho những người đang chấp hành hình phạt tù.
13. Chỉ theo đề nghị của Viện kiểm sát, chứ không theo đề nghị của bất cứ cá nhân, tổ chức nào, Toà án mới xem xét đẻ miễn hoặc không miễn chấp hành toàn bộ hình phạt cho người chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo và nêú người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Tuyệt đối không được miễn chấp hành hình phạt tù cho ngưòi bị kết án không lập công lớn, ngưòi bị kết án không mắc bệnh hiểm nghèo. Tuyệt đối không được cho miễn chấp hành hình phạt tù chỉ vì lý do cơ quan hoặc tổ chức yêu cầu cho ngưòi bị kết án được miễn chấp hành hình phạt để họ tiếp tục công tác hoặc vì lý do để cho ngưòi bị kết án ra nước ngoài để định cư.
14. Đối với những ngưòi bị kết án đã đước tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì những lý do khác nhau đã được nêu tại các Điều 231, 232 Bộ luật Tố tụng hình sự mà không lập công lớn hoặc không mắc bệnh hiểm nghèo thì không được miễn cho họ chấp hành hình phạt tù còn lại vì các lý do như hoàn cảnh gia đình họ có khó khăn, họ bị bênh khôg phải mắc bệnh hiểm nghèo... Đối với họ tuỳ trường hợp cụ thể mà bắt phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù hoặc cho được tiếp tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Trong khi chưa có sửa đổi, bổ sung các quy định về thi hành án phạt tù và các tổ chức quản lý công tác thi hành án phạt tù, yêu cầu các Toà án các cấp nghiêm chỉnh thực hiện các hướng dấn trước đây của liên ngành, của Toà án nhân dân tối cao và các hướng dẫn trong Công văn này.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 271/NCPL Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 1993
CÔNG VĂN
SỐ 271/NCPL NGÀY 21-5-1993 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRANH CHẤP CỤ THỂ
.
1. Theo quy định tại Điều 1 Luật Đất đai (có hiệu lực từ ngày 8-1-1988) thì: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý". Trong trường hợp trước ngày Luật đất đai có hiệu lực, Toà án đã giải quyết tranh chấp quyền quản lý, sử dụng đất, nhưng sau đó bản án, quyết định của toà án không được thi hành, vì lý do toàn bộ ruộng đất đó đã đưa vào Hợp tác xã quản lý, sử dụng và khi hợp tác xã tan rã đã xẩy ra sự tranh chấp về quyền sử dụng đất, theo tinh thần của Quyết định số 13/HĐBT ngày 1-2-1989 của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất và theo quy định tại Điều 21 Luật Đất đai, thì việc giải quyết các tranh chấp loại này thuộc thẩm quyền giải quyết của uỷ ban nhân dân xã, thị trấn. Nếu không đồng ý với quyết định của uỷ ban nhân dân đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan chính quyền cấp trên. Quyết định của chính quyền cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành. Do đó, hiện nay trong trường hợp đương sự có yêu cầu Toà án giải quyết, thì toà án cần giải thích cho đương sự biết các quy định trên.
2. Trong trường hợp người mất trí không có con cái, không nơi nương tựa nếu có những người trong họ tranh chấp với nhau về việc nhận nuôi và chăm sóc người mất trí đó (cho dù là với mục đích gì), thì thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp này không phải là của toà án mà là của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người mất trí. Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền căn cứ vào tình hình cụ thể mà công nhận hay không công nhận cho ai được nhận nuôi và chăm sóc mà đưa người mất trí vào cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng người già yếu, cô đơn tàn tật.
3. Các tranh chấp về sử dụng nguồn nước tự nhiên không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án, mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Trong trường hợp do sử dụng nguồn nước mà gây thiệt hại về hoa màu, tài sản của người khác, thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết về việc bồi thường thiệt hại và loại này thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 328/NCPL Hà Nội, ngày 22 tháng 6 năm 1993
CÔNG VĂN
SỐ 328/NCPL NGÀY 22-6-1993 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ
Trong thời gian vừa qua, Toà án nhân dân tối cao đã nhận được nhiều công văn của các Toà án nhân dân và toà án quân sự các cấp yêu cầu hướng dẫn thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về vấn đề kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố tại phiên toà, cụ thể là trong trường hợp nào được coi là Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố và trong trường hợp nào được coi là kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố. Toà án nhân dân tối cao đã có công văn số 294/NCPL ngày 31-5-1993 gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trao đổi ý kiến về vấn đề nói trên. Căn cứ vào sự thống nhất ý kiến với ý kiến của Toà án nhân dân tối cao tại công văn số 869/VKH ngày 14-6-1993 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về vấn đề kiểm sát viên rút quyết định truy tố tại phiên toà như sau:
1. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142 Bộ luật tố tụng hình sự, thì quyết định truy tố của Viện Kiểm sát chính là bản cáo trạng mà kiểm sát viên đọc tại phiên toà; do đó, chỉ khi nào Kiểm sát viên rút toàn bộ bản cáo trạng mới được coi là rút toàn bộ quyết định truy tố. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại điểm 2 mục III Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự", thì: "... trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng (như người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự...) trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát có hay không có căn cứ. Khi nghị án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội, thì Hội đồng xét xử tuyên án bị cáo không phạm tội. Ngược lại nếu có căn cứ xác định là bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử quyết định tạm đình chỉ việc xét xử vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên xem xét việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát cấp dưới. Toà án xoá sổ thụ lý và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát cấp trên (cấp trên trực tiếp của Viện Kiểm sát cùng cấp). Qua nghiên cứu hồ sơ và kiến nghị của Toà án nếu Viện Kiểm sát cấp trên thống nhất với việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát cấp dưới thì ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án đã tạm đình chỉ vụ án đó biết. Nếu Viện Kiểm sát cấp trên nhất trí với kiến nghị của Toà án thì ra quyết định huỷ việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát cấp dưới và chuyển hồ sơ cho toà án đã tạm đình chỉ vụ án. Toà án thụ lý lại và xét xử trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý lại".
2. Nếu tại phiên toà, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên chỉ rút quyết định truy tố đối với một tội hoặc một số tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với các tội khác hay Kiểm sát viên chỉ rút quyết định truy tố đối với một hoặc một số các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo hoặc các bị cáo còn lại thì đây là các trường hợp Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố.
Vì vậy trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 169 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại điểm 2 mục III của Thông tư liên ngành nói trên thì: "Hội đồng xét xử vẫn xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút truy tố đó. Căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận được ghi trong bản án".
Trong trường hợp nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên mà Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên cho rằng việc rút quyết định, truy tố của Kiểm sát viên là đúng, thì Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát cấp trên có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 517/NCPL Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 1993
CÔNG VĂN
SỐ 517/NCPL NGÀY 9-10-1993 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VIỆC LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI .
Trong thời gian vừa qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương hỏi một số vấn đề về thủ tục giải quyết việc ly hôn có một bên đương sự đang ở nước ngoài. Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và tại công văn ngày 5-10-1993 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thống nhất với Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thêm như sau, ngoài các hướng dẫn trước đây tại các công văn số 130/NCPL ngày 16- 12-1991 và số 29/NCPL ngày 6-4-1992 của Toà án nhân dân tối cao:
1. Trong trường hợp Toà án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục uỷ thác tư pháp đến lần thứ hai, nhưng không được các cơ quan tư pháp có trách nhiệm của nước liên quan đáp ứng, thì Toà án liên hệ với Bộ Tư pháp để thông qua Bộ Ngoại giao yêu cầu cơ quan lãnh sự của nước ta tại nước có liên quan thực hiện uỷ thác tư pháp theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh lãnh sự công bố ngày 24-11-1990 với nội dung: Lãnh sự thực hiện uỷ thác tư pháp của cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền đối với công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự, nếu việc đó không trái với pháp luật nước tiếp nhận hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia.
Việc thực hiện uỷ thác tư pháp này phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam. Nếu Toà án đã thực hiện theo đúng các hướng dẫn nói trên nhưng việc uỷ thác tư pháp vẫn không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong, không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
2. Đối với những vụ án ly hôn, nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, bị đơn là người đang ở nước ngoài, nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh là họ vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để bị đơn gửi lời khai về cho Toà án, thì cần coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối
khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Trong trường hợp này, nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Ngược lại, nếu không có đầy đủ căn cứ để chứng minh được là bị đơn vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
3. Đối tượng các trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án được thi hành theo thủ tục chung.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 20/NCPL Hà Nội, ngày 18 tháng 1 năm 1994
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 20/NCPL NGÀY 18-1-1994 TRẢ LỜI MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản có nói rõ lý do. Kháng nghị được gửi đến Toà án đã xử sơ thẩm". Như vậy theo quy định này thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị bằng văn bản, trong đó phải nêu rõ: ngày kháng nghị, kháng nghị về vấn đề gì trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm; lý do của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát, cũng theo quy định này thì Viện kiểm sát chỉ có trách nhiệm gửi bản kháng nghị đến Toà án đã xử sơ thẩm mà không có trách nhiệm thông báo việc kháng nghị hay gửi bản sao bản kháng nghị cho những người tham gia tố tụng nói chung và người bị kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị nói riêng.
Theo quy định tại Điều 210 Bộ Luật tố tụng hình sự thì toà án đã xử sơ thẩm sau khi nhận được bản kháng nghị, phải có trách nhiệm thông báo cho những người tham gia tố tụng biết, để cho những người này biết diễn biến của quá trình tố tụng và chuẩn bị ý kiến của mình hoặc tài liệu, chứng cứ mới có liên quan đến việc xét xử vụ án để gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Việc thông báo của Toà án cấp sơ thẩm có thể được thực hiện bằng việc gửi bản thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị theo mẫu do Toà án nhân dân tối cao ban hành, trong đó cần ghi rõ nội dung kháng nghị hoặc cũng có thể bằng việc gửi bản sao bản kháng nghị của Viện kiểm sát.
Đối với trường hợp tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo bị kháng nghị khai rằng chưa được nhận bản sao bản kháng nghị của Viện kiểm sát, nhưng đã được thông báo về việc kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền tiếp tục xét xử vụ án. Nếu bị cáo bị kháng nghị chưa được nhận bản sao bản kháng nghị của Viện kiểm sát và cũng chưa được thông báo về việc kháng nghị, thì Toà án cấp phúc thẩm cần hỏi bị cáo đề nghị hoãn phiên toà hay không. Nếu bị cáo có yêu cầu hoãn phiên toà thì Toà án cấp phúc thẩm cần chấp nhận yêu cầu của bị cáo hoãn phiên toà và thông báo luôn cho bị cáo biết việc kháng nghị của Viện kiểm sát.
Lê Thanh Đạo
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 88/NCPL Hà Nội, ngày 01 tháng 03 năm 1994
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 88/NCPL NGÀY 1-3-1994 VỀ VIỆC KHÔNG TIẾP TỤC ÁP DỤNG THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH SỐ 10/TTLN NGÀY 25-10-1990
Trước đây trong tình hình cấp bách về tín dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Trọng tài kinh tế Nhà nước đã ban hành Thông tư Liên ngành số 10/TTLN ngày 25-10-1990 "Hướng dẫn giải quyết một số vấn đề cấp bách về tín dụng". Những hướng dẫn trong Thông tư này đã kịp thời giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương giải quyết tốt các vụ án liên quan đến tín dụng. Cho đến thời điểm hiện nay tình hình nói chung và các quy định của Nhà nước về tín dụng đã có sự thay đổi. Tuy nhiều hướng dẫn trong Thông tư này vẫn đúng, nhưng cũng có những điểm hướng dẫn trong Thông tư này không còn phù hợp nữa. Tại Công văn số 153/VP ngày 4-2-1994 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Công văn số 68/BNV (V19) ngày 16-2-1994 của Bộ Nội vụ, Công văn số 265/PLHS-HC ngày 5-2-1994 của Bộ Tư pháp, Công văn số 02TT/PL ngày 4-2-1994 của Trọng tài kinh tế Nhà nước, các cơ quan này đều thống nhất là không tiếp tục áp dụng các hướng dẫn của Thông tư này trong điều tra, truy tố, xét xử ngày 1-3-1994.
Toà án nhân dân tối cao thông báo cho các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp biết kể từ ngày 1-3-1994 Thông tư liên ngành số 10/TTLN ngày 25-10-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Trọng tài kinh tế Nhà nước "Hướng dẫn giải quyết một số vấn đề cấp bách về tín dụng" hết hiệu lực, không còn được áp dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử nữa. Sau ngày 1-3-1994 khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có liên quan đến tín dụng, cũng như hụi (họ), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chức năng áp dụng các quy định của pháp luật, các hướng dẫn chung của các ngành, các hướng dẫn của ngành mình đã có trước và sau khi ban hành Thông tư liên ngành số 10/TTLN ngày 25-10-1990.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 442/KHXX Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 1994
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 442/KHXX NGÀY 18-7-1994 VỀ VIỆC ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16-3-1994 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-1994. Về cơ bản, nhiều quy định trong Pháp lệnh này tương tự như các quy định tương ứng trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; do đó, khi thi hành các quy định của Pháp lệnh này, các Toà án nhân dân địa phương cần nắm chắc các hướng dẫn trong Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 1-10-1990 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, các công văn của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên cũng có một số quy định của Pháp lệnh này mang tính chất đặc thù của việc giải quyết tranh chấp kinh tế nên có sự khác nhau với một số quy định tương ứng của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Để việc thi hành các quy định của Pháp lệnh này được đúng đắn và thống nhất, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân các cấp một số điểm sau đây:
I - VỀ CÁC VỤ ÁN KINH TẾ THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN:
Theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây:
1. "Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân; giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh".
Khi thi hành quy định này cần chú ý:
a) Pháp nhân là tổ chức có đủ các điều kiện được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, như: Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Nghị định số 17/HĐBT ngày 16-1-1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế v.v... Pháp nhân trong các tranh chấp về hợp đồng kinh tế thường hay gặp là: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp của các tổ chức, đoàn thể xã hội...
b) Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Trọng tài kinh tế từ trước ngày 1-7-1994 hoặc Uỷ ban kế hoạch từ ngày 1-7-1994, (thường được gọi là doanh nghiệp tư nhân).
2. "Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty".
a) Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty: Đây là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn (thông thường phần vốn góp đó
được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng bản quyền sở hữu công nghiệp); về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về yêu cầu công ty đổi các khoản nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết khi giải thể công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty.
b) Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau: Đây là các tranh chấp giữa các thành viên của công ty về việc trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty của thành viên công ty đó cho người khác không phải là thành viên của công ty; về việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên cổ phiếu có ghi tên; về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản, phân chia nợ giữa các thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty.
3. "Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu"...
Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu... là các tranh chấp về mua, bán cổ phiếu, trái phiếu đã phát hành và cổ phiếu mới, trái phiếu mới sắp phát hành của công ty cổ phần.
4. "Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật".
Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật cần được hiểu là các tranh chấp mà trong tương lai khi ban hành văn bản pháp luật trong đó có quy định đó là các tranh chấp kinh tế và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
II - VỀ THẨM QUYỀN CỦA CÁC TOÀ ÁN:
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài; do đó, khi thi hành quy định này cần chú ý là Toà án nhân dân cấp huyện chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế có đầy đủ cả ba điều kiện sau đây:
a) Phải là tranh chấp về hợp đồng kinh tế;
b) Giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng;
c) Không có nhân tố nước ngoài.
2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh thì Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tất cả những vụ án kinh tế quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện tức là những vụ án kinh tế có đầy đủ cả ba điều kiện theo hướng dẫn tại điểm 1 mục này.
Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng quy định trong trường hợp cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện.
Trường hợp cần thiết thường là: Khi vụ án có nhiều tình tiết phức tạp; khi vụ án có nhiều đương sự ở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau; Toà án cấp huyện chưa có Thẩm phán
để có thể phân công giải quyết vụ án kinh tế, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án kinh tế, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi Thẩm phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế.
3. Theo quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh thì trong một số trường hợp nhất định, có nhiều Toà án có thẩm quyền giải quyết một vụ án kinh tế cụ thể và nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong các Toà án đó. Để tránh việc có tranh chấp về thẩm quyền, thì Toà án nào thuộc một trong các Toà án có thẩm quyền mà nhận được đơn khởi kiện trước tiên của nguyên đơn, đã dự tính tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn và nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí, có thẩm quyền thụ lý vụ án theo đúng quy định tại Điều 33 của Pháp lệnh.
4. Sau khi thụ lý vụ án kinh tế, nếu phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình, thì Toà án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền giải quyết, trong đó cần nêu rõ lý do chuyển hồ sơ vụ án, đồng thời phải thông báo ngay cho nguyên đơn biết.
Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền, thì những Toà án có tranh chấp đó phải báo cáo ngay lên Toà án cấp trên trực tiếp để Toà án đó quyết định việc giao cho Toà án nào giải quyết vụ án, cụ thể như sau:
a) Nếu tranh chấp về thẩm quyền giữa hai Toà án cấp huyện trong một tỉnh, thì Toà án cấp tỉnh trực tiếp giải quyết.
b) Nếu tranh chấp về thẩm quyền giữa hai Toà án cấp huyện thuộc hai địa phương cấp tỉnh hoặc giữa Toà án cấp tỉnh này với Toà án cấp huyện thuộc tỉnh khác, thì Toà án cấp tỉnh của hai địa phương cấp tỉnh phối hợp giải quyết tranh chấp bằng việc giao cho một toà án cấp huyện thụ lý giải quyết vụ án hoặc một Toà án cấp tỉnh lấy hồ sơ vụ án lên để giải quyết. Nếu hai Toà án cấp tỉnh không thống nhất được với nhau về việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền trong trường hợp này thì hai Toà án cấp tỉnh đó báo cáo và chuyển hồ sơ vụ án lên Toà án nhân dân tối cao để xem xét, quyết định.
c) Nếu tranh chấp về thẩm quyền giữa hai Toà án cấp tỉnh, thì toà án nhân dân tối cao giải quyết.
Thời hạn để Toà án cấp trên xem xét, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền là 7 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
III - VỀ VIỆC UỶ QUYỀN, VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA ĐƯƠNG SỰ
1. Khi thực hiện các quy định của Pháp lệnh về việc uỷ quyền cần chú ý là việc uỷ quyền tham gia tố tụng phải được làm thành văn bản, trong đó cần xác định rõ phạm vi uỷ quyền mà người được uỷ quyền được thực hiện. Nếu đương sự uỷ quyền là cá nhân thì văn bản uỷ quyền phải được cơ quan công chứng Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực. Nếu đương sự uỷ quyền là pháp nhân thì văn bản uỷ quyền phải được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chứng nhận và có đóng dấu của pháp nhân. Trong trường hợp người uỷ quyền có thay đổi yêu cầu về phạm vi uỷ quyền cho người được uỷ quyền, thì cũng phải làm thành văn bản và có chứng thực hoặc chứng nhận như khi uỷ quyền.
2. Quy định cụ thể về người đại diện do uỷ quyền, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cụ thể là Toà án không chấp nhận những người thuộc một trong những
trường hợp sau đây tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền, người bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự:
a) Không có quốc tịch Việt Nam, không cư trú ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với đương sự là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài;
b) Chưa đủ 18 tuổi;
c) Bị bệnh tâm thần;
d) Đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị kết án, nhưng chưa được xoá án;
đ) Là cán bộ ngành Toà án, ngành Kiểm sát;
e) Là người giám định, người phiên dịch, người làm chứng trong vụ án;
g) Là người thân thích với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án;
h) Chuyên viên tư vấn pháp luật của Văn phòng dịch vụ pháp lý (theo hướng dẫn tại Thông tư số 1119 - QLTPK ngày 24-12-1987 và Công văn số 870/CV/QVLL ngày 26-10-1989 của Bộ tư pháp).
Một người chỉ có thể tham gia tố tụng với một tư cách hoặc là người đại diện do đương sự uỷ quyền hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, chứ không được tham gia tố tụng cùng một lúc với hai cách vừa là người đại diện do đương sự uỷ quyền vừa là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
IV - VỀ VIỆC XÁC MINH, THU THẬP CHỨNG CỨ VÀ HOÀ GIẢI:
1. Theo quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh thì đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, theo các điều 4, 35, 65 của Pháp lệnh thì khi cần thiết Toà án có thể tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm những việc đã được quy định cụ thể tại Điều 35 của Pháp lệnh.
2. Khi uỷ thác cho các Toà án khác xác minh, thu thập thêm chứng cứ, thì phải xác định rõ nội dung và thời hạn thực hiện uỷ thác. Toà án được uỷ thác thực hiện ngay sự uỷ thác và thông báo kết quả cho Toà án đã uỷ thác trong thời hạn do Toà án đã uỷ thác yêu cầu. Nếu thấy rằng việc xác minh, thu thập chứng cứ cần được uỷ thác tiếp cho Toà án khác thì Toà án được uỷ thác có thể uỷ thác tiếp cho Toà án khác đó và thông báo cho Toà án uỷ thác biết về việc đó.
3. Trong trường hợp cần phải định giá tài sản có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thì Toà án cần có công văn yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá. Hội đồng định giá do Thẩm phán được phân công sẽ làm chủ toạ Hội đồng xét xử sơ thẩm làm Chủ tịch, có đại diện của cơ quan tài chính - vật giá, đại diện của cơ quan chuyên môn có liên quan làm thành viên. Các đương sự được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định về giá thuộc Hội đồng định giá.
Chi phí cho việc định giá được xác định trên cơ sở chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với các quy định của Nhà nước và do người thua kiện phải chịu.
4. Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Pháp lệnh, thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hoà giải. Tuy nhiên, nếu trong cùng một vụ án có nhiều
đương sự, nhưng khi tiến hành hoà giải có đương sự vắng mặt, thì Toà án vẫn có quyền tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt nếu xét thấy việc hoà giải đó không có liên quan hoặc không có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt.
Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì toà án lập biên bản hoà giải thành và ra Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Toà án cần giải thích cho các đương sự biết là quyết định này có hiệu lực pháp luật, các đương sự không có quyền kháng cáo và Viện Kiểm sát cũng không có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Mẫu Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự tương tự mẫu loại Quyết định này trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
Trong trường hợp các đương sự không thể thoả thuận với nhau được, thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Cần chú ý là biên bản hoà giải thành, biên bản hoà giải không thành phải được Thẩm phán tiến hành hoà giải, Thư ký Toà án ghi biên bản và các đương sự ký tên.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Pháp lệnh, nếu tại phiên toà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử cũng ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật, nghĩa là không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
V - VỀ VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
1. Trong trường hợp Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo đơn yêu cầu của đương sự, nếu đương sự có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường. Mức bồi thường do các đương sự tự thoả thuận với nhau; nếu các đương sự không thoả thuận được và có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án đang giải quyết vụ án kinh tế đó quyết định căn cứ vào mức độ lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra. Trong trường hợp này các đương sự phải chịu án phí cả đối với việc giải quyết phần bồi thường thiệt hại có tranh chấp theo quy định chung về án phí kinh tế.
Trong trường hợp Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại cho đương sự, thì Toà án hoặc Viện kiểm sát có lỗi trong việc gây thiệt hại, phải bồi thường. Trong trường hợp này Toà án cần phải làm rõ trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất đối với những người có lỗi trong việc gây thiệt hại mà cơ quan đã phải bồi thường cho đương sự, để có hình thức kỷ luật thoả đáng và buộc bồi hoàn khoản tiền mà cơ quan đã phải bồi thường cho đương sự.
2. Nếu trước khi mở phiên toà, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án và nếu tại phiên toà Hội đồng xét xử ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong toả tài khoản của đương sự, thì bản sao quyết định đó phải được gửi cho Ngân hàng, kho bạc Nhà nước nơi đương sự mở tài khoản.
3. Trong trường hợp ra quyết định cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành vi nhất định, thì trong quyết định cần ghi cụ thể những hành vi cấm thực hiện, những hành vi buộc phải thực hiện, thời hạn phải chấm dứt hoặc phải thực hiện xong, thời hạn có hiệu lực của quyết định và trách nhiệm đối với việc không thi hành quyết định đó.
VI - VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ QUÁ HẠN
Theo quy định tại khoản 3 Điều 61 của Pháp lệnh, nếu kháng cáo, kháng nghị quá hạn vì trở ngại khách quan, thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị là mười ngày, kể từ ngày trợ ngại đó không còn nữa. Được coi là có trở ngại khách quan trong các trường hợp sau đây:
a) Người có quyền kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng chưa nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án mà không phải do lỗi của họ;
b) Đương sự vắng mặt trong một thời gian dài do yêu cầu công tác, chữa bệnh hoặc vì lý do chính đáng khác;
c) Đương sự là cá nhân có đăng ký kinh doanh bị chết mà chưa xác định được người thừa kế; đương sự là pháp nhân bị giải thể hoặc phá sản mà chưa xác định được cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.
d) Do thiên tai, hoả hoạn làm cho việc kháng cáo không thể thực hiện được đúng hạn.
VII - VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐÁNG CHÚ Ý
1. Việc giải quyết các vụ án kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp và rất quan trọng đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, do đó, đòi hỏi Toà án phải giải quyết thật khẩn trương. Thời hạn giải quyết vụ án kinh tế quy định trong Pháp lệnh ngắn hơn nhiều so với các thời hạn giải quyết các vụ án dân sự. Do đó, các Toà án cần chú ý thi hành đúng các quy định sau đây của Pháp lệnh về vấn đề thời hạn: các điều 31, 33 về thời hạn khởi kiện và thụ lý vụ án; Điều 34 về thời hạn chuẩn bị xét xử; Điều 44 về thời hạn giải quyết khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; các điều 56, 57 về biên bản phiên toà, cấp trích lục, bản sao bản án hoặc quyết định; các điều 61, 66, 72, 73 về thủ tục phúc thẩm; Điều 77 về thời hạn kháng nghị và thời hạn xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm; các điều 83, 84 về thời hạn kháng nghị và thời hạn xét xử theo thủ tục tái thẩm.
2. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu nhận được thông báo của Viện kiểm sát về việc tham gia phiên toà sơ thẩm thì Toà án chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn năm ngày. Hết thời hạn đó Viện kiểm sát phải trả ngay hồ sơ vụ án cho Toà án để mở phiên toà (Điều 34 của Pháp lệnh).
3. Các điều 24, 25, 26 của Pháp lệnh đã quy định cụ thể về người phải chịu chi phí giám định, người phải chịu chi phí cho người làm chứng, người phải chịu chi phí phiên dịch, nhưng không quy định về mức của các khoản chi phí này. Mức chi phí giám định, chi phí cho người làm chứng, chi phí phiên dịch do người phải chịu chi phí giám định, người phải chịu chi phí phiên dịch thoả thuận với người giám định, người làm chứng, người phiên dịch. Nếu các bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án quyết định trên cơ sở chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với các quy định của Nhà nước.
4. Việc nhận tiền, tài sản, tiền tạm ứng án phí và các khoản tiền tạm ứng khác do người có nghĩa vụ phải nộp theo các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế trước khi Toà án thụ lý, xét xử vụ án kinh tế tạm thời được thực hiện theo hướng dẫn tại mục III Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21-9-1993 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "hướng dẫn về việc thực hiện một số suy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự".
5. Các Toà án cần thực hiện đúng các quy định của Pháp lệnh về việc cấp bản sao bản án, bản sao các quyết định của Toà án cho các đương sự, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và những người khác có liên quan, cơ quan hữu quan khác.
Đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc tuy chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng được thi hành ngay thuộc trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết
định thi hành án (Điều 20 Pháp lệnh Thi hành án dân sự) thì Toà án cần gửi cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp bản sao bản án, quyết định đó.
6. Về án phí kinh tế và lệ phí tại Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế sẽ được Chính phủ quy định cụ thể trong một Nghị định riêng. Sau khi có Nghị định của Chính phủ về vấn đề này Toà án nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Bô Tư pháp ban hành Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện các quy định của Pháp lệnh và của Nghị định về án phí, lệ phí.
Ngoài ra còn có một số vấn đề khác như mối quan hệ giữa Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, mối quan hệ giữa Toà án nhân dân với các cơ quan thi hành án trong việc thi hành các bản án, quyết định kinh tế v.v... Tòa án nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các ngành có liên quan ban hành Thông tư liên ngành hướng dẫn cụ thể.
7. Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế với Toà án nhân dân là một vấn đề mới, các đồng chí Chánh án các Toà án nhân dân các cấp cần có tổ chức cho các Thẩm phán và các bộ nghiên cứu của Toà án, đặc biệt là các thẩm phán và cán bộ nghiên cứu của Toà án được phân công làm nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh tế nghiên cứu kỹ các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và các điểm được lưu ý trong công văn này.
Trong quá trình thực hành các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế nếu thấy có điểm gì vướng mắc các Toà án nhân dân các cấp cần phản ánh ngay cho Toà án nhân dân tối cao để Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn kịp thời.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 457/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 7 năm 1994
CÔNG VĂN
CUẢ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TÔÍ CAO SỐ 457/KHXX NGÀY 21-7-1994 VỀ VIỆC ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CUẢ LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-12-1993 và có hiệu lực kể từ ngày 1-7-1994. Để thi hành đúng và thống nhất các qui định của Luật này, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương một số điểm như sau:
I - VỀ ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG CỦA LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1. Theo quy định tại đoạn 1 Điều 1 của Luật phá sản doanh nghiệp thì Luật này áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản.
Tuy nhiên đoạn 2 của Điều 1 này giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc thi hành Luật này đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng; do đó, khi có đơn yêu cầu phải giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp đối với một doanh nghiệp cụ thể nào đó, Toà án phải xem xét doanh nghiệp đó có thuộc loại doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng theo quy định của Chính phủ hay không? Nếu thuộc loại doanh nghiệp đó thì khi giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ngoài việc phải thi hành đúng các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp, Toà án cần phải thực hiện đúng các quy định cụ thể của Chính phủ về việc thi hành Luật phá sản doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng.
2. Khi xem xét đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các Toà án cần phải nắm chắc quy định về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản quy định tại Điều 2 của Luật phá sản doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh;
b) Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
II - VỀ NHỮNG NGƯỜI CÓ QUYỀN NỘP ĐƠN YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
Theo quy định tại các điều 7, 8, 9 Luật phá sản doanh nghiệp thì những người sau đây có quyền nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
1. Chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 7). Trong trường hợp này đơn yêu cầu phải ghi rõ : a) họ, tên, địa chỉ của người làm đơn; b) tên và trụ sở chính của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản. Kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao giấy đòi nợ, các giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đồng thời người nộp đơn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định của pháp luật.
2. Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động, nơi chưa có tổ chức công đoàn (Điều 8). Tuy nhiên đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn chỉ có quyền nộp đơn khi doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động ba tháng liên tiếp. Đối với trường hợp này người nộp đơn không phải nộp các giấy tờ, tài liệu gì khác kèm theo đơn và cũng không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
3. Chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp (Điều 9). Việc nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp đối với những người này không chỉ là quyền mà là nghĩa vụ. Những người này phải nộp đơn khi doanh nghiệp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Đơn phải ghi rõ: tên và địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; họ và tên của chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp; các biện pháp mà doanh nghiệp đã thực hiện nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Kèm theo đơn yêu cầu phải có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu quy định tại điểm c khoản 2 Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp. Đồng thời người nộp đơn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định của pháp luật.
III - VỀ VẤN ĐỀ THỤ LÝ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT ĐƠN YÊU CẦU GIẢI QUYẾT VIỆC TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1. Sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu và chứng từ về việc người nộp tiền đã tạm ứng lệ phí, Toà án phải vào sổ thụ lý đơn và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã nhận đơn, trong đó cần nói rõ đã nhận được các loại giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn.
2. Theo tinh thần quy định tại Điều 12 Luật phá sản doanh nghiệp thì: Trong trường hợp người nộp đơn là chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần, đai diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo. Nếu người nộp đơn là chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp thì Toà án chỉ thụ lý đơn mà không phải gửi bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo cho bất cứ người nào.
3. Theo quy định tại Điều 13 và Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp, sau khi xem xét đơn và các giấy tờ, tài liệu có liên quan, Chánh toà Toà kinh tế ra quyết định không mở (nếu xét thấy có đủ căn cứ) hoặc quyết định mở (nếu xét thấy có đủ căn cứ) thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong quyết định phải nêu rõ lý do không mở hoặc mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu là quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì còn phải ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp; họ, tên của Thẩm phán phụ trách giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các nhân viên Tổ quản lý tài sản được chỉ định.
Lý do của việc ra quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là mặc dù doanh nghiệp tuy có gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh nhưng sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết thì doanh nghiệp chưa mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Lý do của việc ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, nhưng sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Tổ quản lý tài sản phải có đầy đủ các thành viên quy định tại đoạn 3 Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp và phải tổ chức, hoạt động theo đúng các quy định của Chính phủ về "quy chế tổ chức và hoạt động của tổ quản lý tài sản".
4. Để việc ra quyết định không mở hoặc quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được đúng, ngoài việc phải xem xét đơn và các giấy tờ, tài liệu kèm theo một cách kỹ càng, thận trọng, trong trường hợp xét thấy cần thiết, Chánh toà Toà kinh tế có thể triệu tập chủ nợ, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đến Toà án để trình bày về những vấn đề cần thiết hoặc yêu cầu họ cung cấp, bổ sung các giấy tờ, tài liệu cần thiết khác.
5. Theo quy định tại đoạn 1 Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp thì trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Toà án phải ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp, đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật phá sản doanh nghiệp thì kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nghiêm cấm doanh nghiệp mắc nợ tiến hành một số việc cụ thể, trong đó có nghiêm cấm thanh toán có bảo đảm từ tài sản của doanh nghiệp mà không có sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán; Thanh toán bất kỳ khoản nợ không có bảo đảm cho bất kỳ chủ nợ nào; Do đó, trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Toà án cần ấn định rõ thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp là kể từ ngày doanh nghiệp nhận được quyết định.
6. Trong quá tình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội như tham ô, lừa đảo, sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa..., thì Thẩm phán cần thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát xem xét để khởi tố về hình sự.
IV - VỀ VẤN ĐỀ CHỈ ĐỊNH THẨM PHÁN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP.
1. Đoạn 2 Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định: "tuỳ tính chất của từng việc cụ thể, Chánh Toà kinh tế cấp tỉnh chỉ định một Thẩm phán hoặc một tập thể gồm ba Thẩm phán... để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp". Do đó, khi có yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Chánh Toà kinh tế nếu xét thấy đủ căn cứ để ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì phải xem xét, tuỳ tính chất của từng việc cụ thể, chỉ định một Thẩm phán hoặc một tập thể gồm ba Thẩm phán để giải quyết.
Cần chỉ định một tập thể gồm ba Thẩm phán để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, khi xét thấy số lượng chủ nợ lớn, có nhiều khoản nợ khác nhau với số tiền rất lớn, doanh nghiệp có nhiều chi nhánh ở nhiều nơi, các yếu tố liên quan khác cho thấy độ phức tạp của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. Đối với trường hợp lúc đầu ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Chánh Toà án kinh tế chỉ định một Thẩm phán để giải quyết, nhưng quá trình tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, nếu xét thấy phức tạp, khó khăn, thì Chánh toà Toà kinh tế theo đề nghị của Thẩm phán được chỉ định hoặc tự mình ra quyết định chỉ định bổ sung Thẩm phán để có một tập thể gồm ba Thẩm phán tiếp tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Chánh toà Toà kinh tế chỉ định một tập thể gồm ba Thẩm phán để giải quyết, nhưng quá trình tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp cho thấy không cần thiết phải do một tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết, thì Chánh toà Toà kinh tế theo đề nghị của tập thể Thẩm phán được chỉ định hoặc tự mình ra quyết định rút bớt Thẩm phán và giao việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho một Thẩm phán phụ trách, giải quyết tiếp.
Cần lưu ý là các quyết định bổ sung trên đây cũng phải được gửi cho Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các bên đương sự.
V - VỀ VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
Theo điểm c khoản 1 Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp thì Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp "ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ" và theo khoản 2 Điều 17 Luật phá sản doanh nghiệp "Trong trường hợp cần thiết, tổ quản lý tài sản có quyền đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản còn lại của doanh nghiệp". Luật phá sản doanh nghiệp không quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm các biện pháp nào. Tuy nhiên theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật phá sản doanh nghiệp và tham khảo quy định tại chương VIII Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp có thể bao gồm các biện pháp sau đây:
a) Cho bán hàng hoá sản phẩm của doanh nghiệp trong trường hợp hàng hoá dễ bị hỏng, hàng hoá có thời hạn sử dụng và hàng hoá thuộc loại nếu không bán đúng thời điểm sẽ khó có khả năng tiêu thụ.
b) Kê biên tài sản của doanh nghiệp để tránh việc cất giấu, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán;
c) Phong toả tài khoản của doanh nghiệp.
d) Cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành vi nhất định.
VI - VỀ VẤN ĐỀ GIÁM SÁT, KIỂM TRA VÀ LẬP DANH SÁCH CHỦ NỢ.
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và tổ chức quản lý tài sản.
Do đó, trong thời hạn kể từ ngày doanh nghiệp nhận được quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho tới ngày Toà án ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc tới ngày Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán và tổ quản lý tài sản có trách nhiệm giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Giám sát, kiểm tra doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định tại khoản 2 Điều 18 và Điều 23 Luật phá sản doanh nghiệp.
- Giám sát, kiểm tra doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hoá, vật tư, bảo đảm việc thu tiền bán hàng hoá, vật tư đó phải được nhập vào tài khoản của doanh nghiệp.
- Giám sát, kiểm tra doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh, bảo đảm việc ký kết và thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp tuân theo đúng quy định của pháp luật, tránh việc doanh nghiệp lợi dụng việc ký kết và thực hiện hợp đồng để thanh toán nợ hoặc tẩu tán tài sản.
2. Việc giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải chặt chẽ, nhưng không được làm cản trở hoặc gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 Luật phá sản doanh nghiệp thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đầu tiên đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương về quyết định của Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ phải gửi đến Toà án giấy đòi nợ doanh nghiệp. Và kể từ ngày hết thời hạn 60 ngày này, trong thời hạn 15 ngày, Tổ quản lý tài sản phải lập xong danh sách các chủ nợ và số nợ. Danh sách chủ nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Toà án tỉnh, trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày.
Vì vậy, Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu, tuyên bố phá sản doanh nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra tổ quản lý tài sản trong việc lập danh sách chủ nợ. Danh sách chủ nợ phải ghi rõ:
- Họ tên, địa chỉ của các chủ nợ không có bảo đảm, số nợ của từng chủ nợ, số nợ đến hạn, số nợ chưa đến hạn của từng chủ nợ.
- Họ, tên, địa chỉ của các chủ nợ có bảo đảm một phần, số nợ của từng chủ nợ, trong đó cần phân định rõ số nợ có bảo đảm một phần và số nợ không có bảo đảm, số nợ đến hạn, số nợ chưa đến hạn của từng chủ nợ.
- Họ tên, địa chỉ của các chủ nợ có bảo đảm, số nợ của từng chủ nợ, số nợ đến hạn, số chưa đến hạn của từng chủ nợ.
- Tổng số nợ không có bảo đảm đến hạn của các chủ nợ.
Khi niêm yết danh sách chủ nợ, trong trường hợp doanh nghiệp có chi nhánh ở những địa phương khác Toà án giải quyết việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cần uỷ thác cho Toà án nơi có chi nhánh của doanh nghiệp niêm yết danh sách chủ nợ tại chi nhánh đó. Toà án nhận được uỷ thác niêm yết danh sách chủ nợ có trách nhiệm niêm yết ngay danh sách chủ nợ và thông báo lại cho Toà án uỷ thác biết rõ ngày mình đã niêm yết. Trong trường hợp doanh nghiệp có chi nhánh ở nước ngoài, Toà án cần yêu cầu cơ quan ngoại giao của Việt Nam (đại sứ quán hoặc lãnh sự quán) ở nước doanh nghiệp đặt chi nhánh niêm yết danh sách chủ nợ và thông báo lại cho Toà án biết rõ này niêm yết danh sách chủ nợ. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày niêm yết danh sách chủ nợ nếu các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có khiếu nại với Thẩm phán về danh sách chủ nợ, thì Thẩm phán xem xét khiếu nại, nếu thấy có căn cứ (như trong danh sách chủ nợ có tên chủ nợ đã được thanh toán hết số nợ; rõ ràng có sự sai sót về số nợ của chủ nợ; chủ nợ đi vắng xa không biết việc Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để gửi giấy đòi nợ đến Toà án v.v... thì Thẩm phán sửa đổi hoặc bổ sung vào danh sách chủ nợ).
Hết thời hạn 10 ngày kể từ ngày niêm yết danh sách chủ nợ, Tổ quản lý tài sản khoá sổ danh sách chủ nợ. Những chủ nợ không gửi giấy đòi nợ thì mất quyền tham gia hội nghị chủ nợ.
VII - VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
1. Theo quy định tại Điều 25 Luật phá sản doanh nghiệp thì cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có tên trong danh sách chủ nợ đều là thành viên của Hội nghị chủ nợ, không phân biệt là chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần hay chủ nợ không có bảo đảm, nhưng cần lưu ý là chỉ những chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ. Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn cũng có quyền biểu quyết trong trường hợp họ nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. Theo quy định tại Điều 29 Luật phá sản doanh nghiệp thì "Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm". Do đó, cần chú ý là ngoài các chủ nợ không có bảo đảm, thì các chủ nợ có bảo đảm một phần cũng được tính để xem xét Hội nghị chủ nợ có hợp lệ hay không, nhưng chỉ tính với số nợ không có bảo đảm.
Thí dụ: Một doanh nghiệp có 12 chủ nợ với số nợ 290 triệu đồng, trong đó có:
- 2 chủ nợ có bảo đảm với số nợ 100 triệu đồng,
- 5 chủ nợ có bảo đảm một phần với tổng số nợ 100 triệu đồng, được phân định rõ: nợ có bảo đảm 40 triệu đồng, nợ không có bảo đảm 60 triệu đồng.
- 5 chủ nợ không có bảo đảm 90 triệu đồng.
Như vậy trong thí dụ này tổng số chủ nợ đại diện cho tổng số nợ không có bảo đảm là 10 chủ nợ và tổng số nợ không có bảo đảm là 150 triệu đồng. Do đó, quá nửa số chủ nợ là ít nhất từ 6 người trở lên và ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm là 100 triệu đồng.
Trong thí dụ này Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có ít nhất là 6 chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm là 100 triệu đồng.
3. Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật phá sản doanh nghiệp thì trong thời hạn ba mười ngày kể từ ngày hoãn hội nghị chủ nợ. Thẩm phán triệu tập lại hội nghị chủ nợ và chủ trì hội nghị. Hội nghị ngày chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của số chủ nợ đủ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm. Như vậy, trong trường hợp Hội nghị chủ nợ đã được hoãn một lần thì Hội nghị chủ nợ lần thứ 2 được coi là hợp lệ chỉ cần một điều kiện đó là có sự tham gia của số chủ nợ (mà không cần đến quá nửa số chủ nợ) đủ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm. Thí dụ: trong thí dụ tại điểm 2 mục này thì Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có số chủ nợ (không phụ thuộc vào số lượng là bao nhiêu) đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
Trong trường hợp Hội nghị chủ nợ lần thứ 2 không đủ số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
4. Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là người tổ chức và chủ trì Hội nghị chủ nợ; cụ thể là:
- Triệu tập Hội nghị chủ nợ.
- Trước khi khai mạc Hội nghị, Thẩm phán phải kiểm tra sự có mặt của những người được triệu tập tham gia Hội nghị chủ nợ, xem xét với số người chủ nợ đã có mặt thì Hội nghị chủ nợ đã hợp lệ hay chưa, có cần hoãn Hội nghị chủ nợ hay không.
- Thẩm phán khai mạc Hội nghị và giới thiệu những người tham gia Hội nghị.
- Sau đó Hội nghị chủ nợ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định tại Điều 24 Luật phá sản doanh nghiệp.
5. Tuỳ từng việc cụ thể, Chánh toà Toà kinh tế có thể cử một hoặc hai Thư ký Toà án giúp Thẩm phán chủ trì hội nghị ghi biên bản Hội nghị. Biên bản Hội nghị phải ghi đầy đủ, chính xác quá trình diễn biến của Hội nghị và các ý kiến của những người tham gia Hội nghị.
6. Trong trường hợp Hội nghị chủ nợ đạt được sự thoả thuận thì theo Điều 33 Luật phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán ra quyết định công nhận biên bản hoà giải thành của Hôi nghị chủ nợ về phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và tạm đình chỉnh việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên tiếp.
Quy định "biên bản hoà giải thành về giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp chỉ có giá trị pháp lý khi được quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm thông qua" cũng được thi hành tương tự như hướng dẫn tại điểm 2 mục này.
VIII - VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, KHÁNG NGHỊ
1. Trong trường hợp có khiếu nại, kháng nghị thì Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao chỉ định một tập thể gồm ba Thẩm phán để giải quyết khiếu nại, kháng nghị. Khi giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có quyền:
a) Bác khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
b) Sửa đổi một phần quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
c) Huỷ quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
d) Huỷ quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tiến hành việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo thủ tục chung.
2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 40, thì quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng. Mặt khác việc phá sản doanh nghiệp không phải là một vụ án, cho nên theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, thì các quyết định của Toà án về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật không được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; do đó, khi giải quyết khiếu nại, kháng nghị, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần xem xét thận trọng, kỹ càng các quyết định của Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có khiếu nại, kháng nghị để có quyết định chính xác.
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là một vấn đề hoàn toàn mới đối với Toà án nhân dân; do đó, các đồng chí Chánh án các toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đồng chí Chánh án các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần tổ chức cho các Thẩm phán và cán bộ nghiên cứu của Toà án nghiên cứu kỹ các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp và các điểm được lưu ý trong công văn này.
Trong quá trình thi hành Luật phá sản doanh nghiệp, nếu thấy có điểm gì vướng mắc, các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần phản ánh ngay cho Toà án nhân dân tối cao để Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn kịp thời.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 09/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 2 năm 1995
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 09/KHXX NGÀY 15 THÁNG 02 NĂM 1995 THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA LIÊN NGÀNH VỀ MỘT SỐ HƯỚNG DẪN TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI TỘI PHẠM
Ngày 14-2-1995, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo Bộ Nội vụ và đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp đã họp để xem xét một số kiến nghị của một số cơ quan bảo vệ pháp luật một số địa phương đối với một số hướng dẫn của liên ngành về việc truy cứu trách nhiệm hình sự một số loại tội phạm. Sau khi thảo luận, đánh giá một cách toàn diện các vấn đề có kiến nghị, cuộc họp đã đi đến thống nhất như sau:
1- Việc xử lý các hành vi nhập khẩu trái phép, buôn bán trái phép thuốc lá điếu của nước ngoài được hướng dẫn tại điểm 1 Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20-11-1990 vẫn là phù hợp, đúng đắn. Việc thực hiện nghiêm chỉnh hướng dẫn tại Thông tư liên ngành này sẽ góp phần tích cực trong tình hình tăng cường đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu hiện nay.
2- Về căn cứ để xác định các tình tiết "Tài sản có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn", "thu lợi bất chính lớn", "gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản", nói chung vẫn áp dụng sự hướng dẫn tại mục XII Nghị quyết số 1/89 - HĐTP ngày 19-4-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao "Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự".
Tuy nhiên, đối với các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản", "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" về mặt tài sản đối với các nhóm tội không có yếu tố "chiếm đoạt" như: "cố ý làm trái...", "thiếu trách nhiệm..." Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ sẽ nghiên cứu và thống nhất hướng dẫn trong thời gian gần đây.
3- Về đường lối xử lý các tội được quy định tại Điều 96a và Điều 203 Bộ luật hình sự, sự hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 07/TTLN ngày 5-2-1992 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội dụ "Hướng dẫn việc áp dụng Điều 96a và Điều 203 Bộ luật hình sự" là đúng đắn. Việc xác định "số lượng lớn, giá trị lớn" đối với các chất ma tuý khác không phải là thuốc phiện là một vấn đề phức tạp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ sẽ có hướng dẫn chi tiết về vấn đề này. Trước mắt, việc xác định "số lượng lớn, giá trị lớn" đối với các chất ma tuý khác vẫn cần phải xác định theo giá trị tương ứng với giá trị của thuốc phiện như đã hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 07/TTLN ngày 5-12-1992.
Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp biết và thực hiện.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 13/KHXX Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm 1995
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 13/KHXX NGÀY 7 THÁNG 3 NĂM 1995 HƯỚNG DẪN VIỆC GIẢM THỜI HẠNCHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Nhân dịp kỷ niệm lầm thứ 50 Quốc khách nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 27- 2-1995 Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 335 QĐ/CTN về đặc xá năm 1995. Ngoài việc quyết định tha tù và miễn chấp hành hình phạt tù còn lại cho một số đối tượng, tại Điểm 4 của Quyết định, Chủ tịch nước còn lưu ý Toà án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan cần tổ chức thực hiện tốt việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt cho phạm nhân theo quy định tại các Điều 49, 51 Bộ luật Hình sự và tại các Điều 237, 238 Bộ luật Tố tụng hình sự. Để thực hiện nghiêm chỉnh điểm lưu ý của Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối cao đề nghị các đồng chí Chánh án các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đồng chí Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương đương cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các điểm sau đây:
1. Chủ động đặt vấn đề với các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự về điểm lưu ý của Chủ tịch nước. Đề nghị các cơ quan này rà soát danh sách những người đang chấp hành hìmh phạt tù tại trại giam do mình quản lý để xem xét, nếu có đối tượng không thuộc các đối tượng được tha tù hoặc miễn chấp hành hình phạt tù theo quy định tại các Điểm 1, 2 Quyết định về đặc xá năm 1995 của Chủ tịch nước (hoặc tuy thuộc các đối tượng đó, nhưng cần sớm được xét tha tù) và có đủ các điều kiện quy định tại các Điều 49, 51 Bộ luật Hình sự và tại Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự thì lập hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu đề xuất ý kiến.
2. Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hìmh phạt tù và có ý kiến đề xuất của Viện kiểm sát, Toà án cần khẩn trương tổ chức xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.
3. Về thủ tục xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, về điều kiện và mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, cần phải được thực hiện đúng các hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 04- 89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "Về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù" (xem sách "Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng"; tập I; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; trang 145 - 149).
4) Mặc dù việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là công tác thường xuyên, song năm 1995 là năm có nhiều ngày lễ lớn của dân tộc ta, nên cần xác định đây là công tác trọng tâm của Toà án trong năm 1995; do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án phạt tù, Viện kiểm sát để thực hiện tốt công tác này.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 73-TK Hà Nội, ngày 02 tháng 3 năm 1995
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 73-TK NGÀY 2 THÁNG 3 NĂM 1995
Về đường lối xét xử loại tội phạm tình dục trẻ em
Báo Thanh niên số 126 ra ngày 27-10-1994 có bài "Đồng Nai:Báo động trẻ em bị lạm dụng tình dục" và báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 15-2-1995 có bài "Lạm dụng tình dụng trẻ em: tình trạng khẩn cấp", đã phản ánh tình trạng hiếp dâm trẻ em và lạm dụng tình dục đối với trẻ em xảy ra rất nghiêm trọng ở tỉnh Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh.Theo khảo sát của Bộ Nội vụ, 15% số phụ nữ đi vào con đường mại dâm chưa đến tuổi thành niên.
Tại công văn số 945-TTBC ngày 27-2-1995 của văn phòng chính phủ về việc chống nạn mại dâm trẻ em đã thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh yêu cầu Uỷ Ban bảo vệ và Chăm sóc trẻ em làm việc với một số cơ quan đoàn thể, trong đó có Toà án nhân dân tối cao, để kiến nghị các biện pháp cụ thể chống nạn mại dâm trẻ em.
Để góp phần ngăn chặn tệ nạn nói trên, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu toà án nhân dân các địa phương chủ động làm việc với các cơ quan Công an và Viện kiểm sát cùng cấp nắm tình hình và có kế hoạch phối hợp ngay từ giai đoan điều tra để nhanh chóng đưa ra truy tố, xét xử những người có hành vi hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em dưới 16 tuổi, chứa hoặc môi giới gái mại dâm là trẻ em. Khi đưa ra xét xử những người có hành vi phạm tội nêu trên, các Toà án lưu ý như sau:
- Phải xử phạt thật nghiêm khắc với hình phạt cao trong khung hình phạt quy định tại các điều luật đã áp dụng; đồng thời phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung theo quy định của Bộ Luật Hình sự.
- Đối với những trường hợp mà người có hành vi hiếp dâm trẻ em,cưỡng dâm trẻ em hoặc giao cấu với trẻ em dưới 16 tuổi lại có cùng dòng máu về trực hệ với nạn nhân hoặc là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng mẹ khác cha, anh chị em cùng cha khác mẹ với nạn nhân, thì ngoài việc xét xử bị cáo về một tội theo quy định tại các Điều 112, 113, hoặc 114 Bộ Luật Hình sự, còn phải xét xử bị cáo thêm về tội "loạn luân" theo Điều 146 Bộ Luật Hình sự.
- Đối với những người có hành vi chứa hoặc môi giới gái mại dâm là trẻ em, cần xử phạt nghiêm khắc hơn so với trường hợp chứa hoặc môi giới gái mại dâm là người thành niên; nếu những người này dùng nhà ở, nhà hàng của tư nhân để hoạt động mại dâm, thì phải áp dụng khoản 1 Điều 33 Bộ Luật Hình sự để tịch thu sung quỹ Nhà nước phần nhà ở, nhà hàng mà họ dùng vào việc thực hiện tội phạm.
- Cần tổ chức phiên toà ngay tại địa bàn xảy ra tội phạm và đưa tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để phát huy kết quả phiên toà nhằm ngăn ngừa tội phạm.
- Trong trường hợp kẻ phạm tội sử dụng các cở sở quốc doanh (như khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, vũ trường...) để tổ chức chứa gái mại dâm là trẻ em, ngoài việc xử lý nghiêm khắc đối với
những người liên quan, cần ra quyết định yêu cầu cơ quan chủ quản của các cơ sở quốc doanh này áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm.
Sau khi xét xử các vụ án thuộc loại nêu trên, các Toà án cần có báo cáo nhanh gửi về Toà án nhân dân tối cao.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 05/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 1996
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 05/KHXX NGÀY 15 THÁNG 1 NĂM 1996 VỀ VIỆC THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ CẤM SẢN XUẤT, VẬN CHUYỂN, BUÔN BÁN VÀ ĐỐT PHÁO
Kính gửi: các đồng chí chánh áncác toà án nhân dân và toà án quân sự các cấp.
Ngày 8/8/1994 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 406/TTg "Về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo", nhìn chung qua hơn 1 năm kể từ ngày ban hành Chỉ thị này các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đoàn thể và đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và tự giác chấp hành. Nhưng gần đây, một số nơi đã xuất hiện việc nhập lậu pháo nước ngoài, đốt pháo nổ, có người vẫn còn tàng trữ pháo hoặc nguyên liệu làm pháo. Vì vậy, ngày 30/12/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có công văn số 74444/NC đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo kiên quyết, sát sao, bảo đảm thực hiện chỉ thị 406/TTg đạt kết quả.
Để góp phần có hiệu quả vào việc bảo đảm thực hiện Chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao đề nghị các Toà án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp lưu ý một số vấn đề sau đây:
1. Trong trường hợp các vi phạm về sản xuất, buôn bán, vận chuyển và đốt pháo đã đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngay sau khi vụ án đã được kết thúc điều tra Toà án phải cử Thẩm phán theo dõi để nắm vững nội dung vụ án, khi cần thiết thì nêu ngay yêu cầu để Viện kiểm sát giải quyết, điều tra bổ sung nhằm bảo đảm cho việc đưa vụ án ra xét xử được nhanh chóng, chính xác, nghiêm minh, đúng chính sách và pháp luật.
2. Về các hành vi vi phạm, Chỉ thị 406/TTg đã chỉ rõ:"Các vi phạm về sản xuất, buôn bán, vận chuyển và đốt pháo gây hậu quả nghiêm trọng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự". Do đó, cần phân biệt như sau:
a. Đối với những trường hợp sản xuất, tàng trữ, sử dụng, buôn bán pháo và thuốc pháo đến mức như hướng dẫn tại phần B Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật hình sự, thì phải bị try cứu trách nhiệm hình sự. (Cụ thể là: thuốc pháo từ 3kg đến 30 kg hoặc với số lượng dưới mức này nhưng đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi này hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án về tội cố ý , có tính chất chuyên nghiệp hoặc trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đối với pháo quả, bánh pháo với số lượng có số lượng thuốc pháo tương đương với mức hướng dẫn trên đây đều phải bị truy cứu trác nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự). Tuỳ từng trường hợp cụ thể, Toà án xét xử họ về một trong các tội "chế tạo", "tàng trữ", "sử dụng", "mua bán trái phép chất nổ, chất cháy"... theo quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp họ có nhiều hành vi phạm tội, thì xét xử họ về tội danh với tên gọi đầy đủ hành vi phạm tội.
b. Đối với người vận chuyển pháo hoặc thuốc pháo với số lượng đến mức phải bị truy cứu trác nhiệm hình sự (như đã nói tại điểm a trên đây), mà họ biết rõ là hàng họ vận chuyển là pháo hoặc thuốc pháo, thì Toà án xét xử về tội được quy định tại Điều 96 Bộluật hình sự với vai trò là người đồng phạm. Nếu họ không biết hàng mà họ vận chuyển là pháo, thuốc pháo thì không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ.
c. Trong những trường hợp sản xuất, tàng trữ vận chuyển, đốt pháo chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự (không thuộc những trường hợp được hướng dẫn tại điểm a trên đây), nhưng gây cháy nhà, cháy phương tiện vận tải, gây thương tích cho người khác hoặc gây chết người ... thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, Toà án có thể xét xử họ về tội "vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân", "tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của người khác" ... Trong những trường hợp này nếu số lượng pháo, thuốc pháo được sử dụng, vận chuyển, buôn bán đã đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì Toà án phải xét xử về 2 tội:"Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng,mua bán trái phép chất nổ, chất cháy ..." và tội tương ứng về hậu quả đã gây ra.
3. Chỉ thị 406/TTg không cấm việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán và đốt pháo hoa, nhưng cấm nhập loại thuốc pháo và pháo hoa từ nước ngoài vào Việt Nam. Tại Quyết định số 864/TTg ngày 30/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ "Về chính sách mặt hàng và điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1996" đã chỉ rõ cấm nhập khẩu "pháo các loại" từ nước ngoài vào Việt Nam. Do đó:
a. Đối với những trường hợp nhập khẩu pháo và thuốc pháo các loại, nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì Toà án xét xử họ về tội "buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới" theo Điều 97 Bộ luật hình sự.
b. Đối với những trường hợp buôn bán pháo hoa đã được nhập khẩutrái phép từ nước ngoài vào Việt nam , cần phân biệt 2 trường hợp:
+ Nếu có sự hứa hẹn về sự tiêu thụ pháo hoa với kẻ nhập khẩu , thì phải xét xử về tội "buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hành hoá qua biên giới" với vai trò là người đồng phạm.
+ Nếu không có sự hứa hẹn trước về việc tiêu thụ pháo hoa với kẻ nhập khẩu mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì Toà án xét xử họ về tội "buôn bán hàng cấm" theo điều 166 Bộluật hình sự.
4. Đối với trường hợp đốt pháo nổ trong phạm vi gia đình thì không bị xử lý về hình sự, nhưng cần kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Chỉ thị 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với trường hợp đốt pháo nổ ở nơi công cộng, nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ xét xử họ về tội "gây rối trật tự công cộng" theo Điều 198 Bộ luật hình sự; Nếu có kèm theo việc ném vào người khác gây thương tích, gây chết người, gây thiệt hại về tài sản còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng.
5. Khi xét xử các vụ án về vi phạm Chỉ thị 406/TTG, các Toà án cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng thông báo kết quả xét xử trên các loaị hình báo chí để mọi người biết, đồng thời thông báo ngắn gọn về Toà án nhân dân tối cao. Trong những điều kiện cho phép có thể mở phiên toà lưu động nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng và chống loại hình vi phạm tội này.
Phạm Hưng
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 11-KHXX Hà Nội, ngày 23 tháng 1 năm 1996
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 11 -KHXX NGÀY 23 THÁNG 1 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Qua hơn một năm thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền, Toà án nhân dân các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tốt những tranh chấp kinh tế, góp phần ổn định trật tự sản xuất kinh doanh và củng cố việc sản xuất kinh doanh tuân theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật cũng còn những vướng mắc, nhất là khi pháp luật chưa thống nhất, nhiều văn bản có những quy định không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, do đó dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau nên một số vụ án phải giải quyết nhiều lần, tính thuyết phục không cao, nhiều Toà án địa phương đã có văn bản phản ánh những vấn đề vướng mắc về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án nhân dân, cũng như một số vướng mắc khác trong việc thụ lý giải quyết các vụ án kinh tế. Để việc áp dụng pháp luật được đúng đắn và thống nhất, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề đó như sau:
1.Về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án nhân dân
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì chỉ có những hợp đồng được ký giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật mới được coi là hợp đồng kinh tế. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16 -1 -1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì: cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh doanh. Như vậy, pháp luật đã quy định rõ, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất phải có một trong các bên là pháp nhân, bên là cá nhân phải là người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền (trước đây là Trọng tài kinh tế, hiện nay là Uỷ ban kế hoạch). Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (29-4-1991) thì cá nhân có đăng ký kinh doanh mà không phải là doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật doanh nghiệp tư nhân, dù họ có ký hợp đồng với mục đích sản xuất kinh doanh, thì đó cũng chỉ là hợp đồng dân sự chứ không phải là hợp đồng kinh tế. Hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao tại Công văn số 442/KHXX ngày 18-7-1994 là đúng, hướng dẫn về thẩm quyền tại Thông tư số 11-TT/PL ngày 25-5-1992 của Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nay không còn phù hợp nên không áp dụng vào việc thụ lý và giải quyết các vụ án kinh tế nữa. Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có mục đích kinh doanh giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, nếu Toà án nhân dân giải quyết
theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế mà về nội dung đã được giải quyết đúng, thì không cần thiết huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì lý do không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị về mặt thủ tục tố tụng hoặc đương sự khiếu nại gay gắt yêu cầu được giải quyết đúng thẩm quyền.
2. Về hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh do chi nhánh của pháp nhân giao kết
Trong trường hợp chi nhánh của pháp nhân giao kết hợp đồng với một bên khác, khi xảy ra tranh chấp, Toà án cần phân biệt các trường hợp sau đây:
a) Nếu chi nhánh được sự uỷ quyền hợp pháp của người đứng đầu pháp nhân ký hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh thì đó là hợp đồng kinh tế hợp pháp, khi xảy ra tranh chấp thì Toà án nhân dân giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
b) Nếu chi nhánh nhân danh pháp nhân ký hợp đồng mà không được sự uỷ quyền hợp pháp của người đứng đầu pháp nhân, thì hợp đồng đó là vô hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, và khi xảy ra tranh chấp thì Toà án nhân dân giải quyết theo pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
c) Nếu chi nhánh không nhân danh pháp nhân mà tự mình giao kết hợp đồng thì đó chỉ là hợp đồng dân sự. Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này do Toà án nhân dân giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
3.Về tranh chấp kinh tế có nhân tố nước ngoài.
Theo Điều 87 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam, nếu một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài đều được giải quyết theo các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế sau đây:
a) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh được ký kết giữa một bên là pháp nhân Việt Nam với một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, không phân biệt việc pháp nhân đó có trụ sở hay không có trụ sở tại Việt Nam, cá nhân đó có cư trú tại Việt Nam hay không.
b) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
c) Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phtếu, trái phiếu.
d) Các tranh chấp kinh tế khác mà pháp luật có quy định.
Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh giữa các bên đều là cá nhân nước ngoài, đều là pháp nhân nước ngoài hoặc giữa một bên là pháp nhân nước ngoài với một bên là cá nhân nước ngoài do Toà án nhân dân giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, vì theo quy định của Điều 43 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì các hợp đồng đó không phải là hợp đồng kinh tế.
4.Vấn đề hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế
a) Hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Pháp lệnhThủ tục giải quyết vụ án kinh tế không qui định những vụ việc nào không được hoà giải. Trong thực tế việc hoà giải đã góp phần giải quyết vụ án được thuận lợi và nhanh chóng, cho nên việc hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế kể cả việc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu là không trái pháp luật. Nhưng đối với việc xử lý hợp đồng vô hiệu chỉ được hoà giải để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chứ không được hoà giải để giải quyết việc coi đó là hợp đồng vô hiệu hay không vô hiệu và càng không thể hoà giải để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Trường hợp chi nhánh của pháp nhân nhân danh pháp nhân ký kết hợp đồng không được uỷ quyền hợp pháp của người đứng đầu pháp nhân mà nội dung của hợp đồng đó không trái pháp luật, việc thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng phù hợp với đăng ký kinh doanh của các bên, thì Toà án có thể hoà giải để các bên chấp nhận hợp đồng và định cho họ một thời hạn phù hợp để họ hoàn tất hợp đồng theo quy định của pháp luật. Nếu các bên vẫn yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc sau khi đã hết thời hạn mà Toà án ấn định để hoàn tất hợp đồng mà không hoàn tất hợp đồng theo quy định của pháp luật thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
b) Trường hợp không thể tiến hành hoà giải được do bị đơn cố tình vắng mặt khi hoà giải, thì Toà án cần lập biên bản về sự cố tình vắng mặt đó của bị đơn, sau đó làm thủ tục thông báo cần thiết theo quy định của pháp luật như: niêm yết giấy báo công khai hay thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.. Nếu đương sự vắng mặt đến lần thứ hai khi hoà giải thì Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Toà án chỉ tiến hành hoà giải tại phiên toà nếu bị đơn có mặt.
5.Vấn đề tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi bị đơn bỏ trốn.
Trong trường hợp đã thụ lý vụ án kinh tế mà chưa tìm được địa chỉ của bị đơn hoặc bị đơn bỏ trốn nên chưa lấy được lời khai của bị đơn thì áp dụng khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu sau khi thụ lý vụ án, đã lấy được lời khai của bị đơn mà bị đơn bỏ trốn thì đưa vụ án ra xét xử theo hướng dẫn tại điểm b mục 4 Công văn này.
Trường hợp phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án mà thấy cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì Toà án phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước rồi mới ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn có hiệu lực thi hành.
Nếu việc bỏ trốn của bị đơn có dấu hiệu của tội phạm thì Toà án cần làm văn bản kiến nghị và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để khởi tố vụ án hình sự.
6.Về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong quan hệ kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân nhưng không có hợp đồng kinh tế.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế phải được các bên ký kết bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Theo quy định trên thì sự cam kết bằng miệng giữa pháp nhân với pháp nhân trong giao dịch quan hệ kinh tế không được coi là hợp đồng kinh tế, vì không đúng hình thức hợp đồng do pháp luật quy định; do đó, khi xảy ra tranh chấp, thì Toà án nhân dân giải quyết theo quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
7.Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển của nước ngoài để giải quyết tranh chấp trong giao nhận hàng hoá từ tàu biển nước ngoài
Điều 36 Bộ luật hàng hải quy định là chỉ sau khi đã thụ lý để giải quyết việc tranh chấp thì Toà án mới có quyền ra lệnh bắt giữ tàu biển để bảo đảm cho việc giải quyết tranh chấp đó. Vì vậy, chỉ sau khi đã thụ lý vụ án kinh tế hay vụ án dân sự, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có quyền ra quyết định bắt giữ tàu biển với tính chất là biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết, cụ thể là:
a) Trong trường hợp pháp nhân của Việt Nam ký hợp đồng vận chuyển với chủ tàu nước ngoài, nếu có tranh chấp thì Toà án nhân dân giải quyết theo các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và việc bắt giữ tàu biển với tính chất là biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong trường hợp cần thiết.
b) Trong trường hợp cá nhân, pháp nhân của Việt Nam ký kết hợp đồng mua hàng hoá của cá nhân, pháp nhân nước ngoài, mà bên nước ngoài thuê tàu biển vận chuyển để giao hàng cho bên Việt Nam, nếu chủ hàng không chịu giao hàng theo vận đơn, giao hàng thiếu hoặc để hàng hư hỏng, thì bên Việt Nam có quyền khởi kiện chủ tàu tại Toà án nhân dân để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Toà án nhân dân giải quyết loại tranh chấp này theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc bắt giữ tàu biển với tính chất là biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong trường hợp cần thiết. Hướng dẫn này cũng được áp dụng đối với trường hợp cá nhân ở Việt Nam ký kết hợp đồng vận chuyển với chủ tàu nước ngoài.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 33/KHXX Hà Nội, ngày 11 tháng 6 năm 1996
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 33/KHXX NGÀY 11 THÁNG 6 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ VÀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Trong thời gian vừa qua, Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương, đề nghi hướng dẫn một số trường hợp cụ thể trong công tác xét xử và thi hành án phạt tù. Để thi hành thống nhất trong các trường hợp cụ thể đó, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp như sau:
1. Đối với trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm xong bản án hình sự sơ thẩm bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã bị tạm giam bằng mức hình phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, thì theo quy định tại Điều 215a Bộ luật Tố tụng hình sự. Toà án cấp phúc thẩm có trách nhiệm xem xét và tùy từng trường hợp cụ thể mà ra một trong các quyết định sau đây:
a. Quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với bị cáo và trả tự do cho bị cáo (nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác) trong trường hợp bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng giám nhẹ hình phạt cho bị cáo hoặc trong trường hợp người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo, Viện Kiểm sát kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo, nhưng Toà án cấp phúc thẩm xét thấy không cần tiếp tục tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử.
b. Quyết định tạm giam đối với bị cáo, trong trường hợp người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và Toà án cấp phúc thẩm xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử.
Trong trường hợp thấy gần hết thời hạn tù Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo mà Toà án cấp phúc thẩm vẫn chưa ra một trong các quyết định nói trên thì Toà án cấp sơ thẩm cần chủ động yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sớm giải quyết theo thẩm quyền.
2. Đối với trường hợp bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm phạt tù với mức án dài hơn thời gian đã bị tạm giam (tính đến ngày xét xử sơ thẩm) dưới 30 ngày và trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bị cáo đã bị tạm giam bằng mức hình phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, nhưng vẫn chưa có kháng cáo, kháng nghị, thì việc trả tự do cho bị cáo là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát (theo quy định tại khoản 6 Điều 23 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Trong trường hợp hết thời hạn phạt tù Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo và vẫn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà Viện kiểm sát chưa ra quyết định trả tự do cho bị cáo thì Toà án cấp sơ thẩm cần chủ động yêu cầu Viện kiểm sát sớm giải quyết theo thẩm quyền.
Cần lưu ý rằng trong trường hợp hết thời hạn phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo và đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị kết án, trong
đó cần nói rõ người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù và yêu cầu cơ quan Công an trả tự do ngay cho người bị kết án, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng tương tự xảy ra, từ nay về sau khi xét xử sơ thẩm, nếu Toà án cấp sơ thẩm thấy cần thiết quyết định đối với bị cáo mức án dài hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam (tính đến ngày xét xử sơ thẩm) trên một tháng thì mới kết án bị cáo theo mức án đó. Trong trường hợp chỉ thấy cần thiết kết án bị cáo với mức án dài hơn dưới 30 ngày (thông thường để làm quyết định con số tròn tháng), thì không nên kết án theo mức án đó, mà kết án bị cáo với mức án bằng đúng thời hạn tạm giam và trả ngay tự do cho bị cáo tại phiên toà.
Ví dụ: Một bị cáo đã bị tạm giam đến ngày xét xử sơ thẩm là 14 tháng 11 ngày. Nếu Toà án cấp sơ thẩm thấy cần thiết phạt tù bị cáo với mức án từ 16 tháng tù trở lên thì mới nên quyết định mức án đó. Ngược lại nếu Toà án cấp sơ thẩm xét thấy chưa cần thiết phạt bị cáo với mức án 16 tháng tù mà thấy chỉ cần phạt bị cáo mức án 15 tháng tù vì muốn quyết định con số tròn tháng, thì trong trường hợp này, chỉ nên phạt bị cáo mức án bắng đúng thời hạn tạm giam là 14 tháng 11 ngày và trả tự do cho bị cáo tại phiên toà (nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác)
3. Đối với trường hợp trong một vụ án hình sự có nhiều bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm kết án, mà trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị chỉ có một hoặc một số bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, bị kháng nghị, thì căn cứ vào Điều 211, Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự, phần của bản án hình sự sơ thẩm đối với những bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được thi hành; do đó, đối với những bị cáo này Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định thi hành án phạt tù đối với họ (nếu họ bị phạt tù).
Phạm Hưng
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 39/KHXX Hà Nội, ngày 06 tháng 7 năm 1996
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 39/KHXXNGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐQUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
1. Về các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
a) Theo quy định tại khoản1 Điều 4 của Pháp lệnh, thì quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một số vấn đề cụ thể (cần lưu ý là các quyết đinh của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện chức năng tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng khi có khiếu nại sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng. Chỉ có các quyết định hành chính như quyết định về buộc thôi việc cán bộ, nhân viên Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc quyết định sử phạt vi phạm hành chính do vi phạm trật tự phiên toà, khi có khiếu kiện mới được xem là vụ án hành chính và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).
Để được coi là một quyết định hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết quyết định đó phải là của một trong các cơ quan này hoặc của Thủ trưởng, cán bộ, viên chức của một trong các cơ quan này và phải được làm bằng văn bản, trong đó ghi rõ đối tượng cụ thể được áp dụng quyết định hành chính và nội dung cụ thể của quyết định hành chính. Cần lưu ý rằng các quyết định hành chính của các cơ quan tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên Đoàn lao động... (tức là các cơ quan, tổ chức không được liệt kê tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh) cũng như các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các thành viên của các cơ quan, tổ chức này nếu có khiếu kiện thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
b) Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh, thì hành vi hành chính là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức Nhà nước. Để được coi là một hành vi hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết hành vi đó phải là của cán bộ, viên chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phuơng, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính có thể là việc thực hiện hoặc có thể là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật và không được thể hiện bằng văn bản.
Ví dụ: Hành vi hành chính là việc thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một người theo quy định pháp luật được giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của người có thẩm quyền về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình phụ của một gia đình do có sự lấn chiếm đất của công, nhưng khi thi hành công vụ người đó không những tháo dỡ công trình phụ mà còn có hành vi phá bỏ một phần của ngôi nhà.
Ví dụ: Hành vi hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một cơ quan hoặc một người theo quy định của luật pháp sau khi nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở, mặc dù hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu cần thiết thế nhưng quá thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan đó hoặc người đó vẫn không cấp giấy phép xây dựng nhà ở cho người xin phép.
c) Cần chú ý là không phải tất cả các quyết định hành chính của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh và cũng không phải tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan đó, nếu có khiếu kiện đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, mà chỉ có các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh nếu có khiếu kiện mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ngoài ra khoản 8 Điều 11 còn quy định cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án "khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật". Điều này có nghĩa là hiện nay Toà án mới chỉ được giao thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh còn các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực khác, thì chỉ khi đựơc Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao mới thuộc thẩm quyền giải quyết cuả Toà án. (Toà án nhân dân tối cao sẽ có thông báo kịp thời đến các Toà án nhân dân về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án mới được giao thêm này).
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
a) Điều 2 của Pháp lệnh quy định: "Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền". Do đó khi nhận được đơn kiện, khởi kiện vụ án hành chính, Toà án cần phải xem xét kèm theo đơn kiện đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đốí với quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật hay chưa? Nếu chưa có bản sao văn bản trả lời, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện và giải thích cho họ biết quy định tại Điều 2 và khoản 3 Điều 31 của Pháp lệnh.
Trong trường hợp đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại và nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo loại khiếu kiện hành chính), thì thông báo cho người khiếu kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của Chính ohủ và tiến hành thụ lý vụ án theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 32 của Pháp lệnh.
b) Theo quy định tại Điều 5 và Điều 30 của Pháp lệnh, thì người khởi kiện phải làm đơn kiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại. Đơn kiện phải có các nội dung chính quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh. Trong trường hợp người khởi kiện chưa làm đơn theo đúng quy định này, thì Toà án cần giải thích cho họ biết và yêu cầu họ làm lại đơn kiện có các nội dung chính theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh.
Toà án cần kiểm tra xem người khởi kiện, bên bị kiện cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã cung cấp đây đủ các văn bản, tài liệu quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh hay chưa. Nếu chưa, thì yêu cầu họ có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án.
c) Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết các vụ án; hết thời hạn này mà không nhận được ý kiến bằng văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Điều đó có nghĩa là, hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện không cung cấp các tài liệu theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án áp dụng các quy định của Pháp lệnh để tiếp tục giải quyết vụ án. Ví dụ như áp dụng quy định tại đoạn 4 Điều 5 của Pháp lệnh để xác minh, thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết buộc bên bị kiện phải cung cấp các tài liệu thì có thể áp dụng khoản 2 Điều 33 và khoản 2 Điều 34 của Pháp lệnh ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc đương sự, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu cụ thể nào đó. Trong thời hạn sáu mươi ngày (đối với vụ án phức tạp thì trong thời hạn không quá chín mươi ngày), kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên toà phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh; cụ thể là: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án.
d) Trong trường hợp, Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do "nguyên đơn rút đơn kiện" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh nếu sau đó họ khởi kiện lại, thì Toà án vẫn thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan Nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đến ngày khởi kiện lại chưa quá ba mươi ngày.
3. Về thẩm quyền của Toà án:
a) Điều 12 của Pháp lệnh quy định cụ thể thẩm quyền của Toà án các cấp, đồng thời cũng quy định cụ thể những truờng hợp mà Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện và những trường hợp mà Toà án nhân dân tối cao có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh. Do đó, cần lưu ý là:
- Đối với Toà án cấp dưới, khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo thủ tục sơ thẩm, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà Toà án cấp trên có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và xét thấy việc Toà án cấp trên giải quyết là cần thiết, thì chủ động yêu cầu Toà án cấp trên lấy lên để giải quyết.
- Đối với Toà án cấp trên khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà mình có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và tự xét thấy việc
lấy lên để giải quyết là cần thiết hoặc khi có yêu cầu của Toà án cấp dưới, thì mới lấy lên để giải quyết.
Cần chú ý là Toà án cấp trên chỉ có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp đã được quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh.
b) Khi xem xét thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, cần chú ý các quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh về phân biệt thẩm quyền giữa Toà án và cấp trên trực tiếp mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Trước hết cần xem xét quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó liên quan đến một người hay liên quan đến một số ngườì mà giải quyết như sau:
- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người, thì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án mặc dù người khởi kiện vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Trong trường hợp này Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).
- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có liên quan nhiều người, căn cứ vào quy dịnh tại điểm b khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh, thì trong mọi trường hợp sau khi nhận được đơn kiện, Toà án cần có văn bản gửi cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, yêu cầu cho Toà án biết bằng văn bản có người nào trong số những người có liên quan khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó hay không. Trong tường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết có người khiếu nại, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện hoặc chuyển đơn kiện cùng các tài liệu kèm theo đơn kiện mà Toà án nhận được cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khởi kiện biết. Trong trường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết không có người nào khiếu nại, thì Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung. Nếu sau khi thụ lý vụ án mới phát hiện có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 13; điểm e khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩn quyền của mình.
4. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạn thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện" quy định tại khoản 1 Điều 34 của Pháp lệnh, cần thi hành đúng quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 33 của Pháp lệnh: "nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời", cụ thể là:
a) Cần xem xét việc ra quyết định hành chính căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật nào. Nếu văn bản quy phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó có quy định quyết định hành chính đó vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì trong trường hợp này không được áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Ngược lại, nếu văn bản quy phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó không quy định: "quyết định hành chính vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện" hoặc quy định "quyết định hành chính chưa có hiệu lực thi hành, nếu có khiếu nại, khiếu kiện", thì Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Riêng đối với quyết định hành chính căn cứ vào Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới Pháp lệnh, mặc dù trong Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới Pháp lệnh có quy định vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì nếu xét thấy cần thiết , Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện".
b) Khoản 1 Điều 33 của Pháp lệnh quy định đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩm cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm việc thi hành án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp khi có đơn yêu cầu của đương sự là Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, mà phải căn cứ vào khoản 3 Điều 33 của Pháp lệnh, tức là phải trong truờng hợp có đủ căn cứ phápluật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án mới ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
c) Đối với yêu cầu của Viện kiểm sát thì khoản 2 Điều 33 quy định: "... Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Theo tinh thần của quy định này, thì Toà án phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; do đó, khi có yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án cần phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện và có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của mình. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính đó. Chánh án Toà án phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát.
5. Về sự tham gia phiên toà của đương sự và Viện kiểm sát.
a) Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 43 của Pháp lệnh thì đối với phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, nhưng trong trường hợp người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét xử, không cần phải biết lý do vắng mặt của bên bị kiện có chính đáng hay không chính đáng.
Đối với vụ án mà nội dung đã rõ ràng, có đủ chững cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Tòa án tiến hành phiên toà sơ thẩm không cần sự có mặt của đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Đối với vụ án thuộc trường hợp này cũng như vụ án khi xét xử sơ thẩm mặc dù có sự tham gia của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, nhưng do có kháng cáo, kháng nghị, khi xét xử phúc thẩm họ không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm không cần có sự có mặt của người tham gia tố tụng.
b) Theo quy định tại khoản 3 Điều 43, Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án và trong trường hợp có đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay đối với các vụ án về khiếu kiện quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Trong trường hợp không tham gia phiên toà sơ thẩm được thì phải có ý kiến bằng văn bản. Do đó, khi có vụ án thuộc một trong các trường hợp này nếu vắng mặt Kiểm sát viên mà cũng chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, thì Toà án cấp sơ thẩm phải hoãn phiên toà.
6. Về căn cứ pháp luật để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai.
Khi giải quyết vụ án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện.
Ví dụ: Nghị định của Chính phủ quy định về thu thuế đối với một loại hoạt động nào đó với mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cũng chỉ hướng dẫn cụ thể hơn và cũng hướng dẫn mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Uỷ ban nhân dân tỉnh X căn cứ vào địa phương mình cho rằng phải thu cao hơn nên ra văn bản hướng dẫn việc thu thuế đối với loại hoạt động này ở địa phương mình với mức tối đa là 8% tổng giá trị lợi nhuận. Khi thu thuế, cán bộ có thẩm quyền chỉ căn cứ vào văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh nên ra quyết định thu thuế 7% tổng giá trị lợi nhuận. Quyết định về thu thuế này bị khiếu kiện. Trong trường hợp này Nghị định của Chính phủ có giá trị pháp lý cao nhất và căn cứ vào nghị định của Chính phủ, thì quyết định về thu thuế của cán bộ có thẩm quyền là không đúng; do đó, khi xét xử Toà án quyết định huỷ bỏ quyết định về thu thuế nói trên và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định thu thuế phải sửa lại quyết định của mình cho đúng pháp luật.
Cần lưu ý là trong các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên (như trong ví dụ trên), thì đồng thời việc ra quyết định huỷ bỏ quyết định hành chính hay kết luận hành vi hành chính là trái pháp luật, Toà án cần kiến nghị với cơ quan đã ra văn bản quy phạm pháp luật trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên để cơ quan đó tự huỷ bỏ. Nếu trong một thời gian nhất định mà vẫn chưa huỷ bỏ, thì yêu cầu Viện kiểm sát áp dụng các quy định tại Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị văn bản nói trên.
Tuy nhiên, để việc ra quyết định được đúng đắn, Toà án phải xác minh tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện thì gồm có bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật của những cơ quan nào quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành để xác định văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.
7. Về hiệu lực thi hành của Pháp lệnh
a) Theo quy định tại điều 73 của Pháp lệnh, thì trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không có quy định khác, thì các quy định này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính, có đương sự là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; cụ thể là không phân biệt người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức của Việt Nam hay là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, việc phân biệt thẩm quyền của Toà án được thực hiện theo quy định tại Điều 12, Điều 13 của Pháp lệnh và việc giải quyết vụ án hành chính vẫn theo thủ tục chung.
b) Đối với các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trước ngày 1-7-1996 nay có khiếu kiện, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại cho đến ngày khởi kiện chưa
quá ba mươi ngày, thì Toà án vẫn thụ lý giải quyết theo quy định của Pháp lệnh. Ví dụ một người bị sử phạt vi phạm hành chính ngày 1-6-1996 và không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại với người đã ra quyết định xử phạt. Ngày 20-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời của người đã ra quyết định xử phạt và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại, nên ngày 9-7-1996 họ khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì trong trường hợp này Toà án thụ lý giải quyết theo theo thủ tục chung, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện mới 20 ngày.
Trong trường hợp quá ba mươi ngày thì Toà án trả lại đơn kiện và giải thích cho họ biết họ có quyền khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân. Ví dụ một người bị xử phạt vi phạm hành chính ngày1-5-1996 và không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại với người ra quyết định xử phạt. Ngày 1-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời của người ra quyết định xử phạt và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại nên ngày 5-7-1996 họ khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì trong trường hợp này Toà án trả lại đơn kiện, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện đã quá 30 ngày. Đồng thời Toà án giải thích cho họ biết quyền khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân.
c) Đối với các khiếu kiện về buộc thôi việc cán bộ, viên chức Nhà nước trước ngày 1-7-1996 theo quy định của pháp luật được coi là vụ án lao động và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nếu đã được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì Toà án tiếp tục giải quyết theo quy định của Pháp lệnh này, không đặt vấn đề chuyển sang giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đối với các vụ án loại này đã được giải quyết xong và đúng với các quy định của pháp luật trước ngày 1-7-1996, thì không đặt vấn đề căn cứ theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong trường hợp trái với các quy định của Pháp luật trước ngày 1-7-1996 cho nên bị kháng nghị, xét xử theo thủ tục giám đốc thảm hoặc tái thẩm và bị huỷ để giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm, thì vụ án được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc, các Toà án nhân dân các cấp báo về Toà án nhân dân tối cao, để có hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 40/KHXX Hà Nội, ngày 06 tháng 7 năm 1996
CÔNG VĂN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 40/KHXX NGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 1996 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) đựoc Uỷ ban thương vụ Quốc hội thông qua ngày 11-4-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
A. VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LAO ĐỘNG
1. Về các vụ án về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Theo quy định tại Điều 166, Điều 168 của Bộ luật Lao động và Điều 11 của Pháp lệnh thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án lao động về tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.
- Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động và trong quá trình học nghề; về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động.
-Tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về thực hiện thoả ước lao động tập thể; về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
2.Về quyền khởi kiện, khởi tố vụ án lao động.
Khác với việc khởi kiện vụ án dân sự, việc khởi kiện vụ án lao động có những đặc thù riêng; cụ thể là:
a.Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh thì những người sau đây có quyền khởi kiện vụ án lao động tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp mình:
- Người lao động;
- Tập thể lao động;
- Người sử dụng lao động.
b. Trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động thì theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh, công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động tại Toà án có thẩm quyền.
c. Theo quy định tại Điều 28 của Pháp lệnh thì đối với những vi phạm pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là người chưa thành niên, người tàn tật và các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác, nếu không có ai khởi kiện, thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án lao động tại Toà án có thẩm quyền. Người lao động chưa thành niên theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật lao động là người dưới 18 tuổi.
d. Trong trường hợp người nộp đơn không thuộc một trong các trường hợp a và b trên đây thì Toà án phải trả lại đơnn kiện theo quy định tại điểm a Điều 34 của Pháp lệnh.
đ. Theo quyđịnh tại Điều 120, Điều 125 của Bộ luật lao động, thì ngoài những người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên), người lao động có thể là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, người chưa đủ 15 tuổi (đối với một số nghề và công việc được nhận trẻ em chưqa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề... do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định), người tàn tật...; do đó, khi có một trong các bên đương sự là người lao động thuộc diện này, Toà án cần chú ý thực hiện đúng các quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh, cụ thể là:
- Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền ,nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng.
- Trẻ em chưa đủ 15 tuổi thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng thông qua người đại diện. Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình tham gia tố tụng, những khi cần thiết, Toà án triệu tập người đại diện của họ tham gia tố tụng.
- Nếu đương sự là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện của họ tham gia tố tụng.
Trong trường hợp không có người đại diện cho đương sự nói tại khoản 33 Điều này tham gia tố tụng, Toà án chỉ định một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm người đại diện cho họ.
e. Theo quy định tại Điều 18 của Bộ luật lao động, thì tranh chấp lao động được giải quyết theo những nguyên tắc thương lượng trực tiếp và tự dàn xếp giữa hai bên tranh chấp tại nơi phát sinh tranh chấp; thông qua hoà giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên, tôn trọng lợi ích của xã hội và tuân theo pháp luật. Xuất phát từ những nguyên tắc đó và theo quy định tại Điều 166 của Bộ Luật lao động và Điều 11 của Pháp lệnh, Toà án chỉ thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động với những điều kiện sau đây:
- Nếu tranh chấp lao động cá nhân, thì trước khi khởi kiện tại Toà án, các bên phải đưa việc tranh chấp ra Hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan lao động cấp huyện hoà giải. Chỉ trong trường hợp hoà giải không thành, kèm theo đơn khởi kiện phải có biên bản hoà giải không thành của Hội đồng hoà giải cơ sở hoặc của hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện lập) thì toà án mới thụ lý giải quyết. Thời hạn khởi kiện đối với các tranh chấp này là sáu tháng, kể từ ngày hoà giải không thành (điểm b, khoản 1 Điều 32 của Pháp lệnh)
Đối với tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bồi thương thiệt hại cho người sử dụng lao động (theo quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 166 của Bộ luật lao động và các điểm a, b khoản 1 Điều 11 của Pháp lệnh), thì Toà án thụ lý giải quyết không đòi hỏi điều kiện nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở. Thời hạn khởi kiện đối với các tranh chấp này là 1 năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp (điểm a khoản 1 Điều 32 của Pháp lệnh). Quy định này không hạn chế quyền của các bên đưa tranh chấp ra Hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện hoà giải và ngược lại, việc họ đưa tranh chấp ra hoà giải đó cũng không hạn chế
quyền của họ khởi kiện ra Toà án (nếu họ thấy khả năng hoà giải không thành) và vẫn trong thời hiệu khởi kiện 1 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Trong trường hợp họ đã tiến hành hoà giải tại cơ sở và đã có kết quả hoà giải thì Toà án chỉ thụ lý giải quyết nếu kết quả hoà giải không thành. Thời hạn khởi kiện trong trường hợp này là 6 tháng, kể từ ngày hoà giải không thành. Toà án không thụ lý vụ án nếu sự việc đã được hoà giải thành (có biên bản hoà giải thành) do hội đồng hoà giải cơ sở hoặc do hoà giải viên lao động thực hiện, vì hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận trong biên bản hoà giải thành theo quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật lao động mà trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm d - Điều 34 của Pháp lệnh.
- Theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật lao động và khoản 2 Điều 11 của Pháp lệnh, thì Toà án chỉ thụ lý giải quyêt các tranh chấp lao động tập thể, nếu đã được Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết mà một trong các bên hoặc cả hai bên không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động. Kèm theo đơn khởi kiện, bên khởi kiện phải nộp bản sao quyết định của Hội đồngtrọng tài lao động về việc giải quyêt tranh chấp lao động. Thời hạn khởi kiện là 3 tháng kể từ ngày cóquyết định của Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh.
Cần lưu ý là theo quy định tại khoản 2 Điều 172 của Bộ luật lao động nếu tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, thì họ có quyền chọn một trong hai biện pháp giải quyết tranh chấp lao động tập thể, đó là:
- Khởi kiện vụ án lao động yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp và không được đình công, trừ trường hợp họ rút đơn khởi kiện trước khi toà án ra quyết định giải quyết tranh chấp lao động đó.
- Thực hiện quyền đình công theo quy định của Pháp luật mà không có quyền khởi kiện vụ án lao động để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động tập thể.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hoãn hoặc ngừng cuộc đình công theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật lao động, nếu tập thể lao động khởi kiện tại toà án, thì Toà án thụ lý giải quyết tranh chấp lao động theo quy định chung và giải thích để tập thể lao động đó biết là họ không có quyền đình công nữa.
3.Về thời hiệu khởi kiện.
Khi xem xét về thời hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 32 của Pháp lệnh để quyết định thụ lý vụ án (Điều 35), trả lại đơn kiện (điểm c Điều 34), đình chỉ giải quyết vụ án (điểm d khoản 1 Điều 41), cần áp dụng theo các quy định tại các Điều từ 168 đến 171 của Bộ luật dân sự về thời gian không tính vào thời hạn khởi kiện, tính lại thời gian khởi kiện để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, do đó các tranh chấp lao động mà Bộ luật quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân (Điều 157) lẽ ra phải được thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/1996, vì vậy các loại tranh chấp lao động phát sinh từ ngày 1/1/1995 đến trước ngày 1/7/1996 đều được áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 32 của Pháp lệnh và thời hiệu đó chỉ được tính từ ngày 1/7/1996. Riêng đối với bốn tranh chấp lao động được quy định tại Nghị định số 10/NĐ-HĐBT ngày14/1/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thì thời hạn khởi kiện được tính theo quyđịnh của Nghị định này, Thông tu liên ngành số 03/TTLN ngày 2/10/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiẻm sát nhân dân tối cao , Tổng cục dạy nghề (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ) hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân về một số việc tranh chấp lao động và các văn bản pháp luật có liên quan; đó là:
- Công nhân, viên chức Nhà nước bị xử lý bằng hình thức buộc thôi việc;
- Học sinh học nghề, giáo viên dạy nghề và thực tập sinh ở nước ngoài bị buộc phải bồi thường phí tổn đào tạo cho Nhà nước vì bị xử lý kỷ luật;
- Những người đi hợp tác lao động với nước ngoài bị buộc phải bồi thường phí tổn cho Nhà nước vì vi phạm hợp đồng, bị kỷ luật phải về nước trước thời hạn;
- Những tranh chấp giữa người làm công với chủ tư nhân.
Các tranh chấp lao động phát sinh trước ngày Bộ luật có hiệu lực (1/1/1995), ngoài 4 loại tranh chấp nói trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó, nếu có đơn khởi kiện, thì Toà án không thụ lý giải quyết và giải thích rõ cho đương sự rõ.
4. Về việc hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án lao động.
Điều 38 quy định việc hoà giải để các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trong trưòng hợp các bên thoả thuận được với nhau về giải quyết vụ án, thì Toà án lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên đương sự, của Thư ký toà án, Thẩm phán ký tên và đóng dấu của Toà án vào biên bản thoả thuận đó. Khác với thủ tục công nhận thoả thuận giữa các đương sự trong vụ án dân sự là Toà án phải gửi biên bản hoà giải thành cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp và sau khi hết hạn 15 ngày đươbg sự không thay đổi ý kiến, Viện kiểm sát không kiến nghị thì Toà án mới ra quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự. Trong vụ án lao động, Toà án ra ngay quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; quyết định này có hiệu lực pháp luật, các đương sự không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, mà chỉ có quyền khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Viện kiểm sát nếu phát hiện thấy có vi phạm pháp luật trong quá trình hoà giải hoặc áp dụng pháp luật khi ra quyết định công nhận thoả thuận giữa các đương sự, thì có quyền kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc theo trình tự tái thẩm (nếu phát hiện có tình tiết mới).
Trong trường hợp hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét.
5. Về một số vấn đề khác.
a) Hội đồng xét xử vụ án lao động có trình tự sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh.
b) Ngoài những hướng dẫn trên đây, các quy định khác như:
- Về việc bị đơn từ chối khai báo, cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng;
- Về việc thay đổi thành phần Hội đồng xét xử hay những người tiến hành tố tụng khác;
- Về người đại diện của đương sự;
- Về việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án lao động;
- Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
...
Các Toà án áp dụng các hướng dẫn tương ứng tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án quân sự" để giải quyết những vấn đề tương tự trong quá trình giải quyết các vụ án lao động.
B. VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC CUỘC ĐÌNH CÔNG
Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 của Bộ lao động, Toà án nhân dân có thẩm quyền kết luận cuộc đình công hợp pháp hay bất hợp pháp. Đây là loại việc mới và rất nhạy cảm; do đó, khi có đơn yêu cầu Toà án kết hợp cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp thì cần khẩn trương nhưng thận trọng giải quyết nhằm hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của cuộc đình công tới tình hình chính trị và trật tự xã hội tại địa phương. Việc thụ lý giải quyết các cuộc đình công phải chú ý một số điểm sau đây:
1. Những người có quyền nộp đơn đến Toà án yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp
Theo quy định tại Điều 87 của Pháp lệnh thì những người sau đây có quyền nộp đơn đến toà án yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp:
a. Ban chấp hành công đoàn cơ sở nơi tập thể lao động đình công có quyền nộp đơn dến Toà án yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp;
b. Người sử dụng lao động nơi tập thể lao động đình công có quyền nộp đơn đến Toà án yêu cầu kết luận tính bất hợp pháp của cuộc đình công.
c. Trước khi bắt đầu đình công hoặc trong quá trình đình công cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên Đoàn lao động cấp tỉnh nơi có cuộc đình công có quyền gửi văn bản đến toà án yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp;
d. Viện kiểm soát nhân dân có quyền khởi tố để yêu cầu Toà án kết luận cuộc đình công là bất hợp pháp.
2. Về việc thụ lý yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
Khi xem xét thụ lý đơn yêu cầu theo quy định tại Điều 91 của Pháp lệnh, Toà án cần kiểm tra nội dung đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo đơn như đã được quy định tại điều 88 của Pháp lệnh, cụ thể là:
a. Nếu đơn yêu cầu Toà án giải quyết cuộc đình công của tập thể lao động, của người sử dụng lao động thì cần phải xem xét đã có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 88 của Pháp lệnh hay chưa? Nếu chưa có đầy đủ các nội dung đó, thì yêu cầu tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động làm lại đơn đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Pháp lệnh. Nếu đã có đầy đủ các nội dung đó, thì xem xét kèm theo đơn yêu cầu đã có các bản yêu cầu, bản thông báo về cuộc đình công, quyết định của Hội đồng Trọng tài lao động cấp tỉnh về việc giải quyết vụ tranh chấp lao động tập thể và các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết cuộc đình công hay chưa? Đối với người nộp đơn là người sử dụng lao động thì cần phải xem xét họ đã nộp tiền lệ phí theo mức do chính phủ quy định hay chưa?
b. Nếu văn bản yêu cầu toà án kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp của cơ quan lao động cấp tỉnh, của Liên đoàn lao động của cấp tỉnh, cũng như văn bản khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân, thì cần phải xem xét đã có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 88 của Pháp lệnh hay chưa? Nếu chưa có đầy đủ các nội dung đó, thì yêu cầu cơ quan làm lại văn bản yêu cầu theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 88 của Pháp lệnh. Nếu đã có đầy đủ các nội dung đó, thì xem xét kèm theo văn bản yêu cầu đã có các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp hay chưa?
c. Nếu sau khi xem xét, thấy đơn yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố đã có đầy đủ các nội dung theo yêu cầu quy định tại khoản 1, 2 Điều 88 của Pháp lệnh và đã có đầy đủ các giấy tờ, tài
liệu, chứng cứ kèm theo và xết thấy doanh nghiệp nơi tập thể lao động đình công không thuộc danh mục các doanh nghiệp cấm đình công do Chính phủ quy định, đồng thời xét thấy việc giải quyết cuộc đình công thuộc thẩm quyền của mình, thì Toà án vào sổ thụ lý đơn và thông báo cho ban chấp hành công đoàn cơ sở; người sử dụng lao động, cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên đoàn lao động cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết.
d. Việc thụ lý và giải quyết đình công phải được tiến hành khẩn trương nhằm tạo hạn chế ảnh hưỏng của nó tới quyền lợi của ngưòi lao động, của người sử dụng lao động và ảnh hưởng của nó tới trật tự an toàn xã hội; do đó, ngoài việc không được vượt quá thời hạn quy định tại các Điều 91, 92 của Pháp lệnh, Toà án phải tích cực rút ngắn thời hạn thụ lý và thời hạn giải quyết việc đình công.
3. Những việc cần tiến hành ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu.
a. Ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu Chánh toà Toà lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh phân công một Thẩm phán giải quyết cuộc đình công và một Thư ký Toà án giúp Thẩm phán trong việc lập hồ sơ giải quyết việc đình công.
b. Sau khi được phân công giải quyết cuộc đình công Thẩm phán cần nhanh chóng triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định tại Điều 93 của Pháp lệnh. Việc xác minh tại chỗ, tiến hành hoà giải giữa Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động về việc giải quyết cuộc đình công cần phải được lập biên bản, có chữ ký của những người tham gia vào các công việc này. Thẩm phán và Thư ký toà án phải ký vào biên bản và đóng dấu của toà án vào biên bản.
Nếu trong quá trình giải quyết cuộc đình công, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm soát nhân dân xem xét khởi tố về hình sự đối với người có hành vi phạm tội.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố, Thẩm phán đựơc phân công giải quyết cuộc đình công phải ra quyết định đưa cuộc đình công ra giải quyết hoặc quyết định đình chỉ việc giải quyết cuộc đình công.
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết cuộc đình công khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 95 của Pháp lệnh; cụ thể là: khi người có yêu cầu rút yêu cầu; khi Viện kiểm sát rút văn bản khởi tố; khi Ban cấp hành công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động thoả thuận được với nhau về việc giải quyết cuộc đình công, trước khi Toà án ra quyết định giải quyết cuộc đình công.
c. Trong quá trình giải quyết cuộc đình công, nếu xét thấy cần thiết, thì Thẩm phán đựơc phân công giải quyết hoặc hội đồng giải quyết cuộc đình công chỉ có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "cấm hoặc buộc tập thể lao động, người sử dụng lao đọng thực hiện một số hành vi nhất định". Ví dụ: cấm người sử dụng lao động bán máy móc, thiết bị; cấm tập thể lao động khi đình công tụ tập ngoài địa phận của doanh nghiệp v.v... Cần chú ý là trong Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cần ghi rõ thời hạn có hiệu lực của quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay và có thể bị thay đổi hoặc huỷ bỏ theo quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh.
4. Về hội nghị hoà giải.
a. Hội nghị hòa giải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết cuộc đình công và có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc giải quyết cuộc đình công; do đó thẩm phán được phân công giải
quyết cuộc đình công phải chuẩn bị tốt chương trình, nội dung cũng như về hình thức cho việc tiến hành hoà giải. Hội nghị hoà giải có thể được tiến hành tại trụ sở của toà án hoặc tai doanh nghiệp nơi xảy ra đình công.
b. Theo quy định tại Điều 98 của Pháp lệnh thì đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở, người sủ dụng lao động hay người đại diện hợp pháp của họ phải có mặt tại hội nghị hoà giải. Nếu vắng mặt người đại diện Ban cháp hành công đoàn cơ sở hoặc người sử dụng lao động hay người đại diện hợp pháp của họ thì Hội nghị hoà giải phải được hoãn.
Đói với đại diện Viện kiểm soát nhân dân, cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên đoàn lao động cấp tỉnh, thì có nhiệm vụ tham dự hội nghị hoà giải. Trong trưòng hợp cần thiết, Toà án có thể mời các chuyên gia về lĩnh vực hữu quan làm tư vấn tại hội nghị hoà giải. Nếu vắng mặt đại diện hoặc các chuyên gia được Toà án mời làm tư vấn hội nghị hoà giải, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể hoãn hội nghị hoà giải hoặc tiến hành hội nghị hoà giải.
c. Hội nghị hoà giải phải được tiến hành theo trình tự và thủ tục theo quy định tại Điều 99 của Pháp lệnh.
Trong trường hợp các bên tham gia không thương lượng, thoả thuận được với nhau về việc giải quyết cuộc đình công tạo hội nghị hoà giải này, thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải không thành có chữ ký của Thẩm phán, Thư ký hội nghị hoà giải và các bên đương sự. Đồng thời với việc lập biên bản hoà giải không thành, Thẩm phán cần ra quyết định buộc người sử dụng lao động trong thời hạn ba ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải khôngthành phải lập và đưa ra phương án mới về việc giải quyết cuộc đình công. Sau khi có phương án mới, Thẩm phán tổ chức hội nghị hoà giải lại và để cho các bên phải thương lượng với nhau về phương án đó. Nếu qua thương lượng hai bên nhất trí với nhau về phương án mới đó, thì thẩm phán lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên. Trong trưòng hợp các bên không thoả thuận được với nhau về phương án mới đó, thì Thẩm phán giao cho ban chấp hành công đoàn cơ sở tổ chức lấy ý kiến của tập thể lao dộng (những người tham gia đình công) bằng phương pháp bỏ phiếu kín về phương án mới đó. Nếu kết quả kiểm phiếu mà quá nửa tập thể lao động đồng ý với phương án mới do người lao động đưa ra, thì thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên về việc giải quyết cuộc đình công. Nếu kết quả kiểm phiếu mà quá nửa tập thể tập thể lao động không đồng ý với phương án mới do người sử dụng lao động đưa ra, thì Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xét tính hợp pháp của đình công.
Trong mọi trường hợp, trước khi ra quyết định mở phiên họp xét tính hợp pháp của cuộc đình công, Thẩm phán phải báo cáo với Chánh toà Toà lao động để chỉ định thêm hai Thẩm phán tham gia Hội đồng giải quyết cuộc đình công.
5. Về phiên họp của hội đồng giải quyết cuộc đình công.
a. Phiên họp của Hội đồng giải quyết cuộc đình công phải mở trong thời gian ba ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp và có đủ thành phần những ngưòi tham gia phiên họp theo quy định tại Điều 100 của Pháp lệnh. Trường hợp vắng mặt đại diện viện kiểm sát nhân dân hoặc Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc người sử dụng lao động (hay đại diện hợp pháp của họ) thì phải hoãn phiên họp; thời hạn hoãn không quá ba ngày (áp dụng theo quy định tại điểm 2 khoản 3 Điều 98 của Pháp lệnh).
b. Trình tự phiên họp xét tính hợp pháp của cuộc đình công phải tuân theo quy định tại Điều 101 cuả Pháp lệnh. Hội đồng thảo luận và quyết định giải quyết cuộc đình công theo quy định về nghị án được quy định tại khoản 1 Điều 54 của Pháp lệnh. Nếu cuộc đình công là hợp pháp,
trong quyết định phải ghi rõ chấp nhận yêu cầu của tập thể lao động, buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương và bảo đảm các quyền lợi khác của tập thể lao động trong thời gian đình công theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết tiền lương và những quyền lợi khác cho tập thể người lao động trong trường hợp cuộc đình công do Toà án tuyên bố là bất hợp pháp theo đúng quy định của Chính phủ (Toà án nhân dân tối cao sẽ có văn bản hướng dẫn riêng về vấn đề này).
6. Về căn cứ để xem xét các cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 80 của Pháp lệnh thì cuộc đình công khi có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là hợp pháp.
- Phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể và trong phạm vi quan hệ lao động;
- Được những người lao động làm việc tại một doanh nghiệp tiến hành trong phạm vi doanh nghiệp đó;
- Tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh mà không khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết;
- Tuân theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 173 của Bộ luật Lao động;
- Doanh nghiệp nơi tập thể lao động tiến hành đình công không thuộc danh mục doanh nghiệp phục vụ công cộng và doanh nghiệp thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh, quốc phòng do Chính phủ quy định;
- Không vi phạm quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc hoãn hoặc ngừng cuộc đình công;
b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 80 của Pháp lệnh, thì cuộc đình công thiếu một trong các điều kiện trên đây là bất hợp pháp.
c. Cần lưu ý trong trường hợp tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp do không tuân theo các quy định tại Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật lao động (điểm d khoản 1 Điều 80 của Pháp lệnh), thì Toà án cần giải thích cho tập thể lao động biết họ vẫn có quyền tiến hành đình công lại sau khi đã tuân thủ đầy đủ các quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật lao động.
7. Về việc giải quyết đơn khiếu nại đối với quyết định giải quyết đình công.
Khi có khiếu nại đối với quyết định của Toà lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền (theo lãnh thổ) phải tién hành giải quyết ngay theo đúng thành phần Hội đồng và đúng thời hạn 5 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Pháp lệnh. Quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng; do đó, khi giải quyết khiếu nại, các Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao cần xem xét thận trọng, kỹ càng các quyết định của Toà Lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh có khiếu nại để quyết định chính xác, đúng pháp luật.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc, các Toà án nhân dân các cấp báo cáo về Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Phạm Hưng
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 07/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 2 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 07/KHXX NGÀY 21 THÁNG 2 NĂM 1997 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN CỦA VKSND KIỂM SÁT CÔNG TÁC XÉT XỬ CỦA TAND
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Sau khi nghiên cứu Công văn ngày 27-1-1997 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh hỏi về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát công tác xét xử của Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao có ý kiếm như sau:
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Thực hành quyền công tố trước Toà án nhân dân cùng cấp;
- Yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự cần thiết cho công tác kiểm sát xét xử;
- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, Quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy, theo các quy định này thì Viện kiểm sát nhân dân không có quyền kiểm sát công tác xét xử án hình sự của Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới bằng việc lập đoàn kiểm tra (liên ngành hay chỉ riêng của Viện kiểm sát nhân dân) để kiểm tra tất cả các vụ án hình sự mà Toà án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện đã xét xử về một loại tội nào đó cũng như có áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự về án treo... Chỉ khi xét thấy cần thiết cho công tác kiểm sát xét xử Viện kiểm sát mới có quyền yêu cầu Toà án chuyển những hồ sơ vụ án cụ thể. Mọi thủ tục giao nhận hồ sơ đều phải thực hiện theo đúng các hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự".
Vì vậy, quý Toà cần trao đổi lại với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra việc áp dụng các quy định của Điều 44 Bộ Luật hình sự trong xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh và các Toà án cấp huyện của tỉnh Tây Ninh là không đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 46/KHXX Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 46/KHXX NGÀY 17 THÁNG 5 NĂM 1997 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN XỬ LÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÔ HIỆU
Kính gửi: Uỷ ban nhân dân quận Ba Đình - Hà Nội
Sau khi nghiên cứu nội dung Công văn số 305/CV-UB ngày 14-5-1997 của Uỷ ban nhân dân quận Ba Đình. Toà án nhân dân tối cao trả lời như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 25-9-1989, thì việc kết luận hợp đồng kinh tế là vô hiệu toàn bộ hoặc từng phần thuộc thẩm quyền của Trọng tài kinh tế. Nhưng theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 136/TTg ngày 1-4-1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, thì từ ngày 1-7-1994 hệ thống cơ quan trọng tài kinh tế Nhà nước chấm dứt hoạt động, đồng thời theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16-3-1994 thì các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế không còn có hiệu lực thi hành và giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế cho Toà án nhân dân. Tuy nhiên, Toà án là cơ quan xét xử không có chức năng quản lý nhà nước nên không thể tự mình kiểm tra và tuyên bố hợp đồng vô hiệu như Trọng tài kinh tế trước đây. Theo nội dung hướng dẫn tại điểm b mục 2 Công văn số 11/KHXX ngày 23-1-1996 của Toà án nhân dân tối cao, thì các hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi xảy ra tranh chấp Toà án nhân dân thụ lý giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và áp dụng quy định về xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu tại Điều 39 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để giải quyết.
Theo các quy định và hướng dẫn trên đây, Toà án nhân dân xử lý các hợp đồng kinh tế vô hiệu khi nào xảy ra tranh chấp mà các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết.
Đối với trường hợp Công ty sản xuất và dịch vụ xuất nhập khẩu Ba Đình ký với Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ - xuất khẩu Châu Á (SEPROMEX) hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 25-4-1996 mà vi phạm pháp luật thì hai bên phải gặp nhau để huỷ bỏ hợp đồng, nếu các bên không tự giải quyết được thì làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết theo thẩm quyền.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 59/KHXX Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 59/KHXX NGÀY 6 THÁNG 6 NĂM 1997 VỀ VIỆC ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Để áp dụng thống nhất các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10-5-1997, trong khi chờ đợi các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng các quy định của Luật này, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồngchí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao một số điểm sau đây:
I. VỀ THỜI HIỆU
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì "Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước công bố, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực" cho nên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 10-5-1997 và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 22-5-1997 (sau đây gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung...) có hiệu lực kể từ ngày 22-5-1997.
2. Khoản 1 Điều 7 Bộ luật Hình sự quy định: "Điều luật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực khi hành vi ấy được thực hiện"; do đó, các quy định của luật sửa đổi, bổ sung được áp dụng đối với tất cả các hành vi phạm tội được thực hiện kể từ ngày 22/5/1997 trở đi.
3. Khoản 2 Điều 7 Bộ luật Hình sự quy định: “Điều luật quy định một tội phạm mới hoặc một hình phạt nặng hơn không áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó được ban hành, trừ trường hợp luật quy định khác”. Trong Luật sửa đổi, bổ sung... không có quy định khác với quy định này, cho nên, nếu hành vi phạm tội đã được thực hiện trước ngày 22-5- 1997, mà sau ngày đó mới xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm thì vẫn áp dụng các quy định cũ của Bộ luật Hình sự, mà không được áp dụng các quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung... có quy định tội phạm mới hoặc hình phạt nặng hơn; cụ thể là:
a) Về Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung....
Không áp dụng các quy định sau đây, trừ trường hợp được hướng dẫn tại điểm 4 mục I Công văn này:
- Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 133);
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (các khoản 2, 3, 4 Điều 134a), trừ trường hợp....;
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (các khoản 2, 3, 4 Điều 137a);
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều 156);
- Tội lập quỹ trái phép (Điều 175);
- Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221a);
- Tội giả mạo trong công tác (Điều 224);
- Tội nhận hối lộ (Điều 226);
- Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ (Điều 227);
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 228 a).
b) Về Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ sung...
Không áp dụng các quy định tại các Điều: 185a, 185b, 185c, 185d, 185đ, 185e, 185g, 185h, 185i, 185k, 185l, 185m, 185n, 185o.
c) Về Điều 3 của Luật sửa đổi, bổ sung...
Không áp dụng các quy định tại các điều: 112a, 113a, 114, 202, 202a, 202b.
d) Về Điều 4 của Luật sửa đổi, bổ sung...
Không áp dụng các quy định sau đây:
- Điểm c khoản 1 Điều 39 về tình tiết tăng nặng: "Lợi dụng chức vụ cao để phạm tội";
- Đoạn 2 khoản 3 Điều 100;
- Tội hiếp dâm (Điều 112);
- Tội cưỡng dâm (Điều 113):
- Hình phạt bổ sung đối với các tội mới được bổ sung (Điều 118);
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 134);
- Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (các khoản 2, 3 Điều 137);
- Hình phạt bổ sung đối với các tội mới được bổ sung (Điều 142);
- Tội che giấu tội phạm, tội không tố giác tội phạm đối với các tội mới được bổ sung (Điều 246, Điều 247).
4. Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự quy định: “Điều luật xoá bỏ một tội phạm hoặc quy định một hình phạt nhẹ hơn được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó được ban hành”; do đó, các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung... không được nêu tại điểm 3 mục I Công văn này, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước ngày 22-5-1997. Ngoài ra cũng được áp dụng các quy định cụ thể sau đây của Luật sửa đổi, bổ sung đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước ngày 22-5-1997:
- Được áp dụng khoản 1 Điều 133, khoản 1 Điều 134a, khoản 2 Điều 156 (Luật sửa đổi, bổ sung...) để tuyên bố bị cáo không phạm tội đối với các hành vi tương ứng: tham ô tài sản xã hội
chủ nghĩa; lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới năm triệu đồng và không thuộc các các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm.
- Theo các văn bản hướng dẫn trước đây của Toà án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan, nếu tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân mà giá trị tài sản chiếm đoạt từ năm tấn gạo trở lên được coi là lớn và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 133 hoặc khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự. Nay theo quy định tại khoản 1 Điều 133, khoản 1 Điều 156 (Luật sửa đổi, bổ sung...) nếu tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân mà giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của các điều luật tương ứng này, thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều luật tương ứng; do đó, khi xét xử được áp dụng quy định này của Luật sửa đổi, bổ sung... để xét xử hành vi tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân theo khoản 1 Điều 133 hoặc khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự mà giá trị tài sản bị chiếm đoạt đến dưới một triệu đồng.
- Được áp dụng khoản 1 Điều 134a (Luật sửa đổi, bổ sung...) mà không áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 134a. Nếu thuộc một trong các trường hợp này, thì phải áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
- Được áp dụng khoản 1 Điều 226, khoản 1 Điều 227 (Luật sửa đổi, bổ sung...) để tuyên bố bị cáo không phạm tội đối với các hành vi tương ứng: nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ, nếu của hối lộ có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng và không thuộc các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm.
- Được áp dụng khoản 1 Điều 137 (Luật sửa đổi, bổ sung...) để tuyên bố bị cáo không phạm tội đối với hành vi sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử phạt hành chính.
II. VỀ ĐƯỜNG LỐI XÉT XỬ
1. Kể từ ngày 22-5-1997 trở đi người nào thực hiện một trong các hành vi phạm tội được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung...., thì phải xử phạt nghiêm khắc theo đúng quy định của Luật này.
2. Nếu trước ngày 22-5-1997 người nào thực hiện một trong các hành vi phạm tội được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung... theo hướng nặng hơn, thì về nguyên tắc là phải áp dụng các quy định cũ của Bộ luật Hình sự để xử phạt họ, nhưng có tham khảo các quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung... để quyết định hình phạt cho thoả đáng.
3. Trong trường hợp một người bị khởi tố, truy tố, xét xử về một tội nào đó với nhiều hành vi phạm tội (ví dụ: nhiều hành vi mua bán trái phép chất ma tuý), trong đó có hành vi thực hiện trước, có hành vi thực hiện sau ngày 22-5-1997, thì áp dụng điều luật đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung để xét xử (trong ví dụ trên là phải áp dụng Điều 185đ), nhưng khi quyết định hình phạt cần cân nhắc số lượng và tính chất của các hành vi được thực hiện trước cũng như của các hành vi được thực hiện sau ngày 22-5-1997 để quyết định một mức hình phạt cho thoả đáng đối với tất cả hành vi đó.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 78/KHXX Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 78/KHXX NGÀY 19 THÁNG 7 NĂM 1997 VỀ VIỆC CHIA THỪA KẾ MỞ TRƯỚC NGÀY 1-7-1991 TRONG ĐÓ CÓ DI SẢN LÀ NHÀ Ở
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
Sau khi nghiên cứu nội dung Công văn số 126/TA ngày 19/6/1997 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương hỏi về việc chia di sản thừa kế mở trước ngày 1-7-1991 trong đó có nhà ở. Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo Nghị quyết ngày 10-5-1997 kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và tinh thần thông báo tại Công văn số 62/KHXX ngày 12-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, thì Toà án nhân dân các địa phương phải tạm ngừng thụ lý để giải quyết hoặc ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết (nếu giải quyết chưa xong các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu từ 1 năm được xác lập trước ngày 1-7-1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, trong đó có thừa kế về nhà ở mở trước ngày 1-7-1991).
Trường hợp mà quý toà nêu ra tại Công văn số 126 TA ngày 19-6-1997 là trong khối di sản có nhà ở và thừa kế mở trước ngày 1-7-1991, thì ữung ngừng thụ lý để giải quyết hoặc ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, nếu đã thụ lý mà chưa giải quyết xong, để cừ Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Trong trường hợp các đương sự khởi kiện hoặc thoả thuận với nhau để đề nghị Toà án giải quyết tranh chấp thừa kế đối với các tài sản khác không liên quan đến nhà ở, thì Toà án có thể thụ lý giải quyết, hoặc tách các tài sản khác ra khỏi khối di sản thừa kế có nhà ở để giải quyết. Nếu các đương sự không tự thoả thận như đã nêu trên, Toà án không thụ lý hoặc ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao. Toà án không tự tách khối di sản để giải quyết bằng các vụ án chia thừa kế riêng biệt.
Những ý kiến trên đây để quý toà tham khảo vận dụng giải quyết trong các trường hợp cụ thể, tinh thần chung là vẫn nên giải thích cho đương sự chờ nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về vấn đề này để Toà án giải quyết dứt điểm tranh chấp chia thừa kế của họ trong cùng một vụ án.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 81/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 7 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 81/KHXX NGÀY 21 THÁNG 7 NĂM 1997 VỀ VIỆC TRAO ĐỔI VỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ
Sau khi nghiên cứu nội dung Công văn số 38/TA-GĐKT ngày 18-6-1997 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ trao đổi về việc giải quyết các tranh chấp nợ hụi và quyền kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định của Hội đồng xét xử công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo tinh thần Thông báo số 38/KHXX ngày 5-7-1996 của Toà án nhân dân tối cao "Về việc huỷ bỏ, chấm dứt hiệu lực thi hành, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định pháp luật dân sự theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự", thì Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 8-8-1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về nợ hụi" không còn hiệu lực thi hành để giải quyết các tranh chấp về nợ hụi phát sinh từ ngày 1/7/1996. Do vậy, các giao dịch về hụi được xác lập và thực hiện trước ngày 1-7-1996, nhưng sau ngày 1-7-1996 mới phát sinh tranh chấp, có đơn yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án căn cứ vào hướng dẫn tại khoản 1 phần II Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 10-8-1996 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự" và áp dụng các quy định của Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 8-8-1992 để giải quyết.
2. Theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì: "Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để giúp các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải" (Điều 5) và "Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Bản sao biên bản này được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Nếu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc được Viện kiểm sát, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối, thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật" (khoản 2 Điều 44). Về trường hợp này, theo hướng dẫn tại điểm 2 Mục II Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì quyết định công nhận sự thoả thuận này có hiệu lực pháp luật ngay, các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 52 của Pháp lệnh lại có quy định rằng nếu tại phiên Toà mà các đương sự thoả thuận được với nhau về giải quyết vụ án, thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thoả thuận đó. Trong trường hợp này, quyết định của Hội đồng xét xử công nhận sự thoả thuận của các đương sự không ra theo trình tự và thủ tục được
quy định tại khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, do đó, quyết định này chưa có hiệu lực pháp luật, ngay sau khi được tuyên bố, nếu các đương sự có quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được pháp luật quy định như đối với bản án sơ thẩm.
Trên đây là những ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà nghiên cứu vận dụng trong quá trình áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết các vụ án dân sự.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 82/KHXX Hà Nội, ngày 23 tháng 7 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 82/KHXX NGÀY 23 THÁNG 7 NĂM 1997 VỀ VIỆC TRAO ĐỔI VỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum
Sau khi nghiên cứu Công văn số 115/CV ngày 10-7-1997 của Toà án nhân dân tỉnh KonTum, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo tinh thần quy định tại Nghị quyết Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 ngày 10-5-1997 và tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 62/KHXX ngày 12-6-1997 của Toà án nhân dân tối cáo, thì Toà án nhân dân các cấp phải tạm ngừng thụ lý để giải quyết hoặc ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết (nếu giải quyết chưa xong) các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1-7-1991, giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức. Do đó, trường hợp mà quý Toà nêu ra tại Công văn số 115/CV ngày 10-7- 1997 về nguyên tắc cần căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn số 62/KHXX ngày 12-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra vụ án, nguyên đơn chỉ yêu cầu chia thừa kế lô đất mà không yêu cầu chia thừa kế căn nhà nữa, nếu xét thấy giá trị căn nhà đó là không đáng kể và nguyên đơn xin thay đổi nội dung đơn khởi kiện, trong đó ghi rõ là chỉ yêu cầu Toà án giải quyết chia thừa kế lô đất, đồng thời các đương sự thoả thuận với nhau đề nghị Toà án giải quyết chia thừa kế lô đất, không liên quan gì tới căn nhà nữa, thì Toà án có thể tiếp tục giải quyết. Nếu các đương sự không tự thoả thuận như đã nêu trên, thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo hướng dẫn đã nêu ở trên.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao trao đổi để quý Toà tham khảo và vận dụng giải quyết trong các trường hợp cụ thể. Tinh thần chung là Toà án nên giải thích cho các đương sự rõ là khi có Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án sẽ giải quyết theo quy định đó.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 92/KHXX Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 92/KHXX NGÀY 8 THÁNG 8 NĂM 1997 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN THI HÀNH THÔNG TƯ LIÊN TỊCH Kính gửi: Các Toà án nhân dân các cấp
Để xác định đúng thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh cấp quyển sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28/7/1997 "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993" (sau đây gọi tắt là Thông tư). Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/8/1997.
Như vậy, kể từ ngày 15/8/1997, các Toà án nhân dân các cấp căn cứ vào các hướng dẫn tại Thông tư này để thụ lý và giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Để thống nhất cách hiểu và áp dụng đúng tinh thần các hướng dẫn tại Thông tư này, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân các cấp một số điểm như sau:
1. Trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất (kể cả đất có tài sản mà họ không tranh chấp tài sản), thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ) hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn... nơi có đất (là đối tượng tranh chấp quyền sử dụng đất) về việc đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ). Chỉ sau khi có một trong hai loại giấy nêu trên để xác định chắc chắn là đối với đất đó (đang là đối tượng tranh chấp) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 (bìa đỏ), thì Toà án mới thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền như đã được hướng dẫn tại khoản 1 phần I Thông tư. Nếu đương sự không xuất trình được một trong hai loại giấy nêu trên, thì Toà án không thụ lý để giải quyết, trừ trường hợp họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
2. Trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất hoặc họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất như đã nêu ở trên, thì về nguyên tắc, Toà án phải thụ lý để giải quyết tranh chấp tài sản. Tuy nhiên, để giải quyết cả tranh chấp quyền sử dụng đất theo yêu cầu của người khởi kiện và để không ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ kiện, thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 (bìa đỏ) hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền về việc sử dụng đất đó thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã được nêu tại các điểm a, b, c
khoản 2 phần I Thông tư. Nếu người khởi kiện chưa có một trong các loại giấy nêu trên, Toà án cần giải thích cho họ để họ đến Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xin giấy xác nhận việc sử dụng đất (là đối tượng tranh chấp) thuộc trường hợp nào trong các trường hợp được nêu trong các điểm a, b, c khoản 2 phần I Thông tư.
Đối với những vụ tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất mà Toà án đã thụ lý, thì Toà án có thể làm văn bản yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất của đương sự theo hướng dẫn tại khoản 2 phần II Thông tư.
Tuỳ thuộc nội dung xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền mà Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo hướng dẫn tại các điểm a, b, khoản 2 phần II Thông tư hoặc không giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất mà chỉ giải quyết tranh chấp tài sản theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 phần I Thông tư.
Trong quá trình thực hiện Thông tư và hướng dẫn tại Công văn này, nếu có gì vướng mắc hoặc phát hiện những vấn đề mới phát sinh, thì cần báo cáo bằng văn bản cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 98/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 1997
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 98/KHXX NGÀY 21 THÁNG 8 NĂM 1997 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Sau khi nghiên cứu Công văn ngày 28-05-1997 (không đề số) của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị đề nghị hướng dẫn áp dụng pháp luật về việc xử lý các khoản tiền, tài sản do bị cáo chiếm đoạt, nhưng chưa tìm được chủ sở hữu của các tài sản đó trong khi xét xử, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 33 Bộ luật hình sự về tịch thu vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm thì "đối với những vật, tiền bạc thuộc sở hữu xã hội chủ nghiã hoặc thuộc tài sản của người khác bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thì không tịch thu mà trả lại cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp". Mặt khác, theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng thì: "vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu xã hội chủ nghiã hoặc thuộc sở hữu của người khác bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung công quỹ Nhà nước".
Như vậy, các khoản tiền, tài sản do bị cáo chiếm đoạt, nhưng chưa tìm được chủ sở hữu mà quý Toà nêu trong công văn trên thì Hội đồng xét xử phải căn cứ vào hồ sơ vụ án và việc xét xử tại phiên toà để xem đã xác định được ai là chủ sở hữu các khoản tiền, tài sản đó hay chưa. Trong trường hợp đã xác định được chủ sở hữu của những tài sản đó, thì Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho chủ sở hữu. Trong trường hợp không xác định được ai là chủ sở hữu của những tài sản đó, thì Hội đồng xét xử quyết định sung công quỹ Nhà nước. Việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hay quyết định sung công quỹ Nhà nước đều phải được nhận định và quyết định trong bản án, quyết định. Thời điểm xác lập quyền Sở hữu đối với các khoản tiền, tài sản này là ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 42/1998/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 1998
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 42/1998/KHXX NGÀY 21 THÁNG 4 NĂM 1998 VỀ VIỆC NGƯỜI BỊ HẠI VẮNG MẶT TẠI PHIÊN TOÀ PHÚC THẨM
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước
Sau khi nghiên cứu Công văn số 20/CVTA ngày 6-3-1998 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tại Khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên toà. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt; trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên toàn".
Theo quy định trên thì nếu người bị hại có kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt có lý do chính đáng (do ốm đau, do bị tai nạn hay gặp rủi ro khác mà không thể có mặt tại phiên toà phúc thẩm được), Toà án có thể xử vắng mặt người bị hại, nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho họ; trong trường hợp Toà án thấy có thể ra bản án, quyết định theo hướng không có lợi cho người bị hại vắng mặt, thì phải hoãn phiên toà. Nếu người bị hại đã được triệu tập hợp lệ, không gặp khó khăn, trở ngại đến mức không thế có mặt theo giấy triệu tập được, mà cố tình vắng mặt, thì Toà án có quyền xét xử vắng mặt người bị hại, kể cả việc ra bản án, quyết định không có lợi cho họ.
Bản án phúc thẩm có lợi cho người bị hại có kháng cáo là bản án, quyết định theo hướng chấp nhận một phần hoặc toàn bộ kháng cáo của người bị hại, xử tăng hình phạt, tăng bồi thường đối với bị cáo, huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng có lợi cho người bị hại. Trường hợp bản án phúc thẩm Quyết định bác toàn bộ kháng cáo của người bị hại, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm không bị coi là trường hợp ra bản án không có lợi cho người bị hại.
Trong trường hợp nêu tại Công văn của Quý Toà, người bị hại kháng cáo đã ba lần được triệu tập tham gia phiên toà nhưng cả ba lần đều vắng mặt không rõ lý do và chính quyền địa phương xác nhận rằng họ đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, cần được coi là trường hợp người bị hại vắng mặt không có lý do chính đáng, cố tình vắng mặt tại phiên toà. Vì vậy, trong trường hợp này Toà án cấp phúc thẩm có quyền xét xử vắng mặt người bị hại, kể cả việc ra bản án, quyết định không có lợi cho họ.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
Công văn số 140/1998/KHXX ngày 11/12/1998 của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự” và Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự” và đối chiếu với Thông tư số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của liên bộ Y tế, Lao động – Thương binh và xã hội “Quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới” thì trường hợp người bị gây thương tích phải cắt bỏ lá lách được xác định tỷ lệ thương tật từ 31% - 35% là trường hợp bị thương tích nặng. Tuy nhiên, các Nghị quyết nêu trên đều chưa có hướng dẫn thế nào là “cố tật nặng” và người bị gây thương tích phải cắt bỏ lá lách có phải là trường hợp bị gây cố tật nặng hay không.
Vì vậy, đối với trường hợp người bị gây thương tích phải cắt bỏ lá lách, việc truy tố, xét xử đối với kẻ phạm tội được thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 03/TATC ngày 22-10- 1987 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự”, cụ thể: “… đối với trường hợp này không cần thiết phải giám định cũng có thể truy tố, xét xử kẻ phạm tội theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự, vì việc cắt bỏ lá lách, một bộ phận quan trọng của cơ thể, được coi là cố tật nặng.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 05/1999/KHXX Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 05/1999/KHXX NGÀY 19 THÁNG 1 NĂM 1999 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI SẢN THEO ĐIỀU 136 VÀ ĐIỀU 159 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Trong thời gian qua, một số Toà án nhân dân tối cao đề nghị hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 136 và Điều 159 Bộ luật Hình sự; sau khi trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
Khi xét xử các vụ án về tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân, thì việc xác định giá trị tài sản để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng "tài sản có giá trị lớn" theo Khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự hoặc xác định "tài sản có giá trị lớn" để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 Bộ luật hình sự được thực hiện theo hướng dẫn tại Mục 8 Nghị quyết số 1/1998-NQ-HĐTP ngày 1-9-1998 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự"; cụ thể là:
a. Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 136 Bộ luật Hình sự).
- Nếu giá trị tài sản bị chiếm giữ dưới 70 triệu đồng, thì áp dụng Khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự.
- Nếu giá trị tài sản bị chiếm giữ từ 70 triệu đồng trở lên được coi là "tài sản có giá trị lớn" và trong trường hợp này phải áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự.
b. Đối với tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân (Điều 159 Bộ luật hình sự).
- Nếu giá trị tài sản bị chiếm giữ dưới 70 triệu đồng, thì chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Nếu giá trị tài sản bị chiếm giữ từ 70 triệu đồng trở lên được coi là "tài sản có giá trị lớn" và phải xét xử theo Điều 159 Bộ luật Hình sự.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- Số: 16/1999/KHXX Hà Nội, ngày 01 tháng 2 năm 1999
GIẢI ĐÁP
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 16/1999/KHXX NGÀY 1 THÁNG 2 NĂM 1999 VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH SỰ, DÂN SỰ, KINH TẾ, LAO ĐỘNG, HÀNH CHÍNH VÀ TỐ TỤNG
Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:
I. VỀ HÌNH SỰ
1. Ở miền núi, do tập quán lạc hậu, ít hiểu biết pháp luật các con nghiện đến nhà nhau hút thuốc phiện là chuyện bình thường; vì vậy, khi xử lý về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý có coi đó là tình tiết giảm nhẹ hay không?
Có coi việc "ở miền núi trình độ lạc hậu, ít hiểu biết Pháp luật" là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố, xét xử đối với những trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý hay không phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Đối với trường hợp người phạm tội đã được phổ biến, giáo dục về sự nguy hại của ma tuý, chủ trương chính sách của Nhà nước về phòng, chống ma tuý... mà lại có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý, thì không thể viện dẫn lý do "ở miền núi trình độ lạc hậu, ít hiểu biết pháp luật" coi đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội.
Đối với trường hợp kẻ phạm tội là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp, chưa được phổ biến giáo dục về những chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc phòng, chống ma tuý, và do bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lạc hậu ở địa phương nên đã có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý, thì khi xét xử đối với những trường hợp này có thể cho họ hưởng tình tiết quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 38 Bộ Luật hình sự.
2. Đề nghị hướng dẫn cụ thể những vật nào thì được xác định là "dụng cụ", những vật nào là "phương tiện" dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma tuý?
Vấn đề "thế nào là phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý" đã được hướng dẫn tại Tiết c Điểm 1 Mục II phần B Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ Luật hình sự"; tuy nhiên, để phân biệt sự khác nhau giữa phương tiện và dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý vẫn còn là vướng mắc, Toà án nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các cơ quan hữu quan để có sự giải thích chính thức; tạm thời cần hiểu "dụng cụ" là những vật được dùng vào
việc sử dụng trái phép chất ma tuý; "phương tiện" là những vật được dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.
3. Đề nghị hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì áp dụng phạt tiền là hình phạt chính, trường hợp nào thì áp dụng phạt tù là hình phạt chính đối với các tội quy định tại Chương VIIA Bộ luật Hình sự?
Đối với người phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 185g, Khoản 1 Điều 185h, Khoản 1 Điều 185k và Khoản 1 Điều 185n Bộ luật Hình sự, Toà án có thể áp dụng hình phạt chính là phạt tiền hoặc phạt tù có thời hạn. Để xác định trường hợp nào thì áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, trường hợp nào thì áp dụng hình phạt tù, trước hết phải quán triệt các quy định tại Điều 23 và Điều 185o Bộ luật Hình sự. Chỉ nên áp dụng hình phạt tiền là phạt chính trong các trường hợp người phạm tội có nhân thân tốt, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (nếu áp dụng hình phạt tù, thì cũng không quá ba năm); chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn...
4. Khái niệm "tổ chức" trong Điều 185i Bộ luật Hình sự có đồng nghĩa với khái niệm "tổ chức" quy định tại Khoản 3 Điều 17 Bộ luật Hình sự? Đề nghị hướng dẫn cụ thể tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 185i) và tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 185m)?
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và phạm tội có tổ chức là hoàn toàn khác nhau. Tổ chức sử dụng chất ma tuý có thể chỉ có một người thực hiện một trong các hành vi được hướng dẫn tại Điểm 2 Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA ngày 5-8-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an "Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương VIIA "Các tội phạm về ma tuý" của Bộ luật Hình sự". Còn phạm tội có tổ chức là phải có hai hoặc nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Về tội "tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý" (Điều 185i) và tội "cưỡng bức lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý" (Điều 185m) đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch nói trên. Tuy nhiên, để xét xử đúng tội danh, cần phải nghiên cứu kỹ hướng dẫn trong Thông tư liên tịch nói trên đối chiếu với trường hợp cụ thể đó để có quyết định chính xác. Nếu trong thực tiễn xét xử mà xét thấy còn có những vướng mắc gì, thì đề nghị phản ảnh các vướng mắc cụ thể đó để Toà án nhân dân tối cao phối hợp cùng các ngành hữu quan hướng dẫn bổ sung.
5. Thế nào là "phạm tội nhiều lần" đối với tội chứa mại dâm?
Bị coi là phạm tội nhiều lần đối với tội chứa mại dâm, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Chứa mại dâm từ hai lần trở lên đối với một đôi mua bán dâm hoặc các đôi mua bán dâm khác nhau (không coi là phạm tội nhiều lần, nếu chứa một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên tục và trong khoảng thời gian đó đôi mua bán dâm đó mại dâm từ hai lần trở lên).
- Chứa một người bán dâm (hoặc một người mua dâm) và để cho người đó mại dâm với hai người trở lên có thể liền nhau hoặc trong các lần khác nhau.
- Chứa hai đôi mua bán dâm trở lên cùng một lúc.
6. Đối với một vụ án buôn lậu, buôn bán hàng cấm, bị cáo bị bắt quả tang cùng tang vật là thuốc lá điếu của nước ngoài với số lượng nhất định. Trong quá trình điều tra bị cáo khai trước đó đã có một hoặc nhiều lần buôn bán, vận chuyển trót lọt số lượng thuốc lá điếu mà
mỗi lần buôn bán, vận chuyển với số lượng ít, chỉ cần xử lý hành chính hoặc với số lượng chỉ bị truy tố theo Khoản 1 Điều luật tương ứng; nếu cộng một hoặc tất cả những lần đó lại với lần bị bắt quả tang, thì số lượng thuốc lá điếu rất lớn (có thể trên 4500 bao). Vậy những lần buôn bán, vận chuyền thuốc lá điếu trót lọt đó có phải là tình tiết "phạm tội nhiều lần" không? Có cộng dồn số lượng hàng phạm pháp nhiều lần đó lại để tính số lượng vật phạm pháp hay chỉ xem những lần buôn bán trót lọt đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo?
Trước hết cần phải xem xét quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Nếu Viện kiểm sát chỉ truy tố lần phạm tội bị bắt quả tang mà không truy tố những hành vi phạm tội trước đó, thì Toà án chỉ xét xử lần phạm tội bị bắt quả tang. Trong trường hợp xét thấy bỏ lọt tội phạm thì trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát đã truy tố tất cả các hành vi phạm tội thì cần phân biệt như sau:
1. Đối với Điều 97 Bộ luật hình sự:
a) Nếu ngoài lần phạm tội bị bắt quả tang mà trong quá trình điều tra bị cáo khai trước đó có một hoặc nhiều lần buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và mỗi lần buôn lậu, vận chuyển với số lượng ít chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự (theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20-11-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp "Hướng dẫn xử lý một số loại tội phạm") nhưng cũng chưa bị xử lý hành chính và vẫn còn thời hiệu xử lý hành chính theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thì không áp dụng tình tiết định khung hình phạt "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo số lượng vật phạm pháp của các lần cộng lại.
b) Nếu ngoài lần phạm tội bị bắt quả tang mà trong quá trình điều tra bị cáo khai trước đó có một hoặc nhiều lần buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và có ít nhất là một lần có số lượng đã đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự (theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày 20-11-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp "Hướng dẫn xử lý một số loại tội phạm") nhưng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì phải áp dụng tình tiết định khung hình phạt "Phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 97 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này họ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo số lượng vật phạm pháp của tất cả các lần cộng lại.
2. Đối với Điều 166 Bộ luật hình sự:
Cũng cách xác định tương tự như đối với Điều 97 trên đây, nếu thuộc trường hợp tương tự như ở Điểm a Mục 1 trên đây, thì không áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo số lượng hàng phạm pháp của tất cả các lần cộng lại. Nếu thuộc trường hợp tương tự như ở Điểm b Mục 1 trên đây, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này họ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo số lượng hàng phạm pháp của tất cả các lần cộng lại.
Cần chú ý là trong các trường hợp trên đây, người phạm tội không những thật thà khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội bị bắt quả tang mà còn tự thú khai báo những lần phạm tội khác; do đó, khi quyết định hình phạt phải coi tất cả những tình tiết đó là tình tiết giảm nhẹ.
7. Hướng dẫn việc vận dụng tình Tiết "phạm tội nhiều lần", "phạm tội đối với nhiều người" trong các trường hợp người phạm tội tự thú, thật thà khai báo về hành vi vi phạm
trước đó của họ để đảm bảo sự công bằng trước pháp luật với các trường hợp che dấu tội phạm và phù hợp với nguyên tắc xử lý theo Khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự?
Đối với trường hợp khi bắt được người phạm tội, họ không chỉ khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện mà người phạm tội còn tự thú khai báo những hành vi phạm tội của họ trước đó, chưa bị các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện, về nguyên tắc những hành vi phạm tội mà người phạm tội tự khai ra cũng phải bị xử lý; tuy nhiên, từ trước đến nay, khi xét xử đối với các trường hợp này Toà án các cấp mới chỉ áp dụng cho bị cáo một tình Tiết giảm nhẹ là " thật thà khai báo" mà không cho họ hưởng thêm tình Tiết giảm nhẹ "người phạm tội tự thú". Vì vậy từ nay trở đi, khi xét xử đối với những trường hợp này cần áp dụng hai tình Tiết giảm nhẹ cho bị cáo là "thật thà khai báo" và "tự thú"; trên cơ sở đó có thể xem xét và áp dụng Khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với họ.
8. Trường hợp bị cáo có nhiều tình Tiết giảm nhẹ quy định tại cùng một Điểm thuộc Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, thì có được coi là có nhiều tình Tiết giảm nhẹ hay không? Trường hợp bị cáo có nhiều tình Tiết tăng nặng quy định tại cùng một Điểm thuộc Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự, thì có được coi là có nhiều tình Tiết tăng nặng hay không?
Nghiên cứu các quy định tại Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, cũng như thực tiễn xét xử của Toà án, thì chúng ta cũng phải coi trong trường hợp bị cáo có nhiều tình Tiết giảm nhẹ quy định tại cùng một Điểm thuộc Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự (như phạm tội mà chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu...) là có nhiều tình Tiết giảm nhẹ để xem xét khi quyết định hình phạt và có thể áp dụng Khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự. Cũng tương tự như vậy, chúng ta cũng phải coi trong trường hợp bị cáo có nhiều tình Tiết tăng nặng quy định tại cùng một Điểm thuộc Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự (như phạm tội có tổ chức; xúi giục người chưa thành niên phạm tội) là có nhiều tình Tiết tăng nặng để xem xét khi quyết định hình phạt.
9. Cơ sở nào để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm một trong số các tội xâm phạm sở hữu của công dân và số tiền từ bao nhiêu để áp dụng Khoản 1, 2, 3 theo Điều luật tương ứng?
Việc áp dụng Khoản 1, Khoản 2 hoặc Khoản 3 của Điều luật tương ứng để xét xử đối với bị cáo về một trong các tội xâm phạm sở hữu của công dân, thì phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể. Đối với các tội chiếm đoạt tài sản của công dân, tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân, thì được thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 1/1998/NQ-HĐTP ngày 21-9-1998 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Đối với các tội phạm khác xâm phạm sở hữu của công dân thì được thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, đối với vấn đề đặt ra "số tiền là bao nhiêu" phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cần phải xem xét một cách toàn diện cả về hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và hậu quả do tội phạm gây ra. Ví dụ: Một người có hành vi trộm cắp tài sản của công dân, có giá trị 100 ngàn đồng, nhưng người thực hiện hành vi trộm cắp là tái phạm nguy hiểm hoặc là lưu manh chuyên nghiệp, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là cần thiết. Thế nhưng nếu người thực hiện hành vi trộm cắp có nhân thân tốt, phạm tội do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn thì có thể không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ mà chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính.
10. Một số tội phạm không có yếu tố chiếm đoạt tài sản, nhưng Điều luật quy định thiệt hại tài sản là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt (Điều 139, Điều 140, Điều 175... Bộ luật hình sự); đề nghị có hướng dẫn cụ thể?
Khi xét xử người phạm một trong các tội không có yếu tố chiếm đoạt tài sản, nhưng Điều luật quy định thiệt hại tài sản là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt (Ví dụ: Điều 139, Điều 140, Điều 175... Bộ luật hình sự), thì cần phân biệt như sau:
a. Đối với các tội phạm quy định trong các Điều tương ứng của Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung lần thứ tư theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10-5-1997 (Ví dụ: Điều 175, Điều 221, Điều 221a...) thì khi chỉ có thiệt hại về tài sản việc xác định "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng", được thực hiện theo hướng dẫn tại Điểm e Khoản 1 Mục I Phần B Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự"; cụ thể là:
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng là gây hậu quả nghiêm trọng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng là gây hậu quả rất nghiêm trọng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ đồng trở lên là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng".
(Xem Cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 42).
b. Đối với các tội phạm quy định trong các Điều tương ứng của Bộ luật hình sự chưa được sửa đổi, bổ sung lần thứ tư (ví dụ: Điều 139, Điều 140... Bộ luật hình sự) thì theo Nghị quyết số 1/1998-NQ-HĐTP ngày 1-9-1998 (có hiệu lực kể từ ngày 21-9-1998) của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự" vẫn được thực hiện đúng những hướng dẫn trước đây của Toà án nhân dân tối cao hoặc các hướng dẫn liên tịch của Toà án nhân dân tối cao với các cơ quan liên quan khác. Theo các văn bản hướng dẫn trước đây thì đối với "Tội phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải" (Điều 186) và "Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo đảm an toàn hoặc Điều động người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng" (Điều 188) nếu chỉ có thiệt hại về tài sản việc xác định "gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản", "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" đã được hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng Điều 186, Điều 188 Bộ luật hình sự". Theo hướng dẫn tại Thông tư này thì:
- Gây thệt hại về tài sản với giá trị tương đương từ trên 15 tấn gạo đến 45 tấn gạo là thuộc trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản hay gây hậu quả nghiêm trọng.
- Nếu gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương trên 45 tấn gạo là thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
(Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 95-96).
Đối với các tội phạm khác, ngoài các tội phạm trên đây, theo các văn bản hướng dẫn trước đây thì coi là "gây hậu quả nghiêm trọng" nếu gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương từ năm tấn gạo đến mười lăm tấn gạo và coi là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" nếu gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương trên mười lăm tấn gạo. Để bảo đảm việc xét xử được thống nhất, từ nay ngoài các tội quy định trong các Điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự đã sửa đổi, bổ
sung lần thứ tư, thì đối với các tội phạm khác nếu có gây thiệt hại về tài sản, việc xác định "gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản", "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" được thực hiện theo Hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 7-1-1995 nói trên; cụ thể là:
- Gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương từ trên 15 tấn gạo đến 45 tấn gạo là thuộc trường hợp gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản hay gây hậu quả nghiêm trọng.
- Nếu gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương trên 45 tấn gạo là thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
11. Trường hợp người lợi dụng hợp đồng vay nợ là loại hợp đồng không thời hạn để dây dưa, kéo dài, không trả nợ, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm.... hay không?
Theo quy định tại Điều 474 Bộ luật hình sự, thì đối với hợp đồng vay không kỳ hạn, nếu bên cho vay muốn đòi lại tài sản phải báo trước cho bên vay trong một thời gian hợp lý để bên vay có thời gian chuẩn bị việc trả lại tài sản. Nếu hết thời hạn đã được thông báo mà người vay chưa trả được nợ vì họ đang trong tình trạng thực sự có khó khăn về kinh tế, không cố tình trốn tránh việc trả nợ và không có ý định chiếm đoạt tài sản của người cho vay, thì chỉ giải quyết về dân sự theo quy định của Bộ luật hình sự (nếu một trong các bên có yêu cầu).
Trường hợp người vay cố tình trốn tránh việc trả nợ, dây dưa kéo dài với ý định chiếm đoạt tài sản của người cho vay, thì đó là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân.
12. Trường hợp cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả như đốt nương làm rẫy, đốt lửa sưởi ấm trong rừng... làm cháy rừng, gây hậu quả nghiêm trọng, thì xét xử theo tội danh nào quy định trong Bộ luật hình sự là chính xác? (Điều 181, Điều 139, Điều 140 hay Điều 194).
Việc xác định người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều luật nào của Bộ luật hình sự phải tuỳ thuộc vào chủ thể thực hiện tội phạm và ý thức chủ quan của họ. Đối với trường hợp một người không được giao nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng nhưng đã biết hoặc buộc phải biết việc đốt nương làm rẫy, đốt lửa sưởi ấm trong rừng... là vi phạm các quy định của Nhà nước về việc quản lý và bảo vệ rừng mà họ vẫn thực hiện, dẫn đến việc làm cháy rừng, gây hậu quả nghiêm trọng, thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Điều 181 Bộ luật hình sự). Đối với trường hợp một người không được giao nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng, do vô ý đã làm cháy rừng gây thiệt hại nghiêm trọng, thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 140 Bộ luật hình sự). Đối với trường hợp một người được giao nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng, do thiếu trách nhiệm để cho người khác đốt nương làm rẫy, đốt lửa sưởi ấm trong rừng, dẫn đến việc cháy rừng, gây thiệt hại nghiêm trọng, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139 Bộ luật hình sự); nếu gây hậu quả nghêm trọng khác, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220 Bộ luật hình sự). Đối với trường hợp một người có trách nhiệm trong việc bảo quản, đặt để kho xăng trong rừng, nhưng vi phạm các quy định phòng cháy chữa cháy để cháy kho xăng và cháy rừng, gây hậu quả nghiêm trọng, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy (Điều 194 Bộ luật hình sự).
13. Đối với bị cáo là tái phạm nguy hiểm, cùng một lúc phạm hai tội, thì có áp dụng tình Tiết "tái phạm nguy hiểm" đối với cả hai tội không?
Đối với bị cáo là tái phạm nguy hiểm, cùng một lúc phạm hai tội, thì phải áp dụng tình Tiết "tái phạm nguy hiểm" đối với cả hai tội (nếu Điều luật quy định "tái phạm nguy hiểm" là tình Tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình Tiết định khung hình phạt, nếu Điều luật không quy định "tái phạm nguy hiểm" là tình Tiết định khung hình phạt, thì áp dụng là tình Tiết tăng nặng quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự).
14. Bị cáo phạm tội gây rối trật tự công cộng, nếu có hành vi phá phách có bị xét xử thêm về tội huỷ hoại tài sản... hay không? Nếu xử hai tội thì áp dụng Khoản 1 hay Khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự?
Trường hợp nếu hành vi phá phách của bị cáo đã cấu thành tội huỷ hoại tài sản và bị truy tố, thì Toà án xét xử bị cáo về hai tội. Riêng về hành vi phá phách được quy định là tình Tiết định khung của tội gây rối trật tự công cộng, cho nên mặc dù xử bị cáo về tội huỷ hoại tài sản, nhưng vẫn phải áp dụng Khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
15. Trong vụ án có bốn người thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có một người bị truy tố về tội giết người, ba người còn lại bị truy tố về tội gây rối trật tự công cộng. Người bị truy tố tội giết người bỏ trốn; một người bị truy tố về tội gây rối trật tự công cộng chết, nay bắt được người bỏ trốn; vậy việc áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự phải được thực hiện như thế nào? áp dụng đối với vụ án hay áp dụng đối với từng người?
Việc tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là đồi với từng người thực hiện vi phạm tội cụ thể. Nếu chỉ có một người bỏ trốn, các cơ quan chức năng đã ra lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính đối với người bỏ trốn; thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó được tính lại từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ. Còn đối với các bị cáo khác không bỏ trốn và không có lệnh truy nã, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày thực hiện tội phạm. Trong trường hợp vì lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng đã không ra lệnh truy nã đối với người bỏ trốn, thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bỏ trốn cũng được tính từ ngày thực hiện tội phạm (nếu họ không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều 45 Bộ luật hình sự).
16. Điều 33 Bộ luật hình sự chưa có quy định về việc xử lý vật chứng, đề nghị Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về vấn đề này?
Vấn đề xử lý vật chứng đã được hướng dẫn cụ thể trong Mục I Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT ngày 24-10-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng, tài sản kê biên trong quá trình Điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. (Vì trong Thông tư đã hướng dẫn rất cụ thể và chi Tiết, đề nghị các đồng chí xem các hướng dẫn trong Thông tư này).
17. Những trường hợp nào thì được coi là "Trường hợp đặc biệt" để được xoá án theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự?
Về vấn đề này đã được hướng dẫn tại Điểm b Mục 2 phần II Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 1-8-1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ hướng dẫn "Về việc xoá án"; cụ thể là: "Trong trường hợp đặc biệt người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt (như: thường xuyên lao động nghiêm chỉnh, có năng suất cao...), đã lập công và được cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội đề nghị, thì Toà án có thể xoá án nếu người đó đảm bảo từ 1/3 đến 1/2 thời hạn xoá án nói trên (Điều 55 Bộ luật hình sự)" . (xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 54).
18. Đề nghị hướng dẫn đường lối xét xử tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186 Bộ luật hình sự) vì thực tế có hai quan Điểm khác nhau là:
- Người vi phạm phải thực hiện tất cả các hành vi quy định tại Điểm a hoặc tại Điểm b hoặc tại Điểm c Khoản 1 mới coi là phạm tội.
- Người vi phạm chỉ cần thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điểm a hoặc Điểm b hoặc tại Điểm c Khoản 1 đã bị coi là phạm tội.
Quan Điểm thứ hai là đúng, vì vấn đề này đã được hướng dẫn tại Điểm 3 phần I Thông tư Liên ngành số 02/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng Điều 186, Điều 188 Bộ luật hình sự"; cụ thể là: "Người Điều khiển phương tiện giao thông vận tải vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không, thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c Khoản 1 Điều 186 Bộ luật hình sự, phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 186 Bộ luật hình sự, nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản như sau:
a) Làm chết một hoặc hai người;
b) Gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của một đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn nhân từ 41% trở lên;
d) Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương từ 5 tấn gạo đến 15 tấn gạo;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn nhân từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị tương đương từ 5 tấn gạo đến 15 tấn gạo;
e) Gây thiệt hại về tài sản với giá trị trương đương từ trên 15 tấn gạo đến 45 tấn gạo. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 95).
Theo tinh thần hướng dẫn trên đây thì người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điểm a (đi quá tốc độ hoặc chở quá trọng tải quy định hoặc tránh vượt trái phép) mà gây thiệt hại thuộc một trong các trường hợp trên đây phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 186 Bộ luật hình sự.
19. Những mẫu vật đã gửi đến cơ quan giám định để giám định nhưng cơ quan này đã không trả, thì cơ quan nào có quyền tiêu huỷ và thủ tục tiêu huỷ như thế nào?
Trường hợp cơ quan giám định không hoàn trả lại mẫu vật gửi tới giám định thuộc loại phải tiêu huỷ, thì việc tiêu huỷ sẽ do cơ quan giám định thực hiện; về nguyên tắc việc tiêu huỷ này phải được ghi rõ trong biên bản giám định gửi cho cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu giám định. Toà án nhân dân tối cao sẽ có công văn gửi tới Bộ Công an đề nghị hướng dẫn các cơ quan giám định về vấn đề này.
20. Đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, Toà án đã ra quyết định thi hành án, nhưng cơ quan công an chưa bắt và cũng không có lệnh truy nã, đến nay đã hết thời hiệu thi hành bản án theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, thì Toà án giải quyết như
thế nào? Mặc nhiên cho người bị kết án được hưởng thời hiệu hay ra thông báo hết thời hiệu thi hành bản án?
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, Toà án đã ra quyết định thi hành án, nhưng cơ quan Công an không bắt họ đi chấp hành án và cũng không có lệnh truy nã đối với họ, nếu đến nay đã hết thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự và không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, thì Toà án thông báo cho họ biết về việc họ được hưởng thời hiệu thi hành bản án hình sự. Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Mục V Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 26-12-1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 60).
21. Trường hợp một người có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, sau khi bị phát hiện, họ đã tự nguyện đem tài sản mà họ đã chiếm đoạt trả lại cho người có tài sản (đây là trường hợp trả lại tài sản, không phải là bồi thường), vậy khi xét xử, Toà án có áp dụng tình Tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội hay không? Trường hợp người phạm tội (hoặc gia đình của họ) tự nguyện thực hiện việc bồi thường cho người bị hại, nhưng vì thù tức mà người bị hại không nhận; do không hiểu biết pháp luật nên người phạm tội (hoặc gia đình của họ) đã không nộp số tiền bồi thường cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà đem về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường, thì người phạm tội có được hưởng tình Tiết "tự nguyện bồi thường thiệt hại" hay không?
Mặc dù Điểm a Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự không quy định cụ thể việc người phạm tội tự nguyện đem tài sản đã chiếm đoạt trả lại cho người có tài sản là tình Tiết giảm nhẹ, nhưng theo tinh thần quy định tại Điểm này, thì phải coi việc người phạm tội tự nguyện đem tài sản đã chiếm đoạt trả lại cho người có tài sản là trường hợp người phạm tội đã làm giảm bớt tác hại của tội phạm; do đó, nếu người phạm tội tự nguyện đem tài sản đã chiếm đoạt trả lại cho người có tài sản thì khi xét xử Toà án được áp dụng tình Tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.
Nếu người phạm tội (hoặc gia đình họ) xuất trình được các chứng cứ chứng minh rằng họ đã "tự nguyện bồi thường thiệt hại" nhưng vì thù tức, người bị hại đã không nhận và do không hiểu biết pháp luật nên người phạm tội (hoặc gia đình của họ) đã không nộp số tiền bồi thường cho cơ quan tiến hành tố tụng mà họ đem về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường và họ sẵn sàng nộp ngay tại phiên toà, thì Toà án coi đây là tình Tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự và cho bị cáo được hưởng tình Tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội không biết gia đình họ đã bồi thường hay chưa, đã chuẩn bị tự nguyện thực hiện việc bồi thường thay cho họ hay chưa, mà gia đình đã bồi thường hay đã chuẩn bị tự nguyện thực hiện việc bồi thường thay cho họ và sẵn sàng nộp ngay tại phiên toà thì Toà án không coi đây là tình Tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự mà chỉ coi đây là tình Tiết giảm nhẹ khác quy định tại Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự và phải ghi trong bản án.
22. Tình Tiết giảm nhẹ "phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 38 được áp dụng trong những trường hợp nào; nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 102 hoặc Khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự, thì tình Tiết này có đựoc áp dụng là tình Tiết giảm nhẹ nữa hay không? "Người khác"
trong tình Tiết "bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra" quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự là người nào? Là chính người bị hại hay là người thứ 3?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Điểm 3 Mục B phần II Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4- 1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự"; cụ thể như sau: "Những tình Tiết là yếu tố định tội (thí dụ: giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 102 Bộ luật hình sự) hoặc định khung hình phạt (thí dụ: tình Tiết tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân quy định tại Khoản 3 Điều 101 hoặc Khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự), thì không được coi là tình Tiết giảm nhẹ của chính tội đó nữa. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 93).
" Người khác" trong tình Tiết "bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra" quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự được hiểu là người bị hại và trong một số trường hợp có thể là người thân thích của người bị hại.
23. Trường hợp bị cáo thật thà khai báo về những hành vi mà họ đã thực hiện như cáo trạng truy tố, nhưng cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, không thừa nhận là đã phạm tội, thì họ có được hưởng tình Tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự hay không?
Theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, thì được coi là tình Tiết giảm nhẹ nếu "người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và Điều tra trội phạm". Như vậy, đối với trường hợp người phạm tội thật thà khai báo về những hành vi mà họ đã thực hiện, nhưng do không hiểu biết pháp luật nên cho rằng hành vi của họ là hợp pháp, không thừa nhận là đã phạm tội, nhưng sau khi được cơ quan tiến hành tố tụng phân tích giải thích, họ biết được tội lỗi và ăn năn hối cải, thì xét xử, Toà án cần cho họ được hưởng tình Tiết giảm nhẹ "thật thà khai báo, ăn năn hối cải" quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.
Đối với những trường hợp tuy khai nhận đầy đủ những hành vi mà họ đã thực hiện nhưng quanh co không nhận tội và mặc dù đã được cơ quan tiến hành tố tụng phân tích giải thích nhưng vẫn tỏ ra ngoan cố, không chịu ăn năn hối cải, thì khi xét xử, Toà án không áp dụng tình Tiết "thật thà khai báo, ăn năn hối cải" đối với họ.
24. Tình Tiết tăng nặng quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự "xúi giục người chưa thành niên phạm tội" có áp dụng đối với trường hợp người xúi giục cũng là người chưa thành niên hay không?
Điều 57 Bộ luật hình sự quy định: "Người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này". Trong Chương VII Phần chung Bộ luật hình sự "Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội" không có quy định nào loại trừ việc áp dụng các tình Tiết tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự nói chung và tình Tiết "xúi giục người chưa thành niên phạm tội" quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này nói riêng. Tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự chỉ quy định "xúi giục người chưa thành niên phạm tội: là tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội, chứ cũng không quy định người xúi giục phải là người thành niên; Vì vậy, nếu người chưa thành niên phạm tội mà có hành vi xúi giục người chưa thành niên khác phạm tội, thì khi xét xử Toà án phải áp dụng
tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: "xúi giục người chưa thành niên phạm tội" quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự đối với họ.
25. Người phạm tội trong thời gian thử thách của án treo hoặc phạm tội trong thời gian được hoãn, được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì có coi là trường hợp "phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt" quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự hay không?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 44 Bộ luật hình sự, thì án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có Điều kiện, đồng thời theo quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự thì người được hoãn chấp hành hình phạt tù là chưa phải đi chấp hành hình phạt tù và theo quy định tại Điều 232 Bộ Luật tố tụng hình sự thì người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là không phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù, thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù không tính vào thời gian chấp hành hình phạt; do đó, người phạm tội trong thời gian thử thách của án treo hoặc trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù thì không coi là phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt và không bị áp dụng tình Tiết tăng nặng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự; tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể để xem xét có áp dụng tình Tiết tăng nặng "tái phạm" hoặc "tái phạm nguy hiểm" đối với họ hay không.
26. Điểm e Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự quy định tình Tiết tăng nặng "phạm tội với trẻ em"; vậy "trẻ em" có phải là những người dưới 16 tuổi hay không; Đối với những trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của trẻ em (Ví dụ: trường hợp gây tai nạn giao thông làm chết trẻ em), thì có bị áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội đối với trẻ em" hay không?
Bộ luật hình sự có khái niệm "trẻ em" nhưng không quy định cụ thể trẻ em là người có độ tuổi bao nhiêu. Việc coi người có độ tuổi bao nhiêu là trẻ em phải căn cứ vào Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12-8-1991. Theo quy định tại Điều 1 Luật này, thì "Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt nam dưới mười sáu tuổi".
Không phải trong mọi trường hợp mà người bị hại do tội phạm gây ra là trẻ em đều phải áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội đối với trẻ em" quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự. Chỉ coi là phạm tội đối với trẻ em và phải áp dụng Điểm e Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự đối với người phạm tội trong trường hợp người phạm tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của trẻ em.
27. Trường hợp một người trong thời gian chấp hành hình phạt tù, lại thực hiện tội phạm mới, thì khi xét xử tội phạm mới ngoài việc áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt", Toà án có áp dụng tình Tiết tăng nặng "tái phạm" hoặc "tái phạm nguy hiểm" nữa hay không?
Trường hợp một người trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù lại thực hiện tội phạm mới, nếu khi xét xử tội phạm mới, theo quy định tại Điều 40 Bộ luật hình sự họ là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm và tình Tiết "tái phạm" hoặc "tái phạm nguy hiểm" không phải là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với tội phạm mới, thì ngoài việc áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt" quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự, Toà án còn phải áp dụng tình Tiết tăng nặng "tái phạm" hoặc "tái phạm nguy hiểm" quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 39 Bộ luật hình sự đối với họ.
28. Trường hợp nào thì coi là "tàn tật nặng" để được áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự theo như hướng dẫn tại Điểm 4 Mục A phần II Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19- 4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự". Trường hợp người bị tàn tật nặng do tai nạn giao thông hoặc do tai nạn rủi ro khác chứ không phải bị tàn tật nặng do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, thì có được áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự hay không?
Theo hướng dẫn tại Mục A phần II Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự", thì trường hợp phạm tội là người tàn tật nặng do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác được áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự. Mặt khác, theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh về người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30-7-1998, thì "Nhà nước khuyến khích, tạo Điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người tàn tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật..."; vì vậy, đối với trường hợp người phạm tội là người tàn tật nặng do tai nạn rủi ro (Ví dụ: do bị tai nạn giao thông hoặc bị tai nạn rủi ro trong sinh hoạt), thì khi xét xử Toà án cũng có thể áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với họ, nhưng phải ghi trong bản án.
Về vấn đề "thế nào là người tàn tật nặng", thì tại Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật nêu trên mới chỉ quy định về người tàn tật; cụ thể là "người tàn tật... là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn", Pháp lệnh giao việc phân loại các dạng tật, quy định mức độ tàn tật cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ chăm sóc người tàn tật, song cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, thì có thể coi là " người tàn tật nặng" khi người đó bị mất hai chân hoặc hai tay; bị liệt hai chân hoặc hai tay; bị liệt nửa người, bị mù hai mắt... Trong khi chưa có văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc người tàn tật quy định về phân loại các dạng tật, mức độ tàn tật, thì khi xét xử Toà án có thể coi người phạm tội là người tàn tật nặng để áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với họ, nếu họ thuộc một trong những người quy định tại Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật và tỷ lệ % mất khả năng lao động từ 61% trở lên theo Bản quy định tiêu chuẩn thương tật (Ban hành kèm theo Thông tư liên Bộ Y tế - Lao động - Thương binh và Xã hội số 12/TT-LB ngày 26-7-1995). (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 64 - 113).
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Trường hợp Toà án quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung; Sau khi Điều tra bổ sung xong Viện kiểm sát chuyển hồ sơ cho Toà án, thì Toà án giải quyết như thế nào? Nếu lệnh tạm giam của Toà án, Viện kiểm sát trước đây vẫn còn hiệu lực, thì Toà án có phải ra lệnh tạm giam mới nữa không? Nếu ra lệnh tạm giam mới thì thời gian là bao lâu?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại các Điểm 4 và 5 Mục I Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự"; cụ thể là:
"Khi Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát Điều tra bổ sung, thì Toà án xoá sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Toà trả hồ sơ vào sổ thụ lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Toà án thụ lý lại. Ngày chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đánh dấu (hoặc ghi) vào bìa hồ sơ.
...
Ngay sau khi nhận hồ sơ, Thẩm phán được phân công xét xử vụ án phải giải quyết việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quyền hạn của mình..." (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 135).
Như vậy, theo hướng dẫn trên đây thì cho dù lệnh tạm giam của Toà án, Viện kiểm sát trước đó vẫn còn hiệu lực, Toà án cũng phải ra lệnh tạm giam mới (Nếu xét thấy cần thiết). Căn cứ vào các quy định tại các đoạn 3 và 4 Khoản 2 Điều 151, Điều 152 thì thời hạn tạm giam là 30 ngày, trong trường hợp có lý do chính đáng thì 45 ngày. Nếu đến ngày mở phiên toà mà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà.
2. Khoản 2 Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự quy định "Đối với vụ án được trả lại để Điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử". Vậy trường hợp sau khi Điều tra bổ sung Viện kiểm sát đã sửa lại cáo trạng thay đổi tội danh hoặc truy tố thêm người phạm tội thì thời hạn Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là bao nhiêu ngày? Trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án Toà án phải mở phiên toà?
Một trong những trường hợp để Toà án ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung là: "Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác" (Điểm b Khoản 1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự). Đồng thời, theo quy định tại đoạn cuối Khoản 2 Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "Đối với vụ án được trả lại để Điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử". Như vậy, theo các quy định này, thì sau khi Điều tra bổ sung cho dù Viện kiểm sát, đã sửa lại cáo trạng, thay đổi tội danh hoặc truy tố thêm người phạm tội thì thời hạn Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vẫn là 15 ngày, kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Theo quy định tại đoạn 3 và đoạn cuối Khoản 2 Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn 30 ngày (nếu có lý do chính đáng thì trong thời hạn 45 ngày), kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án Toà án phải mở phiên toà.
3. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử, bị cáo bỏ trốn, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Sau đó 7 năm thì mới bắt được bị cáo và vụ án được thụ lý lại, vậy thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp này là bao lâu?
Theo hướng dẫn tại Điểm 2 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, "Hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử", thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà bị can bỏ trốn Toà án yêu cầu cơ quan Điều tra truy nã bị can và vẫn tiến hành các công việc theo thủ tục chung. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự mà việc truy nã bị can vẫn chưa có kết quả, thì Toà án áp dụng Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Nếu hết thời hạn 1 tháng, kể từ ngày có công văn yêu cầu cơ quan Điều tra truy nã bị can bỏ trốn mà việc truy nã vẫn chưa có kết quả, thì Toà án phải ra ngay quyết định đưa vụ án ra xét xử và Toà án xét xử vắng mặt bị cáo bỏ trốn đó theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 162 Bộ luật tố tụng hình sự (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 136).
Đối với trường hợp cụ thể nêu ra ở đây đáng lẽ sau khi Thông tư liên ngành có hiệu lực, Toà án cần phải tiếp tục giải quyết vụ án theo hướng dẫn trong Thông tư liên ngành. Tuy nhiên, nếu trước đây khi bị can bỏ trốn, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, đã yêu cầu cơ quan Điều tra truy nã và sau 7 năm mới bắt được bị can thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại (chứ không phải thụ lý lại vụ án). Nếu xét thấy cần thiết thì có thể coi là vụ án phức tạp và Chánh án Toà án có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 30 ngày (đoạn 2 Khoản 2 Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự).
4. Đối với kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) đã tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm và bản án đó bị huỷ để xét xử sơ thẩm lại. Khi xét xử sơ thẩm lại thì người này có được tiếp tục tiến hành tố tụng là Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) không?
Theo quy định tại Điều 31 và Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) phải từ chối tiến hành tố tụng nếu có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 31 (hoặc Điều 33). Trong Khoản 1 Điều 31 (hoặc Điều 33) không có quy định trường hợp Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) phải từ chối tiến hành tố tụng nếu đã tiến hành tố tụng vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án). Do đó, khi bản án sơ thẩm bị huỷ dể xét xử sơ thẩm lại, thì Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toà án) vẫn được tiến hành tố tụng với tư cách là Kiểm sát viên (hoặc Thư ký toàn án) khi xét xử sơ thẩm lại, nếu không có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
5. Tại Khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự quy định các trường hợp người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi. Trong trường hợp bị cáo, người bị hại là những người bị bệnh câm, điếc mà không học ở các trường khuyết tật, không biết chữ chỉ có thân nhân là vợ chồng, cha mẹ, anh chị em ruột mới hiểu được những cử chỉ của họ thì việc phiên dịch được thực hiện như thế nào?
Theo tinh thần quy định tại Khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự, thì cha mẹ, vợ chồng, anh em ruột của bị cáo, của người bị hại không được tham gia tố tụng với tư cách là người phiên dịch; do đó, Toà án phải tìm hoặc đề nghị gia đình của bị cáo hoặc của người bị hại tìm cho họ một người hiểu được những ký hiệu của người câm, điếc để có thể tham gia phiênn toà với tư cách là người phiên dịch đáp ứng được những quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự.
6. Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về trách nhiệm của người hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh "cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải chịu trách nhiệm về vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan". Vậy trách nhiệm ở đây là như thế nào ?
Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự, thì khi nhận bảo lĩnh cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết, như có lỗi trong việc để cho bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội; không dùng các biện pháp mà mình có thể làm được để bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, thì tuỳ vào mức độ cụ thể phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự.
7. Việc lấy lời khai của những người có liên quan trước khi khởi tố vụ án để làm cơ sở cho việc ra quyết định khởi tố vụ án, nhưng nếu sau khi khởi tố vụ án mà không lấy lại lời khai như vậy có vi phạm tố tụng không?
Một vụ án hình sự bắt đầu bằng quyết định khởi tố vụ án. Theo tinh thần quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự, thì chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ quy định tại Điều 83 và Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự. Việc lấy lời khai của những người có liên quan trước khi khởi tố vụ án, thì theo quy định tại Điều 84, Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự những việc làm đó thuộc tố giác, tin báo về tội phạm và nhiệm vụ giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm mà thôi. Chỉ có sau khi có quyết định khởi tố vụ án mới xác định được ai là người bị hại, ai là người làm chứng, ai là nguyên đơn dân sự, ai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... và chỉ khi đó họ mới trở thành người tham gia tố tụng, mới có quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình Điều tra, truy tố, xét xử; Do đó, nếu sau khi có quyết định khởi tố vụ án mà không lấy lại lời khai của họ là vi phạm tố tụng.
8. Nếu Luật sư được chỉ định vắng mặt mà tại phiên toà bị cáo là người chưa thành niên từ chối yêu cầu nhờ luật sư bào chữa và người đại diện hợp pháp của bị cáo này yêu cầu được tự mình bào chữa cho bị cáo, thì phiên toà có tiếp tục được tiến hành hay không? và cần phải làm những thủ tục gì?
Theo quy định tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự, thì "bị can, bị cáo (là người chưa thành niên) và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa". Vấn đề này đã được hướng dẫn tại công văn số 32/TK ngày 2-3-1989 của Toà án nhân dân tối cao và tại Điểm đ Mục B Báo cáo tổng kết 5 tháng đầu năm 1989 của Toà án nhân dân tối cao. Đối với trường hợp Luật sư chỉ định theo pháp luật vắng mặt tại phiên toà mà tại phiên toà bị cáo là người chưa thành niên từ chối người bào chữa cho mình, thì Toà án lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của bị cáo và biên bản này phải có chữ ký của bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo lưu vào hồ sơ vụ án và tiến hành phiên toà xét xử bình thường. Nếu người đại diện hợp pháp của bị cáo yêu cầu được tự mình bào chữa cho bị cáo, thì Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu đó và được ghi vào biên bản phiên toà. Điều đó là hoàn toàn đúng với quy định tại Điều 275 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong các trường hợp này phiên toà vẫn được tiến hành tiếp tục, nếu không phải hoãn phiên toà vì những lý do khác.
9. Chánh án có phải ra quyết định phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà như thủ trưởng cơ quan Điều tra ra quyết định phân công Điều tra viên Điều tra vụ án không?
Điều 9 Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân quy định "Thẩm phán làm nhiêm vụ theo sự phân công của Chánh án". Như vậy, luật pháp không bắt buộc khi phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà, Chánh án phải ra một quyết định. Thực tiễn công tác của Toà án từ trước tới nay cũng cho thấy rằng chưa bao giờ Chánh án phải ra một quyết định phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà và không có gì vi phạm tố tụng.
10. Cần áp dụng phương pháp nào để xác định tuổi của bị cáo, của người bị hại được chính xác đối với tội "hiếp dâm trẻ em"?
Việc xác định một cách chính xác tuổi của bị cáo, của người bị hại là rất quan trọng. Vấn đề xác định lý lịch bị can, bị cáo nói chung và tuổi của bị cáo nói riêng đã được hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 20-6-1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về lý lịch của bị can, bị cáo". Trong Thông tư này đã hướng dẫn trách nhiệm xác minh, phương pháp xác minh và hướng giải quyết khi không xác minh được (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 142 - 144). Tuy việc xác định tuổi của người bị hại chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, nhưng việc xác minh, phương pháp xác minh cũng được thực hiện như việc xác minh tuổi của bị cáo.
11. Cơ quan Điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Viện kiểm sát truy tố bị can về tội cố ý gây thương tích theo Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự khi bị hại không có yêu cầu khởi tố vụ án. Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để Điều tra bổ sung sau đó Viện kiểm sát truy tố theo Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự, vậy Toà án có thụ lý lại để xét xử không?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "Những vụ án về các tội phạm được quy định tại Khoản 1 Điều 109; đoạn 1, Khoản 1 Điều 112; đoạn 1 Khoản 1 Điều 113; Khoản 1 Điều 116; Khoản 1 Điều 117 và Điều 126 Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại". Do đó, trường hợp cơ quan Điều tra khởi tố và Viện kiểm sát truy tố bị can về tội cố ý gây thương tích theo Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự, khi người bị hại không có yêu cầu khởi tố vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự thì một trong những trường hợp Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Điều tra bổ sung là: "Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng" (Điểm c Khoản 1). Nếu sau khi Điều tra bổ sung mà Viện kiểm sát truy tố bị can theo Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự, thì Toà án thụ lý lại để xét xử theo thủ tục chung.
12. Trong trường hợp bị cáo gây thương tích nhẹ cho nhiều người, nhưng chỉ có một người yêu cầu khởi tố vụ án. Vậy những người không có yêu cầu khởi tố vụ án, có được tham gia phiên toà với tư cách là người bị hại trong vụ án không?
Theo Công văn số 03/TATC ngày 22-10-1987 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự", thì một số trường hợp cố ý gây thương tích tuy tỷ lệ thương tật của nạn nhân là từ 10% trở xuống, nhưng kẻ phạm tội vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 hoặc Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự. Trong số đó có hai trường hợp kẻ phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự là:
- Phạm tội đối với nhiều người cùng một lúc (Điểm 3 Mục A).
- Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người (Điểm 4 Mục A).
Tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1996, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn là Công văn số 03/TATC ngày 22-10-1987 ra đời lúc Bộ luật hình sự chưa có sửa đổi, bổ sung. Khi đó, tại Điều 109 trong Khoản 2 chưa có tình Tiết tăng nặng "gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người", nên các trường hợp nói trên kẻ phạm tội chỉ bị kết án theo Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự. Theo Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung ngày 28-12-1989, thì trường hợp trên được quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 109. Vì vậy, việc áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 109 không đòi hỏi thương tích của một hoặc tất cả các nạn nhân phải là từ 11% trở lên. Dù nhiều người bị thương chưa đến 11% trở lên thì kẻ phạm tội vẫn bị truy tố, xét xử theo Điểm d Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự.
Như vậy theo hướng dẫn trên đậy, thì trong trường hợp bị cáo gây thương tích nhẹ cho nhiều người, cho dù chỉ có một người yêu cầu khởi tố vụ án, thì người phạm tội vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm d Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự và do đó, những người không có yêu cầu khởi tố vụ án đều được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại trong vụ án.
13. Đối với trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự), nếu lúc đầu người bị hại có yêu cầu, các cơ quan Điều tra, truy tố đã hoàn tất hồ sơ và đã truy tố ra trước Toà án, nhưng khi Toà án đã thụ lý hồ sơ vụ án và trong thời hạn chuẩn bị xét xử, thì người bị hại lại rút yêu cầu; Vậy Toà án phải giải quyết như thế nào?
Khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp cần thiết, tuy người bị hại rút yêu cầu, Viện kiểm sát hoặc Toà án vẫn có thể tiến hành tố tụng đối với vụ án". Như vậy, về nguyên tắc chung nếu trước ngày mở phiên toà mà người bị hại rút yêu cầu, thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Toà án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng trong trường hợp cần thiết.
Để đánh giá thế nào là "trường hợp cần thiết", thì phải tuỳ thuộc vào từng vụ án cụ thể, tuỳ thuộc vào yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng thời kỳ, ở từng địa phương...
14. Đề nghị hướng dẫn đối với vụ án phức tạp mà khi xét xử cần phải có mặt bị cáo bỏ trốn để đồi chất với các bị cáo khác, kiểm tra lại lời khai của bị cáo bỏ trốn đó tại phiên toà... nhằm xác định sự thật của vụ án, nếu không thì rất khó xét xử hoặc đối với vụ án chỉ có một bị cáo, không có người bị hại, nếu xét xử vắng mặt bị cáo thì thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên toà không có thẩm vấn và chỉ có những người tiến hành tố tụng; do đó, phiên toà không có tính công khai?
Theo hướng dẫn tại đoạn 5 Điểm 3 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử", thì đối với trường hợp Toà án đã có công văn yêu cầu truy nã bị cáo, nếu hết thời hạn một tháng, kể từ ngày có công văn yêu cầu mà việc truy nã vẫn chưa có kết quả, thì cơ quan đã ra lệnh truy nã phải thông báo cho Toà án biết để Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo. Trong một số trường hợp có nhiều bị cáo mà có bị cáo bỏ trốn, nếu khi xét xử có mặt bị cáo đó để đối chất thì việc xét xử thuận lợi hơn. Song không vì chưa bắt được bị cáo bỏ trốn mà Toà án không tiến hành xét xử. Mặc dù không có mặt bị cáo bỏ trốn để đối chất, nhưng Toà án cần công bố những lời khai của bị cáo bỏ trốn (Nếu đã lấy được lời khai), căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình Điều tra để xét xử.
Không nên hiểu rằng đối với vụ án chỉ có một bị cáo, không có người bị hại, nếu xét xử vắng mặt bị cáo thì không có thẩm vấn và do đó phiên toà không có tính công khai. "Tính công khai" được hiểu là mọi người (trừ những người được quy định tại Khoản 4 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự) đều có quyền tham dự phiên toà (Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự) và tại phiên toà lời khai của bị cáo vắng mặt cũng như các chứng cứ khác để kết tội bị cáo được công bố công khai; Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, người bào chữa trình bày lời bào chữa (nếu có)...
15. Việc Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, sau khi căn cứ tạm đình chỉ không còn, thì Toà án căn cứ vào Điều nào của Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định phục hồi tố tụng?
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự, thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; cụ thể là:
a) Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y;
b) Khi không biết bị can đang ở đâu (bị can bỏ trốn). Trong trường hợp này phải yêu cầu cơ quan Điều tra truy nã bị can.
Do đó, nếu Toà án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp thuộc Điểm a, thì khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn, Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 286 Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định phục hồi tố tụng đã bị tạm đình chỉ. Nếu Toà án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án trong trường hợp thuộc Điểm b mà trong thời hạn một tháng đã bắt được bị can hay bị can đầu thú, thì Toà án áp dụng Điều 151 và Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; Nếu việc truy nã không có kết quả, thì Toà án áp dụng Điểm a Khoản 2 Điểm 162 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.
16. Một vụ án hình sự mà từ giai đoạn Điều tra đến xét xử không đề cập đến thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, thì vụ án được giải quyết như thế nào? Nếu trả hồ sơ để Điều tra bổ sung mà Viện kiểm sát không Điều tra bổ sung, thì Toà án có tiếp tục xét xử vụ án hay không?
Theo Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án toàn quốc năm 1994, thì: "Khi có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội hình sự và có gây thiệt hại về tài sản hoặc vật chất cho người khác, thì về nguyên tắc phải giải quyết ngay trách nhiệm dân sự trong bản án hình sự; Nếu chưa Điều tra làm rõ sự thiệt hại thì đương nhiên phải coi là chứng cứ chưa đầy đủ hoặc chưa có đầy đủ căn cứ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định mức án; do đó, nếu vụ án đang xem xét ở giai đoạn sơ thẩm mà việc Điều tra ở phiên toà khó có thể làm rõ được, thì phải hoàn lại hồ sơ cho Viện kiểm sát Điều tra bổ sung". Tuy nhiên, cũng được đề cập thêm rằng, trong một số trường hợp, tuy chưa xác định thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần cụ thể do hành vi phạm tội gây ra, nhưng Toà án vẫn có thể tiến hành xét xử mà không cần phải Điều tra bổ sung (như xét xử bị cáo về tội giết người). Thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần cụ thể trong các trường hợp này sẽ được giải quyết trong một vụ án dân sự khác, khi có yêu cầu.
Theo quy định tại đoạn 2 Khoản 2 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự, thì "Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu bổ sung mà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử". Trong trường hợp này, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra được xác định qua tài liệu và chứng cứ mà Toà án đã thu thập được và thông qua phần thẩm vấn tại phiên toà; Nếu như, do Viện kiểm sát không Điều tra bổ sung được và tại phiên toà thiệt hại không thể xác định được nên không có căn cứ để kết án bị cáo, thì Toà án tuyên bố bị cáo không phạm tội như Viện kiểm sát truy tố, vì không đủ chứng cứ kết án bị cáo về tội đó.
17. Đối với những bản án hình sự sơ thẩm do Toà án cấp tỉnh xét xử nhưng khi xét xử phúc thẩm, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tuyên huỷ phần quyết định về dân sự, giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại, thì Toà án cấp sơ thẩm ở đây là Toà án cấp huyện hay Toà án cấp tỉnh? Thủ tục xét xử lại phần dân sự đó theo thủ tục tố tụng hình sự hay theo thủ tục tố tụng dân sự?
Khi Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm giao cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại, tức là giao cho Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Như vậy, trong trường hợp nêu trên đây, thì toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm lại vụ án đó là Toà án cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Vì đây vẫn là một vụ án hình sự và giao cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại một phần trong vụ án hình sự, cho nên thủ tục xét xử sơ thẩm lại về phần quyết định bị huỷ cho dù đó là quyết định về dân sự trong vụ án đó được tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để giải quyết được đúng đắn khi xét xử sơ thẩm lại thì việc tiến hành các việc đó được thực hiện theo các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Cũng cần lưu ý là trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm huỷ phần quyết định về dân sự để giải quyết trong một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu, thì trong trường hợp này việc thụ lý, giải quyết khi có yêu cầu được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự.
18. Trường hợp trong một vụ án có nhiều bị cáo, sau khi xét xử sơ thẩm chỉ có một bị cáo kháng cáo, các bị cáo khác không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự đối với các bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, được thi hành và Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó ra quyết định thi hành án. Khi xét xử phúc thẩm Toà án cấp phúc thẩm đã giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo. Vậy trong trường hợp này, việc giải quyết đối với các quyết định thi hành án đối với các bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị sẽ như thế nào?
Trong trường hợp trên đây thì không phải giải quyết gì đối với quyết định thi hành bản án sơ thẩm đối với các bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị (người bị kết án). Chỉ có sau khi tuyên án, Toà án cấp phúc thẩm cần gửi ngay bản sao bản án phúc thẩm cho cơ quan thi hành án và người bị kết án để thi hành. Trong trường hợp bị cáo bị phạt tù và đang chấp hành hình phạt tù mà Toà án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và hình phạt này bằng hoặc ngắn hơn thời hạn họ đã chấp hành hình phạt tù thì Toà án cấp phúc thẩm cần tuyên bố trong bản án là trả tự do ngay cho bị cáo, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
19. Trong một vụ án có nhiều bị cáo nhưng chỉ có một số bị cáo kháng cáo còn một số bị cáo khác không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong khi chờ xét xử phúc thẩm thì thời hạn phạt tù theo bản án sơ thẩm đã hết. Vậy Toà án giải quyết như thế nào?
Các vấn đề này đã được hướng dẫn tại Công văn số 13/KHXX ngày 11-6-1996 của Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết một số trường hợp cụ thể trong công tác xét xử và thi hành án phạt tù"; cụ thể là:
"1- Đối với trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm xong bản án hình sự sơ thẩm bị kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã bị tạm giam bằng mức hình phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, thì theo quy định tại Điều 215a Bộ luật tố tụng hình sự, Toà án cấp phúc thẩm có trách nhiệm xem xét và tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ra một trong các quyết định sau đây:
a) Quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với bị cáo và trả tự do cho bị cáo (nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác) trong trường hợp bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hoặc trong trường hợp người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo, nhưng Toà án cấp phúc thẩm xét thấy không cần tiếp tục tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử.
b) Quyết định tạm giam đối với bị cáo, trong trường hợp người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và Toà án cấp phúc thẩm xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử.
Trong trường hợp thấy gần hết thời hạn tù Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo mà Toà án cấp phúc thẩm vẫn chưa ra một trong các quyết định nói trên thì Toà án cấp sơ thẩm cần chủ động yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sớm giải quyết theo thẩm quyền.
2. Đối với trường hợp bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm phạt tù với mức án dài hơn thời gian đã bị tạm giam (tính đến ngày xét xử sơ thẩm) dưới 30 ngày và trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bị cáo đã bị tạm giam bằng mức hình phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, nhưng vẫn chưa có kháng cáo, kháng nghị, thì việc trả tự do cho bị cáo là thuộc thẩm quyền của Viện Kiểm sát (theo quy định tại Khoản 6 Điều 23 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Trong trường hợp hết thời hạn phạt tù Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo và vẫn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà Viện kiểm sát chưa ra quyết định trả tự do cho bị cáo, thì Toà án cấp sơ thẩm cần chủ động yêu cầu Viện kiểm sát sớm giải quyết theo thẩm quyền.
Cần lưu ý rằng trong trường hợp hết thời hạn phạt tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo và đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào Khoản 3 Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị kết án, trong đó cần nói rõ người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù và yêu cầu cơ quan Công an trả tự do ngay cho người bị kết án, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng tương tự xẩy ra, từ nay về sau khi xét xử sơ thẩm, nếu Toà án cấp sơ thẩm thấy cần thiết quyết định đối với bị cáo mức án dài hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam (tính đến ngày xét xử sơ thẩm) trên một tháng thì mới kết án bị cáo theo mức án đó. Trong trường hợp chỉ thấy cần thiết kết án bị cáo với mức án dài hơn dưới 30 ngày (thông thường để làm quyết định con số tròn tháng), thì không nên kết án theo mức án đó, mà kết án bị cáo với mức án bằng đúng thời hạn tạm giam và trả ngay tự do cho bị cáo tại phiên toà.
Ví dụ: một bị cáo đã bị tam giam đến ngày xét xử sơ thẩm là 14 tháng 11 ngày. Nếu Toà án cấp sơ thẩm thấy cần thiết phạt bị cáo với mức án từ 16 tháng tù trở lên thì mới nên quyết định mức án đó. Ngược lại nếu Toà án cấp sơ thẩm xét thấy chưa cần thiết phạt bị cáo với mức án 16 tháng tù mà thấy chỉ cần phạt bị cáo mức án 15 tháng tù vì muốn quyết định con số tròn tháng, thì trong trường hợp này chỉ nên phạt bị cáo mức án bằng đúng thời hạn tạm giam là 14 tháng 11 ngày và trả tự do cho bị cáo tại phiên toà (nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác).
3- Đối với trường hợp trong một vụ án hình sự có nhiều bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm kết án, mà trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị chỉ có một hoặc một số bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, bị kháng nghị, thì căn cứ vào Điều 211, Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự, phần của bản án hình sự sơ thẩm đối với những bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được thi hành; do đó, đối với những bị cáo này Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định thi hành án phạt tù đối với họ (nếu họ bị phạt tù)." (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 194 - 195).
Cũng cần chú ý là đối với trường hợp thứ 3 được hướng dẫn tại Điểm 3 trong công văn trên đây mà thời hạn phạt tù đã hết, thì cũng được thực hiện như hướng dẫn tại Điểm 2 trong Công văn này; cụ thể là trong quyết định thi hành án phạt tù cần nói rõ người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù và yêu cầu cơ quan Công an trả tự do ngay cho người bị kết án, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
20. Trong phần quyết định của bản án phúc thẩm có tuyên: "những quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật"; Tuyên như vậy thì phần quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày nào, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hay kể từ ngày tuyên án phúc thẩm? Cấp sơ thẩm ra quyết định
thi hành án phạt tù đồi với các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị thì căn cứ vào bản án phúc thẩm hay bản án sơ thẩm?
Theo hướng dẫn tại Điểm 1 Mục II Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 26-12-1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự", thì ngày bản án có hiệu lực pháp luật là: "ngày tuyên bản án sơ thẩm đồng thời chung thẩm; ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị nếu bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị; ngày tuyên bản án phúc thẩm...". Như vậy, phần quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Theo tinh thần quy đinh tại Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự, thì phần của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được thi hành. Đồng thời căn cứ vào Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án ra quyết định thi hành án phạt tù đối với các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị là phải căn cứ vào bản án sơ thẩm (vấn đề này cũng đã được hướng dẫn tại Công văn số 79/KHXX ngày 19-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao về "Việc hướng dẫn áp dụng pháp luật". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 79 - 80).
21. Khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Toà án cấp phúc thẩm có thể áp dụng Điều Khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn (so với Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử). Vậy quy định này có trái với quy định tại Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự không?
Các quy định tại hai Điều luật này hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với nhau. Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về giới hạn của việc xét xử đối với Toà án cấp sơ thẩm; còn Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm trong việc sửa bản án sơ thẩm. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự, thì chỉ trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu, thì Toà án cấp phúc thẩm mới có thể tăng hình phạt, áp dụng Điều Khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn.
22. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội, Viện kiểm sát cho rằng bị cáo phạm tội và kháng nghị yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội và áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Toà án cấp phúc thẩm thấy có căn cứ để sửa án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo phạm tội. Vậy Toà án cấp phúc thẩm có được sửa án sơ thẩm không? Nếu được sửa án sơ thẩm thì căn cứ vào Điều luật nào của Bộ luật tố tụng hình sự?
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có thể tăng hình phạt, áp dụng Điều Khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại; do đó trong trường hợp toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội, nhưng khi xét xử phúc thẩm do Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu, thì mặc dù có đầy đủ căn cứ kết án bị cáo phạm tội. Toà án cấp phúc thẩm cũng không được sửa án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội. Nếu không thuộc trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định tại Khoản 1 Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự, thì Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm và gửi kiến nghị cùng hồ sơ vụ án cho Toà án cấp giám đốc thẩm xem xét theo thẩm quyền.
23. Trong phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự "Xét lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm" chỉ quy định trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ (Khoản 2 Điều 212 Bộ luật tố tụng hình sự ): vậy trường hợp trước khi mở phiên toà người kháng cáo rút
tòan bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị, thì Toà án cấp phúc thẩm xử lý ra sao và căn cứ vào Điều luật nào để giải quyết ?
Vướng mắc nêu trên là thiếu sót khi xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự, cần được bổ sung; tuy nhiên theo tinh thần quy định tại Điều 212 Bộ luật tố tụng hình sự, thì nếu như trước khi mở phiên toà, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị, thì việc xét xử phúc thẩm vụ án cũng phải được đình chỉ. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định cụ thể ai là người có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án trước khi mở phiên toà phúc thẩm, nhưng theo tinh thần tương tự quy định tại Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự, thì việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án trước khi mở phiên toà phúc thẩm là do Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà thực hiện.
24. Việc giao toàn văn bản sao bản án quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng hình sự thì ngoài bị cáo còn được gửi cho những người nào?
Theo Quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng hình sự , thì Toà án phải giao bản sao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa gửi bản sao bản án cho những người bị xử vắng mặt. Bản sao bản án còn phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn hơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo, nếu xử vắng mặt của bị cáo. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ nếu có yêu cầu thì Toà án cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản án cho họ. Ngoài ra, trong Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự còn quy định đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo thủ tục thi hành án dân sự, thì Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định tronh thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đối với bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí, thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật Toà án phải chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm. Các đối tượng kể trên (trừ Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự ) nếu đã được cấp trích lục bản án, bản sao bản án nay xin cấp thêm bản sao trích lục bản án, bản sao bản án, thì thực hiện theo Quy định tại Điều 32 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ qui định về án phí, lệ phí Toà án. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng, năm 1998; trang 452).
25. Việc bắt giam bị cáo để đảm bảo thi hành án ngay sau khi tuyên án mà không có căn cứ cho thấy bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án thì có vi phạm Điều 202 Bộ luật tố tụng hình sự không?
Theo Quy định tại Điều 202 Bộ luật tố tụng hình sự, thì đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì Toà án sơ thẩm chỉ được bắt giam ngay bị cáo sau khi tuyên án trong trường hợp có căn cứ cho thấy bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án. Những căn cứ của việc bắt giam bị cáo phải được ghi trong bản án sơ thẩm; "Như vậy, nếu không có căn cứ cho thấy bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án, thì việc bắt giam bị cáo sau khi tuyên án là vi phạm nghiêm trọng Điều 202 Bộ luật tố tụng hình sự, đó là việc bắt giam trái pháp luật cho dù Mục đích của việc bắt giam là để đảm bảo thi hành án.
26. Đề nghị có văn bản hướng dẫn các trường hợp phạm nhân do trại của V26 quản lý là người bị kết án theo bản án của Toà án tỉnh khác, nay xét giảm án phạt tù tại tỉnh đang chấp hành hình phạt tù là rất khó khăn vì không có hồ sơ.
Khi xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì chỉ cần có hồ sơ xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, chứ không phải hồ sơ vụ án. Về vấn đề này đã được hướng dẫn tại Mục II Thông Tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng, năm 1990; trang 145).
27. Trong trưòng hợp người bị kết án được hoãn hoặc được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, nhưng đến thời Điểm Toà án ra quyết định thi hành án hoặc quyết định tiếp tục thi hành án thì đã hết thời hiệu thi hành bản án theo quy định tại Điều 46 Bộ luật tố tụng hình sự. Những trường hợp này Toà án có buộc người bị kết án phải chấp hành án nữa hay không. Đối với trường hợp mà ngươi bị kết án chưa khỏi bệnh thì Toà án có còn ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án nữa hay không?
Trường hợp này đã được hướng dẫn một phần tại Điểm 3 Mục III Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 26-12-1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự; cụ thể là"... Đối với trường hợp những người phạm tội nhẹ, chỉ bị xử phạt tù từ 5 năm tù trở xuống mà vì bệnh tật, sinh đẻ hoặc vì hoàn cảnh khó khăn được hoãn thi hành án nhiều lần, thời gian hoãn đã bằng thời hiệu thi hành án mà trong thời gian đó họ không phạm tội mới, không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì Toà án ra quyết định miễn chấp hành hình phạt tù...". Nếu người bị kết án được hoãn hoặc được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, nhưng khi Toà án ra quyết định thi hành án phạt tù hoặc quyết định tiếp tục thi hành án phạt tù mà đã hết thời hiệu thi hành bản án theo quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (trừ các trường hợp được quy định tại các Khoản 2 và 3 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự), thì không buộc người bị kết án phải chấp hành bản án nữa và Toà án ra thông báo về việc hết thời hiệu thi hành bản án.
Đối với người bị kết án được hoãn hoặc được tạm đình chỉ với lý do "Người bị kết án ốm nặng", thì việc tiếp tục được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hay ra quyết định thi hành án hoặc quyết định tiếp tục thi hành án đối với họ đã được hướng dẫn tại đoạn 2 Điểm d Mục 2 Thông Tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30-6-1993 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án phạt tù"; cụ thể là : "Toà án đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù có trách nhiệm phối hợp với chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú theo dõi bệnh trạng của họ để nếu thấy sức khoẻ của họ đã phục hồi thì ra ngay quyết định thi hành án đối với người được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc quyết định tiếp tục thi hành án đối với người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Nếu Toà án thấy khó đánh giá là sức khoẻ của người bị kết án đã phục hồi hay chưa, thì cần tổ chức giám định sức khoẻ của họ (chi phí giám định do người bị kết án chịu). Kết luận của giám định y khoa là căn cứ để Toà án quyết định việc cho họ tiếp tục được hoãn hoặc tạm định chỉ chấp hành hình phạt tù hay ra quyết định thi hành án hoặc quyết định tiếp tục thi hành án đối với họ" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 112).
28. Cần có hướng dẫn việc tạm giữ tài sản để đảm bảo việc thi hành án trong các vụ án hình sự. Chỉ tiến hành kê biên đối với tài sản không thể tạm giữ được vì đối với tài sản kê biên cơ quan pháp luật không thể kiểm soát được. Trong khi đó nhiều trường hợp các đương sự cố tình tẩu tán tài sản?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Thông Tư liên tịch số 06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP-BTC ngày 24-10-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá trình Điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự". Theo tinh thần hướng dẫn tại Điểm 1 Mục I Thông tư này thì các cơ quan tiến hành tố tụng không được tạm giữ đối với tài sản không phải là vật chứng. Trong trường hợp thật cần thiết để đảm bảo thi hành án đối với các hình phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường thiệt hại, thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định kê biên đối với tài sản đó. Việc kê biên tài sản phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự và theo đúng hướng dẫn tại Mục II Thông Tư liên tịch trên đây.
III. VỀ DÂN SỰ
1. Khi có tranh chấp về hợp đồng mua bán, trao đổi tài sản hay phân chia tài sản chung của vợ chồng trong các vụ án ly hôn mà có tài sản là các loại xe máy không có giấy tờ thì giải quyết như thế nào?
Theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước và theo quy định tại Điều 174 Bộ luật dân sự, thì các loại xe máy là tài sản phải có giấy đăng ký quyền sở hữu. Chỉ khi có giấy đăng ký quyền sở hữu, thì chủ sở hữu mới được sử dụng hoặc mới có quyền mua bán, trao đổi... Đối với trường hợp mua bán, trao đổi xe máy chưa có giấy tờ đăng ký quyền sở hữu mà các bên có tranh chấp và một trong các bên khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án phải thụ lý để giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ kiện loại này, Toà án phải xác minh nguồn gốc của xe máy đó và tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể giải quyết như sau:
- Nếu bên có xe máy đem bán, đem đổi không chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với xe máy đó, nghĩa là không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của xe máy, thì Toà án phải xem đó là loại xe máy có nguồn gốc không hợp pháp; nếu không có chứng cứ để chứng minh loại xe máy này mà người đem bán, đem đổi do phạm tội mà có, thì coi đó là loại xe máy nhập lậu. Theo tinh thần kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị sơ kết công tác chống buôn lậu tuyến biên giới Tây Nam ngày 28-3-1998, thì đối với các loại xe máy nhập lậu là nghiêm cấm việc hợp thức hoá dưới bất cứ hình thức nào, nguyên tắc chung là xe máy nhập lậu phải tịch thu; do đó, khi gặp các trường hợp này, Toà án tuyên bố hợp đồng mua bán, hợp đồng đổi tài sản (xe máy) vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự đồng thời giao tài sản (xe máy) cho Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử lý.
- Nếu bên có xe máy đem bán, đem đổi chứng minh được quyền sở hữu xe máy hợp pháp của mình như: tuy chưa đăng ký quyền sở hữu xe, nhưng xe có nguồn gốc hợp pháp; xe đã được đăng ký sở hữu, nhưng bị mất giấy tờ ..., thì Toà án xác định xe máy đó có nguồn gốc hợp pháp và giải quyết tranh chấp hợp đồng theo các quy định của pháp luật, đồng thời buộc các bên phải hoàn tất giấy tờ đăng ký quyền sở hữu chiếc xe máy đó theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp vợ chồng xin ly hôn mà họ có yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng và trong khối tài sản chung của họ có xe máy không có giấy tờ đăng ký quyền sở hữu, thì Toà án cũng phải xem xét xác minh nguồn gốc hợp pháp của xe máy đó. Nếu xe máy đó có nguồn gốc bất hợp pháp, thì Toà án không coi đây là tài sản chung của vợ chồng để chia. Nếu xe máy đó là tài sản hợp pháp, thì Toà án coi đó là tài sản chung của vợ chồng để chia như những tài sản khác, đồng thời buộc họ phải hoàn tất giấy tời đăng ký quyền sở hữu chiếc xe máy đó theo quy định của pháp luật.
2. Các tranh chấp về nợ hụi phát sinh từ việc chơi hụi được xác lập từ ngày 1-7-1996 trở về sau cần được giải quyết như thế nào?
Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn giải quyết tranh chấp về hụi. Trước mắt, các Toà án chưa thụ lý để giải quyết các tranh chấp về hụi phát sinh từ việc chơi hụi được xác lập từ ngày 1-7-1996 trở lại đây để chờ hướng dẫn mới.
3. Vấn đề yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần theo quy định tại các Điều 613, 614 và 615 Bộ luật dân sự cần được giải quyết như thế nào?
Những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức chung để quy ra bằng tiền áp dụng cho các trường hợp. Việc giải quyết bồi thường một Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng chỉ tuỳ vào từng trường hợp nhằm Mục đích an ủi, động viên và phần nào đó tạo Điều kiện thêm để có thể khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân hay cho thân nhân trong gia đình họ.
Đây là một vấn đề khó, vì mỗi vụ việc có đặc thù riêng, không vụ nào giống vụ nào, thiệt hại cũng hết sức khác nhau, do vậy tuỳ thuộc vào từng vụ việc cụ thể, từng Điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà Toà án quyết định mức bồi thường sao cho phù hợp, thoả đáng. Trước mắt, gặp các yêu cầu loại này, Toà án cần giải thích tạo Điều kiện cho các bên đương sự thương lượng với nhau để họ có thể tự thoả thuận với nhau về mức bồi thường thiệt hại về tinh thần và theo dõi thái độ của các bên trong qúa trình thương lượng để khi họ không thể tự thoả thuận được với nhau thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xem xét đến Điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế cụ thể của bên phải bồi thường đồng thời xem xét yêu cầu của người bị thiệt hại hay của thân nhân của người bị thiệt hại mà quyết định. Thực tiễn xét xử của các Toà án các cấp hiện nay cho thấy có nhiều trường hợp Toà án quyết định mức bồi thường từ 5 triệu đến 10 triệu đồng
4. Trong chi phí mai táng có được tính cả chi phí cho việc xây mồ mả và các Khoản chi phí cụ thể khác theo tập quán của địa phương hay không?
Chi phí hợp lý cho việc mai táng đối với trường hợp nạn nhân bị chết có thể gồm các Khoản như thuê xe, mua quan tài, hương nến, vải liệm và các Khoản chi phí khác cho việc chôn cất nạn nhân. Những Khoản chi phí này phải hợp lý, phù hợp với tập quán địa phương. Thực tế không ít gia đình nạn nhân yêu cầu bồi thường cả các Khoản chi cho việc tổ chức ăn uống linh đình, cúng bái, bốc mộ, xây mộ... những Khoản chi này không được coi là Khoản chi phí hợp lý, vì thế không được tính trong số tiền bồi thường, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
5. Việc bồi thường thiệt hại do nhân phẩm, danh dự, uy tín trong trường hợp báo, đài đưa tin sai sự thật về tổ chức hoặc cá nhân được tính như thế nào? Trong trường hợp gây thiệt hại về vật chất do báo, đài đưa tin sai sự thật, nếu phải bồi thường thì tính mức bồi thường trên cơ sở nào?
Theo Quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự thì các thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại bao gồm :
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại (ví dụ : chi phí đi lại, ở để được cải chính trên báo, đài...).
- Thu thập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, phải là Khoản thu thập có thực, bình thường, ổn định nhưng nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại để tính.
- Tuỳ từng trường hợp còn buộc phải bồi thường một Khoản tiền tổn thất về tinh thần theo hướng dẫn tại Điểm 4 trên đây.
Trong trường hợp bị thiệt hại về vật chất do việc báo, đài đưa tin sai sự thật thì dựa trên những thiệt hại thực tế để ấn định mức bồi thường.
6. Cần xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể giữa chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại Khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân sự như thế nào?
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm ngoại trừ yếu tố lỗi, Điều đó có nghĩa là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại trong mọi trường hợp ngay cả khi họ không có lỗi, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, do sự kiện bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết và trong trường hợp pháp luật có quy định khác, hoặc trong trường hợp họ không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại. Khi xác định mức bồi thường phải dựa trên cơ sở thiệt hại đến đâu thì bồi thường thiệt hại đến đó. Việc phân định trách nhiệm cụ thể giữa chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo Quy định tại Khoản 2 Điều 627 như sau :
- Nếu chủ sở hữu vẫn chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu hoặc giao cho người khác sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, thì chủ sở hữu và người chiếm hữu hoặc người sử dụng phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu hoặc giao cho người khác sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà các bên có thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (có thể thoả thuận khi giao, sau khi giao hoặc sau khi nguồn nguy hiểm cao độ đã gây ra thiệt hại), thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo thoả thuận đó, trừ trường hợp thỏa thuận đó trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc nhằm trốn tránh việc bồi thường.
7. Thiệt hại gián tiếp phát sinh từ thiệt hại ngoài hợp đồng có được bồi thường không?
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trong một số trường hợp cụ thể đã được quy định cụ thể từ Điều 609 đến Điều 633 Bộ luật dân sự. Khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì Toà án cần căn cứ vào các quy định tại các Điều luật nói trên để giải quyết, Tòa án không phân biệt thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Theo tinh thần quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự, thì về nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, nghĩa là thiệt hại thực tế bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu. Tuỳ từng trường hợp mà thiệt hại đó được tính cụ thể như tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất hoặc bị giảm sút; những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ của người bị thiệt hại về sức khoẻ; thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút; những chi phí hợp lý cho việc mai táng... Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xem xét và chấp nhận những thiệt hại thực tế đã xảy ra làm căn cứ để ấn định mức độ bồi thường thiệt hại. 8. Áp dụng quy định nào để phân biệt nhà ở, vật kiến trúc khác, cây lâu năm?
Theo Điểm 2 Mục I Thông báo số 38/KHXX ngày 5-7-1996 của Toà án nhân dân tối cao "Về việc huỷ bỏ, chấm dứt hiệu lực thi hành, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định pháp
luật dân sự theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự", thì Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 3-5-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục quản lý ruộng đất "Hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất" không có hiệu lực thi hành để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 15-10-1993. Tuy nhiên, trong khi chưa có hướng dẫn mới, Toà án có thể vận dụng nội dung giải thích các thuật ngữ như: "vật kiến trúc khác", "cây lâu năm" được hướng dẫn tại các Điểm a và b Khoản 1 Mục II Thông tư liên ngành số 04/TTLN nói trên để giải quyết, cụ thể như sau:
- Vật kiến trúc khác bao gồm: các công trình phụ gắn với nhà ở, như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ họ, tường xây làm hàng rào nhà...; các công trình được xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào Mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu, chuồng trại chăn nuôi...
- Cây lâu năm bao gồm: cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm và các cây lâu năm khác.
9. Khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, gặp trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn so với diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án phải xử lý như thế nào?
Khi giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất hoặc khi chia tài sản chung của vợ chồng có liên quan đến quyền sử dụng đất mà gặp trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn so với diện tích đất có trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án cần phân biệt các trường hợp cụ thể và giải quyết như sau:
- Trong trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn diện tích đất có trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng nếu theo sổ địa chính thì diện tích đất thực tế theo đúng mốc và chỉ giới giao đất thì Toà án giải quyết theo diện tích thực tế của đất đó.
- Trong trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc có thể nhỏ hơn diện tích đất có trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng nếu theo sổ địa chính thì diện tích đất thực tế có một phần ngoài mốc và chỉ giới giao đất, thì Toà án chỉ giải quyết theo diện tích đất thực tế trong mốc và chỉ giới giao đất. Phần diện tích nằm ngoài mốc và chỉ giới giao đất mà chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
10. Cùng một diện tích mà Uỷ ban nhân dân cấp nhiều Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhiều người mà các bên có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì giải quyết như thế nào?
Khi gặp trường hợp trên đây, Toà án giải thích cho các bên biết rằng việc cùng một diện tích đất mà Uỷ ban nhân dân cấp nhiều Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhiều người là sai và hướng dẫn cho họ khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Nếu sau khi Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền không giải quyết trong thời hạn luật định hoặc đã giải quyết, nhưng họ vẫn không đông ý thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Nếu trước khi họ có yêu cầu Toà án giải quyết, họ đã khiếu nại với Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền nhưng không được giải quyết trong thời hạn luật định hoặc đã giải quyết, nhưng họ vẫn không đồng ý thì cũng hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Khi giải quyết vụ án hành chính loại
này có đầy đủ căn cứ cho rằng Giấy chứng nhận sử dụng đất nào là trái pháp luật, thì Toà án có quyền huỷ quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó của Uỷ ban nhân dân. Nếu tất cả các Giấy chứng nhận sử dụng đất đều trái pháp luật, thì Toà án huỷ tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao cho Uỷ ban nhân dân xem xét cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới.
11. Trường hợp đất thuộc diện được xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng họ không làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nay xảy ra tranh chấp thì giải quyết thể nào?
Trường hợp đất thuộc diện tích được xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993, nhưng đương sự không làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì được coi là đất không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993.
Nếu đương sự chỉ yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất (không có tài sản trên đất đó hoặc có tài sản nhưng họ không tranh chấp tài sản), thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân, Toà án không thụ lý để giải quyết.
Nếu đương sự yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó, thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trong trường hợp này Toà án thụ lý và áp dụng hướng dẫn tại Điểm b Mục I Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính để giải quyết tranh chấp về tài sản, đồng thời phân định ranh giới quyền sử dụng đất, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho các bên đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của Pháp luật về đất đai và theo quyết định của Toà án.
12. Bộ luật dân sự không quy định về hợp đồng mượn nhà ở, mượn quyền sử dụng đất, vậy xác định quan hệ pháp luật này như thế nào?
Nhà ở, quyền sử dụng đất là tài sản, do vậy hợp đồng mượn nhà ở, mượn quyền sử dụng đất thuộc loại hợp đồng mượn tài sản. Khi có tranh chấp hợp đồng mượn nhà ở, mượn quyền sử dụng đất nếu có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng mượn tài sản để giải quyết.
13. Thế nào là hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp?
Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất hợp pháp là hợp đồng tuân thủ những quy định tại các Điều từ Điều 699 đến Điều 704 của Bộ luật dân sự; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp là hợp đồng tuân thủ những quy định tại các Điều từ Điều 705 đến Điều 713 của Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phù hợp về Điều kiện chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng chưa tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng quy định tại Điều 701 hoặc Điều 707 Bộ luật dân sự hoặc đã làm đầy đủ thủ tục nhưng một hoặc các bên vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ mà có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án cần phân biệt và giải quyết như sau:
- Nếu hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng quy định tại Điều 701 hoặc 708 Bộ luật dân sự, thì Toà án áp dụng Điều 139 Bộ luật dân sự ra quyết định buộc các bên phải thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định (Tùy từng trường hợp cụ thể mà ấn định trong thời hạn tối thiểu một tháng nhưng tối đa không quá hai tháng). Nếu quá thời hạn Toà án đã ấn định mà
không thực hiện thì hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thương thiệt hại.
- Nếu hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã làm đầy đủ thủ tục, nhưng một hoặc các bên vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ.
14. Trong trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho người khác mà không phải cấp cho người đang sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sai thẩm quyền mà có tranh chấp thì Toà án có thụ lý để giải quyết không? Nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó rõ ràng là sai, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án đang giải quyết, thì Toà án có quyền huỷ Giấy chứng nhận sử dụng đất đó hay không?
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khởi kiện yêu cầu người đang sử dụng đất trả lại đất cho họ, thì đây là vụ án dân sự; do đó, Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu khi xét xử vụ án mà có đầy đủ căn cứ cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó là sai, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bị đơn trong vụ án, thì Toà án áp dụng Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
- Trường hợp người đang sử dụng đất khởi kiện cho rằng việc Uỷ ban nhân dân cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó là sai, thì Toà án phải xem xét đơn kiện và các tài liệu kèm theo đơn kiện mà họ gửi cho Toà án. Nếu họ chưa khiếu nại với Uỷ ban nhân dân cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án hướng dẫn cho họ làm đơn khiếu nại với Uỷ ban nhân dân đó về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng đối tượng hay không đúng thẩm quyền. Nếu họ đã khiếu nại trong thời hạn Luật khiếu nại, tố cáo quy định mà hết thời hạn đó khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết mà họ không đồng ý cho nên có đơn khởi kiện tại Toà án, thì đây là vụ án hành chính; do đó, Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Nếu khi xét xử vụ án mà có đầy đủ căn cứ cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp không đúng đối tượng hay không đúng thẩm quyền, thì Toà án có quyền huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
15. Các tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 15-10-1993, nếu có yêu cầu thì Toà án có thụ lý để giải quyết không?
Theo tinh thần hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993" thì tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 là thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền; do đó, mọi tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 15-10-1993 đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền.
16. Căn cứ vào quy định nào để xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ai và ai là người có quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó?
Theo quy định tại Điều 1, Điều 12 Quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào Mục đích sản xuất nông nghiệp (ban hành kèm theo Nghị định
số 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ), thì hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào Mục đích sản xuất nông nghiệp
Tại Điểm b Khoản 1 Mục III Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16-3-1998 của Tổng cục Địa chính, "Hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" đã hướng dẫn như sau: "Tên chủ sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận ghi tại dòng kẻ sẵn sát dưới dòng chữ "chứng nhận" và được ghi như sau:
- Đối với các tổ chức phải ghi đúng tên theo Quyết định thành lập (không được viết tắt).
- Đối với hộ gia đình cần ghi rõ: "hộ ông (bà) và tên của chủ hộ, tên của chủ hộ gia đình phải ghi đủ họ và tên theo đúng khai sinh.
- Đối với cá nhân cần ghi rõ: Ông (bà) và tên của người được cấp giấy chứng nhận, phải ghi đủ họ và tên theo đúng khai sinh.
Tên chủ sử dụng ghi trong Giấy chứng nhận phải thống nhất với tên ghi trên đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất và tên ghi trong sổ địa chính.
Chủ sử dụng đất là hộ gia đình và cá nhân phải ghi thêm số chứng minh nhân dân của chủ hộ hoặc cá nhân.
..."
Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật dân sự thì "... quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản chung của hộ". Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong hộ gia đình cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ hộ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là như nhau không có sự phân biệt.
17. Đối với những tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất (theo di chúc hoặc theo pháp luật) mà đất đó chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì Toà án có thụ lý giải quyết không?
Theo tinh thần hướng dẫn tại Khoản 2 Mục I Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993" và Công văn số 92/KHXX ngày 8-8-1997 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT nói trên, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà việc phân biệt thẩm quyền giải quyết như sau:
a) Nếu chỉ có tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất (không có tài sản trên đất đó hoặc có tài sản nhưng đương sự không tranh chấp tài sản), thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
b) Nếu tranh chấp chia thừa kế về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất, thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án thụ lý giải quyết như sau:
- Trong trường hợp đương sự đã có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993, thì Toà án giải quyết cả tranh chấp về tài sản và quyền sử dụng đất.
- Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm
quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và thuộc trường hợp có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 45/CP ngày 3-8-1996 của Chính phủ "Về việc bổ sung Điều 10 của Nghị định số 60/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất tại đô thị" hoặc theo tinh thần Công văn số 1427 CV/ĐC ngày 13-10-1995 của Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn xử lý một số vấn đề đất đai để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất"... thì Toà án giải quyết tranh chấp về tài sản, đồng thời phân định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai và theo quyết định của Toà án.
- Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, tài sản không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về tài sản.
(Xem Cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 237, 239 và 240)
18. Nghĩa vụ, trách nhiệm của người bảo lãnh được xác định trước, trong hay sau khi phát sinh quan hệ pháp luật?
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà nghĩa vụ, trách nhiệm bảo lãnh được xác định như sau:
- Trong trường hợp việc bảo lãnh là Điều kiện để xác lập quan hệ pháp luật thì nghĩa vụ bảo lãnh phải được xác định trước khi xác lập quan hệ pháp luật đó. Ví dụ: Theo quy định tại thể lệ tín dụng Ngân hàng thì để ký hợp đồng cho vay phải có bảo lãnh, thế chấp tài sản thì nghĩa vụ bảo lãnh được xác định trước khi xác lập hợp đồng cho vay.
- Trong trường hợp bảo lãnh cùng được tiến hành trong khi xác lập quan hệ pháp luật, thì nghĩa vụ bảo lãnh được xác định trong khi xác lập quan hệ pháp luật. Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng vay tài sản theo đó A cho B vay tài sản. Cùng tham gia giao kết hợp đồng có C là người bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho B, nếu khi đến thời hạn mà B không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong trường hợp này nghĩa vụ bảo lãnh được xác định trong khi xác lập quan hệ pháp luật.
- Trong trường hợp sau khi đã xác lập quan hệ pháp luật, mới có việc bảo lãnh, thì nghĩa vụ bảo lãnh được xác định sau khi xác lập quan hệ pháp luật.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng trên đây chỉ là việc xác định nghĩa vụ của người bảo lãnh, song nghĩa vụ bảo lãnh chỉ phát sinh và người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi và chỉ khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật hình sự, thì "người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với người có quyền"; do đó, trách nhiệm dân sự của người bảo lãnh chỉ phát sinh khi người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
19. Về cách tính lãi suất khi giải quyết các tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa cá nhân với cá nhân, thì áp dụng mức lãi suất tương ứng của Ngân hàng Nhà nước tại thời Điểm xác lập hợp đồng hay tại thời Điểm xét xử sơ thẩm? Trong thực tế, nếu áp dụng mức lãi suất tại thời Điểm xác lập hợp đồng thì đối với những hợp đồng được xác lập rất lâu sẽ có
mức lãi suất cao so với mức lãi suất đang áp dụng. Vậy phải hiểu và áp dụng pháp luật thế nào cho đúng?
Theo tinh thần hướng dẫn tại Khoản 4 Mục I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản" thì khi giải quyết hợp đồng vay giữa cá nhân với cá nhân, về nguyên tắc Toà án chỉ tính lãi trên số nợ gốc. Tuy hướng dẫn tại Điểm a và b Khoản 4 Mục I Thông tư số 01/TTLT không nêu cụ thể, nhưng trong ví dụ theo Điểm này đã hướng dẫn cách tính cụ thể là: khi tính lãi phải áp dung mức lãi suất tương ứng của Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời Điểm xác lập hợp đồng (thời Điểm vay). Việc tính lãi phải áp dụng mức lãi suất tương ứng của Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời Điểm xác lập hợp đồng đã được Toà án nhân dân tối cao trao đổi với Ngân hàng Nhà nước và tại Công văn số 475/CV-NH10 ngày 18-6-1997, Ngân hàng Nhà nước trả lời Toà án nhân dân tối cao với nội dung là: Lãi suất cho vay cùng loại ở đây được xác định là mức lãi suất cho vay cùng loại tại thời Điểm vay vốn được ghi trên hợp đồng tín dụng hay khế ước vay tiền còn hiệu lực thi hành (Ngân hàng Nhà nước không đặt ra vấn đề trả lãi theo lãi suất tại thời Điểm trả, vì lãi suất lúc này có thể tăng lên hoặc giảm xuống. Hơn nữa, lãi suất xác định lúc cho vay là trên cơ sở lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng để có nguồn cho vay Khoản tín dụng này).
Đối với những hợp đồng vay tài sản được xác lập đã lâu có mức lãi suất cao so với mức lãi suất đang áp dụng, thì khi giải quyết tranh chấp, Toà án áp dụng Quyết định số 79/QĐ-NH1 ngày 16- 4-1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về Điều chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền vay. Theo quy định tại Quyết định này thì: "Số dư tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, tiền gửi Tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư và dư nợ vay Ngân hàng đến cuối ngày 19-4-1993 chuyển sang đều áp dụng theo lãi suất tại Quyết định này". Do đó, các Khoản vay được xác lập trước ngày 19-4-1993 mà đến ngày 19-4-1993 chưa trả và phát sinh tranh chấp thì Toà án áp dụng mức lãi suất theo Quyết định số 79/QĐ-NH1 trên đây của Ngân hàng Nhà nước để giải quyết, nghĩa là lãi suất cho vay cùng loại ở đây được xác định là mức lãi suất cho vay cùng loại tại thời Điểm vay vốn được ghi trên hợp đồng hay khế ước vay tiền đến ngày 19-4-1993, còn từ ngày 19-4- 1993 trở về sau thì lãi suất được xác định theo mức lãi suất cho vay cùng loại theo quy định tại Quyết định số 79/QĐ-NH1 nói trên.
20. Trường hợp hợp đồng vay tài sản được xác lập sau khi Bộ luật dân sự có hiệu lực thi hành các bên đương sự tự thoả thuận thanh toán tiền lãi còn thiếu với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, thì Toà án có quyền công nhận sự thoả thuận đó hay không?
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Nếu khi các bên giao kết hợp đồng vay tài sản mà có thoả thuận thanh toán tiền lãi cao hơn mức lãi suất được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, nay có tranh chấp yêu cầu Toà án giải quyết (kể cả việc thanh toán tiền lãi còn thiếu) thì việc giải quyết tranh chấp này đã được hướng dẫn tại Khoản 4 Mục I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản"; cụ thể là: "Đối với các hợp đồng vay tài sản giao kết từ ngày 1-7-1996 trở đi thì việc tính lãi phải tuân thủ theo các quy định của Bộ luật dân sự, số tiền lãi đã trả cũng phải được giải quyết lại, nếu mức lãi suất mà các bên thoả thuận cao hơn mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998, trang 162 - 163).
- Nếu trong quá trình Toà án giải quyết vụ án mà các bên vẫn thoả thuận thanh toán tiền lãi còn thiếu với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự, thì Toà án không được công nhận sự thoả thuận đó mà giải thích cho các đương sự biết là Toà án chỉ có quyền công nhận mức lãi suất cao nhất theo quy định tại Khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự.
21. Việc vay thóc có được tính lãi không? cách tính lãi suất của hợp đồng vay thóc nói riêng và tính lãi suất của các hợp đồng vay tài sản là hiện vật nói chung như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn trong Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1993; cụ thể là: "Đây là hợp đồng vay nợ giữa các cá nhân với nhau nên khi giải quyết vụ án, Toà án căn cứ vào sự thoả thuận với nhau khi ký kết hợp đồng vay nợ. Nếu các đương sự thoả thuận không phải thanh toán lãi thì Toà án cũng chấp nhận sự thoả thuận đó. Nếu bên vay không có thóc để trả thì Toà án tính thóc thành tiền theo giá thị trường tự do lúc xét xử sơ thẩm. Nếu các đương sự thoả thuận trả lãi thì Toà án chấp nhận mức lãi mà họ đã thoả thuận. Nếu các đương sự không thống nhất với nhau về mức lãi vì bên cho vay đòi lãi cao, còn bên vay đồng ý trả lãi với mức thấp hơn hoặc nếu khi vay và cho vay các đương sự không đề cập đến vấn đề lãi, chỉ đến khi quá hạn trả nợ bên cho vay mới yêu cầu trả lãi, thì chỉ tính lãi từ thời Điểm nợ quá hạn theo thoả thuận về thời Điểm trả nợ. Mức lãi mà Toà án áp dụng cho cả hai trường hợp này là mức lãi suất tiền cho vay của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời Điểm cho vay. Trong trường hợp này Toà án phải tính giá trị số thóc cho vay thành tiền theo giá thị trường tự do khi xét xử sơ thẩm để tính lãi...". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 290).
Tuy nhiên khi giải quyết các tranh chấp loại này, Toà án cần chú ý là ngoài việc thực hiện theo hướng dẫn trên đây việc chấp nhận sự thoả thuận của các đương sự về mức lãi suất kể từ ngày 1- 7-1996 trở đi còn phải theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự và theo đúng hướng dẫn tại Khoản 4 Mục I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản".
IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, nay họ có đơn xin ly hôn và có căn cứ cho thấy bị đơn vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không chịu cung cấp tin tức, địa chỉ của bị đơn cho Toà án, hoặc có trường hợp gia đình bị đơn đã cung cấp địa chỉ, nhưng việc uỷ thác chưa có kết quả, thì Toà án có thể giải quyết cho ly hôn vắng mặt bị đơn được không? Nếu thời gian chờ uỷ thác quá lâu thì có vi phạm thời hạn xét xử không? Thủ tục tống đạt bản án sơ thẩm như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Công văn số 517/NCPL ngày 9-10-1993 của Toà án nhân dân tối cao về việc ly hôn với một bên đang ở nước ngoài; Cụ thể là:
"1. Trong trường hợp Toà án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục uỷ thác tư pháp đến lần thứ hai, nhưng không được các cơ quan tư pháp có trách nhiệm của nước liên quan đáp ứng, thì Toà án liên hệ với Bộ Tư pháp để thông qua Bộ Ngoại giao yêu cầu cơ quan lãnh sự của nước ta tại nước có liên quan thực hiện uỷ thác tư pháp theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Lãnh sự công bố ngày 24-11-1990 với nội dung: Lãnh sự thực hiện uỷ thác tư pháp của cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền đối với công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự, nếu việc đó không trái với pháp luật nước tiếp nhận hoặc Điều ước Quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia.
Việc thực hiện uỷ thác tư pháp này phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam. Nếu Toà án đã thực hiện theo đúng các hướng dẫn nói trên, nhưng việc uỷ thác tư pháp vẫn không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong, không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
2. Đối với những vụ án ly hôn nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, bị đơn là người đang ở nước ngoài, nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh là họ vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để bị đơn gửi lời khai về cho Toà án, thì cần coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Trong trường hợp này, nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Ngược lại, nếu không có đầy đủ căn cứ để chứng minh được là bị đơn vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
3. Đối với các trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yếu bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án được thi hành theo thủ tục chung". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 278-279).
Theo hướng dẫn trên đây, thì ngoài việc thực hiện thủ tục uỷ thác tư pháp, Toà án còn có thể tiến hành các biện pháp khác để giải quyết vụ án. Chỉ trong trường hợp không tìm được địa chỉ của bị đơn, Toà án mới áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 45 ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án không tính vào thời hạn giải quyết vụ án và do đó, không có sự vi phạm quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn xét xử.
2. Trường hợp xin ly hôn với một bên có triệu chứng tâm thần mà người đó không chịu đi giám định, thì giải quyết như thế nào?
Khi thụ lý và giải quyết đơn xin lý hôn với một bên có triệu chứng tâm thần, thì cần phải có giám định của bệnh viện kết luận bị đơn là người mắc bệnh tâm thần. Trong trường hợp sau khi đã thụ lý đơn xin ly hôn, Toà án đã nhiều lần yêu cầu bị đơn đi giám định về tình trạng và mức độ bệnh tật mà người đó không chịu đi giám định, thì căn cứ vào kết quả xác minh và chứng cứ đã thu thập được, Toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án loại này, Toà án cần thực hiện đúng các hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề ly hôn với một bên đang mắc bệnh tâm thần tại Công văn số 53/KHXX ngày 21-9-1996; cụ thể như sau:
" Trường hợp một bên vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần mà bên kia gửi đơn đến Toà án xin ly hôn, nếu xét thấy Mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.
Thủ tục giải quyết loại việc này là thủ tục phức tạp, trong đó việc bảo vệ quyền lợi của một bên đương sự được đặc biệt chú ý. Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 7/NCPL ngày 30-9- 1966 của Toà án nhân dân tối cao "Về việc xét xử việc ly hôn với người mất trí" được giải quyết như sau:
Người mắc bệnh tâm thần là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, như vậy họ không thể tham gia tố tụng. Do đó, việc làm trước tiên của Toà án khi nhận được đơn xin ly hôn về loại này là Điều tra, xác minh tình trạng và mức độ bệnh tật, thời gian mắc bệnh của bị đơn, nếu đúng bị đơn là người bị mắc bệnh tâm thần, thì phải có giám định của bệnh viện xác nhận.
Ngoài ra, tại Khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29-11-1989 quy định: "Nếu đương sự là người có nhược Điểm về thể chất và tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.
Nếu không có ai đại diện cho người... có nhược Điểm về thể chất hoặc tâm thần thì Toà án cử một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm người đại diện cho họ".
Toà án không nhất thiết phải lấy lời khai của người mắc bệnh tâm thần và triệu tập họ đến Toà án. Trường hợp họ là người hoàn toàn mất trí, bệnh tình trầm trọng, Toà án sẽ không lấy lời khai của họ. Trường hợp họ không phải là người thường xuyên mất trí (có khi họ tỉnh táo), thì kinh nghiệm một số Toà án cử cán bộ đến tận nơi kết hợp với gia đình và bệnh viện để giải thích và lấy lời khai của họ.
Tại phiên toà, người đại diện sử dụng quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn nên không cần thiết gọi người mắc bệnh tâm thần đến phiên toà vì sẽ ảnh hưởng đến trật tự phiên toà, gây khó khăn cho việc xét xử. Khi xét xử, cần có đại diện Viện kiểm sát và đây là loại việc mà Viện kiểm sát có thể tham gia tố tụng ngay từ khi Toà án bắt đầu thụ lý đơn xin ly hôn.
Về thủ tục, Toà án không tiến hành hoà giải như các vụ ly hôn khác, nhưng đối với nguyên đơn xin ly hôn, Toà án nên thuyết phục, giải thích để họ đoàn tụ và rút đơn xin ly hôn. Trường hợp bị đơn không phản đối việc ly hôn Toà án cũng không ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn mà phải mở phiên toà xét xử.
Khi giải quyết loại việc này, Toà án cần cân nhắc thận trọng và chú ý đến hoàn cảnh của bị đơn (như quân nhân mắc bệnh do hậu quả chiến tranh; người mắc bệnh vì nghề nghiệp...) mà đặt vấn đề cấp dưỡng. Nếu người mất trí đã có nguồn thu nhập khác (như phụ cấp mất sức lao động...) đủ để sinh sống, thì bản án cũng phải ghi rõ Điều đó; Toà án dự kiến người chăm sóc, nuôi dưỡng bị đơn (nếu bị đơn không còn cha mẹ, thì người nuôi dưỡng có thể là một người họ hàng thân thích của bị đơn, nếu không có thì Toà án cử một tổ chức xã hội ở địa phương có trách nhiệm với họ)". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 223-224).
3. Việc kết hôn không đăng ký thì Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình có hướng dẫn rằng việc kết hôn không đăng ký có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật; nếu có một hoặc hai bên xin li hôn, thì Toà án xử như việc xin li hôn theo Điều 40.
Trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 có hướng dẫn những cặp chung sống với nhau không đăng ký đã chung sống hàng chục năm có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán thì có hiệu lực pháp lý cao hơn. Hai văn bản này đều có đề cập đến vấn đề hôn nhân thực tế, nhưng hướng dẫn cách giải quyết khác nhau. Vậy cần thực hiện theo văn bản nào?
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán có hiệu lực pháp lý cao hơn các văn bản hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao. Về vấn đề công nhận hay không công nhận hôn nhân thực tế được hướng dẫn trong Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình" và trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với nhau. Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực kể từ ngày 3-1-1987, về nguyên tắc mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh; do đó, kể từ ngày Luật hôn nhân và gia định có hiệu lực pháp luật, mà hai người nam nữ muốn chung sống với nhau thì chỉ được coi là việc kết hôn, nếu tuân thủ các quy định tại Chương II của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trước khi Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực thì thực tế cho thấy có nhiều cặp chung sống với nhau không đăng ký, nhưng đã có con chung, tài sản chung và nếu không coi những trường hợp này là hôn nhân thực tế để giải quyết cho ly hôn thì không bảo đảm trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như không phù hợp với thực tế của Việt Nam; vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình ngày 20-1-1988 (chỉ sau một năm, kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hệu lực), Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình trong đó có hướng dẫn khi những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, thì Toà án xử như việc xin ly hôn theo Điều 40 (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 247). Tuy trong Nghị quyết này không hướng dẫn cụ thể về thời Điểm chung sống, nhưng phải hiểu rằng Toà án chỉ thụ lý giải quyết như việc xin ly hôn theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình nếu những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn trước ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực, chứ không phải kể từ ngày
Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực trở về sau; Nếu hướng dẫn cho cả về sau, thì vô hình chung Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trái pháp luật, tạo cho một số lợi dụng về chung sống với nhau không cần đăng ký kết hôn và chỉ khi không chung sống được với nhau mới yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao (thay mặt Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 cũng hướng dẫn là chấm dứt việc hôn nhân thực tế đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn, trừ một số trường hợp họ đã chung sống hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung, thì có thể coi là hôn nhân thực tế để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ (Xem cuốn Các văn bản hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 273). Thời Điểm Hội nghị tổng kết công tác Toà án là năm 1996; do đó, theo tinh thần hướng dẫn trong Kết luận này, Toà án cũng chỉ có thể thụ lý giải quyết như việc xin ly hôn theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình khi có đơn xin ly hôn của các cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn trước ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực.
Như vậy, hướng dẫn trong hai văn bản trên là thống nhất và không có gì mâu thuẫn với nhau. Về vấn đề này Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi ý kiến với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và sẽ ban hành Thông tư liên tịch trong thời gian gần đây. Hai cơ quan thống nhất hướng dẫn là đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau sau ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực mà không đăng ký kết hôn nếu có đơn xin ly hôn thì Toà án không thụ lý để giải quyết theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình; Toà án chỉ thụ lý để giải quyết việc nuôi con và chia tài sản chung (nếu có yêu cầu) theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình và các quy định tương ứng của Bộ Luật dân sự.
4. Khi nhận hoặc khi thụ lý đơn xin ly hôn mà Toà án phát hiện việc kết hôn không đúng thủ tục do pháp luật quy định như việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cấp, thì Toà án giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại các Điều 3 và 7 Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (sau đây gọi là Pháp lệnh) và tại Điều 4 Nghị định số 184/CP ngày 30-11-1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, thì ở Việt Nam thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam. Theo quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh thì "việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài vi phạm một trong các quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh này là trái pháp luật" và Điều 6 của Pháp lệnh quy định "Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo nghi thức kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình. Chính phủ quy định thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài". Tại các Điều 7, 8, 9 và 10 Nghị định số 184/CP nói trên thì các yêu cầu về hồ sơ và trình tự đăng ký kết hôn tại Việt Nam được quy định rất chặt chẽ. Như vậy theo các quy định trên đây, thì việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tiến hành trước Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là trái pháp luật; do đó khi một hoặc hai bên có đơn xin ly hôn, thì Toà án vẫn thụ lý để giải quyết. Áp dụng Điều 9 Pháp lệnh huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ cũng như quyền lợi của con người được giải quyết theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Cần lưu ý là thẩm quyền thụ lý và giải quyết loại việc này thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam; nếu công dân Việt
Nam không còn thường trú tại Việt Nam thì thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú cuối cùng của người đó tại Việt Nam (Xem Điều 9 Pháp lệnh).
5. Về việc xin ly hôn mà các bên có yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng là đất trồng cây hàng năm và nuôi trồng thuỷ sản, nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993, thì ngoài việc sử dụng cho ly hôn Toà án hay Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết việc chia đất đó? Nếu Toà án không giải quyết thì có một bên phản ứng, thậm chí dẫn đến xô xát sau khi ly hôn, vì mảnh đất là nguồn sống chính của họ ở nông thôn. Trường hợp này giải quyết như thế nào?
Theo Điểm 1 Công văn số 92/KHXX ngày 8-8-1997 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính, thì trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất kể cả đất có tài sản mà họ không tranh chấp tài sản, thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn... nơi có đất (là đối tượng tranh chấp quyền sử dụng đất) về việc đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993. Chỉ sau khi có một trong hai loại giấy nêu trên để xác định chắc chắn là đối với đất đó (đang là đối tượng tranh chấp) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993, thì Toà án mới thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền như đã được hướng dẫn tại Khoản 1 Phần I Thông tư. Nếu đương sự không xuất trình được một trong hai loại giấy nêu trên, thì Toà án không thụ lý để giải quyết, trừ trường hợp họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 239). Như vậy, theo hướng dẫn này thì dù là đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993; nếu một trong các bên đương sự có yêu cầu giải quyết phân chia quyền sử dụng đất, thì Toà án không giải quyết. Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho các bên biết quy định của văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết.
6. Trong khi quan hệ hôn nhân còn tồn tại, con dâu có quyền đòi chia tài sản chung của gia đình nhà chồng theo công sức đóng góp của mình không?
Trường hợp con dâu sống chung với gia đình nhà chồng, có công sức đóng góp trong việc tạo nên khối tài sản chung của gia đình, mặc dù quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại, nhưng nếu họ có yêu cầu được chia tài sản chung của gia đình nhà chồng tương ứng với công sức đóng góp của mình, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung và áp dụng quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự (Chia tài sản thuộc sở hữu chung) để giải quyết .
7. Khi cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con, hoặc việc thay đổi họ tên trong giấy khai sinh cho con, thì Toà án thụ lý giải quyết về hình thức hay giải quyết cả về nội dung?
Khi thụ lý giải quyết việc cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ, tên trong giấy khai sinh cho con , thì trước hết Toà án phải nắm vững các quy định của pháp luật về các vấn đề này. Toà án phải xem xét việc cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ, tên cho con vì lý do gì; Đồng thời Toà án phải xác minh, thu
thập chứng cứ và căn cứ vào các quy định của pháp luật về các vấn đề này để có quyết định. Nếu có đầy đủ căn cứ cho rằng yêu cầu việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ , tên trong giấy khai sinh cho con là chính đáng, thì Toà án chấp nhận và buộc cơ quan hộ tịch có trách nhiệm xác định cha, mẹ cho con hoặc thay đổi họ, tên trong giấy khai sinh cho con theo yêu cầu của nguyên đơn.
8 . Cơ quan nào thu, chi tiền tạm ứng chi phí định giá cho các loại kiện về dân sự do các đương sự nộp?
Về vấn đề này cần phân biệt như sau:
a- Nếu các đương sự thoả thuận với nhau yêu cầu cá nhân hoặc cơ quan thực hiện việc định giá thì họ trực tiếp nộp tiền tạm ứng chi phí định giá cho cá nhân hoặc cơ quan tiến hành việc định giá theo yêu cầu của cá nhân hoặc cơ quan đó.
b- Nếu việc định giá do Toà án quyết định, thì trên cơ sở dự báo của cơ quan định giá, Toà án thu tiền tạm ứng chi phí định giá và chi trả cho cơ quan định giá và phải thanh toán với đương sự sau khi việc định giá thực hiện xong. Trong bản án, quyết định Toà án phải quyết định người phải chịu chi phí định giá và số tiền chi phí định giá phải nộp.
9. Vấn đề định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Theo tinh thần quy định tại Điều 172 và Phần thứ năm của Bộ luật dân sự, thì quyền sử dụng đất cũng là tài sản; do đó, việc định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất về nguyên tắc chung cũng được thực hiện như việc định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết các tranh chấp tài sản khác. Vấn đề lập Hội đồng định giá đã được hướng dẫn trong Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1995; cụ thể là:
"Khi cần định giá tài sản có tranh chấp, Toà án chủ động triệu tập Hội đồng định giá, nhưng đại diện của Toà án, Viện kiểm sát tham dự cuộc họp của Hội đồng định giá là với vai trò giám sát, chứ không phải là thành viên của Hội đồng định giá, không tham gia biểu quyết về giá. Việc biêủ quyết về giá cả tài sản tranh chấp hoàn toàn thuộc quyền các thành viên của Hội đồng định giá bao gồm đại diện cơ quan tài chính, vật giá, các cơ quan chức năng khác và bắt buộc phải có mặt các bên đương sự. Các đương sự có quyền phát biểu về ý kiến việc định giá nêu ra nhưng quyền quyết định cuối cùng về giá là thuộc Hội đồng định giá. Các đương sự phải chịu chi phí cho việc định giá tương ứng với phần tài sản được phân chia" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 399-400).
Tuy nhiên, cần chú ý rằng quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt, cho nên việc đinh giá quyền sử dụng đất không phải theo giá thị trường như đối với các loại tài sản khác mà phải thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước (cụ thể là phải thực hiện theo đúng Nghị định số 87/CP ngày 17-8-1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất và Nghị định số 17/1998/NĐ-CP ngày 21-3-1998 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 4 của Nghị định số 87/CP ngày 17-8-1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất).
Việc tính tiền tạm ứng án phí: Khi có đơn khởi kiện về tranh chấp quyền sử dụng đất, Toà án căn cứ vào các quy định trong các Nghị định trên đây của Chính phủ (có thể tham khảo thêm ý kiến của cơ quan tài chính vật giá và các cơ quan chức năng khác) để tạm xác định giá quyền sử dụng đất có tranh chấp và trên cơ sở đó tính tiền tạm ứng án phí.
Về án phí: Tuỳ thuộc vào kết quả xét xử mà Toà án buộc người phải chịu án phí và số tiền án phí tính theo giá quyền sử dụng đất mà Hội đồng định giá đã quyết định.
10. Đại diện của Toà án không phải là thành viên của Hội đồng định giá, vậy khi Hội đồng định giá chỉ có hai thành viên, một của cơ quan tài chính, vật giá, một là của cơ quan khác mà khi biểu quyết về giá các ý kiến trái ngược nhau, thì Toà án căn cứ vào đâu để giải quyết?
Quyết định cuối cùng về giá là thuộc Hội đồng định giá. Như vậy, trong trường hợp Hội đồng định giá chỉ có hai thành viên mà khi biểu quyết về giá các ý kiến trái ngược nhau, thì việc định giá được coi là chưa thành, và phải tiến hành định giá lại để có được quyết định cuối cùng của Hội đồng định giá về giá. Tuy nhiên, để tránh xảy ra trường hợp tương tự, thì khi thành lập Hội đồng định giá, ngoài đại diện của cơ quan tài chính, vật giá tuỳ vào tài sản cần định giá mà Toà án cần mời thêm đại diện của hai cơ quan chức năng khác. Ví dụ: để định giá về quyền sử dụng đất, thì ngoài đại diện của cơ quan tài chính, vật giá, Toà án cần mời thêm đại diện của cơ quan xây dựng và đại diện của cơ quan nhà đất.
11. Chi phí cho việc đo đạc đất đai do ai phải chịu?
Trong trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà cần phải đo đạc diện tích đất, thì việc đo đạc diện tích đất là một trong những việc Toà án phải tiến hành trước khi hoà giải, xét xử. Thông thường việc đo đạc diện tích đất do Toà án thực hiện. Nếu việc đo đạc diện tích đất do Toà án thực hiện, thì không có chi phí cho việc đo đạc đất đai. Trong trường hợp cần thiết phải yêu cầu cơ quan chuyên môn tiến hành việc đo đạc diện tích đất đai, thì chi phí cho việc đo đạc đất đai do người thua kiện phải chịu. Cần chú ý là khi thực hiện việc đo đạc đất đai các bên đương sự cần phải có mặt, Toà án có thể mời đại diện của chính quyền địa phương chứng kiến.
12. Trường hợp các bên tranh chấp về nhà ở đều ở trong nước, nhưng đối tượng là người Việt Nam ở nước ngoài là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì có giải quyết không?
Về vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Nếu tranh chấp về nhà ở phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7- 1991, thì theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 58/NQ-UBTVQH ngày 20-8-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 và hướng dẫn tại Khoản 2 Mục II Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Toà án không giải quyết trong khi chưa có chính sách của Nhà nước đối với loại giao dịch dân sự này.
- Nếu tranh chấp về nhà ở phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập từ ngày 1-7-1991, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
13. Trường hợp chính quyền địa phương giao đất cho hộ gia đình để dãn hộ cho chủ hộ là bố mẹ. Vợ chồng con làm nhà trên đất đó, khi vợ chồng con xin ly hôn thì có coi đất đó là tài sản chung của vợ chồng để chia không?
Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật dân sự thì "quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản chung của hộ"; do đó cần phân biệt như sau:
- Nếu các thành viên trong hộ gia đình đều đồng ý cho đất để vợ chồng một người con của chủ hộ làm nhà ở, mặc dù không có giấy tờ, nhưng có nhiều người biết việc cho đất đó và vợ chồng
người con đã làm nhà ở thực sự trên đất đã được cho thành khuôn viên riêng, thì vợ chồng người con đó đang sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất. Khi xét xử cho ly hôn thì quyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của vợ chồng và được chia theo quy định chung.
- Nếu các thành viên trong hộ gia đình chưa đồng ý cho đất để vợ chồng một người con của chủ hộ làm nhà ở, nhưng vợ chồng người con đó đã làm nhà ở trên một phần đất đó, thì trong trường hợp này nhà ở là tài sản chung của vợ chồng, còn quyền sử dụng đất vẫn là của hộ gia đình. Khi xét xử cho ly hôn thì Toà án tính giá trị của nhà ở để chia cho họ hoặc chia nhà ở bằng hiện vật, còn đất thì người nhận một phần hoặc toàn bộ nhà ở phải thanh toán tiền giá trị quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo khung giá đất do chính quyền địa phương quy định. Trong trường hợp họ phải thanh toán tiền giá trị quyền sử dụng đất, thì Toà án chỉ buộc phải thanh toán cho những người không đồng ý cho đất theo phần tương ứng mà họ được hưởng.
14. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở hoặc tranh chấp về ranh giới với diện tích nhỏ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào?
Theo hướng dẫn tại Mục I Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993" và theo hướng dẫn tại Công văn số 92/KHXX ngày 8-8-1997 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT này, thì các tranh chấp quyền sử dụng đất (đất canh tác, đất gắn liền với tài sản nhưng các bên không tranh chấp về tài sản) mà đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993 thì thuộc thẩm quyền Toà án giải quyết; nếu đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993, thì thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 236-237 và trang 239-240).
Như vậy, tranh chấp quyền sử dụng đất mà trên đất đó có nhà ở, nhưng các bên không có tranh chấp về nhà ở và tranh chấp ranh giới đất (thực chất là tranh chấp quyền sử dụng đất) nếu các loại đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; nếu chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
15. Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định về người đại diện do đương sự uỷ quyền. Đề nghị hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề uỷ quyền, đặc biệt là bị đơn là dân sự uỷ quyền.
Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì chỉ trừ việc ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật, đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng. Theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này thì đương sự là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; do đó, việc bị đơn uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, thì cũng như nguyên đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan uỷ quyền. Việc Toà án không chấp nhận ai tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền thì đã được hướng dẫn cụ thể tại Mục IV Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 296-297).
16. Trường hợp nguyên đơn bỏ đi làm ăn xa, Toà án không tống đạt được giấy triệu tập thì giải quyết như thế nào?
Trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nhưng sau khi Toà án đã thụ lý vụ án thì nguyên đơn bỏ đi làm ăn xa, Toà án không tống đạt được giấy triệu tập cho đương sự, thì cần giải quyết như sau:
- Nếu có thân nhân của nguyên đơn còn sinh sống ở địa phương và có căn cứ cho thấy họ biết được địa chỉ của nguyên đơn hay họ vẫn liên lạc với nguyên đơn, thì Toà án yêu cầu họ thông báo hoặc chuyển cho nguyên đơn giấy triệu tập của Toà án. Nếu thân nhân của họ không chịu thông báo hoặc chuyển giấy triệu tập của Toà án cho nguyên đơn để nguyên đơn về tham gia tố tụng hoặc thông báo cho Toà án biết họ yêu cầu xét xử vắng mặt họ, thì coi đây là trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu thông báo hoặc chuyển giấy triệu tập của Toà án cho nguyên đơn, thì Toà án áp dụng Khoản 3 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Nếu thân nhân của nguyên đơn không ai biết địa chỉ của nguyên đơn hoặc thân nhân của nguyên đơn không còn ai sinh sống ở địa phương, thì Toà án cần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương về việc Toà án đã thụ lý để giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm và yêu cầu nguyên đơn phải có mặt để tham gia tố tụng hoặc cho biết ý kiến của mình về việc có yêu cầu Toà án xét xử vụ án vắng mặt họ hay không. Nếu nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt họ, thì Toà án tiến hành xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung. Nếu họ yêu cầu xét xử có mặt họ thì yêu cầu họ có mặt tại Toà án theo đúng lịch phiên toà do Toà án ấn định. Sau thời hạn ba tháng, kể từ ngày ra thông báo, nếu nguyên đơn vẫn không có tin tức gì và cũng không có mặt tại Toà án để tham gia phiên toà, thì Toà án áp dụng quy định tại Khoản 3 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
17. Cơ quan nào có trách nhiệm chuyển giao giấy triệu tập của Toà án?
Theo quy định của pháp luật tố tụng nói chung và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói riêng, thì việc chuyển giao giấy triệu tập của Toà án cho những người tham gia tố tụng là trách nhiệm của Toà án; Vì vậy, Toà án cần áp dụng các biện pháp thích hợp để chuyển giao giấy triệu tập cho họ (như: Cử cán bộ trực tiếp giao cho họ; Yêu cầu họ đến Toà án và giao cho họ; Gửi qua đường bưu điện; Gửi qua Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi họ cư trú và nhờ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển giao cho họ và báo cho Toà án biết giấy triệu tập đã được chuyển giao...)
18. Bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau 15 ngày nếu không có kháng cáo, kháng nghị (trong trường hợp đại diện Viện kiểm sát có mặt tại phiên toà) hay phải sau 30 ngày khi Viện kiểm sát trên một cấp không kháng nghị?
Pháp luật tố tụng chưa có quy định và cũng chưa có văn bản nào của các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về thời Điểm hiệu lực của bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm, nếu không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Căn cứ vào thực tiễn công tác giám đốc thẩm trong thời gian qua và để áp dụng thống nhất chung, thì bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
19. Việc xác định nơi cư trú theo quy định tại Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có phải được thực hiện theo Điều 48 Bộ luật dân sự hay không?
Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ, trong đó có quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Toà án nơi cư trú của bị đơn. Việc xác định nơi nào là nơi cư trú của bị đơn phải thực hiện theo các quy định tại các Điều 48, 49, 50, 51, 52 và 53 của Bộ luật dân sự.
20. Việc ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định theo Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trong trường hợp các thành viên của Hội đồng xét xử đã về hưu hoặc đã chuyển địa bàn công tác thì thẩm quyền, thành phần được quyền sửa chữa, bổ sung như thế nào?
Trong trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu vì tính toán sai thì cho phép Toà án được sửa chữa, bổ sung. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không quy định việc sửa chữa, bổ sung bản án phải do Thẩm phán - chủ toạ phiên toà hay Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử đã xét xử vụ án; do đó, trong trường hợp các thành viên của Hội đồng xét xử đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển địa bàn công tác hoặc vì lý do khác mà không còn là Thẩm phán của Toà án đã xét xử vụ án đó, thì có thể do Chánh toà hoặc Phó Chánh toà; Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân đó sửa chữa, bổ sung phần sai sót trong bản án, quyết định đó.
21. Đối với việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì có được hoà giải không?
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Nếu việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà thiệt hại ngoài hợp đồng là thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, thì theo quy định tại Khoản 2 Điều 43 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án không tiến hành hoà giải.
- Đối với việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác, theo tinh thần quy định tại Điều 13 Bộ luật dân sự thì gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật không phải là giao dịch dân sự; do đó, không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 43 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và vì vậy Toà án tiến hành hoà giải theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
22. Đối với trường hợp tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, tuyên bố một bên mất năng lực hành vi dân sự... Viện kiểm sát nhân dân có bắt buộc phải tham gia phiên toà hay không? Nếu vắng mặt đại diện Viện kiểm sát thì Hội đồng xét xử có phải hoãn phiên toà hay không?
Theo tinh thần hướng dẫn tại Khoản 5 Mục III Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đối với việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết Toà án phải yêu cầu Viện kiểm sát tham gia phiên toà (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 293). Như vậy, đối với việc tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết hoặc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, thì Toà án phải yêu cầu Viện kiểm sát tham gia phiên toà và về nguyên tắc thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà; do đó, nếu vắng mặt đại diện Viện kiểm sát thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà; Tuy nhiên, trong trường hợp Viện kiểm sát đã nhận được yêu cầu của Toà án về việc tham gia phiên toà, nhưng có thông báo cho Toà án biết việc Viện kiểm sát không tham gia phiên toà trong vụ án cụ thể đó, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
23. Về thủ tục xin tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, đương sự có thể uỷ quyền cho người khác thay mình yêu cầu Toà án giải quyết được không? Có đưa người mà nguyên đơn xin tuyên bố đã chết hoặc mất tích vào tham gia tố tụng với tư cách bị đơn không?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì chỉ trừ việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì đương sự không được uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng; do đó, việc yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Việc tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết là việc xác định một sự kiện pháp lý nên không thể coi người mà người có yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết là bị đơn.
24. Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà có trường hợp người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác, thì có đưa những người đó vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc người nợ phải trả nợ cho họ;
- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.
25. Trong trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án, sau đó một thời gian mà lý do tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án tiếp tục giải quyết. Vậy có nên xoá sổ để thụ lý như vụ án mới không? Người đang giải quyết vụ án mà ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì có được tiếp tục tiến hành tố tụng nữa không?
Theo hướng dẫn tại Khoản 4 Mục VIII Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì: "Tạm đình chỉ giải quyết vụ án không phải là chấm dứt việc giải quyết vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án lại tiếp tục giải quyết vụ án" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 298); do đó, trong trường hợp ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, thì Toà án không xoá sổ thụ lý vụ án và tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa. Do vụ án chưa được giải quyết xong, vì vậy người đang giải quyết vụ án mà ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án vẫn được tiếp tục tiến hành tố tụng.
26. Đề nghị giải thích tư cách tố tụng của trưởng thôn trong việc đại diện cho thôn trong việc giao kết hợp đồng dân sự và tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự.
Theo quy định tại Điều 94, Điều 110, Điều 116 và Điều 120 Bộ luật dân sự, thì thôn không phải là đơn vị có tư cách pháp nhân, thôn cũng không phải là hộ gia đình hay tổ hợp tác. Theo pháp luật hành chính, thì thôn cũng không phải là một cấp hành chính, thôn chỉ là một đơn vị hành chính; do đó Trưởng thôn không thể tự nhân danh nhân dân của thôn trong giao việc giao kết hợp đồng dân sự cũng như tự đứng ra tham gia tố tụng dân sự với tư cách là đại diện cho nhân dân của thôn đó. Tuy nhiên, nếu Trưởng thôn được mọi người trong thôn uỷ quyền trong việc giao kết hợp đồng dân sự và tham gia tố tụng dân sự khi có tranh chấp, thì Trưởng thôn có quyền giao kết hợp đồng dân sự, và trong trường hợp này mọi người trong thôn phải cùng cam kết thực hiện các Điều Khoản của hợp đồng cũng như cùng chịu trách nhiệm phát sinh từ hợp đồng. Khi có tranh chấp hợp đồng nếu có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Trưởng thôn đại diện cho nhân dân trong thôn tham gia tố tụng. Trong trường hợp Trưởng thôn không được nhân dân trong thôn uỷ quyền mà tự mình giao kết hợp đồng dân sự, thì tự mình phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
27. Việc không ra "quyết định đưa vụ án ra xét xử" trước khi mở phiên toà phúc thẩm có trái với quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 47 và Điều 68 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không?
Việc không ra "quyết định đưa vụ án ra xét xử" trước khi mở phiên toà phúc thẩm không trái với quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 47 là chỉ áp dụng đối với việc giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm.
Điều 68 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Phiên toà phúc thẩm được tiến hành tương tự phiên toà sơ thẩm, nhưng trước khi xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị". Theo tinh thần quy định tại Điều luật này thì không nên hiểu một cách máy móc rằng trong phiên toà phúc thẩm chủ toạ phiên toà cũng phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thực tiễn xét xử của Toà án cấp phúc thẩm từ trước đến nay cho thấy Toà án cấp phúc thẩm không phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trước khi mở phiên toà phúc thẩm và Điều này cũng không vi phạm thủ tục tố tụng.
28. Cơ quan nào có trách nhiệm thi hành quyết định của Toà án về phạt tiền theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự?
Trong trường hợp Toà án áp dụng Khoản 3 Điều 20, Điều 54 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để ra quyết định phạt tiền đối với bị đơn dân sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng và đối với người vi phạm trật tự phiên toà, thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 4, Điều 20 Pháp lệnh thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm có trách nhiệm thi hành quyết định phạt tiền của Toà án đó.
29. Trường hợp người khởi kiện không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí mà không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết, thì có được coi là sai lầm nghiêm trọng để huỷ án không?
Theo tinh thần quy định tại Khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì về nguyên tắc nếu người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án không thụ lý vụ án. Tuy nhiên trường hợp người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết thì từ trước tới nay không coi là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng để Toà án cấp phúc thẩm huỷ án của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, để thực hiện đúng quy định tại Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì từ nay về sau các Toà án cần chú ý là trong trường hợp nguyên đơn không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án chỉ thụ lý vụ án để giải quyết khi nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu họ không nộp tiền tạm ứng án phí mà Toà án vẫn thụ lý để giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
30. Việc ra quyết định chấp nhận rút đơn kháng cáo trước phiên toà phúc thẩm phải do một Hội đồng hay một Thẩm phán? Nếu phải do một Hội đồng thì cần có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân không? Có phải ghi bút ký không?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự"; cụ thể là: "Về rút đơn kháng cáo, rút kháng nghị khi áp dụng Điều 60 cần chú ý như sau:
1- Thẩm phán Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị trước khi mở phiên toà phúc thẩm.
2- Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 299).
31. Việc ra quyết định công nhận hoà giải thành trước khi mở phiên toà phúc thẩm được thực hiện như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Khoản 5 Phần II Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; cụ thể là: "Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án cũng tiến hành hoà giải và nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải thành. Việc ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng được thực hiện theo hướng dẫn tại các Điểm 2, 3, 4 của phần này.
Trong trường hợp tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết định công nhận sự thoả thuận đó". Các Điểm 2, 3, 4 của phần II Nghị quyết nói trên là hướng dẫn về việc hoà giải, ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 292 - 293).
Như vậy, trường hợp hoà giải thành trước khi mở phiên toà phúc thẩm, thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải thành, trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những Điều mà các đương sự đã thoả thuận. Bản sao biên bản này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung; Nếu hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối, thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.
V. VỀ KINH TẾ
1. Tại Điểm a Khoản 3 Mục I Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 7-1-1995 có hướng dẫn: "... Nếu đã hết thời hạn khởi kiện là 6 tháng thì Toà án không thụ lý giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế, mà chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên thoả thuận... theo thủ tục kinh tế hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự".
Đề nghị có sự giải thích cụ thể thêm, có thể nêu thêm ví dụ để chứng minh trường hợp nào thụ lý theo thủ tục tố tụng kinh tế, trường hợp nào thụ lý theo thủ tục tố tụng dân sự, vì hiện nay có một số ý kiến cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện theo thủ tục tố tụng kinh tế thì được quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trước hết cần khẳng định rằng khi đã xác định tranh chấp mà đương sự có đơn yêu cầu Toà án giải quyết thuộc một trong các tranh chấp quy định tại Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, nếu hết thời hạn sáu tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác), thì Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, để trả lại đơn khiếu kiện mà không được thụ lý để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hướng dẫn tại Điểm a Khoản 3 Mục I Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế: "Nếu đã hết thời hạn sáu tháng, thì Toà án không
thụ lý giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế mà chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận. Khi thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận các Toà án lưu ý và phân biệt là tuỳ theo tính chất, nội dung thoả thuận và yêu cầu cụ thể của đương sự mà xác định đó là vụ án kinh tế hay là vụ án dân sự để thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự", cần được hiểu như sau:
Nếu kể từ ngày phát sinh tranh chấp hợp đồng kinh tế đến ngày một trong các bên có đơn yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp đó mà đã hết thời hạn sáu tháng, thì Toà án trả lại đơn kiện. Nếu trong thời hạn đó các bên thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp đó, thì phải xem xét tính chất, nội dung của thoả thuận đó có phải là một hợp đồng kinh tế mới hay chỉ là một giao dịch dân sự.
- Trong trường hợp thoả thuận đó thực chất là một hợp đồng kinh tế mới mà trong quá trình thực hiện thoả thuận đó có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án phải căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế để giải quyết theo thủ tục chung. Ví dụ: Công ty A và Công ty B ký kết một hợp đồng kinh tế, theo đó Công ty A cung cấp cho công ty B vật liệu là bông vải sợi để Công ty B may dệt quần áo giao cho Công ty A. Trong quá trình thực hiện Công ty A không cung cấp đủ bông vải sợi cho Công ty B và phát sinh tranh chấp. Hết thời hạn sáu tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp Công ty B mới có đơn yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế này, thì Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế trả lại đơn kiện. Giả sử sau khi xảy ra tranh chấp các bên thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp đó là Công ty A không phải cung cấp cho Công ty B vật liệu là bông vải sợi mà phải cung cấp một loại hàng hoá khác để Công ty B bán lấy tiền mua vật liệu bông vải sợi. Trong quá trình thực hiện thoả thuận mới này mà có phát sinh tranh chấp và có đơn yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án phải căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế để giải quyết theo thủ tục chung.
- Trường hợp thoả thuận đó thực chất chỉ là một giao dịch dân sự mà trong quá trình thực hiện thoả thuận đó có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án phải căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để giải quyết theo thủ tục chung. Ví dụ: Cũng ví dụ trên, nhưng giả sử sau khi xảy ra tranh chấp các bên thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp đó là chấm dứt hợp đồng kinh tế, Công ty A phải bồi thường cho Công ty B số tiền 500 triệu đồng trong thời hạn 3 tháng. Hết thời hạn 3 tháng Công ty A không chịu thực hiện việc bồi thường cho Công ty B. Công ty B có đơn yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty A phải thực hiện việc bồi thường số tiền 500 triệu đồng cho Công ty B, thì Toà án phải căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để giải quyết theo thủ tục chung.
2. Việc xác định thời Điểm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Khoản 3 Mục I Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 7-1- 1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế"; cụ thể là: "Ngày bắt đầu của thời hiệu khởi kiện là ngày phát sinh tranh chấp và được xác định phụ thuộc vào từng loại tranh chấp kinh tế; cụ thể như sau:
a) Đối với các tranh chấp về hợp đồng kinh tế:
- Nếu trong thời gian hợp đồng kinh tế đang có hiệu lực mà một trong các bên phát hiện có vi phạm và làm phát sinh tranh chấp, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày phát hiện việc vi phạm.
- Nếu hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực mà các bên không có thoả thuận nào khác và phát sinh tranh chấp, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày tiếp theo của ngày hợp đồng kinh tế đó hết hiệu lực.
- Nếu trước ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực hoặc vào ngày cuối cùng hợp đồng kinh tế còn hiệu lực mà các bên thoả thuận về thời hạn thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế mà hết thời hạn đó, một trong các bên không thực hiện và làm phát sinh tranh chấp thì ngày phát sinh tranh chấp về việc thực hiện thoả thuận là ngày tiếp theo của ngày hết thời hạn thực hiện thoả thuận đó. Trong trường hợp này có đương sự yêu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế thì Toà án thụ lý giải quyết nếu tính từ ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực đến ngày khởi kiện chưa hết thời hạn sáu tháng. Nếu đã hết thời hạn sáu tháng, thì Toà án không thụ lý giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chám dứt hợp đồng kinh tế, mà chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận. Khi thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận các Toà án lưu ý và phân biệt là tuỳ theo tính chất, nội dung thoả thuận và yêu cầu cụ thể của đương sự mà xác định đó là vụ án kinh tế hay vụ án dân sự để thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự.
b) Đối với các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày có biên bản cuộc họp của công ty, đơn của thành viên công ty, trong đó ghi nhận việc biết hoặc phát hiện có vi phạm liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty và dẫn đến tranh chấp.
c) Đối với các tranh chấp liên quan đến việc mua, bán cổ phiếu, trái phiếu, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày đương sự phát hiện có sự vi phạm trong việc mua, bán cổ phiếu, trái phiếu (kể cả việc chuyển nhượng) và dẫn đến tranh chấp.
Thời hiệu khởi kiện sáu tháng các vụ án kinh tế kết thúc vào ngày tương ứng của tháng thứ sáu, kể từ ngày phát sinh tranh chấp; ví dụ: ngày phát sinh tranh chấp (bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện) là ngày 12-10-1994, thì ngày kết thúc thời hiệu khởi kiện là ngày 12-4-1995. Nếu ngày cuối cùng của thời hiệu khởi kiện trùng với ngày nghỉ (chủ nhật, ngày lễ, ngày tết) thì ngày cuối cùng của thời hiệu khởi kiện là ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày nghỉ. Nếu tháng thứ sáu không có ngày tương ứng thì thời hiệu khởi kiện kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó; ví dụ: ngày phát sinh tranh chấp là ngày 31-8-1994, thì ngày kết thúc thời hiệu khởi kiện là ngày 28-2-1995 (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995, trang 327- 328).
3. Khi xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng kinh tế, một trong các bên yêu cầu cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân giải quyết, hoặc các cơ quan này tự phát hiện, kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để khởi tố vụ án hình sự ... Sau một thời gian cơ quan Công an, Viện kiểm sát không khởi tố hoặc đã khởi tố, nhưng đã ra quyết định đình chỉ Điều tra vì không có dấu hiệu tội phạm và đã trả lại đơn cho đương sự, hướng dẫn cho đương sự gửi đơn đến Toà án giải quyết. Khi nhận được đơn đã quá thời hạn 6 tháng kể từ ngày xảy ra tranh chấp thì Toà án có thụ lý giải quyết không?
Khoản 1 Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: "Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". Như vậy theo quy định này thì không có trường hợp ngoại lệ như có lý do chính đáng, do trở ngại khách quan...; do đó, trong mọi trường
hợp nếu đã quá thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác về thời hạn khởi kiện vụ án), thì Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế để trả lại đơn kiện. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án cho thấy nếu theo quy định này thì trong một số trường hợp cụ thể là không được thoả đáng. Toà án nhân dân tối cao sẽ có kiến nghị trong việc sửa đổi, bổ sung pháp luật.
4. Việc phát sinh từ các hợp đồng vay vốn của Ngân hàng có thế chấp tài sản mà bên vay bỏ đi khỏi địa phương không rõ lý do và địa chỉ; đề nghị cho phép Thẩm phám ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: "phát mại tài sản thế chấp" để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp việc phát sinh từ các hợp đồng vay vốn Ngân hàng có thế chấp tài sản mà khi đến hạn trả nợ bên vay bỏ đi khỏi địa phương, không rõ lý do, địa chỉ và không có tranh chấp, nếu Ngân hàng có đơn yêu cầu Toà án thụ lý để giải quyết ra quyết định phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng, thì Toà án không thụ lý giải quyết mà giải thích cho Ngân hàng biết việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh trong trường hợp này đã được quy định tại Điểm a Khoản 13.1 Điều 13 Quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng (ban hành kèm theo Quuyết định số 217/QĐ-NH1 ngày 17-8-1996 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước); cụ thể là:
"13.1. Trường hợp đến hạn trả nợ (tính cả thời hạn được gia hạn nợ nếu có) mà bên thế chấp, cầm cố, và bên được bảo lãnh không trả nợ được và bên bảo lãnh cũng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay thì bên nhận thế chấp, cầm cố và nhận bảo lãnh có quyền:
a- Xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh theo các phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng như: gán nợ cho bên nhận thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng tài sản đó; tự đấu giá hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền đấu giá.
Đối với những tài sản của doanh nghiệp Nhà nước mà pháp luật có quy định phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép thế chấp, cầm cố theo quy định của Chính phủ thì khi xử lý phải có ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền đó".
- Trong trường hợp việc phát sinh từ hợp đồng vay vốn Ngân hàng có thế chấp tài sản mà khi đến hạn trả nợ có tranh chấp, Ngân hàng có đơn yêu cầu Toà án giải quyết và Toà án đã thụ lý để giải quyết , thì bên vay (bị đơn) bỏ trốn khỏi địa phương không rõ lý do không rõ địa chỉ. Trong trường hợp này Toà án áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 42 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì không có biện pháp khẩn cấp tạm thời phát mại tài sản (trừ trường hợp bán sản phẩm, hàng hoá dễ bị hư hỏng); do đó, Toà án không được ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "phát mại tài sản thế chấp".
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn số 11/KHXX ngày 23-1-1996 của Toà án nhân dân tối cao thì trường hợp phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án mà thấy cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước rồi mới ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn có hiệu lực thi hành. Vì vậy, nếu xét thấy cần thiết thì Toà án chỉ có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "kê biên tài sản đang tranh chấp" (tài sản thế chấp).
5. Đối với trường hợp người có chức vụ trong Ban lãnh đạo của Công ty làm thất thoát tài sản xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của doanh nghiệp, vụ án đã khởi tố về mặt hình sự và nếu có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì Toà án có thể tiến hành đồng thời việc xem xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp hay không?
Theo quy định tại Điều 10 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án thông báo cho các chủ nợ, doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc phá sản doanh nghiệp. Đồng thời theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét để khởi tố về mặt hình sự.
Từ các quy định trên của Luật phá sản doanh nghiệp, thì người có chức vụ trong Ban lãnh đạo của doanh nghiệp đã bị khởi tố bị can mà có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì Toà án có quyền thụ lý đơn và tiến hành xem xét để mở hay không mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
6. Khi xảy ra tranh chấp hợp đồng kinh tế, tư cách chủ thể theo hợp đồng kinh tế của một hoặc các bên đều không còn nữa, thì việc giải quyết sẽ theo thủ tục tố tụng kinh tế hay dân sự.0
Nếu có tranh chấp hợp đồng kinh tế và có đơn yêu cầu Toà án giải quyết, thì theo Điều12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đây là vụ án kinh tế và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; vì vậy, cho dù tư cách chủ thể theo hợp đồng kinh tế của một hoặc các bên đều bị mất, Toà án vẫn thụ lý để giải quyết theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Trong trường hợp này việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng được thực hiện theo quy định tại Điều 27 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; cụ thể là:
"1. Nếu đương sự là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế, thì người thừa kế tham gia tố tụng.
2. Nếu đương sự là pháp nhân mà pháp nhân sáp nhập, phân chia, giải thể thì cá nhân, pháp nhân kế thừa các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân cũ có quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.
3. Sự kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng có thể được Toà án chấp nhận ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế".
7. Đề nghị giải thích khái niệm: "Nơi thực hiện hợp đồng kinh tế".
Khoản 3 Điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: "Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng kinh tế giải quyết". Đây chỉ là một trong sáu trường hợp mà nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án kinh tế. Thông thường nơi thực hiện hợp đồng kinh tế được các bên thoả thuận với nhau. Để xác định được nơi thực hiện hợp đồng kinh tế được đúng thì phải căn cứ vào Điều 16 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
8. Trước khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Toà án có cần phải kiểm tra sổ sách tài liệu... mà doanh nghiệp gửi đến hay chỉ cần xem xét kết quả kiểm toán?
Theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp, thì kèm theo đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, chủ nợ, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp phải nộp các giấy tờ, tài liệu kèm theo. Các loại giấy tờ, tài liệu cụ thể đã được quy định tại Điều 10 và Điều 11 Nghị định số 189/CP ngày 23-12-1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp. Theo tinh thần quy định tại Điều 13 và Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn Chánh toà Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải xem xét đơn cùng các giấy tờ tài liệu có liên quan để ra quyết định không mở (nếu xét thấy không đủ căn cứ) hoặc quyết định mở (nếu xét thấy có đủ căn cứ) thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Việc Toà án cần phải xem xét đơn và các tài liệu kèm theo còn được hướng dẫn cụ thể tại Điểm 4 Mục III Công văn số 457/KHXX ngày 21-7-1994 của Toà án nhân dân tối cao về việc áp dụng một số quy định của Luật phá sản doanh nghiệp; cụ thể là: "Để việc ra quyết định không mở hoặc quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được đúng, ngoài việc phải xem xét đơn và các giấy tờ, tài liệu kèm theo một cách kỹ càng, thận trọng, trong trường hợp xét thấy cần thiết, Chánh toà Toà kinh tế có thể triệu tập chủ nợ, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đến Toà án để trình bày về những vấn đề cần thiết hoặc yêu cầu họ cung cấp, bổ sung các giấy tờ, tài liệu cần thiết khác" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 309-310).
9. Thẩm phán có được kê biên tài sản của người mắc nợ doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ không?
Tại Mục V Công văn số 457/KHXX ngày 21-7-1994 của Toà án nhân dân tối cao về việc áp dụng một số quy định của Luật phá sản doanh nghiệp đã hướng dẫn về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:
"Theo Điểm c Khoản 1 Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp thì Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp" ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ" và theo Khoản 2 Điều 17 Luật phá sản doanh nghiệp "trong trường hợp cần thiết, tổ quản lý tài sản có quyền đề nghị Thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản còn lại của doanh nghiệp". Luật phá sản doanh nghiệp không quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm các biện pháp nào. Tuy nhiên theo tinh thần quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật phá sản doanh nghiệp và tham khảo quy định tại Chương VIII Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp có thể bao gồm các biện pháp sau đây:
a) Cho bán hàng hoá sản phẩm của doanh nghiệp trong trường hợp hàng hoá dễ bị hỏng, hàng hoá có thời hạn sử dụng và hàng hoá thuộc loại nếu không bán đúng thời Điểm sẽ khó có khả năng tiêu thụ;
b) Kê biên tài sản của doanh nghiệp để tránh việc cất giấu, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán;
c) Phong toả tài Khoản của doanh nghiệp;
d) Cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành vi nhất định."
(Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 311).
Như vậy, theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp và theo hướng dẫn trên đây, thì trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Toà án không được ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản của người mắc nợ doanh nghiệp dù với Mục đích gì. Chỉ trong trường hợp người mắc nợ doanh nghiệp có tài sản và có căn cứ cho thấy họ có
thể cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc thanh toán nợ cho doanh nghiệp, thì Thẩm phán chỉ có thể áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 16 ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm hoặc buộc người mắc nợ cất giấu, tẩu tán một số loại tài sản cụ thể của họ.
VI. VỀ LAO ĐỘNG
1. Trong các vu án lao động, có yêu cầu đòi tiền trợ cấp thôi việc; trợ cấp mất việc làm; chế độ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì việc tính các chế độ này căn cứ vào đâu?
Căn cứ để tính các chế độ: trợ cấp thôi việc; trợ cấp mất việc làm; chế độ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đã được quy định tại Điều 13 Nghị định số 197/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ "Quy định chi Tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật lao động về tiền lương"; cụ thể là: "Tiền lương làm căn cứ để tính các chế độ, trợ cấp thôi việc; trợ cấp mất việc làm; chế độ bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là tiền lương theo hợp đồng lao động, được tính bình quân của 6 tháng liền trước khi sự việc xảy ra, gồm: lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ và phụ cấp chức vụ (nếu có)". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 216).
2. Đề nghị hướng dẫn việc xác định mức bồi thường trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật qui định tại Khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động.
Việc xác định mức bồi thường trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động cần phải căn cứ vào Nghị định số 197/CP ngày 31-12-1994 của Chính phủ "Quy định chi Tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật lao động về tiền lương". Theo quy định tại Điều 14 của Nghị định này, thì tiền lương được trả trong thời gian nghỉ theo quy định tại các Điều 41,... của Bộ luật lao động là tiền lương tháng trước liền kề và được tính tương ứng với các hình thức trả lương theo thời gian quy định tại Khoản 1 Điều 5 của Nghị định này. Khoản 1 Điều 5 của Nghị định này quy định như sau:
"Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế:
- Tiền lương tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động;
- Tiền lương tuần là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần;
- Tiền lương ngày là tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định trên cơ sở tiền lương tháng chia cho 26 ngày;
- Tiền lương giờ là tiền lương trả cho một giờ làm việc được xác định trên cơ sở tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn quy định tại Điều 68 Bộ luật lao động".
Như vậy, trong trường hợp người sử dụng lao động đã nhận người lao động trở lại làm việc, thì mức bồi thường được xác định theo các quy định trên đây. Trong trường hợp người lao động không muốn trở lại làm việc thì ngoài Khoản tiền được bồi thường này, họ còn được trợ cấp theo quy định tại Khoản 1 Điều 42 của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, người sử dụng lao động chỉ phải bồi thường Khoản tiền tưng ứng với tiền lương trong những ngày người lao động không được làm việc. Nếu người sử dụng lao động đã đồng ý nhận người lao động trở lại làm việc và đã ấn định ngày bắt đầu cụ thể người lao động phải trở lại làm việc, nhưng vì lý do
cá nhân người lao động xin được trở lại làm việc chậm hơn, thì thời gian mà người lao động xin được trở lại làm việc chậm hơn không được tính để xác định mức bồi thường (trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác).
3. Gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp đến mức nào thì coi là nghiêm trọng?
Trong Bộ luật lao động và trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động thì không có quy định cụ thể gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp đến mức nào thì coi là nghiêm trọng. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 41/CP ngày 6-7-1995 của Chính phủ quy định chi Tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất, thì "mức thiệt hại được coi là không nghiêm trọng theo Điều 89 của Bộ luật lao động là mức thiệt hại gây ra dưới 5 triệu đồng". Như vậy, theo tinh thần của quy định này cần phải hiểu là nếu người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp từ 5 triệu đồng trở lên phải coi là gây thiệt hại nghiêm trọng.
VII. VỀ HÀNH CHÍNH
1. Từ trước đến nay đã có văn bản pháp luật nào quy định buộc cơ quan nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính... phải trả lời khiếu nại bằng văn bản để cho người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hay chưa?
Từ trước đến nay đã có nhiều văn bản pháp luật quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người bị khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại, trong đó có việc trả lời khiếu nại bằng văn bản như: Điểm a Khoản 2 Điều 9, Điều 23, Điều 25 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân; Khoản 2 Điều 87, Khoản 1 Điều 88 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính... ngày 2-12-1998, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNnam khoá X, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-1999. Trong đạo luật này cũng đã quy định cụ thể nghĩa vụ của người bị khiếu nại phải giải quyết khiếu nại bằng văn bản (Các Điều 18, 34, 37 và 53... ). Trong thực tiễn có nhiều trường hợp người bị khiếu nại không trả lời về việc giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại; do đó trong thời gian qua nhiều trường hợp công nhân muốn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, nhưng vì lý do chưa có văn bản trả lời của cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính cho nên Toà án không thụ lý để giải quyết. Để khắc phục tình trạng này, căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo, ngày 25-12- 1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định của Pháp lệnh này thì nay không bắt buộc mọi trường hợp khởi kiện đều phải có văn bản của cơ quan nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại (các Khoản 1, 4, 7, 12, 13 Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số Điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).
2. Toà án có thụ lý giải quyết khi đương sự khởi kiện quyết định của Uỷ ban nhân dân về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung, thì khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Vì vậy, khi đương sự khởi kiện quyết định của Uỷ ban nhân dân về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì đây là một loại vụ án hành chính, cho nên Toà án có thẩm quyền thụ lý để giải quyết.
Ngoài các vấn đề đã được giải đáp trên đây, còn có một số vấn đề khác Toà án nhân dân tối cao đang cùng phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu để có hướng dẫn áp dụng thống nhất; Ví dụ: thế nào là "vật phạm pháp có số lượng lớn", "gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự về tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ; hướng dẫn áp dụng Điều 181 Bộ luật hình sự về tội vị phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng... Khi có hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối cao sẽ gửi đến các Toà án các cấp.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 24/1999/KHXX Hà Nội, ngày 17 tháng 3 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 24/1999/KHXX NGÀY 17 THÁNG 3 NĂM 1999 VỀ VIỆC GIẢI ĐÁP BỔ SUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Tại Hội nghị công tác ngành Toà án năm 1998 (từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 2 năm 1999), Toà án nhân dân tối cao đã có bản giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng. Tuy nhiên, tại Hội nghị này một số Toà án có ý kiến đề nghị được giải đáp bổ sung một số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Trong lời bế mặc Hội nghị, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thay mặt Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã giải đáp sơ bộ về những vấn đề đó. Để áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, Toà án nhân dân tối cao giải đáp những vấn đề được nêu bổ sung tại Hội nghị như sau:
I. VỀ HÌNH SỰ
1. Đề nghị giải thích cụm từ "người nào thấy người khác" quy định tại Điều 107 Bộ luật Hình sự. "Thấy" quy định trong điều luật này là "mắt nhìn thấy" hay là chỉ cần "biểt rõ"?
Theo Từ điển tiếng Việt năm 1992 thì "Thấy" có thể được hiểu theo các cách khác nhau: nhận biết được bằng mắt nhìn (nhìn thấy); nhận biết được bằng giác quan nói chung (nghe thấy); nhận ra được, biết được qua nhận thức (thấy được khuyết điểm); có cảm giác, cảm thấy (thấy vui). Để truy cứu một người về "tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng" (Điều 107 Bộ luật Hình sự) thì "Thấy" ở đây không phải hiểu theo nghĩa rộng như các cách khác nhau được giải thích trong Từ điển tiếng Việt năm 1992, nhưng cũng không phải hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ "nhìn thấy". "Thấy" quy định trong Điều 107 Bộ luật Hình sự hoặc là "mắt nhìn thấy" hoặc là tuy mắt không nhìn thấy nhưng "có đầy đủ căn cứ biết rõ" người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến chết người.
2. Người được miễn trách nhiệm hình sự có phải là người không phạm tội hay không, có phải là hành vi của họ chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và chỉ có thể bị xử lý hành chính hay không? Khi tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì có phải quyết định hình phạt bổ sung hay không, nếu điều luật có quy định hình phạt bổ sung đối với tội đó; trách nhiệm dân sự (nếu có) sẽ giải quyết như thế nào?
Về vấn đề này đã được hướng dẫn cụ thể tại mục VIII Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 22), nay cần nhấn mạnh thêm là "miễn trách nhiệm hình sự" và "Không phạm tội" là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau.
- Miễn trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người phạm tội mà khi họ thực hiện hành vi phạm tội nếu căn cứ vào tình hình hoặc căn cứ vào nhân thân của họ tại thời điểm đó, thì họ phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng khi tiến hành điều tra hoặc xét xử do có sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Ví dụ: Một người trộm cắp tài sản của công dân có giá trị 1 triệu đồng. Nếu tại thời điểm họ thực hiện hành vi trộm cắp đó, thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự, thế nhưng sau khi Viện kiểm sát truy tố ra trước Toà án thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử họ đã lập công lớn trong việc dập tắt một đám cháy và đã bị thương tích nặng. Trong trường hợp này họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự vì bản thân họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Miễn trách nhiệm hình sự cũng có thể được áp dụng đối với người phạm tội, nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.
- Không phạm tội là trường hợp hành vi của họ không cấu thành tội phạm (như phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể...), hay họ không thực hiện hành vi phạm tội đó mà là do người khác thực hiện..., có nghĩa là ngay tại thời điểm mà họ thực hiện hành vi đó hay ngay tại thời điểm có hành vi phạm tội xảy ra căn cứ vào các quy định của pháp luật thì họ không phạm tội.
Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải chịu trách hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung; tuy nhiên, tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp đối với họ và giải quyết trách nhiệm dân sự (nếu có). Tuỳ trường hợp cụ thể người được miễn trách nhiệm hình sự có thể bị xử lý hành chính.
3. Đối với người chiếm đoạt tài sản là tiền rồi dùng tiền đó mua vé xổ số và trúng thưởng, thì có áp dụng Điều 33 Bộ luật Hình sự để tịch thu khoản tiền trúng thưởng đó hay không?
Theo điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Hình sự thì Toà án quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước "những vật, tiền bạc mà người phạm tội do thực hiện tội phạm hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có". Trong trường hợp một người chiếm đoạt tài sản là tiền rồi dùng tiền đó mua vé xổ số và trúng thưởng thì khoản tiền trúng thưởng đó là do mua vé xổ số mà có, tức là thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Hình sự; do đó, Toà án quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước. Việc quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước khoản tiền trúng thưởng này không những đúng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Hình sự mà là hết sức cần thiết nhằm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
4. Người phạm tội về ma tuý bị Toà án đã tuyên phạt tử hình, thì đối với họ có cần thiết phải tuyên hình phạt bổ sung là phạt tiền nữa hay không?
Theo quy định tại Điều 185o Bộ luật Hình sự thì người phạm tội ngoài việc phải chịu hình phạt chính còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Như vậy, việc quyết định hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với người phạm tội là bắt buộc. Việc thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi thi hành hình phạt tử hình. Nếu sau khi đã thi hành xong án tử hình mà vẫn còn tài sản của người bị thi hành án tử hình, thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn tiếp tục thi hành hình phạt tiền đối với họ trong phạm vi khối tài sản mà họ để lại; nếu họ không còn bất cứ một thứ tài sản nào để thi hành hình phạt tiền, thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra quyết định đình chỉ thi hành án phạt tiền đối với họ.
5. Một người mua chất ma tuý để sử dụng và khi đang đi trên đường thì bị bắt với số lượng mà theo hướng dẫn thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này cần truy cứu
trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội "vận chuyển trái phép chất ma tuý" hay về tội "tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Trước hết cần phân biệt thế nào "tàng trữ trái phép" và thế nào"vận chuyển trái phép" theo hướng dẫn tại khoản 2 mục II phần B Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự" (Xem cuốn các văn bản hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 48). Trong trường hợp cụ thể được nêu ra trên đây nếu có đầy đủ căn cứ xác định rằng người đó mua chất ma tuý để sử dụng với số lượng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng có nghĩa là có căn cứ khẳng định người đó mua chất ma tuý cất giữ để sử dụng dần; do đó, đối với trường hợp mua chất ma tuý để sử dụng với số lượng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà đang cất giữ ở trong người cho dù phát hiện được trong trường hợp họ đang đi trên đường thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ về tội "tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tuy nhiên, so sánh Điều 185c và Điều 185d Bộ luật Hình sự, thì các tình tiết định khung tăng nặng, các khung hình phạt là như nhau; do đó, đối với trường hợp nêu trên, nếu Viện kiểm sát đã truy tố về tội "vận chuyển trái phép chất ma tuý", thì Toà án vẫn có thể kết án bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
6. Đối với người có hành vi mua thuốc phiện một lần và đã bán cho nhiều người, mà tổng số thuốc phiện của các lần bán cộng lại là dưới 500 gam, thì có xét xử theo quy định tại điển b khoản 2 Điều 185đ Bộ luật Hình sự hay không? Nếu Viện kiểm sát truy tố và Toà án cũng xét xử trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 185đ và coi tình tiết "phạm tội nhiều lần" là tình tiết tăng nặng theo điểm i khoản 1 Điều 39 Bộ luật Hình sự, thì có đúng hay không? Nếu mọi trường hợp mua thuốc phiện một lần rồi bán cho nhiều người, đều bị coi là "phạm tội nhiều lần" và bị xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 185đ Bộ luật Hình sự, thì đề nghị hướng dẫn việc áp dụng hình phạt đối với 2 trường hợp cụ thể sau đây: trường hợp mua 3,75 gam thuốc phiện, bán cho nhiều người và trường hợp mua 400 gam thuốc phiện, bán cho nhiều người vì số lượng thuốc phiện của trường hợp thứ 2 gấp hơn 100 lần trường hợp thứ nhất trong khi mức hình phạt quy định đối với những trường hợp thuộc khoản 2 Điều 185đ là từ 10 năm tù đến 15 năm tù.
Theo tinh thần hướng dẫn tại điểm a khoản 4 mục II phần B Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự", thì người mua bán thuốc phiện có trọng lượng dưới 500 gam bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 185đ Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hướng dẫn này mới chỉ căn cứ vào trọng lượng chất ma tuý mà chưa xét đến các tình tiết định khung hình phạt khác. Theo tinh thần hướng dẫn tại điểm c mục 8 Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA ngày 5-8-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, thì phải áp dụng tình tiết định khung hình phạt "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm b khoản 2 Điều 185đ Bộ luật Hình sự trong các trường hợp: mua trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên nhằm bán trái phép cho người khác, không phân biệt bán một lần hoặc bán nhiều lần; mua trái phép chất ma tuý một lần và bán lại trái phép số lượng chất ma tuý đó từ hai lần trở lên cho người khác, không phân biệt bán lại từ hai lần trở lên cho một người hoặc cho nhiều người; mua trái phép chất ma tuý một lần và bán lại trái phép số lượng chất ma tuý đó trong cùng một lúc cho hai người trở lên. Như vậy, đối với trường hợp người mua trái phép thuốc phiện có trọng lượng dưới 500 gam đem bán lại cho nhiều người là trường hợp "phạm tội nhiều lần" và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 185đ Bộ luật Hình sự; nếu có thêm một tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 185đ Bộ luật Hình sự (ví dụ: sử dụng người chưa thành niên vào việc phạm tội) thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 185đ Bộ luật Hình sự. Do đó, đối với các trường hợp nêu trên nếu Viện kiểm sát chỉ truy tố và Toà án cũng chỉ xét xử theo khoản 1 Điều 185đ Bộ luật Hình sự và coi tình tiết "phạm tội nhiều lần" là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 39 Bộ luật Hình sự là không đúng.
Trong các trường hợp nêu trên mặc dù đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 185đ Bộ luật Hình sự, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án phải căn cứ vào nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật Hình sự, nếu so sánh các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trong các trường hợp này như nhau, chỉ có số lượng thuốc phiện khác nhau, thì số lượng thuốc phiện càng lớn càng phải xử phạt nghiêm khắc hơn.
7. Tại điểm b mục 9 Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA ngày 5- 8-1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an "Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương VIIA Các tội phạm về ma tuý của Bộ luật Hình sự" có hướng dẫn:
"Người nào đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma tuý được quy định trong Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được xoá án mà lại tàng trữ trái phép hoặc vận chuyển trái phép một trong các chất ma tuý được hướng dẫn trên đây (được hướng dẫn tại dấu (*) thứ nhất tiết b điểm 4 mục II phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998) nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 185c hoặc khoản 1 Điều 185d tương ứng"; Nếu thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 185c hoặc khoản 2 Điều 185d tương ứng.
Đề nghị giải thích trong các trường hợp tàng trữ trái phép chất ma tuý, vận chuyển trái phép chất ma tuý là thuốc phiện có trọng lượng dưới một gam (1g) hoặc hêrôin có trọng lượng dưới không phẩy một gam (0,1g), nhưng đã bị kết án mà chưa được xoá án, thì trong trường hợp nào xét xử theo khoản 1 Điều 185c (hoặc khoản 1 Điều 185d) và trong trường hợp nào xét xử theo khoản 2 Điều 185c (hoặc khoản 2 Điều 185d); cụ thể là:
a- Đã bị kết án một lần về tội phạm về ma tuý, nhưng chưa được xoá án;
b- Đã bị kết án một lần về tội phạm về ma tuý và một lần về tội phạm khác, nhưng chưa được xoá án;
c- Đã bị kết án hai lần đều không phải về tội phạm về ma tuý.
Theo hướng dẫn tại tiết b điểm 4 Mục II Phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998 và tại điểm b mục 9 của Thông tư liên tịch số 02/1998, thì người nào tàng trữ trái phép, vận chuyển trái phép chất ma tuý là thuốc phiện có trọng lượng dưới một gam (1g) hoặc hêrôin có trọng lượng dưới không phẩy một gam (0,1g) chỉ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi và chỉ khi họ đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma tuý được quy định trong Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được xoá án. Nếu trước đó họ chỉ bị kết án một hoặc nhiều lần về tội phạm (các tội phạm) khác không phải là về một trong các tội phạm về ma tuý, thì họ vẫn không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý. Như vậy, điều kiện bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự người nào tàng trữ trái phép hoặc vận chuyển trái phép chất ma tuý là thuốc phiện có trọng lượng dưới một gam (1g) hoặc hêrôin có trọng lượng dưới không phẩy một gam (0,1g) là trước đó họ đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma tuý, nhưng chưa được xoá án.
Trong trường hợp theo hướng dẫn trên đây họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì việc xác định họ không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm hay thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm để xét xử họ theo khoản 1 hay theo khoản 2 Điều 185c hoặc theo khoản 1 hay khoản 2 Điều 185d không phải căn cứ vào số lần họ đã bị kết án, nhưng chưa được xoá án mà phải căn cứ vào Điều 40 Bộ luật Hình sự. Cũng có thể trước đó họ chỉ mới một lần bị kết án về một trong các tội phạm về ma tuý, nhưng chưa được xoá án song trong trường hợp này thì họ không phải là tái phạm nguy hiểm nên chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 185c hoặc khoản 1 Điều 185d Bộ luật Hình sự, song trong trường hợp khác họ là tái phạm nguy hiểm và phải bị xét xử theo khoản 2 Điều 185c hoặc khoản 2 Điều 185d Bộ luật Hình sự.
Ví dụ 1: Một người đã bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 185l Bộ luật Hình sự về "tội sử dụng trái phép chất ma tuý" và chưa được xoá án, nay tàng trữ trái phép 0,5 gam thuốc phiện, thì trong trường hợp này theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Hình sự họ chỉ là tái phạm mà không phải là tái phạm nguy hiểm; do đó, họ chỉ bị kết án theo khoản 1 Điều 185c Bộ luật Hình sự. Tình tiết tái phạm chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với họ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 39 Bộ luật Hình sự
Ví dụ 2: Một người đã bị kết án ba năm tù theo khoản 1 Điều 185đ Bộ luật Hình sự về "tội mua bán trái phép chất ma tuý" và chưa được xoá án, nay tàng chữ trái phép 0,5 gam thuốc phiện, thì trong trường hợp này theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 40 Bộ luật Hình sự họ là tái phạm nguy hiểm; do đó, họ phải bị kết án theo điểm n khoản 2 Điều 185c Bộ luật Hình sự.
Ví dụ 3: Một người đã bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 109 Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích và chưa được xoá án, thì lại bị kết án một năm tù theo khoản 1 Điều 185l Bộ luật Hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma tuý và cũng chưa được xoá án, nay lại tàng trữ trái phép 0,5 gam thuốc phiện, thì trong trường hợp này theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 40 Bộ luật Hình sự họ là tái phạm nguy hiểm và, do đó, họ phải bị xét xử theo điểm n khoản 2 Điều 185c Bộ luật Hình sự.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Hồ sơ thi hành án phạt tù của Toà án gồm những giấy tờ gì?
Theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, thì hồ sơ thi hành án phạt tù của Toà án bước đầu phải có bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành bản án, quyết định đó của Toà án. Ngoài hai loại giấy tờ này, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có những loại giấy tờ khác. Ví dụ, nếu sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù mà người bị kết án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự mà được hoãn thi hành án phạt tù thì trong hồ sơ thi hành án phạt tù được bổ sung quyết định hoãn thi hành án phạt tù. Nếu sau khi ra quyết định thi hành án phạt tù mà người bị kết án đã vào trại giam, thì trong hồ sơ thi hành án phạt tù được bổ sung văn bản thông báo của giám thị trại giam nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù về việc đã tiếp nhận người bị kết án tù đã vào trại giam.
Nói chung trong quá trình thi hành án phạt tù mà Toà án hay các cơ quan khác có thẩm quyền ra bất kỳ một quyết định, văn bản nào có liên quan đến việc thi hành án phạt tù thì phải được bổ sung vào hồ sơ, như bản sao quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt từ; bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; bản sao quyết định đặc xá v.v...
2. Đối với trường hợp xét xử sơ thẩm không có mặt bị cáo, đương sự tại phiên toà, thì đến thời điểm nào mà vẫn không có kháng cáo của những người này bản án sơ thẩm bắt đầu có hiệu lực đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà sơ thẩm?
Theo hướng dẫn tại khoản 1 Mục II Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 26-12-1996 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự", thì bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định tại khoản 1 Điều 208 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì "Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án". Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản sao bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị của Viện Kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Như vậy theo các quy định và hướng dẫn trên đây, thì đối với trường hợp xét xử sơ thẩm không có mặt bị cáo, đương sự tại phiên toà, thì việc xác định thời điểm nào mà vẫn không có kháng cáo của họ, bản án sơ thẩm bắt đầu có hiệu lực pháp luật cần phân biệt như sau:
- Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm mà Toà án cấp sơ thẩm đã giao bản sao bản án cho họ hoặc đã niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc, thì thời điểm bản án hình sự sơ thẩm bắt đầu có hiệu lực đối với họ bắt đầu từ ngày hết thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên, (tức là bắt đầu từ ngày thứ 31 kể từ ngày tuyên án).
- Nếu sau 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm mà Toà án cấp sơ thẩm mới giao bản sao bản án cho họ hoặc mới niêm yết tại Trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc, thì thời điểm bản án hình sự sơ thẩm bắt đầu có hiệu lực đối với họ bắt đầu từ ngày thứ 16, kể từ ngày niêm yết (nếu những người khác có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án đối với họ mà không có kháng cáo, kháng nghị).
3. Một người phạm tội cố ý gây thương tích thuộc khoản 1 Điều 109 Bộ luật Hình sự và vụ án đối với họ đã được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Người phạm tội đã bị truy tố và Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử và kết án bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại có đơn gửi Toà án cấp phúc thẩm xin rút yêu cầu khởi tố vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm giải quyết như thế nào?
Đối với trường hợp vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và sau đó người bị hại rút yêu cầu, thì khoản 2 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định: "Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà thì vụ án phải được đình chỉ. Trong trường hợp cần thiết, tuy người bị hại rút yêu cầu, Viện Kiểm sát hoặc Toà án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án". Tuy khoản 2 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định chung chung là "Trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà" mà không quy định cụ thể là trước ngày mở phiên toà nói chung (sơ thẩm, phúc thẩm, kể cả giám đốc thẩm) hay chỉ là trước ngày mở phiên toà sơ thẩm, song cần hiểu là chỉ trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại mà trước ngày mở phiên toà sơ thẩm người bị hại rút yêu cầu và Viện Kiểm sát hoặc Toà án xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tiến hành tố tụng thì vụ án phải được đình chỉ. Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa rộng "trước ngày mở phiên toà" có thể là trước ngày mở phiên toà sơ thẩm, có thể là trước ngày mở phiên toà phúc thẩm, (cũng có thể là kể cả trước ngày mở phiên toà giám đốc thẩm), thì trong trường hợp vị cáo không kháng cáo, Viện Kiểm sát không kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, mà chỉ có người bị hại có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án (có thể là trong thời hạn kháng cáo, có thể là sau khi hết thời hạn kháng cáo), thì rõ ràng vụ án không được thụ lý để xét xử phúc thẩm và trong trường hợp này đơn xin rút yêu cầu khởi tố
vụ án không được xem xét; do đó, nếu sau khi Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử sơ thẩm và trong thời hạn kháng cáo mà người bị hại có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án, thì coi đây là đơn kháng cáo của người bị hại. Trong trường hợp này, Toà án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo. Trong trường hợp xét thấy cần thiết thì có thể không chấp nhận đơn kháng cáo của người bị hại mà vẫn giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm. Trong trường hợp sau khi Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử sơ thẩm và trong hạn kháng cáo, kháng nghị không có kháng cáo, kháng nghị, chỉ có sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị người bị hại mới có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án, thì vụ áníẽ được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm.
4. Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội cướp tài sản của công dân và Toà án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử bị cáo về tội cướp tài sản của công dân. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và đề nghị kết tội bị cáo về tội danh nhẹ hơn là gây rối trật trật tự công cộng. Khi nghị án Hội đồng xét xử thấy có đầy đủ căn cứ kết tội bị cáo về tội cướp tài sản của công dân, thì Hội đồng xét xử có quyền kết án bị cáo về tội cướp tài sản của công dân không?
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đồng thời, theo tinh thần của quy định tại Điều 169, Điều 195 Bộ luật Tố tụng hình sự, trong trường hợp Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội danh nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự thì khi nghị án, chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; do đó, trong trường hợp được nêu trên đây khi nghị án Hội đồng xét xử thấy có đầy đủ căn cứ kết tội bị cáo về tội cướp tài sản của công dân, thì Hội đồng xét xử có quyền không chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và tuyên bố bị cáo phạm tội cướp tài sản của công dân. Điều đó là hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử phải thực hiện đúng các quy định tại khoản 2 Điều 195, khoản 2 Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Mục III Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự" (Xem cuốn các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; tr.136).
5. Trong một vụ án hình sự khi xét xử phúc thẩm (hay giám đốc thẩm), Toà án cấp phúc thẩm (hay cấp giám đốc thẩm) đã quyết định huỷ phần dân sự và giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại đối với phần dân sự, thì thủ tục thế nào? Nếu trong vụ án đó có ba người phải nộp tiền tạm ứng án phí mà chỉ có một người nộp tiền tạm ứng án phí còn lại hai người khác không nộp, thì toà án có giải quyết luôn tất cả đối với yêu cầu của cả ba người hay không?
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
a- Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm (hay Toà án cấp giám đốc thẩm) quyết định huỷ các quyết định về phần dân sự trong bản án hình sự và giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại vụ án về phần dân sự theo thủ tục chung, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành xét xử lại vụ án theo thủ tục tố tụng tố tụng hình sự, mặc dù chỉ xét xử về phần dân sự. Trong trường hợp này, tuy các đương sự trong vụ án hình sự không nộp tiền tạm ứng án phí dân sự, nhưng Toà án vẫn tiến hành giải quyết phần dân sự của vụ án hình sự.
b- Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm (hay Toà án cấp giám đốc thẩm) quyết định huỷ các quyết định về phần dân sự để giải quyết lại trong một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu, thì việc giải quyết phần dân sự khi có yêu cầu theo thủ tục chung về tố tụng dân sự. Trong trường hợp này nếu chỉ có một người nộp tiền tạm ứng án phí dân sự, thì cần phân biệt như sau:
- Nếu cả ba người đều có yêu cầu Toà án giải quyết phần dân sự cho họ, mà các yêu cầu của ba người này có liên quan với nhau (ví dụ: cả ba người có yêu cầu đòi bồi thường chiếc ô tô là tài sản của chung của họ bị chiếm đoạt) thì dù chỉ có một người nộp tiền tạm ứng án phí dân sự, Toà án vẫn thụ lý để giải quyết trong cùng một vụ án dân sự các yêu cầu của cả ba người.
- Nếu cả ba người đều có yêu cầu Toà án giải quyết phần dân sự cho họ, nhưng các yêu cầu của ba người này hoàn toàn độc lập với nhau (ví dụ: người thứ nhất yêu cầu bồi thường chiếc xe đạp, người thứ hai yêu cầu đòi bồi thường chiếc máy khâu và người thứ ba yêu cầu đòi bồi thường chiếc xe máy), thì chỉ có người nào nộp tiền tạm ứng án phí dân sự theo yêu cầu của mình, Toà án mới thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
6. Theo quy định tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự thì một trong những loại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành là “Những bản án và quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm” (điểm b khoản 1). Vậy trong một vụ án có nhiều bị cáo, có bị cáo kháng cáo hay bị kháng cáo, kháng nghị, có bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, thì bản án sơ thẩm đó đã có hiệu lực pháp luật hay chưa? Cần hiểu bản án có hiệu lực pháp luật hay phần bản án có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1 Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 226 Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành". Như vậy, theo quy định này thì những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị là có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành; nếu toàn bộ bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì toàn bộ bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành. Do đó, trong một vụ án có nhiều bị cáo, có bị cáo kháng cáo hay bị kháng cáo, kháng nghị, có bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, thì toàn bộ bản án sơ thẩm đó chưa có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này khái niệm "những bản án và quyết định" quy định tại điểm b khoản 1 Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự cần phải hiểu là phần bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.
III. VỀ DÂN SỰ
1. Trong trường hợp vay tài sản là vàng và có thoả thuận trả lãi suất bằng tiền, nếu có tranh chấp thì việc tính lãi suất như thế nào? Có thể quy vàng ra tiền để tính lãi suất theo số tiền đó được không?
Về vấn đề này tại khoản 5 Mục I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản" đã hướng dẫn: "Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất Ngân hàng nhà nước quy định". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; tr.163). Như vậy, khi các bên có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết việc vay tài sản là vàng và có lãi suất, thì Toà án cần xác định lại xem việc giao dịch vay vàng vào thời điểm nào và tại thời điểm đó Ngân hàng Nhà nước có quy định việc cho vay vàng có lãi suất hay
không? Nếu tại thời điểm giao dịch vay vàng không có quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay vàng có lãi suất, thì Toà án không chấp nhận việc tính lãi suất. Nếu tại thời điểm giao dịch vay vàng có quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay vàng có lãi suất, thì Toà án chấp nhận việc tính lãi suất và mức lãi suất chỉ được tính bằng mức lãi suất Ngân hàng Nhà nước quy định, không tính lãi suất bằng tiền và cũng không quy vàng ra tiền để tính lãi suất theo số tiền.
2. Khi quyết định việc đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, thì Toà án căn cứ vào đâu và mức đóng góp phí tổn tối thiểu là bao nhiêu?
Trước hết phải khẳng định rằng việc quyết định người không nuôi giữ con phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con là căn cứ vào Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình "... Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó...". Trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau về việc đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, thì việc quyết định mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Tuy nhiên, căn cứ vào mức sống của nhân dân ta trong hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn là mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con.
3. Trong trường hợp Toà án đã xử cho vợ chồng ly hôn và giao con là người chưa thành niên cho vợ (hoặc chồng) trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục, nay người được nuôi dưỡng con đi xuất cảnh và muốn đưa con đi cùng, nhưng người không được nuôi giữ con không đồng ý nên xảy ra tranh chấp và đương sự yêu cầu Toà án giải quyết, thì cần giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình, thì "Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con"; do đó, trong trường hợp trên đây, nếu người không được nuôi giữ con đã có đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung; nếu họ chưa có đơn thì Toà án hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con và khi họ đã có đơn, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung. Khi xem xét yêu cầu thay đổi việc nuôi giữ con, thì Toà án cũng phải căn cứ vào tinh thần quy định tại Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình để quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cần thay đổi việc nuôi giữ con; cụ thể là: "... Việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ". Trong trường hợp họ không làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con, mà chỉ yêu cầu người được nuôi giữ không được đưa con đi xuất cảnh với mục đích cản trở việc xuất cảnh của người được xuất cảnh, thì đây là loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Khi có người khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch, thì Toà án có đưa cơ quan hộ tịch vào tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn hay không?
Theo tinh thần hướng dẫn tại mục IV Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đương sự có quyền khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ hộ tịch như thay đổi họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh hoặc sửa chữa bổ sung các sai sót như nhầm tên của cha, mẹ trong giấy khai sinh... Thẩm quyền giải quyết loại việc này là Toà án cấp huyện nơi có trụ sở của cơ quan hộ tịch bị khiếu nại. Đối với loại việc này, Toà án phải đưa cơ quan hộ tịch vào tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn; nếu Toà án đã gửi giấy triệu tập hai lần mà cơ quan hộ tịch đó không cử người tham gia tố tụng, thì căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
2. Trong các trường hợp xin xác định là cha hoặc là mẹ cho con, thì có bắt buộc phải giám định máu, giám định gien của người con và người cần xác định là cha hoặc là mẹ cho con hay không? Nếu không bắt buộc phải giám định, thì có thể xảy ra trường hợp cùng việc đó khi họ có yêu cần cơ quan hộ tịch, thì có quan hộ tịch không xác định là cha hoặc là mẹ cho con, nhưng khi họ yêu cầu Toà án, thì Toà án lại xác định là cha hoặc là mẹ cho con.
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp có yêu cầu nhận cha, mẹ cho con và người được yêu cầu nhận là cha, là mẹ cho con cũng nhận rằng mình là cha, là mẹ của người con đó, thì theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, họ chỉ cần yêu cầu cơ quan hộ tịch công nhận và ghi vào sổ khai sinh. Nếu cơ quan hộ tịch từ chối việc công nhận và ghi vào sổ khai sinh, thì theo quy định tại khoản 5 Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và hướng dẫn tại Mục IV Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", họ có quyền khiếu nại và yêu cầu Toà án giải quyết việc cơ quan hộ tịch từ chối việc công nhận và không ghi vào sổ khai sinh của cha, mẹ cho con. Nếu họ có yêu cầu, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án cần phải xem xét kỹ lý do mà cơ quan hộ tịch từ chối việc công nhận và không ghi vào sổ khai sinh cha, mẹ cho con. Nếu chỉ vì lý do là chưa có giám định máu, giám định gien, nhưng các bên liên quan vẫn không ai có ý kiến gì khác, không có tranh chấp thì Toà án chấp nhận yêu cầu khiếu nại của đương sự mà không cần giám định máu, giám định gien.
- Trong trường hợp có tranh chấp về nhận con, nhận cha, nhận mẹ thì Toà án nhân dân nơi thường trú của người con giải quyết vụ án (Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình) và trong trường hợp này, việc giám định máu, giám định gien là cần thiết.
V. VỀ KINH TẾ
1. Bị can, bị cáo đang bị tạm giam có được uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng tại Toà án trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh từ các quan hệ kinh tế do họ xác lập khi chưa bị bắt tạm giam không?
Nếu có tranh chấp kinh tế và có yêu cầu Toà án giải quyết mà Toà án xác định tư cách của bị can, bị cáo đang bị tạm giam là đương sự trong vụ án kinh tế đó, thì theo quy định tại Điều 9 và Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế bị can, bị cáo đang bị tạm giam là đương sự trong vụ án kinh tế đó có thể uỷ quyền cho Luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng. Việc uỷ quyền này phải được lập thành văn bản và cần có chứng nhận của Trại tạm giam hoặc Trại giam.
2. Trong quá trình giải quyết một số vụ án kinh tế mà có một trong các đương sự là bị can hoặc bị cáo đang bị tạm giam và họ không uỷ quyền cho người khác thay mình tham gia tố tụng, việc trích xuất họ đến Toà án để tiến hành hoà giải cũng không thực hiện được, thì Toà án có thể tiến hành hoà giải tại Trại tạm giam nơi họ đang bị tạm giam không?
Theo tinh thần quy định tại các điểm c và đ khoản 1 Điều 11 khoản 1 Quy chế về tạm giữ, tạm giam (Ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07-11-1998 của Chính phủ) thì Giám thị Trại tạm giam có nhiệm vụ tổ chức cho người đang bị giam, giữ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật; giao người bị tạm giam, tạm giữ theo lệnh trích xuất của người có thẩm quyền; do đó, về nguyên tắc khi Toà án có lệnh trích xuất bị can, bị cáo đang bị tạm giam là đương sự trong vụ án kinh tế để tiến hành hoà giải, thì Giám thị Trại tạm giam phải tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, trong trường hợp vì những lý do chính đáng nào đó mà việc trích xuất không thực hiện được, thì Toà án có thể tổ chức việc hoà giải và tiến hành hoà giải tại Trạm tạm giam.
3. Trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp mà phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và theo Luật phá sản doanh nghiệp thì Toà án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để xem xét về hình sự, nhưng Luật phá sản doanh nghiệp không quy định là trong trường hợp này Toà án sau khi chuyển hồ sơ thì ra quyết định tạm đình chỉ hay đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp? Nếu đình chỉ thì chi phí cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được giải quyết như thế nào?
Cũng trường hợp trên, nếu Viện kiểm sát chuyển trả hồ sơ lại cho Toà án với lý do là người có trách nhiệm hình sự đã chết, nên không xem xét về hình sự, thì Toà án phải tiếp tục giải quyết như thế nào? Trước đây khi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ chờ quyết định khởi tố của Viện kiểm sát. Nếu Toà án không tiếp tục giải quyết phá sản thì hồ sơ chuyển trả lại cho ai? Các chi phí cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp giải quyết như thế nào?
Về trả lời câu hỏi này trước hết chúng ta phải căn cứ vào các quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 10 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án thông báo cho các chủ nợ, doanh nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc phá sản doanh nghiệp. Đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp xem xét để khởi tố về mặt hình sự. Mặt khác, theo quy định tại các điều 16, 29, 31, 33 và 35 Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong các căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không có căn cứ nào là khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội.
Xuất phát từ các quy định trên đây của Luật phá sản doanh nghiệp, thì trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm, một mặt Thẩm phán vẫn tiếp tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; mặt khác, cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát (có thể là bản sao) xem xét để khởi tố về mặt hình sự, chứ không được ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố việc phá sản doanh nghiệp và chuyển toàn bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Nếu thực tiễn có trường hợp cụ thể nào đó mà Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và đã chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thì Toà án đó ra ngay quyết định rút quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ đó và yêu cầu Viện kiểm sát chuyển trả hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung (kể cả chi phí cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp).
Trong trường hợp Viện kiểm sát chuyển trả hồ sơ lại cho Toà án với lý do người có trách nhiệm hình sự đã chết, thì việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn tiếp tục. Nếu không phải là doanh nghiệp tư nhân thì vẫn giải quyết theo thủ tục chung. Nếu là doanh nghiệp tư nhân mà chủ của doanh nghiệp bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người thừa kế, thì Thẩm phán áp dụng khoản 6 Điều 36 Luật phá sản doanh nghiệp ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
VI. VỀ LAO ĐỘNG
1. Đối với các vụ án lao động, nếu người khởi kiện làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết, nhưng chưa qua hoà giải tại cơ sơ hoặc chưa được Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết thì Toà án có thụ lý để giải quyết hay không?
Để quyết định việc thụ lý hay không thụ lý đơn kiện để giải quyết các tranh chấp lao động chưa qua hoà giải tại sơ sở hoặc chưa được Hội đồng Trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết, Toà án cần phải căn cứ vào Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Theo quy định tại Điều 11 này, thì chỉ có các tranh chấp lao động cá nhân sau đây chưa qua hoà giải tại cơ sở, Toà án vẫn có thẩm quyền giải quyết.
- Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
- Tranh chấp về bồi thườngthiệt hại cho người sử dụng lao động.
Đối với các tranh chấp lao động cá nhân khác bắt buộc phải qua hoà giải tại cơ sở (Hội động hoà giải sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và việc hoà giải đó không thành, thì Toà án mới thụ lý để giải quyết.
Đối với các tranh chấp lao động tập thể, thì trong mọi trường hợp phải được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án mới thụ lý để giải quyết.
Cần lưu ý là khi thụ lý để giải quyết các tranh chấp lao động trên đây, cần chú ý đến thời hạn khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
VII. VỀ HÀNH CHÍNH
1. Vấn đề thi hành án hành chính được thực hiện như thế nào? làm thế nào để bảo đảm hiệu lực thi hành án hành chính?
Cơ chế bảo đảm hiệu lực thi hành án hành chính cũng như vấn đề thi hành án hành chính đã được quy định cụ thể tại Điều 74 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
"1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước.
2- Cá nhân, cơ quan nhà nước tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Các quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự".
2. Các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 5 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung) là những quyết định nào hành, vi nào?
Căn cứ vào Điều 13 Luật đất đai quy định nội dung quản lý nhà nước về đất đai và căn cứ vào Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, (đã được sửa đổi, bổ sung), thì các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 5 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung) bao gồm những quyết định, hành vi sau đây:
a. Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 5 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước về việc thực hiện nội dung quản lý nhà nước về đất đai quy định tại Điều 13 Luật đất đai được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
b. Hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 5 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ về nội dung quản lý nhà nước về đất đai quy định tại Điều 13 Luật đất đai.
3. "Người bị kiện" uỷ quyền cho ai thì Toà án mới chấp nhận, vì thực tiễn cho thấy có người được uỷ quyền tham gia tố tụng, nhưng chỉ đến Toà án để nghe mà không phát biểu ý kiến hoặc không dám phát biểu chính kiến của mình về việc giải quyết vụ án hành chính.
Theo quy định tại Điều 6 và Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, thì đương sự có thể uỷ quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng, trừ một số đối tượng cụ thể quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g khoản 1 Điều 22 của Pháp lệnh này; do đó, "người bị kiện" (cũng là đương sự) có thể uỷ quyền bằng văn bản cho bất kỳ người nào đại diện cho mình tham gia tố tụng, nếu người đó không thuộc một trong số đối tượng này. Tuy nhiên, để tránh tình trạng bên được uỷ quyền tham gia tố tụng, nhưng không thực hiện được nhiệm vụ của mình và bên uỷ quyền từ chối nghĩa vụ do bên được uỷ quyền xác lập trong phạm vi uỷ quyền, thì Toà án chỉ chấp nhận việc uỷ quyền khi có văn bản uỷ quyền và được chứng thực hợp pháp. Trong văn bản uỷ quyền đó phải ghi đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự được uỷ quyền và cam đoan của bên uỷ quyền phải thực hiện các nghĩa vụ do bên được uỷ quyền xác lập trong phạm vi uỷ quyền. Trong trường hợp văn bản uỷ quyền chưa làm đúng như hướng dẫn trên đây, thì Toà án cần giải thích cho họ biết và yêu cầu làm lại văn bản uỷ quyền theo hướng dẫn trên đây.
4. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính bao gồm các khiếu kiện nào?
Quy định này cần hiểu là, ngoài các vụ án hành chính cụ thể được quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 9 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, thì nếu trong một văn bản quy phạm pháp luật nào đó có quy định có loại quyết định hành chính, hành vi hành chính nào đó nếu có khiếu kiện là vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân, thì Toà án căn cứ vào khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thụ lý để giải quyết. Ví dụ: Hiện nay theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 63/CP ngày 24-10-1996 của Chính phủ "quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp" và theo Luật khiếu nại, tố cáo, thì nếu các khiếu nại các quyết định liên quan đến việc chấp nhận đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ, cấp hoặc từ chối cấp Văn bằng bảo hộ mà trong thời hạn pháp luật quy định Cục Sở hữu công nghiệp không giải quyết hoặc đã giải quyết mà người khiếu nại không đồng ý, thì họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo pháp luật tố tụng hành chính.
5. Có cần phải phân biệt giá trị nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác từ bao nhiêu trở lên nếu có khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý để giải quyết hay không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì không phân biệt giá trị nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác từ bao nhiêu trở lên, nếu có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý để giải quyết. Chỉ cần xác định rằng đó là nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố, nếu có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ là Toà án xem xét thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
Ngoài các vấn đề đã được giải đáp bổ sung trên đây, còn có một số vấn đề khác như về mối quan hệ phối hợp hay kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Toà án nhân dân tối cao sẽ lưu ý để có ý kiến với các cơ quan hữu quan đó.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 52/1999/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 52/1999/KHXX NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 1999 VỀ VIỆC THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Thông qua công tác giám đốc, thanh tra cũng như thông qua báo cáo công tác xét xử của một số Toà án, Toà án nhân dân tối cao thấy rằng trong thời gian qua một số Toà án khi xét xử, đặc biệt là khi xét xử sơ thẩm đã không thực hiện đúng một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên, như việc yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo, thành phần Hội đồng xét xử. Để thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, tránh việc bản án bị huỷ do có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp một số điểm sau đây:
1. Khi xét xử mà bị cáo là người chưa thành niên, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ. Nếu Toà án đã có yêu cầu và Đoàn luật sư đã cử người bào chữa cho bị cáo, thì cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp người bào chữa có mặt mà bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ, không có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối bào chữa, thì Toà án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
- Trong trường hợp người bào chữa có mặt mà bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi người bào chữa, thì Toà án căn cứ vào các Khoản 2 và 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trong trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa, thì phải hoãn phiên toà. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa, thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
- Trong trường hợp người bào chữa có mặt (hoặc vắng mặt) mà bị cáo từ chối người bào chữa, thì Toà án lập biên bản về việc bị cáo từ chối người bào chữa. Trong biên bản này phải có chữ ký của bị cáo. Sau khi lập biên bản xong, Toà án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
- Trong trường hợp người bào chữa vắng mặt tại phiên toà bị cáo không từ chối người bào chữa, thì Toà án căn cứ vào Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự để hoãn phiên toà.
2. Khi xét xử sơ thẩm mà bị cáo là người chưa thành niên, thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự “Thành phần Hội đồng xét xử phải có một hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”; do đó, các Toà án cần phải thực hiện đúng quy định này. Cụ thể là khi phân công Hội đồng xét xử sơ thẩm cần phải xem xét trong danh sách Hội thẩm nhân dân có ai là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh để mời họ tham gia Hội đồng xét xử.
Cần lưu ý là khái niệm "giáo viên" được quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự cần được hiểu theo nghĩa rộng của nó, tức là những "nhà giáo" - những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác. Theo quy định tại Chương III Luật giáo dục, thì nhà trường bao gồm: "Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân (Điều 44); Nhà trường của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 45) và các loại trường chuyên biệt khác, như: Trường phổ thông dân tộc nội trú, Trường phổ thông dân tộc bán trú, Trường dự bị đại học (Điều 56); Trường chuyên, Trường năng khiếu (Điều 57); Trường, lớp dành cho người tàn tật (Điều 58); Trường giáo dưỡng (Điều 59). Về các cơ sở giáo dục khác, thì theo tinh thần quy định tại Điều 60 Luật giáo dục, đó là các cơ sở giáo dục được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Chính phủ.
Để thực hiện đúng quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự, các Toà án cần rà soát lại trong danh sách Hội thẩm nhân dân đã có thành phần Hội thẩm nhân dân như trên hay chưa? Nếu chưa có thì cần báo cáo ngay bằng văn bản với Hội đồng nhân dân đề nghị bầu bổ sung thành phần Hội thẩm nhân dân như trên. Trong khi Hội đồng nhân dân chưa bầu bổ sung được, thì cần mời Hội thẩm nhân dân là người có nghề nghiệp, chuyên môn hiểu được tâm sinh lý trẻ em hoặc người đã từng là giáo viên hay đã từng làm cán bộ Đoàn thanh niên công sản Hồ Chí Minh tham gia Hội đồng xét xử.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 57/1999/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 57/1999/KHXX NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 1999 VỀ VIỆC GIẢI THÍCH THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 01/TTLT/ 19-6-1997
Kính gửi: Phòng thi hành án tỉnh Quảng Bình
Sau khi nghiên cứu Công văn số 20/THA ngày 13 tháng 4 năm 1999 của phòng thi hành án tỉnh Quảng Bình về việc giải thích Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "về việc xét xử và thi hành án về tài sản", Toà án nhân dân tối cao có ý kliến như sau:
1. Theo nội dung tại Điểm 2 phần III Thông tư thì đoạn viết: “Trong trường hợp bên được thi hành án không đồng ý nhận giá trị hiện vật bằng tiền và cơ quan thi hành án không cưỡng chế được người thi hành án giao vật vì lý do nêu trên,...” đã bao hàm cả ba chủ thể trong quan hệ thi hành án, đó là:
- Người được thi hành án
- Cơ quan thi hành án
- Người phải thi hành án.
Do vậy, khi áp dụng hướng dẫn này, chính quý phòng đã nhận thấy "Tất nhiên các cơ quan thi hành án đều hiểu người mà cơ quan thi hành án không cưỡng chế được... là người phải thi hành án" (Trích Công văn số 20/THA ngày 03 tháng 4 năm 1999 của phòng thi hành án tỉnh Quảng Bình), nên Toà án nhân dân tối cao nhận thấy không nhất thiết phải sửa cụm từ "người thi hành án" thành cụm từ "người phải thi hành án", vì dù chỉ sửa một từ cũng cần phải có sự thống nhất giữa các ngành hữu quan đã phối hợp cùng với Toà án nhân dân tối cao ban hành Thông tư này.
2. Về hiệu lực của Thông tư.
Theo Thông báo số 38/KHXX ngày 5-7-1996 của Toà án nhân dân tối cao "Về việc huỷ bỏ, chấm dứt hiệu lực thi hành, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định pháp luật dân sự theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Dân sự", thì "Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 10-1-1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản trong các vụ án hình sự và dân sự" không còn hiệu lực thi hành trong công tác xét xử kể từ ngày 1-7-1996", do đó, Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 đương nhiên thay thế cho Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 10-01-1992, mà không phải hướng dẫn gì thêm.
Đề nghị quý Phòng áp dụng quy định tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản" để thi hành quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 56/1999/KHXX Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 56/1999/KHXX NGÀY 17 THÁNG 6 NĂM 1999 VỀ VIỆC ĐÍNH CHÍNH MỘT SỐ ĐIỂM TRONG TTLT SỐ 01/1999/TTLT-TANDTC- VKSNDTC NGÀY 25-1-1999
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Do sơ suất khi chỉnh lý và in ấn Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999 "Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1999 của Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội", nên có một số chỗ chưa chính xác. Sau khi thống nhất với lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao thông báo việc sửa lại một số điểm của Thông tư này như sau:
1. Điểm 1 Mục IV Thông tư được sửa lại như sau:
"Ví dụ: Thừa kế được mở ngày 01-5-1990. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Nhưng theo quy định tại Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế thì đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thì thời hiệu được tính từ ngày công bố Pháp lệnh, tức là ngày 10-9-1990. Áp dụng Khoản 2 Điều 17 của Nghị quyết số 58/1998, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong trường hợp cụ thể này đến ngày 10-3-2003, vì mười năm này được tính như sau:
- Từ ngày 10-9-1990 đến ngày 01-7-1996 là 5 năm 9 tháng 20 ngày.
- Từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
- Từ ngày 01-01-1999 đến ngày 10-3-2003 là 4 năm 2 tháng 10 ngày (5 năm 9 tháng 20 ngày + 4 năm 2 tháng 10 ngày = 10 năm).
2. Tại dấu "+" cuối cùng của Điểm b Khoản 1 Mục III, do sơ suất của khâu in ấn nên đã thiếu chữ "cho" giữa cụm từ bên thuê", vì thế đoạn này được bổ sung thêm chữ "cho" như sau:
"+ Nếu lấy tổng diện tích ở của nhà ở cho thuê (kể cả diện tích ở được làm thêm) chia cho tổng số người trong hai hộ gia đình của bên cho thuê và bên thuê mà mức bình quân bằng hoặc trên 3m2/người nhưng dưới 6m2/người, thì Toà án cho bên cho thuê được lấy lại phần diện tích ở bằng tổng số người trong hộ gia đình của bên cho thuê nhân với mức bình quân này".
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 53/1999/KHXX Hà Nội, ngày 05 tháng 6 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 53/1999/KHXX NGÀY 25 THÁNG 6 NĂM 1999 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 181 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước
Sau khi nghiên cứu Công văn số 40/CV-TA ngày 30-3-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước đề nghị hướng dẫn áp dụng Điều 181 Bộ luật Hình sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Tại Điều 3 Nghị định số 77/CP ngày 29-11-1996 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, đã quy định rõ đối với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng mà mức độ gây thiệt hại vượt qua mức độ tối đa thuộc phại vi xử phạt vi phạm hành chính đối với mỗi hành vi được quy định tại Nghị định này thì phải chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, cần áp dụng các quy định của Nghị định số 77/CP để xác định tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" được quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự. Cụ thể là đối với hành vi phá rừng trái phép, hành vi khai thác rừng trái phép và hành vi phát đốt rừng trái phép để làm nương dẫy (quy định tại Điều 4, Điều 5 và Điều 6 Nghị định 77/CP), nếu gây thiệt hại với một trong các mức sau đây phải truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Phá rừng, phát đốt rừng sản xuất từ trên 1 ha;
- Phá rừng, phát đốt rừng phòng hộ từ trên 0,5 ha;
- Phá rừng, phát đốt rừng đặc dụng từ trên 0,3 ha. - Khai thác trái phép gỗ tròn thông thường: ở rừng sản xuất từ trên 25m3; ở rừng phòng hộ từ trên 20m3; ở rừng đặc dụng từ trên 15m3;
- Đối với gỗ tròn quý hiếm thì cần lưu ý như sau: Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 18- HĐBT ngày 17-1-1992 quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ, thì: Nhà nước nghiêm cấm việc khai thác, sử dụng thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm thuộc nhóm I. Hạn chế việc khai thác, sử dụng thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm thuộc nhóm II. Vì vậy, tại dự thảo Thông tư liên tịch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an hướng dẫn xử lý các hành vi phạm tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (về cơ bản dự thảo Thông tư này đã được chuyên viên các ngành liên quan nhất trí, tuy nhiên chưa trình lên lãnh đạo xem xét ký, ban hành là do cần chờ kết quả của Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X thông qua Bộ luật Hình sự sửa đổi) thì: - Khai thác trái phép gỗ tròn quý hiếm từ trên 1m3 thuộc nhóm I, hoặc từ trên 10 m3 thuộc nhóm II thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 181 Bộ luật Hình sự.
2. Cũng theo dự thảo Thông tư liên tịch nói trên thì các hành vi phá rừng trái phép, phát đốt rừng trái phép làm nương rẫy, khai thác gỗ tròn quý hiếm, nếu gây thiệt hại với một trong các mức sau đây thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 Điều 181 Bộ luật Hình sự:
- Phá rừng, phát đốt rừng sản xuất từ trên 1,5ha
- Phá rừng, phát đốt rừng phòng hộ từ trên 0,7ha
- Phá rừng, phát đốt rừng đặc dụng từ trên 0,5ha - Khai thác gỗ tròn thông thường: từ trên 35 m3 ở rừng sản xuất, từ trên 28 m3 ở rừng phòng hộ, từ trên 20 m3 ở rừng đặc dụng. - Khai thác gỗ tròn quý hiếm từ trên 3 m3 thuộc nhóm I, từ trên 15 m3 thuộc nhóm II.
Vì dự thảo Thông tư liên tịch chưa được chính thức thông qua, vì vậy hướng dẫn về việc xác định các mức thiệt hại làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 181 Bộ luật Hình sự đối với hành vi khai thác gỗ tròn quý, hiếm thuộc nhóm I và làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm theo Khoản 2 Điều 181 Bộ luật Hình sự, chưa phải là hướng dẫn chính thức. Do đó, ý kiến trên đây của Toà án nhân dân tối cao chỉ để quý Toà tham khảo trong việc áp dụng Điều 181 Bộ luật Hình sự.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 68/1999/KHXX Hà Nội, ngày 13 tháng 7 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 68/1999/KHXX NGÀY 13 THÁNG 7 NĂM 1999 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ NHÀ Ở MỞ TRƯỚC NGÀY 1-7-1991
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Long An
Sau khi nghiên cứu Công văn số 1031/CV.TA ngày 31-5-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Long An trao đổi về vụ kiện tranh chấp thừa kế nhà ở mở trước ngày 1-7-1991 mà có đương sự là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội "Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991" quy định: "Nghị quyết này không áp dụng đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia". Theo quy định này thì khi có tranh chấp phát sinh từ một trong tám loại giao dịch dân sự về nhà ở (bao gồm: thuê nhà ở; cho mượn, cho ở nhờ nhà ở; mua bán nhà ở; đổi nhà ở; tặng cho nhà ở; thừa kế nhà ở; quản lý nhà ở vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân) đang thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1-7-1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, nếu có một trong các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) là người Việt Nam định ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài, thì tuỳ từng trường hợp mà quý Toà xử lý theo hướng dẫn tại khoản 2 Mục II Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 25-1-1999 như sau:
- Nếu chưa thụ lý, thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết;
- Nếu đã có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết, thì tiếp tục tạm đình chỉ việc giải quyết.
Như vậy, trường hợp mà Toà án nhân dân tỉnh Long An nêu trong Công văn số 1031/CV.TA ngày 31-5-1999, thì không phân biệt người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện thừa kế đó, Toà án phải xử lý theo một trong ba trường hợp nói trên, nghĩa là theo quan điểm thứ nhất mà quý Toà đã nêu trong Công văn.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà nghiên cứu quán triệt trong việc áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 25-1-1999.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 73/1999/KHXX Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 73/1999/KHXX NGÀY 16 THÁNG 7 NĂM 1999 VỀ VIỆC ĐIỀU KIỆN GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ VÀ TRUY NÃ ĐỐI VỚI VỊ CÁO
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Sau khi nghiên cứu Công văn số 482/CV-TA ngày 9-6-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Tại Điểm 2 Mục III Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù", có hướng dẫn: "Nói chung, mỗi người, mỗi năm chỉ được xét giảm một lần. Tuy nhiên, nếu sau khi được giảm án mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng thêm như lập công lớn, mắc bệnh hiểm nghèo, thì có thể được xét giảm thêm một lần trong năm đã được giảm". Cụm từ "mỗi năm" trong hướng dẫn này cần được hiểu là tính theo lịch (năm 1998, năm 1999), chứ không phải mỗi năm được tính tròn 12 tháng kể từ lần giảm thứ nhất đến lần xét giảm thứ hai. Tuy nhiên cần lưu ý là khi xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù các Toà án cần phải thực hiện đúng các hướng dẫn về điều kiện và mức giảm được hướng dẫn tại Mục III Thông tư liên ngành nói trên.
2. Theo tinh thần quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như tinh thần hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, thì thẩm quyền ra quyết định truy nã và đình nã là cơ quan điều tra. Quyết định truy nã chỉ hết hiệu lực khi người bị truy nã đã chết hoặc bị bắt giữ theo Quyết định truy nã hoặc trong trường hợp có quyết định đình nã của cơ quan điều tra; do đó, khi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật, Toà án không cần phải yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục ra Quyết định truy nã mới. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi xét xử, xét thấy việc truy nã bị cáo vì hành vi phạm tội đang bị xét xử là không cần thiết nữa, thì Toà án yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định đình nã đối với bị cáo, nếu bị cáo đó không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 81/1999/KHXX Hà Nội, ngày 24 tháng 7 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 81/1999/KHXX NGÀY 24 THÁNG 7 NĂM 1999 VỀ VIỆC ĐỀ NGHỊ GIẢI THÍCH QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ 17/1999/NĐ-CP
Kính gửi: Chính phủ
Ngày 29 tháng 3 năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/1999NĐ-CP "Về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất" (Sau đây gọi tắt là Nghị định số 17). Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17 quy định: "Người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy định sau đây thì làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thực hiện các quyền theo quy định của Nghị định này... (gồm tám loại giấy tờ".
Hiện nay, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính đang phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993. Khi thảo luận các vấn đề cần hướng dẫn có liên quan đến quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17, thì còn có những cách hiểu khác nhau về quy định này.
a- Quan điểm thứ nhất cho rằng, người đang sử dụng đất nếu có một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17, thì họ được thực hiện hai quyền song song. Một là họ được làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hai là họ được thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định này với các lý do như sau:
- Thứ nhất là, tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17, hai quyền này được nối với nhau bằng giới từ "VÀ".
- Thứ hai là, theo tinh thần quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17, thì chỉ có người đang sử dụng đất đó có một trong các giấy tờ quy định từ Điểm a đến Điểm h Khoản 2 này mà không có tranh chấp thì họ mới có hai quyền song song nói trên.
Với cách hiểu như trên quan điển thứ nhất cho rằng trong trường hợp người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy định từ Điểm a đến Điểm h Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17 mà đất đó không có tranh chấp, thì họ được thực hiện các quyền theo quy định của Nghị định số 17 (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất). Nếu có phát sinh tranh chấp từ các giao dịch này và có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thì tranh chấp đó thuộc quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Ví dụ: người đang sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một trong các bên hoặc cả hai bên vi phạm hợp đồng chuyển nhượng đất (như giao đất chậm, trả tiền chậm, có sự lừa dối khi chuyển nhượng...) mà có tranh chấp thì việc giải quyết tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân.Tuy nhiên, trong trường hợp người đang sử dụng đất mặc dù có một trong các giấy tờ quy định từ Điểm a đến Điểm h Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17, nhưng đất đó có tranh chấp
(Ví dụ: có người khác cũng có một trong các giấy tờ trên và cho rằng mình có quyền sử dụng đất đó...) mà có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Trong trường hợp này nếu tranh chấp đó chưa được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết, nhưng một trong các bên đang có tranh chấp vẫn thực hiện một trong các quyền theo quy định của Nghị định số 17 mà lại phát sinh tranh chấp từ việc thực hiện quyền này và có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thì tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân. Toà án nhân dân sẽ tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
b- Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17 cho dù đất đó không có tranh chấp, thì trước hết họ vẫn phải làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 và chỉ sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó, họ mới được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định này. Nếu họ chưa làm thủ tục hoặc tuy đã làm thủ tục, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mọi tranh chấp liên quan đến đất này (tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp phát sinh từ các giao dịch chuyển đổi, chuyển nhượng...) mà có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Trong hai cách hiểu theo hai quan điểm trên đây, thì Toà án nhân dân tối cao (kể cả những cán bộ cấp vụ và chuyên viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự các cuộc họp) cho rằng cách hiểu theo quan điểm thứ nhất phù hợp với các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân, của Toà án nhân dân và phù hợp với thực tiến hơn. Nếu hiểu theo quan điểm thứ hai, thì trong trường hợp một người đang sử dụng đất có một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17 mà không có tranh chấp, nhưng họ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nay bị bệnh hiểm nghèo mà viết di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đất cho một người con, thì di chúc đó sẽ là vô hiệu? Nếu như vậy thì không phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự về quyền định đoạt tài sản, quyền thừa kế và cũng không phù hợp với thực tế. Giả sử sau khi người để lại thừa kế quyển sử dụng đất chết, một người con khác có yêu cầu được chia thừa kế quyền sử dụng đất đó (tức là có tranh chấp), thì cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân là không đúng về thẩm quyền chia thừa kế khi có tranh chấp.
Ngoài ra, trong Điều 3 Nghị định số 17 có dùng hai khái niệm "Người sử dụng đất" (Khoản 1) và "Người đang sử dụng đất" (Khoản 2). Toà án nhân dân tối cao muốn được biết có sự khác nhau giữa hai khái niệm này hay không? Có ý kiến cho rằng "Người đang sử dụng đất" là người đang trực tiếp sử dụng đất đó có đúng không? Nếu đúng như vậy, thì một người có tên trong sổ địa chính mà không có tranh chấp (Điểm c Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 17), nhưng đất đó lại đang do một người khác trực tiếp sử dụng (đang ở, đang sản xuất...) có được làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thực hiện các quyền theo quy định của Nghị định số 17 hay không?
Để có cách hiểu đúng và thống nhất các quy định tại Điều 3 Nghị định số 17, Toà án nhân dân tối cao kính đề nghị Chính phủ sớm có giải thích các quy định này, để trên cơ sở đó Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính phối hợp với nhau soạn thảo và ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 87/1999/KHXX Hà Nội, ngày 06 tháng 8 năm 1999
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 87/1999/KHXX NGÀY 6 THÁNG 8 NĂM 1999 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC TUYÊN BỐ MỘT NGƯỜI LÀ ĐÃ CHẾT
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 176/TA ngày 15-6-1999 và tài liệu gửi kèm theo Công văn của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh hỏi về thủ tục giải quyết việc tuyên bố một người là đã chết, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Đối với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 176/TA ngày 15-6-1999 và tài liệu gửi kèm theo thì Toà án phải tách yêu cầu của bà Trần Thị Lý thành hai vụ kiện riêng biệt, bởi vì việc tuyên bố một người là đã chết là việc xác định một sự kiện pháp lý nên phải được giải quyết riêng.
1) Về thẩm quyền và thủ tục giải quyết việc tuyên bố một người đã chết:
Theo hướng dẫn tại Mục III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", thì Toà án có thẩm quyền giải quyết việc tuyên bố một người là đã chết là "Toà án cấp huyện nơi thường trú của người khởi kiện hoặc nơi thường trú cuối cùng của người mà người khởi kiện yêu cầu Toà án xác định là đã chết" (Khoản 1 Mục III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990). Trong trường hợp cụ thể của quý Toà nêu tại Công văn số 176/TA ngày 15-6-1999, thì Toà án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh có thẩm quyền giải quyết việc tuyên bố chị Trần Thị Minh là người đã chết.
(Đề nghị quý Toà xem Cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 293).
Ngoài ra, theo hướng dẫn tại Mục IV Công văn số 16/1999/KHXX ngày 1-2-1999 của Toà án nhân dân tối cao "Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng" (câu 23), thì Toà án cần lưu ý: "Việc tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết là việc xác định một sự kiện pháp lý nên không thể coi người mà người có yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết là bị đơn". Sau khi ra quyết định tuyên bố chị Trần Thị Minh là đã chết mà không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì Toà án cần hướng dẫn cho bà Trần Thị Lý mang quyết định của Toà án đến Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký khai tử theo quy định tại Điều 63 Bộ luật Dân sự.
2) Đối với yêu cầu của bà Trần Thị Lý về việc giải quyết chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước cho chị Trần Thị Minh sau khi bị Toà án tuyên bố là đã chết.
Việc giải quyết chế độ chính sách cho chị Trần Thị Minh sau khi Toà án ra quyết định tuyên bố là đã chết thuộc thẩm quyền của Công ty 475 (thuộc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4) theo chính sách bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp Công ty 475 không giải quyết hoặc
tuy có giải quyết nhưng bà Trần Thị Lý không đồng ý và yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
Trên đây là trao đổi về thủ tục giải quyết việc tuyên bố một người là đã chết của Toà án nhân dân tối cao để Toà án Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh nghiên cứu và hướng dẫn cho Toà án cấp huyện giải quyết tốt loại việc này.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 10/2000/KHXX Hà Nội, ngày 10 tháng 1 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 10/2000/KHXX NGÀY 10 THÁNG 01 NĂM 2000 VỀ VIỆC THI HÀNH MỤC 3 NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Ngày 21 tháng 12 năm 1999, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông qua Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH10 (từ đây gọi tắt là Nghị quyết) về việc thi hành Bộ luật hình sự. Tại mục 1 của Nghị quyết đã quy định là Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, nhưng tại Mục 3 của Nghị quyết đã quy định như sau:
"3. Kể từ ngày Bộ luật hình sự này được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật hình sự này đã bỏ hình phạt tử hình, đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với những người được nêu tại điểm a Mục này nhưng chưa thi hành, thì không thi hành nữa và được chuyển xuống hình phạt cao nhất mà Bộ luật hình sự này quy định đối với hành vi phạm tội đó; trong trường hợp điều luật mới vẫn giữ hình phạt tử hình, thì đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hình phạt tử hình đã tuyên được chuyển thành tù chung thân;
c) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
d) Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Những người đã chấp hành xong hình phạt về một tội mà Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm nữa hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo điểm c và điểm b Mục này, thì đương nhiên được xoá án tích".
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự này, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện một số điểm sau đây, kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố:
1. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 1999 đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội đó; cụ thể là:
TT Tội danh Điều luật theo BLHS năm 1985 Điều luật theo BLHS năm 1999
Điều 75 Điều 84 Điều 95 Điều 81 Điều 90 Điều 230
1 Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ 2 Tội chống phá trại giam 3 Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
Điều 97 Điều 154 4 Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới
5 Tội phá huỷ tiền tệ Điều 98
Bỏ (không truy cứu trách nhiệm đối với người có hành vi phá huỷ tiền tệ) Điều 138 6 Tội trộm cắp tài sản
Điều 143 7 Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Điều 132 (Trộm cắp tài sản XHCN) Điều 138 (đối với tài sản XHCN) Điều 156 Điều 280 8 Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
Điều 167 Điều 156 chiếm đoạt tài sản của công dân 9 Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả
Điều 185m Điều 200 10 Tôi cưỡng bức, tội kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý
11 Tội làm môi giới hối lộ 12 Tội bỏ vị trí chiến đấu 13 Tội tuyển mộ lính đánh thuê, tội Điều 227 Điều 258 Điều 280 Điều 290 Điều 324 Điều 344 làm lính đánh thuê
Trong các trường hợp trên đây, nếu khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà xét thấy hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng và theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 phải xử phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất là tử hình, thì nay áp dụng điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất mà điều luật tương ứng đó quy định.
2. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử về tội phạm mà Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn quy định hình phạt tử hình.
3. Trong mọi trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên đối với người phạm tội được nêu tại điểm a mục 3 của Nghị quyết và bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng chưa thi hành, thì mặc dù đã có quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm án tử hình (trong trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm án tử hình) hoặc đã có các quy định không kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (trong trường hợp người bị kết án không làm đơn xin ân giảm án tử hình), Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm cho hoãn thi hành án và báo cáo lên Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo tinh thần quy định tại khoản 5 Điều 229 Bộ luật hình sự.
4. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm một vụ án hình sự cần kiểm tra xem tội phạm mà bị cáo bị truy tố hoặc bị xét xử, thì Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định là tội phạm nữa hay không; nếu Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm, thì áp dụng điểm c, Mục 3 của Nghị quyết ra quyết định đình chỉ vụ án đối với họ.
5. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm đối với bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, cần kiểm tra xem tội phạm mà bị cáo bị truy tố hoặc bị xét xử, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là bao nhiêu năm tù; nếu xét thấy việc truy tố, xét xử trước đó theo khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đó từ 7 năm tù trở xuống, thì áp dụng điểm c Mục 3 của Nghị quyết ra quyết định đình chỉ vụ án đối với họ.
6. Đối với người bị kết án thuộc các trường hợp quy định tại các điểm c và d Mục 3 của Nghị quyết đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hay chưa chấp hành hình phạt, thì tạm thời chưa ra quyết định thi hành án.
Nhận được Công văn này đề nghị các Toá án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần tổ chức nghiên cứu kỹ và triển khai thực hiện ngay.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 12/2000/KHXX Hà Nội, ngày 24 tháng 1 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ SỐ 12/2000/KHXX NGÀY 24 THÁNG 1 NĂM 2000 VỀ VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ TRUY NÃ NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ BỎ TRỐN
Kính gửi: Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
Sau khi nghiên cứu Công văn số 01/CV.TA.2000 ngày 3 tháng 1 năm 2000 của Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1- Theo quy định tại khoản 3 Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt tù. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn hiện nay là ở một số Toà án vì các lý do khác nhau nên chưa có Chánh án mà chỉ mới có Phó Chánh án; vì vậy, tại điểm 1 Công văn số 133/1999/KHXX ngày 26 tháng 11 năm 1999 của Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn một số vấn đề về công tác xét xử" đã hướng dẫn: "trong trường hợp Toà án chưa có chức danh Chánh án mà có chức danh Phó Chánh án, thì các quyết định về tạm giam, tạm tha... của Toà án sẽ do Phó Chánh án ký thay Chánh án". Hướng dẫn này cần được hiểu là việc ra các quyết định đó vẫn thuộc thẩm quyền của Chánh án nhưng do Phó Chánh án ký thay; do đó, nếu hiện nay quý Toà chưa có Chánh án, thì Phó Chánh án ký thay Chánh án đối với quyết định thi hành án phạt tù và các quyết định khác thuộc thẩm quyền của Chánh án (xem mẫu gửi kèm theo Công văn này).
2- Theo hướng dẫn tại điểm 1 Thông tư số 03/TT/BNV (C11) ngày 11 tháng 4 năm 1997 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) "hướng dẫn việc truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn", thì việc áp giải người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại đi chấp hành án cũng như việc ra lệnh truy nã đối với họ nếu họ bỏ trốn là thuộc trách nhiệm của cơ quan Công an (xem Thông tư gửi kèm theo Công văn này). Sau khi đã ra quyết định thi hành án phạt tù, nếu người bị kết án bỏ trốn, thì Toà án không cần phải yêu cầu cơ quan điều tra ra lệnh truy nã như trong giai đoạn xét xử. Tuy nhiên, để các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, người bị kết án phạt tù đã có quyết định thi hành án phạt tù của Toà án phải đi chấp hành hình phạt tù, thì trong các cuộc giao ban của các cơ quan trong khối nội chính, Toà án cần trao đổi với cơ quan Công an về kết quả bắt người bị kết án phạt tù đi chấp hành hình phạt tù, về việc truy nã trong trường hợp họ bỏ trốn...
Về hình thức của văn bản, thì Bộ luật hình sự quy định là lệnh truy nã còn Bộ luật tố tụng hình sự quy định là quyết định truy nã; do đó, lệnh truy nã hay quyết định truy nã đều đúng. Vấn đề quan trọng là nội dung của lệnh truy nã hay quyết định truy nã cần đầy đủ các thông tin theo quy định của pháp luật.
Trên đây là ý kiến của Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao để quý Toà Tham khảo khi giải quyết các trường hợp cụ thể.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 29/2000/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ SỐ 29/2000/KHXX NGÀY 15 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN RA QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH ÁN
Kính gửi: Toà án nhân dân thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 78/TA ngày 1-3-2000 của Toà án nhân dân thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 226 Bộ luật hình sự, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn công tác tổ chức, cán bộ hiện nay cho thấy ở một số Toà án nhân dân (chủ yếu là Toà án nhân dân cấp huyện) chưa có Chánh án, mà chỉ mới có Phó Chánh án và họ được giao quản lý, điều hành mọi hoạt động của cơ quan (thực hiện các quyền của Chánh án). Để bảo đảm cho các hoạt động của Toà án nhân dân trong các trường hợp này được tiến hành bình thường, Toà án nhân dân tối cao đã có Công văn số 133/1999/KHXX ngày 26-11-1999 hướng dẫn: "Trong trường hợp Toà án chưa có chức danh Chánh án mà có chức danh Phó Chánh án, thì các quyết định về tạm giam, tạm tha,... của Toà án sẽ do Phó Chánh án ký thay Chánh án". Tuy trong Công văn không liệt kê hết các quyết định mà có Phó Chánh án có thẩm quyền ký thay Chánh án, nhưng cần được hiểu là trong quá trình giải quyết một vụ án cụ thể, nếu cần phải ra một trong các quyết định và theo quy định của pháp luật tố tụng thuộc thẩm quyền của Chánh án, thì Phó Chánh án ký thay Chánh án đối với các quyết định đó.
Như vậy, trong trường hợp Toà án nhân dân thị xã Bắc Ninh cần phải ra quyết định thi hành án và theo quy định tại khoản 3 Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền của Chánh án, thì quyền Chánh án ký thay Chánh án đối với quyết định đó (xem mẫu gửi kèm theo).
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 30/2000/KHXX Hà Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ SỐ 30/2000/KHXX NGÀY 17 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ VIỆC THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN KHI NGUYÊN ĐƠN CÓ UỶ QUYỀN, NHƯNG BỊ CHẾT
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Kom Tum
Sau khi nghiên cứu Công văn số 248/CV ngày 17-12-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đương sự là công dân có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Đồng thời theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh này thì "Người đại diện được uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền". Như vậy, nếu trong vụ án "đòi lại nhà cho thuê" được nêu trong Công văn số 248/CV ngày 17-12-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum, việc uỷ quyền của nguyên đơn cho người khác tham gia tố tụng tại Toà án cấp phúc thẩm thì sau khi Toà án cấp phúc thẩm xét xử xong là việc uỷ quyền đương nhiên chấm dứt.
Giả thiết cho rằng nếu trong vụ án này nguyên đơn uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng tại Toà án cấp phúc thẩm và thay mặt mình tham gia tố tụng khi vụ án phải giải quyết lại, và khi vụ án đang được giải quyết lại thì nguyên đơn chết, trong trường hợp này theo quy định chung của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, nếu chưa có người thừa kế tham gia tố tụng (Điểm a khoản 1 Điều 45); ra quyết định đình chỉ việc giải quyết án, nếu quyền, nghĩa vụ của đương sự không được thừa kế (điểm 1, Điều 46). Việc giải quyết như thế này cũng là theo đúng tinh thần hướng dẫn tại điểm 3 Mục VI Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: "mặc dù đương sự đã uỷ quyền cho người đại diện, nhưng đương sự vẫn có quyền tự mình tham gia tố tụng. Toà án cũng có quyền triệu tập đương sự đích thân tham gia tố tụng khi xét thấy cần thiết" (xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; tập 2, trang 297; xuất bản năm 1992).
Trong trường hợp đã xác định được có người thừa kế, thì Toà án phải hỏi ý kiến của người thừa kế có tiếp tục uỷ quyền cho người mà trước đây nguyên đơn đã uỷ quyền hoặc tự mình tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng để trên cơ sở đó Toà án chấp nhận hay không chấp nhận việc tham gia tố tụng khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
Nếu trong vụ án "đòi nhà cho thuê" trên đây, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum đã có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng nguyên đơn chết không có người thừa kế quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật, thì áp dụng điểm 1 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Trên đây là ý kiến của Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo giải quyết tốt vụ án.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 34/2000/KHXX Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 34/2000/KHXX NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ VIỆC ÁP DỤNG ĐIỂM C MỤC 3 NGHỊ QUYẾT SỐ 32 CỦA QUỐC HỘI "VỀ VIỆC THI HÀNH BLHS"
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam
Sau khi nghiên cứu Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Toà án nhân dân Tối cao có ý kiến như sau:
1. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) quy định: "không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là phạm tội, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm; nếu vụ án đang được kiểm tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ...".
Trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn những hành vi cụ thể nào mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã họp, thảo luận và quyết định cần hiểu thống nhất hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật hình sự này không quy định là tội phạm, đó là:
- Hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một điều luật cụ thể, nay Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và đã bỏ tội danh này; Ví dụ: hành vi vắng mặt trái phép được quy định tại Điều 261 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội "Vắng mặt trái phép", nay hành vi này không bị coi là tội phạm nữa nên trong Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tội danh này.
- Hành vi mà theo Bộ luật hình sự năm 1985 là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự này, nay hành vi này vẫn được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, thì cần phải có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc, song thực tế thì không có một hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc đó; ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật hình sự năm 1985 có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 132 hoặc theo Điều 155, nay theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm, nếu thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đối chiếu với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 14/CV-TA ngày 18-2-2000, thì theo quy định tại Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985, người nào có hành vi đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Đánh bạc". Nay theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, thì người có hành vi
đánh bạc đó phải thuộc một trong các trường hợp sau đây mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999:
- Tiền hay hiện vật có giá trị lớn;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 1999;
- Đã bị kết án về một trong các tội "Đánh bạc", "Tổ chức đánh bạc" hoặc "Gá bạc", nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Vì vậy, nếu hành vi đánh bạc xảy ra tại thời điểm hiện nay không thuộc một trong ba trường hợp nêu trên thì theo Bộ luật hình sự năm 1999 không coi là tội phạm nữa mà được áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 để đình chỉ vụ án.
2. Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp này được quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229); cụ thể là: "tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải áp dụng điểm c hoặc điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 và các điều tương ứng của Bộ luật hình sự để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án...". Như vậy, trong trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án, thì tuỳ theo từng trường hợp mà việc đình chỉ vụ án có thể được thực hiện như sau:
a- Nếu Viện kiểm sát có Công văn xin được rút lại hồ sơ để xem xét trách nhiệm hình sự của bị can, thì Toà án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 143b Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
b- Nếu viện kiểm sát có Công văn (hoặc quyết định) rút quyết định truy tố và yêu cầu Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và Điều 156 Bộ luật hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
c- Nếu viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32, Mục 3 Nghị quyết số 229 và điểm 2 Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án.
Cần chú ý rằng trong các trường hợp trên là chỉ đình chỉ vụ án về mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, còn có các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả xử lý hành chính đối với người thực hiện hành vi đó) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
3. Về tình tiết "tiền hay hiện vật có giá trị lớn" thì cần có sự hướng dẫn thống nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương. Toà án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan hữu quan soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về một số tình tiết cấu thành tội phạm, tình tiết định khung tăng nặng được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có tình tiết này.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 35/2000/KHXX Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 35/2000/KHXX NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ VIỆC THỦ TỤC THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên
Sau khi nghiên cứu Công văn số 07/TA ngày 30-12-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn 15, ngày kể từ khi bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Theo hướng dẫn tại Mục 1 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30-6-1993 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, thì: "Trong trường hợp Toà án đã xử sơ thẩm uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án thì Toà án đã ra quyết định uỷ thác thi hành án phải gửi cho Toà án được uỷ thác thi hành án hai bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật kèm theo quyết định uỷ thác thi hành án" và "... trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác thi hành án, Chánh án Toà án nhận được quyết định uỷ thác phải ra quyết định thi hành án và gửi bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật kèm theo quyết định thi hành án cho cơ quan Công an cùng cấp". Đồng thời theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù thì: "căn cứ để thi hành án phạt tù là bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành bản án, quyết định đó của Toà án".
Như vậy theo các quy định trên đây, thì nếu Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên được uỷ thác thi hành án đã ra quyết định thi hành án phạt tù và chuyển bản sao bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật, quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định thi hành án cho cơ quan Công an là bảo đảm đúng các quy định của pháp luật về căn cứ để thi hành án phạt tù. Việc cơ quan Công an yêu cầu phải cung cấp các tài liệu chứng cứ về thời gian tạm giam, quyết định tạm tha đối với người bị kết án trong các giai đoạn tố tụng trước đó (các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử) là không có căn cứ. Những vấn đề này đã được thể hiện rõ trong bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Với các lý do trên đây Toà án nhân dân tối cao đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên trao đổi lại với cơ quan Công an; nếu cơ quan Công an tỉnh Phú Yên yêu cầu phải có các tài liệu chứng cứ về thời gian tạm giam, quyết định tạm tha đối với người bị kết án trong các giai đoạn tố tụng trước đó (các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử) thì đề nghị cơ quan có ý kiến chính thức bằng văn bản gửi cho Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên. Trong trường hợp nhận được văn bản của cơ quan Công an yêu cầu cần phải có các tài liệu chứng cứ đó, thì Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên sao gửi cho Toà án nhân dân tối cao để Toà án nhân dân tối cao trao đổi với Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao về vấn đề này.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 81/2000/KHXX Hà Nội, ngày 03 tháng 7 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 81/2000/KHXXNGÀY 3 THÁNG 7 NĂM 2000 VỀ VIỆC UỶ QUYỀNTHAM GIA TỐ TỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Trong thời gian qua Toà án nhân dân tối cao nhận được các công văn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam phản ảnh về việc các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chưa có sự thống nhất trong vấn đề chấp nhận việc các ngân hàng uỷ quyền cho các văn phòng đại diện, chi nhánh của các ngân hàng khởi kiện, tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế.
Để bảo đảm sự thống nhất và đúng pháp luật về vấn đề uỷ quyền của các ngân hàng cho văn phòng đại diện, chi nhánh của các ngân hàng tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, các vụ án kinh tế; sau khi có ý kiến thống nhất của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tại Công văn số 1136/KS-V12 ngày 2 tháng 6 năm 2000 và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Công văn số 530/CV-NHHH10 ngày 15 tháng 6 năm 2000; Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "Pháp nhân tham gia tố tụng thông qua người lãnh đạo của mình hoặc người đại diện được pháp nhân uỷ quyền bằng văn bản" và theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì: Đương sự là pháp nhân thì thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền". Tuy trong các pháp lệnh chỉ quy định chung là "tham gia tố tụng" hoặc "thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng", nhưng cần hiểu tham gia tố tụng bao gồm cả việc khởi kiện vụ án; do đó, nếu Ngân hàng là pháp nhân có văn bản uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng hoặc một người cụ thể khởi kiện vụ án dân sự hoặc vụ án kinh tế để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, thì Toà án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết, nếu không thuộc các trường hợp trả lại đơn kiện quy định tại các điểm 2, 3, 4 và 5 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hoặc tại các điểm 2, 3, 4 và 5 Điều 32 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và khoản 3 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng. Tuy nhiên, cần phân biệt như sau:
a. Nếu trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng là pháp nhân uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, chi nhánh của Ngân hàng mà không uỷ quyền cho một người cụ thể, thì theo quy định tại khoản 4 Điều 100 Bộ luật dân sự, Toà án chỉ chấp nhận việc tham gia tố tụng theo uỷ quyền của Ngân hàng đối với người đứng đầu Văn phòng đại diện, chi nhánh của Ngân hàng.
b. Nếu trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng là pháp nhân uỷ quyền cho người đứng đầu Văn phòng đại diện, chi nhánh của Ngân hàng và cho phép người đứng đầu này uỷ quyền lại cho một người cụ thể nào đó, thì Toà án chỉ chấp nhận việc tham gia tố tụng theo uỷ quyền của Ngân hàng khi người tham gia tố tụng đúng như trong văn bản uỷ quyền của Ngân hàng.
Ví dụ: Ngân hàng có văn bản uỷ quyền cho Giám đốc chi nhánh của Ngân hàng tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng khi có tranh chấp và trong trường hợp Giám đốc Chi nhánh của Ngân hàng đi vắng có thể uỷ quyền lại cho một Phó giám đốc Chi nhánh của Ngân hàng, thì Toà án chỉ chấp nhận việc tham gia tố tụng của Giám đốc chi nhánh hoặc của Phó giám đốc chi nhánh được Giám đốc Chi nhánh uỷ quyền lại. Trong trường hợp này, nếu Giám đốc Chi nhánh uỷ quyền lại cho một Trưởng phòng của Chi nhánh, thì việc uỷ quyền này không đúng như trong văn bản uỷ quyền của ngân hàng và do đó Toà án không chấp nhận.
c. Nếu trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng là pháp nhân uỷ quyền cho một người cụ thể, thì Toà án chỉ chấp nhận việc tham gia tố tụng theo uỷ quyền của Ngân hàng khi người tham gia tố tụng đúng như trong văn bản uỷ quyền của Ngân hàng.
đ. Trong trường hợp người được uỷ quyền không thể tiếp tục tham gia tố tụng được, nếu Ngân hàng không thể tự mình tham gia tố tụng thì Toà án chấp nhận việc Ngân hàng uỷ quyền cho người khác tiếp tục tham gia tố tụng.
3. Khoản 2 Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và khoản 2 Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế chỉ quy định việc uỷ quyền tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân phải làm thành văn bản uỷ quyền mà không quy định hình thức văn bản uỷ quyền; do đó, Toà án cần chấp nhận văn bản uỷ quyền của Ngân hàng là hợp pháp nếu bằng một trong các hình thức sau đây được người đứng đầu Ngân hàng ký tên và đóng dấu của Ngân hàng.
a. Văn bản thành lập Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng, trong đó có việc Ngân hàng uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng khi có tranh chấp.
b. Văn bản của Ngân hàng uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng khi có tranh chấp.
c. Văn bản của Ngân hàng uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng hoặc một người cụ thể tham gia tố tụng tại Toà án nhân dân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng trong một vụ tranh chấp cụ thể.
4. Theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì người đại diện được uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi uỷ quyền; do đó, cần chú ý trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng uỷ quyền cho văn phòng đại diện, chi nhánh của Ngân hàng hoặc một người cụ thể thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nào thì Toà án chỉ chấp nhận trong phạm vi uỷ quyền đó, cụ thể như sau:
a- Nếu trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng uỷ quyền cho Văn phòng đại diện, Chi nhánh của Ngân hàng hoặc một người cụ thể thực hiện tất cả các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự, thì Toà án chấp nhận việc uỷ quyền đó trong việc khởi kiện và giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, trong việc kháng cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm cũng như trong việc giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị).
b- Nếu trong văn bản uỷ quyền, Ngân hàng chỉ uỷ quyền cho Văn phòng đại diện. Chi nhánh của Ngân hàng hoặc một người cụ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong việc khởi kiện và giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, thì Toà án chỉ chấp thuận việc uỷ quyền đó trong việc khởi kiện và giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm. Mặc dù theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, khoản 1 Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, song trong trường hợp này Toà án không chấp nhận việc người được uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm cũng như tham gia giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm, với lý do các việc này không thuộc phạm vi uỷ quyền.
5. Theo quy định tại khoản 5 Điều 100 Bộ luật dân sự thì: "Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện". Đồng thời theo hướng dẫn tại điểm 3 Mục VI Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự" thì: "Mặc dù đương sự đã uỷ quyền cho người đại diện nhưng đương sự vẫn có quyền tự mình tham gia tố tụng. Toà án cũng có quyền triệu tập đương sự đích thân tham gia tố tụng khi xét thấy cần thiết"; do đó, trong trường hợp xét thấy cần thiết (để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng; bảo vệ tài sản của Nhà nước...), thì Toà án cần triệu tập đại diện theo pháp luật của Ngân hàng tham gia tố tụng.
6. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, lao động, hành chính mà có Ngân hàng tham gia tố tụng, nếu Ngân hàng không thể tự mình tham gia tố tụng và có uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng, thì việc uỷ quyền cũng phải được thực hiện tương tự các hướng dẫn trên đây mới được Toà án chấp nhận.
Trong quá trình thực hiện các hướng dẫn trong Công văn này, có điều gì vướng mắc hoặc chưa cụ thể, đề nghị các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 90/2000/KHXX Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 90/2000/KHXX NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 2000 VỀ VIỆC TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Kính gửi: Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng
Sau khi nghiên cứu Công văn số 118/THA ngày 14-6-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo tinh thần quy định tại Điều 62 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 9-6-2000, thì người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh nặng có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho đến khi sức khoẻ hồi phục.
Theo tinh thần hướng dẫn tại điểm d mục 2 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30-6-1993 của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù", thì người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng được hiểu là người bị bệnh tật, đau ốm tới mức không thể tiếp tục chấp hành hình phạt tù được, việc tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ.
Đối với trường hợp Vũ Văn Long, theo như nội dung quý Toà trình bày, thì tại bản xác định tình trạng bệnh lý số 213 PY 2000 ngày 21/4/2000 của Tổ chức giám định pháp y Hải Phòng đã kết luận Vũ Văn Long bị nhiễm HIV; hiện nay cơ thể trong tình trạng suy nhược, yếu mệt, bệnh lý giai đoạn AIDS, tin lượng xấu. Như vậy, Vũ Văn Long thuộc trường hợp bị bệnh nặng. Theo tinh thần các quy định và hướng dẫn nêu trên đây, thì Vũ Văn Long có thể được xem xét tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình giải quyết các vấn đề nghiệp vụ.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 92/2000/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 7 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 92/2000/KHXX NGÀY 21THÁNG 07 NĂM 2000 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Hiện nay việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất chưa được thống nhất; cụ thể là có Toà án xác định theo khung giá do Nhà nước quy định, có Toà án xác định theo giá chuyển nhượng thực tế ở tại địa phương nơi có đất; vì vậy, nhiều trường hợp không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận tài sản không phải là quyền sử dụng đất.
Để hướng dẫn các Toà án nhân dân các cấp thống nhất trong việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất, ngày 2-6-2000 Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức cuộc họp liên ngành với sự tham dự của đại biểu của các cơ quan: Toà án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính Ban Vật giá Chính phủ, Văn phòng Chính phủ, Tổng cục Địa chính. Tại cuộc họp này các đại biểu đã thảo luận và đều thống nhất ý kiến là theo quy định tại Điều 12 Luật Đất đai, thì Chính phủ quy định về khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian nhằm làm căn cứ xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất; còn theo quy định tại Điều 694 Bộ luật dân sự, thì bảng giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo khung giá của Chính phủ quy định là để làm cơ sở cho các bên thoả thuận về giá chuyển quyền sử dụng đất. Các đại biểu tham dự cuộc họp đều thống nhất việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất cần phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Do đó, trong trường hợp cần phải xác định giá quyền sử dụng đất, thì phải căn cứ vào giá đất thực tế đối với từng loại đất ở từng địa phương trừ việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các trường hợp quy định tại Điều 12 Luật Đất đai.
Để việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất được thống nhất nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự; căn cứ vào kết quả cuộc họp liên ngành 2-6-2000, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
Khi giải quyết các vụ án hình sự, dân dự, kinh tế có liên quan đến việc xác định giá quyền sử dụng đất, thì Toà án chấp nhận giá do các bên đương sự thoả thuận với nhau, nếu sự thoả thuận đó không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 7 Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp các bên đương sự không thoả thuận được với nhau, thì giá quyền sử dụng đất được xác định theo giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương nơi có đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
2. Khi giải quyết các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất đã thế chấp, thì việc xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 737 Bộ luật dân sự; cụ thể là phải tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất.
3. Các hướng dẫn trong Công văn này thay thế các hướng dẫn trước đây của Toà án nhân dân tối cao về việc xác định giá đất trong các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất.
Trong quá trình thực hiện các hướng dẫn trong Công văn này có vấn đề gì vướng mắc hoặc chưa cụ thể, đề nghị các Toà án phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn sửa đổi hoặc bổ sung.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 93/2000/KHXX Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2000
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 93/2000/KHXX NGÀY 31 THÁNG 7 NĂM 2000 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ĐIỀU 7 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu
Sau khi nghiên cứu Công văn số 77/TA-HS ngày 10-7-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố A về tội "mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 185đ Bộ luật hình sự năm 1985 (có khung hình phạt từ 3 năm tù đến 10 năm tù) và theo quy định tại khoản 2 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung), thì vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp tỉnh. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì trường hợp của A thuộc khoản 1 Điều 194 (có khung hình phạt từ 2 năm tù đến 7 năm tù); vì vậy, căn cứ vào Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì trong trường hợp này phải áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để truy tố và xét xử A. Theo quy định tại khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự (đã dược sửa đổi, bổ sung) thì vụ án lại thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện; do đó, để bảo đảm đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quý Toà cần trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, đề nghị Viện kiểm sát thay đổi cáo trạng và truy tố A theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp huyện có thẩm quyền thực hiện quyền công tố tại phiên toà. Trong trường hợp Viện kiểm sát không nhất trí và giữ nguyên cáo trạng, thì quý Toà mở phiên toà xét xử vụ án theo thủ tục chung và áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử A.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 41/2001/KHXX Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 41/2001/KHXX NGÀY 24 THÁNG 4 NĂM 2001 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CÁC ĐIỀU 61, 62 BLHS VÀ CÁC ĐIỀU 231 VÀ 232 BLTTHS
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 01/CV-THA ngày 02 tháng 01 năm 2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc xin hướng dẫn áp dụng quy định về việc hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án có mức án từ 8 năm tù trở lên, không phải là phần tử nguy hiểm cho xã hội mà người này bị ốm nặng hoặc là người lao động duy nhất trong gia đình, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Theo quy định tại các Điều 61, 62 BLHS năm 1999, các Điều 231, 232 BLTTHS, Điều 17 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và hướng dẫn tại Mục 2 Thông tư liên ngành số 03 TTLN ngày 30-6-1993 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, thì một trong những lý do để Toà án cho người bị kết án không phải là phần tử nguy hiểm cho xã hội được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là "người bị kết án bị ốm nặng" (bị bệnh nặng). Người bị kết án bị ốm nặng là bị bệnh nặng đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được, việc đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ và cần thiết phải cho họ được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh (như bị bệnh ung thư, bị lao nặng, bị bại liệt v.v...). Toà án chỉ xem xét để quyết định việc có cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù khi đã có kết luận của giám định y khoa. Vì vậy, tuỳ trường hợp cụ thể mà Giám thị trại giam, cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Toà án tổ chức giám định sức khoẻ của người bị kết án để có kết luận về bệnh trạng của họ (chi phí giám định do người bị kết án chịu).
Đối chiếu với các trường hợp mà quý Toà nêu trong Công văn là người bị kết án bị mắc một trong các bệnh như lao phổi, tràn dịch màng phổi, ung thư cơ, ung thư gan, bại liệt... là những bệnh nguy hiểm, thì Toà án có thể xem xét cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho đến khi người đó khỏi bệnh. Riêng đối với trường hợp người bị kết án bị nhiễm vi rút HIV, thì chưa coi là bị bệnh nặng để được xem xét cho hoãn hoặc tạm đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù, chỉ đến khi người bệnh đã chuyển sang giai đoạn AIDS (theo kết luận của bác sĩ), thì mới coi là bị bệnh nặng để xem xét cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
2. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 61 và Điều 62 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Toà án chỉ được cho người bị kết án là người lao động duy nhất trong gia đình được hoãn hoặc tạm đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù đến 1 năm, nếu người đó không bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, đối với trường hợp người bị kết án bị phạt từ 8 năm tù trở lên thì họ đã bị kết án về một trong các tội
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng rồi, nên Toà án không được cho họ hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù với lý do là người lao động duy nhất trong gia đình.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******* CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc *******
Số: 62/2001/KHXX Hà Nội, ngày 13 tháng 06 năm 2001
CÔNG VĂN
TRẢ LỜI MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP LY HÔN
1. Trường hợp người chồng bỏ đi khỏi nơi cư trú, người vợ không tìm được địa chỉ của người chồng và có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với người chồng, thì về nguyên tắc Tòa án vẫn phải thụ lý vụ án theo thủ tục chung quy định tại Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Sau khi thụ lý vụ án phải tiến hành các biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ của bị đơn. Nếu tìm được địa chỉ của bị đơn, nhưng bị đơn cố tình trốn tránh, thì Tòa án có quyền xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Nếu không tìm được địa chỉ của bị đơn thì áp dụng điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật dân sự thì Tòa án giải thích cho đương sự biết là họ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố người chồng mất tích đồng thời xin ly hôn. Trong trường hợp này Tòa án áp dụng các quy định tại Điều 88 Bộ luật dân sự và Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn mà có yêu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản khi ly hôn phải theo đúng các quy định tại các điều 95, 96, 97, 98 và 99 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc quản lý tài sản của người chồng vắng mặt hoặc bị Tòa án tuyên bố mất tích được thực hiện theo quy định tại Điều 85 hoặc Điều 89 của Bộ luật Dân sự.
2. Trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng viết chung một đơn xin thuận tình ly hôn, thì họ là đồng nguyên đơn. Khi thụ lý vụ án tuy chỉ có một bên nộp tiền tạm ứng án phí nhưng cần hiểu là họ đã có sự thỏa thuận với nhau; do đó, nếu trong quá trình giải quyết vụ án người đã nộp tiền tạm ứng án phí lại khước từ giấy triệu tập của Tòa án và cố tình lẫn tránh, thì Tòa án cần hỏi người còn lại có tiếp tục xin ly hôn nữa hay không. Nếu họ vẫn tiếp tục xin ly hôn, thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung như trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên. Trong trường hợp họ không có yêu cầu xin ly hôn nữa, thì Tòa án căn cứ vào điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 109/2001/KHXX Hà Nội, ngày 04 tháng 9 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 109/2001/KHXX NGÀY 4 THÁNG 9 NĂM 2001 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ ĐỊNH GIÁ NHÀ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 65/DS ngày 23/5/2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Về việc xác định giá quyền sử dụng đất:
Về vấn đề này Toà án nhân dân tối cao đã có Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21-7-2000 gửi các Toà án nhân dân địa phương "hướng dẫn việc xác định giá quyền sử dụng đất"; cụ thể như sau:
"1. Khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế có liên quan đến việc xác định giá quyền sử dụng đất, thì Toà án chấp nhận giá do các bên đương sự thoả thuận với nhau, nếu sự thoả thuận đó không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 7 Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp các bên đương sự không thoả thuận được với nhau, thì giá quyền sử dụng đất được xác định theo giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương nơi có đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.
2. Khi giải quyết các vụ án có liên quan đến quyền sử dụng đất đã thế chấp, thì việc xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 737 Bộ luật Dân sự; cụ thể là phải tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất".
(Cần lưu ý "Giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương" là giá thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương).
2. Về việc định giá nhà
Khi giải quyết các vụ án dân sự mà Toà án phải định giá nhà (thí dụ như: mua bán nhà, thừa kế nhà, đổi nhà, bồi thường thiệt hại về nhà...) thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà việc định giá nhà được tiến hành như sau:
+ Đối với nhà xây dựng hợp pháp thì nguyên tắc chung là Toà án chấp nhận giá nhà do các đương sự thoả thuận. Trong trường hợp các đương sự không thoả thuận được với nhau về giá nhà thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá nhà hoặc ra quyết định trưng cầu Hội đồng định giá để xác định giá nhà theo giá thực tế (giá thị trường tại địa phương nơi có nhà đối với từng loại nhà tại thời điểm xét xử sơ thẩm).
+ Đối với nhà do bên thuê, bên mượn nhà tự ý làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới mà không được chủ sở hữu nhà đồng ý bằng văn bản, nếu chủ sở hữu nhà phải thanh toán giá trị diện tích nhà làm thêm, xây dựng mới này, thì Toà án xác định giá trị đầu tư còn lại đối với diện tích
làm thêm, xây dựng mới này trên cơ sở xác định giá nguyên vật liệu xây dựng cộng với tiền công xây dựng theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm khấu trừ đi phần đã sử dụng.
+ Trong trường hợp nhà bị giải toả theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được đền bù theo quy định, thì giá nhà được tính theo giá tiền mà Nhà nước đền bù tương ứng cho từng loại nhà bị giải toả.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 112/2001/KHXX Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 112/2001/KHXX NGÀY 14 THÁNG 9 NĂM 2001 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM THỤ LÝ VỤ ÁN VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Kính gửi :
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Thời gian qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn việc xác định thời điểm thụ lý vụ án về hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp cụ thể. Sau khi trao đổi ý kiến và có sự thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Công văn số 2337/CV-VKSTC ngày 12 tháng 9 năm 2001, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
1. Khi giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thời điểm thụ lý vụ án được xác định là trước ngày 01 tháng 01 năm 2001 và áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải quyết có xem xét, tham khảo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề mà Toà án đang giải quyết như hướng dẫn tại điểm c mục 4 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QHl0 ngày 9/6/2000 của Quốc hội "Về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình".
a. Vụ án được Toà án cấp sơ thẩm thụ lý trước ngày 01/01/2001 mà từ ngày 01/01/2001 trở đi mới xét xử sơ thẩm;
b. Vụ án được Toà án cấp sơ thẩm thụ lý trước ngày 01/01/2001, nhưng bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị mà từ ngày 01/01/2001 trở đi mới xét xử phúc thẩm;
c Vụ án được Toà án cấp sơ thẩm thụ lý trước ngày 01/01/2001, nhưng bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật hoặc bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm bị kháng nghị mà từ ngày 01/01/2001 trở đi mới xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
d. Vụ án được Toà án cấp sơ thẩm thụ lý trước ngày 01/01/2001, nhưng bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bị huỷ để xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm lại mà từ ngày 01/01/2001 trở đi mới xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm lại.
2. Trong trường hợp khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án về hôn nhân và gia đình mà Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ toàn bộ các bản án hoặc quyết định về vụ án và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền (có thể chính Toà án đã giải quyết sơ thẩm vụ án đó; có thể là Toà án khác cùng cấp; có thể là Toà án trên một cấp hoặc dưới một cấp) giải quyết lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung, thì thời điểm thụ lý vụ án là ngày Toà án có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm lại nhận được hồ sơ vụ án. Nếu từ ngày 01/01/2001 trở đi mới thụ lý, thì áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
3. Đối với vụ án về hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội "Về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình", thì trong mọi trường hợp đều áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc, đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn sửa đổi hoặc bổ sung.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 127/2001/KHXX Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 127/2001/KHXX NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 2001 VỀ VIỆC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ KHỞI TỐ BỊ CAN
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai
Sau khi nghiên cứu Công văn số 17/HS ngày 26/4/2001 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự thì khi xác định có dấu hiệu tội phạm là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều này thì trong Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để tiến hành việc điều tra vụ án nhằm xác định người thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội đó cấu thành tội gì? Chỉ khi có đủ căn cứ để xác định được người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra mới ra Quyết định khởi tố bị can. Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự, thì trong Quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong Quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
Trong quá trình tiến hành điều tra (như hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, nhận dạng, khám xét hiện trường, khám nghiệm tử thi, giám định...) cho thấy có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội mà người đó thực hiện cấu thành tội phạm khác với tội phạm ghi trong Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ngoài tội phạm đã ghi trong Quyết định khởi tố vụ án hình sự người đó còn thực hiện hành vi phạm tội khác hoặc có thể phát hiện đồng phạm khác, thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cơ quan điều tra phải thay đổi hoặc bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự mà chỉ quy định cơ quan điều tra phải ra Quyết định thay đổi hoặc bổ sung Quyết định khởi tố bị can (Điều l04). Thực tiễn công tác điều tra, truy tố cũng được thực hiện theo tinh thần này.
Như vậy, đối chiếu với các ví dụ cụ thể mà quý Toà nêu trong Công văn số 17/HS ngày 26-4- 2001 thì trong các trường hợp đó cơ quan điều tra không có vi phạm về thủ tục tố tụng.
Cần lưu ý rằng sẽ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nếu không có Quyết định khởi tố bị can (đối với đồng phạm mới được phát hiện) hoặc không có Quyết định thay đổi, bổ sung Quyết định khởi tố bị can (đối với bị can đã có Quyết định khởi tố bị can) mà trong bản Kết luận điều tra đề nghị truy tố thêm bị can hoặc truy tố bị can về tội danh khác với tội danh ghi trong Quyết định khởi tố bị can, thêm tội danh ngoài tội danh đã ghi trong Quyết định khởi tố bị can.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong công tác xét xử các vụ án hình sự.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 164/2001/KHXX Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 164/2001/KHXX NGÀY 7 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỂ TÍNH LÃI XUẤT CHẬM TRẢ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Sau khi nghiên cứu Công văn số 64/CV.TA ngày 12/7/2001 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đề nghị hướng dẫn việc xác định thời điểm xét xử sơ thẩm để tính lãi suất chậm trả, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo nội dung hướng dẫn tại điểm b, mục 1 Phần I của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản", thì "Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm".
Do ông Xem không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chị Thu, nên ông Xem là người có lỗi, phải chịu hậu quả là: thời gian chậm trả nợ càng lâu bao nhiêu thì lãi suất nợ quá hạn càng lớn bấy nhiêu. Bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm xử ngày 21/4/1998 tuy có lãi suất nợ quá hạn mà ông Xem phải trả cho chị Thu nhưng đã bị Toà án cấp phúc thẩm xử huỷ, giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm điều tra xét xử sơ thẩm lại, nên "thời điểm xét xử sơ thẩm" lần đầu không còn nữa. Thời điểm này phải được Toà án xác định lại. Thông tư liên tịch số 01/TTLT nói trên không hạn chế Toà án tính thời gian chậm trả ở lần xét xử thứ nhất mà chỉ hướng dẫn chung là: "tại thời điểm xét xử sơ thẩm"; do đó, Toà án khi xét xử sơ thẩm lại vụ án được tính thời gian chậm trả để tính lãi suất nợ quá hạn đối với ông Xem là từ ngày 3/7/1997 trở đi cho đến ngày xét xử sơ thẩm lần thứ hai, chứ không phải ngày xét xử sơ thẩm lần thứ nhất.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo vận dụng khi giải quyết vụ án cụ thể tại địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 166/2001/KHXX Hà Nội, ngày 14 tháng 12 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 166/2001/KHXX NGÀY 14 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ VIỆC TÍNH THỜI HẠN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Trong thời gian qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính theo thủ tục phúc thẩm và kháng nghị các bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi trao đổi ý kiến và có sự thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Công văn số 3263/KSXXHS ngày 11 tháng 12 năm 2001, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
Theo quy định của các văn bản pháp luật tố tụng (Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính) thì:
- Thời hạn kháng cáo đối với các bản án, quyết định hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính theo thủ tục phúc thẩm là , kể từ ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định; nếu bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo này tính từ ngày bản sao bản án, quyết định được giao cho họ, thân nhân của họ hoặc được niêm yết công khai. - Thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là , của Viện kiểm sát cấp trên là , kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định; nếu kiểm sát viên không tham gia phiên toà (đối với vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính) thì thời hạn kháng nghị này được tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án.
- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính là , kể từ ngày các bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.
Do trong các văn bản pháp luật tố tụng không quy định cụ thể việc xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thời điểm kết thúc thời hạn đó; cho nên việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị trong thời gian qua chưa được thống nhất. Để bảo đảm thống nhất việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị, từ nay trở đi việc xác định thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thời điểm kết thúc thời hạn đó được thực hiện theo quy định tại Điều 161 và 162 Bộ luật dân sự; cụ thể là:
1. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngày được xác định như sau:
a. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên có tham gia phiên toà sơ thẩm.
Ví dụ: Ngày 01/10/2001 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mặt bị cáo B và cùng ngày tuyên án đối với bị cáo B. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 01/10/2001 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày (đối với bị cáo B) thời hạn kháng nghị 15 ngày (đối với Viện kiểm sát cùng cấp), 30 ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) là ngày 2/10/2001.
b. Ngày được xác định là ngày bản sao bản án, quyết định được giao cho họ hoặc được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của họ trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà sơ thẩm.
Ví dụ: Ngày 4/10/2001 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự vắng mặt đương sự A và cùng ngày tuyên án. Ngày 18/10/2001 Toà án mới giao bản sao bản án cho đương sự A hoặc niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi đương sự A cư trú. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 18/10/2001 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo 15 ngày (đối với đương sự A) là ngày 19/10/2001.
c. Ngày được xác định là ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án trong trường hợp kiểm sát viên không tham gia phiên toà sơ thẩm (đối với vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính).
Ví dụ: Ngày 4/9/2001 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án kinh tế không có sự tham gia của kiểm sát viên và cùng ngày tuyên án. Ngày 10/9/2001 Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án của Toà án. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 10/9/2001 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị 10 ngày (đối với Viện kiểm sát cùng cấp), 20 ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên) là ngày 11/9/2001.
d. Ngày được xác định là ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: Ngày 3/10/2001 Toà án xét xử phúc thẩm vụ án lao động và cùng ngày tuyên án. Trong trường hợp này ngày được xác định là ngày 3/10/2001 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 6 tháng (hoặc 1 năm nếu kháng nghị có lợi cho người lao động) là ngày 4/10/2001.
2. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định của các văn bản pháp luật tố tụng thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tính theo ngày; thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tính theo tháng (đối với bản án, quyết định kinh tế, lao động, hành chính) hoặc theo năm (đối với bản án, quyết định hình sự, dân sự hoặc lao động, nếu việc kháng nghị có lợi cho người lao động); Do đó, việc kết thúc các thời hạn nói trên phải căn cứ vào quy định tại Điều 162 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, theo Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ "Về việc thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ" thì kể từ ngày 2/10/1999, chế độ tuần làm việc 40 giờ trong 5 ngày, nghỉ ngày thứ bẩy và Chủ nhật hàng tuần, đối với cán bộ, công chức và người lao động trong các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; Do đó, khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày thứ bảy, ngày Chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào đúng 12 giờ đêm của ngày đó.
Ví dụ 1: Trong ví dụ tại điểm a mục 1 trên đây, thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày 2/10/2001. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 162 Bộ luật dân sự thì thời hạn kháng cáo 15 ngày (đối với bị cáo B) kết thúc vào 12 giờ đêm ngày 16/10/2001. Giả sử ngày 16/10/2001 đúng vào ngày Chủ nhật thì theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 162 Bộ luật dân sự thời hạn kháng cáo 15 ngày (đối với bị cáo B) kết thúc vào 12 giờ đêm ngày 17/10/2001 (nếu không đúng vào ngày nghỉ lễ).
Ví dụ 2: Trong ví dụ nêu tại điểm b mục 1 trên đây thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày 19/10/2001. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 162 Bộ luật dân sự thì thời hạn kháng cáo 15 ngày (đối với đương sự A) kết thúc vào 12 giờ đêm ngày 2/11/2001. Giả sử ngày 2/11/2001 đúng vào ngày nghỉ lễ thì theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 162 Bộ luật dân sự, quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ "Về việc thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ" thời hạn kháng cáo 15 ngày kết thúc vào 12 giờ đêm ngày 3/11/2001 (nếu không đúng vào ngày thứ bảy, Chủ nhật); nếu ngày 3/11/2001 đúng vào ngày thứ bảy, thì thời hạn kháng cáo 15 ngày kết thúc vào 12 giờ đêm ngày 5/11/2001.
Trong quá trình thực hiện nếu có gì vướng mắc hoặc cần hướng dẫn bổ sung, đề nghị phản ánh kịp thời cho Toà án nhân dân tối cao để có giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung cho phù hợp.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 176/2001/KHXX Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 176/2001/KHXX NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT ĐƠN YÊU CẦU TOÀ ÁN XÁC ĐỊNH CON
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 109/CV-DS ngày 06-11-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Đối với trường hợp người phụ nữ sau khi sinh con nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên họ đã cho người khác nuôi con của họ, nay họ có đơn yêu cầu Toà án xác định con của mình, thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
1. Trường hợp ngưòi mẹ có đơn yêu cầu Toà án xác định một người là con của mình, mà người được yêu cầu xác định là con và những người nuôi dưỡng người đó đồng ý cho người mẹ được nhận con không có tranh chấp.
Theo tinh thần quy định tại Điều 64 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch và hướng dẫn tại Công văn số 410/TP-PLDSKT ngày 3-4-2001 của Bộ Tư pháp thì trường hợp này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó:
a. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 5 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn cho người nộp đơn, đồng thời hướng dẫn cho họ biết việc công nhận và đăng ký việc nhận con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người con cư trú.
b. Nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 4 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và hướng dẫn cho họ biết việc công nhận và đăng ký việc nhận con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người con cư trú.
2. Trường hợp người mẹ có đơn yêu cấu Toà án xác định một người là con của mình, mà người được yêu cầu xác định là con và những người nuôi dưỡng có tranh chấp với nhau.
Theo quy định tại Điều 64 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì trường hợp này là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó, Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì trường hợp này không thuộc một trong các việc không được hoà giải; do đó, Toà án tiến hành hoà giải theo thủ tục quy định tại Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Nếu Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc mẹ nhận con thì lập biên bản hoà giải thành. Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án áp dụng khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 04/2002/KHXX Hà Nội, ngày 10 tháng 1 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 04/2002/KHXX NGÀY 10 THÁNG 1 NĂM 2002 VỀ VIỆC THẨM QUYỀN XÁC ĐỊNH CHA CHO CON
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương
Sau khi nghiên cứu Công văn số 238/CV-TA ngày 7-1-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau: Theo quy định tại các điều 30, 31, 32 và 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Điều 47 Nghị định số 83//998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ "Về đăng ký hộ tịch" cũng như theo quy định tại các điều 63, 64 và 65 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì Toà án nhân dân chỉ thụ lý giải quyết đơn yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp. Đối với trường hợp xin nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người con công nhận và đăng ký. Đối với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 238/CV-TA nói trên thì chưa phản ánh cụ thể giữa gia đình anh Bồng và chị Thuý có tranh chấp hay không? Căn cứ vào các quy định của pháp luật được viện dẫn ở trên thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
1 - Nếu giữa gia đình anh Bồng và chị Thuý không có tranh chấp, gia đình anh Bồng thừa nhận cháu Bình là con của anh Bồng, cháu của gia đình anh Bồng và chính quyền địa phương cũng cung cấp các thông tin xác định anh Bồng là cha của cháu Bình, thì việc yêu cầu xác định cha cho con trong trường hợp này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó: Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 5 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn cho người nộp đơn.
- Nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 4 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Trong cả hai trường hợp trên Toà án hướng dẫn cho người nộp đơn biết việc xác định và đăng ký việc nhận con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người con cư trú.
2- Nếu giữa gia đình anh Bồng và chị Thuý có tranh chấp với nhau, gia đình anh Bồng không công nhận cháu Bình là con của anh Bồng, là cháu của gia đình anh Bồng thì việc yêu cầu xác định cha cho con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân và Toà án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong việc giải quyết vụ việc cụ thể nêu trong Công văn số 238/CV-TA ngày 7-11-2001 của Quý Toà và các vụ việc tương tự khác.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 61/2002/KHXX Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 61/2002/KHXX NGÀY 20 THÁNG 5 NĂM 2002 VỀ VIỆC CÔNG NHẬN THUẬN TÌNH LY HÔN
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Trong thời gian vừa qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương hỏi trong trường hợp Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn của vợ chồng (vợ chồng đã thực sự tự nguyện ly hôn, đã thoả thuận với nhau về việc chia tài sản và trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con), nhưng trước khi ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, Toà án không hỏi ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên thì có coi đó là trường hợp việc điều tra không đầy đủ hay không?
Để bảo đảm sự thống nhất và đúng pháp luật khi ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, Toà án nhân dân tối cao trả lời như sau:
Theo tinh thần quy định tại Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình thì khi vợ chồng tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn. Sự thoả thuận của vợ chồng về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phải trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của con. Để xem xét sự thoả thuận của vợ chồng có bảo đảm quyền lợi chính đáng của con hay không thì theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình, việc hỏi ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên là cần thiết để xem xét nguyện vọng của con. Nếu qua việc hỏi ý kiến của con mà nguyện vọng của con phù hợp với sự thoả thuận của vợ chồng, thì Toà án áp dụng Điều 90, Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con. Trong trường hợp qua việc hỏi ý kiến của con mà nguyện vọng của con khác với sự thoả thuận của vợ chồng, thì Toà án phải đưa vụ án ra xét xử và quyết định việc giao con cho ai nuôi. Do đó, trong trường hợp Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn của vợ chồng, nhưng trước khi ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà Toà án không hỏi ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên là chưa điều tra đầy đủ.
Để thực hiện đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, khi ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn đối với trường hợp vợ chồng đã thoả thuận với nhau về việc chia tài sản và trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Toà án nhân dân tối cao đề nghị các Toà án nhân dân địa phương phải thực hiện đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu thuộc trường hợp có con chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên thì Toà án cần phải hỏi ý kiến của con để xem xét nguyện vọng của con. Nếu Toà án không hỏi ý kiến của con để xem xét nguyện vọng của con là việc điều tra chưa đầy đủ.
Đối với những trường hợp Toà án đã ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn trước khi có Công văn này nhưng chưa hỏi ý kiến của con chưa thành niên từ đủ chín tuổi trở lên để xem xét nguyện vọng của con mà không có khiếu nại thì không đặt vấn đề xem xét lại. Trong trường hợp quyết định công nhận thuận tình ly hôn có khiếu nại về việc nuôi con, thì Toà án cấp giám đốc thẩm cần hỏi ý kiến của con; nếu nguyện vọng của con phù hợp với sự thoả thuận của bố mẹ thì không cần thiết phải xem xét lại quyết định công nhận thuận tình ly hôn đã có hiệu lực pháp luật; nếu nguyện vọng của con không phù hợp với sự thoả thuận của bố mẹ thì cần thiết phải xem xét lại quyết định công nhận thuận tình ly hôn đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 81/2002/TANDTC Hà Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 81/2002/TANDTC NGÀY 10 THÁNG 6 NĂM 2002 VỀ VIỆC GIẢI ĐÁP CÁC VẤN ĐỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao
Trong thời gian chuẩn bị Hội nghị và tại Hội nghị triển khai công tác ngành Toà án năm 2002 và tập huấn nghiệp vụ (từ ngày 28 đến ngày 30-12-2001) cũng như trong thời gian vừa qua nhiều Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp đề nghị Toà án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ. Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:
I. VỀ HÌNH SỰ.
1. Có ý kiến cho rằng Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) nhưng không quy định là để thi hành Bộ luật hình sự cụ thể nào, thế nhưng trong Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28- 1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229) và Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội" (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02) lại nêu cụ thể là Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy Nghị quyết số 229 và Thông tư liên tịch số 02 có mâu thuẫn với Nghị quyết số 32 hay không?
Trước hết cần phải khẳng định là các văn bản quy phạm pháp luật này không có gì mâu thuẫn với nhau. Tất cả các văn bản này đều có nội dung triển khai thi hành Bộ luật hình sự năm 1999. Nghiên cứu Nghị quyết số 32 chúng ta có thể nhận thấy mặc dù tên của Nghị quyết là "về việc thi hành Bộ luật hình sự", nhưng trong nội dung của Nghị quyết đã thể hiện rõ là về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999; cụ thể tại Mục 1 của Nghị quyết đã quy định: "Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21-12-1999 có hiệu lực từ ngày 01-7-2000". Bộ luật hình sự này thay thế... Như vậy khái niệm "Bộ luật hình sự này" trong Nghị quyết số 32 phải hiểu là Bộ luật hình sự năm 1999.
Giả thiết cho rằng trong nội dung Nghị quyết số 32 chỉ đề cập đến "Bộ luật hình sự" mà không có một quy định nào đề cập cụ thể đến "Bộ luật hình sự năm 1999" và để hiểu thống nhất là Bộ luật hình sự nào, thì theo quy định của Hiến pháp năm 1992 Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giải thích cụ thể đó là Bộ luật hình sự nào; do đó, trong Nghị quyết số 229 đã giải thích cụ thể đó là Bộ luật hình sự năm 1999 là không có gì mâu thuẫn. Trên cơ sở Nghị quyết số 229, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành Thông tư liên tịch số 02 và hướng dẫn cụ thể đó là Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng quy định của pháp luật.
2. Khi áp dụng Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999, việc so sánh Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 1985 để xác định trường hợp nào thuộc quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 được thực hiện như thế nào? So sánh các Điều luật tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự hay so sánh các Khoản cụ thể trong các Điều luật tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự này?
Trong các Khoản 1, 2 và 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Điều luật được áp dụng...", "Điều luật quy định một tội phạm...", "Điều luật xoá bỏ một tội phạm...". Khác với Điều 7, trong Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các loại tội phạm không dùng "Điều luật" mà dùng "khung hình phạt đối với tội ấy..."; do đó, việc so sánh Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 1985 để xác định trường hợp nào thuộc quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 được thực hiện bằng việc so sánh các Điều luật tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự. Vấn đề này đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội" (sau đây gọi tắt và viết tắt là TTLT số 02). Ngoài ra, việc so sánh phải bằng các Điều luật tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự, chứ không phải bằng các Khoản cụ thể trong các Điều luật tương ứng, bởi vì trong nhiều Điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều Khoản hơn trong Điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1985. Ví dụ: "Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định 1 Khoản, còn Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai Khoản hoặc "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác" (không thuộc trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng) Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định 3 Khoản, còn Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 4 Khoản. Nếu so sánh theo Khoản thì trong các trường hợp này không thể so sánh được.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy bằng việc so sánh các Điều luật tương ứng thì Điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, nhưng Điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định khác có lợi hơn hoặc ngược lại; do đó, tại Điểm b7 Mục 2 và tại Điểm d7 Mục 3 TTLT số 02 đã hướng dẫn cụ thể việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp này.
Hai ví dụ sau đây minh hoạ việc so sánh trên:
a. Về tội giết người: So sánh Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 nếu theo Điều luật, rõ ràng Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 nhẹ hơn; do đó, đối với hành vi giết người được thực hiện trước ngày 1-7-2000 mà không thuộc một trong các trường hợp định khung tăng nặng, thì phải áp dụng Khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử. Tuy nhiên, xem xét Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 thì mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù; do đó, tuy áp dụng Khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử, nhưng phải áp dụng tinh thần quy định có lợi cho người phạm tội quy định tại Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể là dù trong trường hợp nào cũng không được xử phạt quá mười lăm năm tù.
b. Về tội cố ý gây thương tích: So sánh Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 nếu theo Điều luật, rõ ràng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 nhẹ hơn; do đó, đối với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được thực hiện trước ngày 1-7-2000 mà tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc trường hợp có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm thì phải áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử. Tuy nhiên, trước khi Bộ luật hình
sự năm 1999 có hiệu lực thi hành thì phải áp dụng Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử, nhưng nay theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 trường hợp này thuộc quy định tại Khoản 1; do đó, cần áp dụng tinh thần quy định này có lợi cho người phạm tội, cho nên chỉ được áp dụng Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử.
3. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999, thì khi cho hưởng án treo Toà án ấn định thời gian thử thách. Thế nhưng tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ lại quy định thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án? Như vậy, hai quy định này có mâu thuẫn với nhau không? Toà án ấn định thời gian thử thách như thế nào? Thời gian thử thách được tính từ ngày nào?
Quy định tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61) không có gì mâu thuẫn với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999.
Việc Toà án cho người bị xử phạt tù được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách vẫn thực hiện theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 theo thủ tục chung; cụ thể là vẫn thực hiện như các hướng dẫn trước đây.
Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61 quy định: "Người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, thì thời gian thử thách cũng được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ nhưng không được tính vào thời gian xét nâng lương, phong quân hàm theo niên hạn. Thời gian thử thách được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án".
Như vậy quy định tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61 được áp dụng đối với người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương nếu vẫn được tiếp tục làm việc, thì thời gian thử thách để được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ chỉ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án, chứ không phải kể từ ngày Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
4. Một người đang chấp hành hình phạt tù do bị ốm nặng đã được Chánh án Toà án ra quyết định cho được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì người đó lại phạm tội mới và bị đưa ra xét xử. Trong trường hợp này phải áp dụng Khoản nào của Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 để tổng hợp hình phạt?
Một người đang chấp hành hình phạt tù do bị ốm nặng đã được Chánh án Toà án ra quyết định cho được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì người đó đang phải chấp hành bản án đối với phần hình phạt tù còn lại và các quyết định khác trong bản án, mà họ chưa thi hành. Nếu trong thời gian này người đó lại phạm tội mới và bị đưa ra xét xử, thì việc tổng hợp hình phạt đối với họ theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999.
5. Người phạm tội bị bắt quả tang đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình, thì có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 hay không?
Mặc dù người phạm tội bị bắt quả tang, nhưng sau khi bị bắt đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì Toà án áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cho họ. Nếu sau khi bị bắt người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự
thật của vụ án và chỉ sau khi cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh được đầy đủ hành vi phạm tội của họ, họ mới nhận sự việc phạm tội của họ đúng như cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh, thì không được áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp tại cơ quan Điều tra hoặc tại phiên toà sơ thẩm người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự thật, nhưng sau khi có kết luận Điều tra hoặc sau khi xét xử sơ thẩm đến phiên toà phúc thẩm đã khai báo lại một cách đầy đủ và đúng sự thật diễn biến việc phạm tội, thì vẫn được áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" đối với họ, nhưng mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này không thể bằng trong trường hợp ngay từ đầu họ đã khai báo đầy đủ và đúng sự thật diễn biến việc phạm tội.
6. Khi xét xử vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích, trong đó bị cáo là chồng (hoặc là vợ), người bị hại là vợ (hoặc là chồng) thì có buộc người chồng (hoặc người vợ) phải bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm hay không?
Về nguyên tắc theo quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, các Điều 609, 610 và 613 Bộ luật dân sự thì người chồng (hoặc người vợ) phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc Toà án có buộc người chồng (hoặc người vợ) phải bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm hay không là phụ thuộc vào người bị hại có yêu cầu hay không. Trong trường hợp người bị hại là người vợ (hoặc người chồng) có yêu cầu thì Toà án cần buộc người chồng (hoặc người vợ) có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần chú ý là quan hệ giữa bị cáo và người bị hại là vợ chồng cho nên còn bị Điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình; do đó, khi quyết định việc bồi thường thiệt hại cần chú ý đến các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về trách nhiệm, nghĩa vụ của vợ, chồng; về chế độ tài sản riêng, tài sản chung của vợ, chồng...
7. Phân biệt việc áp dụng tình Tiết giảm nhẹ trong trường hợp "tự thú" và trong trường hợp "đầu thú" như thế nào?
"Tự thú" là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình Điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. "Đầu thú" là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 2-6-1990 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp "Hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú", thì các trường hợp này đều được coi là tự thú. Tuy hướng dẫn các trường hợp này đều được coi là tự thú để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng không hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào áp dụng Khoản 1, trong trường hợp nào áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Để áp dụng đúng và thống nhất tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp trên đây, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể như sau:
- Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "tự thú" quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
- Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Cũng cần chú ý là, trong trường hợp này, nếu người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc có những việc làm khác thuộc trường hợp được coi là tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì được hưởng tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tương ứng quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
8. Đối với người nước ngoài phạm tội nhưng có nhiều tình Tiết giảm nhẹ, nếu xử phạt tù thì không thể cho hưởng án treo được. Vậy có thể áp dụng hình phạt tiền đối với họ được không?
Việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người phạm tội nói chung, cũng như đối với người nước ngoài phạm tội nói riêng phải tuân thủ quy định tại Điều 30 Bộ luật hình sự năm 1999. Trong trường hợp người phạm tội là người nước ngoài có nhiều tình Tiết giảm nhẹ, nếu xử phạt tù thì không thể cho hưởng án treo được, nhưng họ có đủ các Điều kiện quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 và đã được hướng dẫn tại Mục 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP ngày 4-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999" để có thể được chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể áp dụng hình phạt trục xuất hoặc hình phạt tiền.
9. Đề nghị hướng dẫn các tình Tiết hàng phạm pháp là hàng cấm (thuốc lá điếu của nước ngoài) có số lượng lớn, có số lượng rất lớn và có số lượng đặc biệt lớn.
Để áp dụng đúng và thống nhất các tình Tiết này thì cần phải có sự thống nhất của liên ngành để hướng dẫn. Tuy nhiên, trong thời gian chờ hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn như sau:
- Được coi là hàng phạm pháp có số lượng lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao (mỗi bao 20 điếu);
- Được coi là hàng phạm pháp có số lượng rất lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 4.500 bao đến dưới 13.500 bao (mỗi bao 20 điếu);
- Được coi là hàng phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 13.500 bao trở lên (mỗi bao 20 điếu).
10. Nếu chỉ căn cứ vào số lượng tiền giả thì trường hợp nào áp dụng Khoản 1, trường hợp nào áp dụng Khoản 2 và trường hợp nào áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999.
Đây là vấn đề cần phải có sự thống nhất của liên ngành để hướng dẫn. Trong thời gian chờ hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn như sau:
a. Đối với tội làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả dưới 3 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 3 triệu đồng đến dưới 15 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 15 triệu đồng trở lên.
b. Đối với tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả dưới 10 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 10 triệu đồng đến dưới 30 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 30 triệu đồng trở lên.
11. Đối với người nhiều lần lưu hành tiền giả thì số lượng tiền giả để truy cứu trách nhiệm hình sự là căn cứ vào từng lần cụ thể hay lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần cộng lại? Nếu lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần cộng lại thì có áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 nữa hay không?
Cần phải lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần phạm tội cộng lại để truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó có trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không xem xét trách nhiệm hình sự đối với trường hợp đó (không cộng số lượng tiền giả của lần phạm tội đó). Nếu có hai lần phạm tội lưu hành tiền giả trở lên thì ngoài việc cộng số lượng tiền giả của các lần phạm tội để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, còn phải áp dụng tình Tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.
12. Đề nghị hướng dẫn đối với các trường hợp sử dụng điện trái phép làm chết người thì xét xử về tội gì?
Để xét xử đúng tội cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể. Về nguyên tắc chung, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
a. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để chống trộm cắp mà làm chết người thì người phạm tội phải bị xét xử về tội giết người.
b. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá hoại mùa màng thì cần phân biệt như sau:
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra và thực tế là có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội giết người.
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không thể xảy ra..., nhưng hậu quả có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội vô ý làm chết người.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Toà án. Vậy quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị hay không?
Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Điều tra bổ sung. Theo tinh thần quy định tại Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự thì những vấn đề cần Điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu Điều tra bổ sung. Nếu xét thấy những vấn đề
cần Điều tra bổ sung mà Toà án yêu cầu là có căn cứ và cần thiết thì Viện kiểm sát tiến hành Điều tra bổ sung; trong trường hợp kết quả Điều tra bổ sung dẫn tới đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và báo cho Toà án biết. Nếu xét thấy những vấn đề cần Điều tra bổ sung mà Toà án yêu cầu là không có căn cứ không thể Điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Toà án tiến hành xét xử căn cứ vào hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên toà để quyết định khi nghị án.
2. Trong nhiều hồ sơ vụ án hình sự (và dân sự) có các giấy tờ, tài liệu như đăng ký xe máy, giấy phép lái xe, giấy tờ tuỳ thân... Sau khi xét xử nếu đương sự đến xin lại giấy tờ mà Toà án cho họ lấy về thì có vi phạm quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự hay không?
Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định thẩm quyền xử lý vật chứng trong các giai đoạn Điều tra, truy tố, xét xử đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa hoặc thuộc sở hữu của người khác bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ phạm tội; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được. Đối với các giấy tờ, tài liệu tuỳ thân, như: hộ chiếu, giấy chứng minh nhân dân, thẻ thương binh, giấy đăng ký xe máy, giấy phép lái xe..., thì theo quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự khi khám xét Điều tra viên được tạm giữ nếu là vật chứng hoặc có liên quan trực tiếp đến vụ án. Việc tạm giữ này phải tuân thủ quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi Toà án đã xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, nếu đương sự đến Toà án xin được lấy lại giấy tờ, tài liệu này, thì việc có trả lại giấy tờ, tài liệu này cho đương sự hay không về nguyên tắc chung phải căn cứ vào quyết định của Toà án trong bản án; cụ thể là:
a. Nếu trong bản án không có quyết định của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng các giấy tờ, tài liệu này và các giấy tờ, tài liệu này là cần thiết trong cuộc sống và sinh hoạt của người bị kết án hoặc của thân nhân người bị kết án, thì Toà án trả lại các giấy tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ:
- Giấy chứng minh nhân dân, Thẻ thương binh, Giấy chứng nhận huân chương, huy chương... thì Toà án trả lại cho họ.
- Trong bản án không có quyết định cấm hành nghề lái xe thì Toà án trả lại giấy phép lái xe cho họ.
b. Nếu trong bản án có quyết định của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc họ được tiếp tục sử dụng các giấy tờ, tài liệu này, thì Toà án trả lại các giấy tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ: Trong bản án có quyết định trả lại chiếc xe máy cho người phạm tội thì Toà án trả lại giấy đăng ký xe máy cho họ.
c. Nếu trong bản án có quyết định của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc không được tiếp tục sử dụng các giấy tờ, tài liệu này thì không trả lại các giấy tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ:
- Trong bản án có quyết định tịch thu chiếc xe máy của người phạm tội, đã dùng vào việc thực hiện tội phạm thì không trả lại giấy đăng ký xe máy đó cho họ.
- Trong bản án có quyết định cấm hành nghề lái xe trong hai năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù thì không trả lại giấy phép lái xe cho họ. Tuy nhiên, hết thời hạn cấm mà giấy phép lái xe này vẫn có giá trị sử dụng thì Toà án trả lại giấy phép lái xe này cho họ.
Cần lưu ý rằng phải phôtô lại các giấy tờ, tài liệu sẽ trả lại và việc trả lại các giấy tờ, tài liệu này phải được lập thành biên bản, có chữ ký của người trả và của người nhận; bản phôtô các giấy tờ, tài liệu và biên bản trả lại giấy tờ, tài liệu phải được lưu vào hồ sơ vụ án đúng vị trí của các giấy tờ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được trả lại.
3. Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án có quyền ra quyết định khởi tố vụ án nếu qua xét xử tại phiên toà mà phát hiện được người phạm tội mới cần phải Điều tra. Vậy Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định này hay không?
Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự, nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải Điều tra, thì Toà án ra quyết định khởi tố vụ án (đoạn 2 Khoản 1). Quyết định khởi tố vụ án này phải được gửi đến Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc Điều tra (Khoản 3).
Khi kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, nếu xét thấy quyết định khởi tố của Toà án không có căn cứ thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 91 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị lên Toà án cấp trên.
4. Vì bị cáo ốm không đến được phiên toà nên Toà án phải quyết định hoãn xét xử nhiều lần, vậy trường hợp này giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều 162 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong trường hợp bị cáo đã được giao giấy triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt tại phiên toà với lý do "bị ốm", tuỳ từng trường hợp mà Toà án quyết định như sau:
1. Nếu đúng bị cáo bị ốm (có bệnh án, có chứng nhận của cơ sở chữa bệnh...) và sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử (như: phạm tội quả tang, chứng cứ đã đầy đủ rõ ràng...), thì Tòa án có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo (Điểm c Khoản 2 Điều 162); nếu sự vắng mặt của bị cáo có trở ngại cho việc xét xử (như: cần đối chất, cần kiểm tra một số tình Tiết nào đó của vụ án...), thì Toà án phải hoãn phiên toà (đoạn 1 Khoản 1 Điều 162).
2. Nếu gia đình bị cáo thông báo cho Toà án về việc bị cáo ốm, nhưng không có chứng cứ chứng minh là bị cáo bị ốm (không có bệnh án, không có chứng nhận của cơ sở chữa bệnh...), thì sự vắng mặt của bị cáo là không có lý do chính đáng và bị cáo sẽ bị áp giải đến phiên toà (đoạn 1 Khoản 1 Điều 162). Tuy nhiên, trong trường hợp sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử thì Toà án có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo (Điểm c Khoản 2 Điều 162).
3. Nếu bị cáo bị ốm do bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác (ung thư, lao phổi nặng...), thì Toà án phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh (đoạn 2 Khoản 1 Điều 162). Nếu họ thuộc đối tượng phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thì Toà án phải ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ.
5. Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự phải có đơn khởi kiện của các đối tượng theo luật định thì Toà án mới giải quyết các vụ án. Vậy phần dân sự trong vụ án hình sự được tách ra để giải quyết riêng thì khi giải quyết phần dân sự đó họ có phải làm đơn khởi kiện hay không, trong trường hợp nào thì tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết riêng?
Theo tinh thần quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 thì khi xét xử một vụ án hình sự cùng với việc quyết định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, Toà án buộc người phạm
tội phải trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường các thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp Toà án phải tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết trong một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu. Thông thường Toà án chỉ tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết trong một vụ án dân sự khác khi chưa xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc đã xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự nhưng khi xét xử không biết họ ở đâu hoặc đã xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự, nhưng họ chưa có yêu cầu trả lại những vật, tiền bạc đã bị người phạm tội chiếm đoạt, chưa có yêu cầu phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, chưa chứng minh được đầy đủ thiệt hại do tội phạm gây ra. Đối với các trường hợp này, Toà án chỉ thụ lý để giải quyết phần dân sự khi đương sự có yêu cầu (có đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện) và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
6. Khi xét xử sơ thẩm một số vụ án hình sự, Toà án đã quyết định xử phạt bị cáo đúng bằng thời gian tạm giam và trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa. Việc quyết định như vậy có đúng hay không và việc quyết định như vậy có ảnh hưởng gì tới quyền kháng cáo, kháng nghị và việc ra quyết định thi hành án hay không?
Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình Tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy trong trường hợp cụ thể đó xử phạt bị cáo mức hình phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam là thoả đáng, thì Toà án cấp sơ thẩm có quyền xử phạt bị cáo đúng bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự thì một trong những trường hợp Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả lại tự do ngay tại phiên toà cho bị cáo đang bị tạm giam nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác khi thời hạn tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam; do đó, trong trường hợp Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định xử phạt bị cáo đúng bằng thời gian bị cáo bị tạm giam và tuyên bố trả lại tự do ngay cho bị cáo tại phiên toà, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác là đúng với các quy định của pháp luật.
Việc quyết định như trên không có ảnh hướng gì tới quyền kháng cáo, kháng nghị và việc ra quyết định thi hành án. Những vấn đề này vẫn được thực hiện theo quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự.
7. Người bị kết án làm đơn xin hoãn thi hành án phạt tù với lý do ốm nặng. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30-6-1993 thì trường hợp ốm nặng là người bị các bệnh như: lao, ung thư, bại liệt... Nếu theo bệnh án của người bị kết án xin hoãn thi hành án phạt tù thì họ bị bệnh khác (không phải là các bệnh nêu trên) với tỷ lệ mất sức lao động là trên 70%. Trong trường hợp này có coi là họ ốm nặng để cho họ hoãn thi hành án hay không?
Theo hướng dẫn tại Điểm d Mục 2 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30- 6-1993 của Toà án nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ- Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù" thì: "một trong những lý do để Toà án cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là "người bị kết án ốm nặng". Người bị kết án ốm nặng là người bị kết án bị đau ốm tới mức không thể đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù được. Việc đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ và cần thiết phải cho họ được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để cho họ có Điều kiện chữa bệnh (như bị bệnh ung thư, bị lao nặng, bị bại liệt...)". Như vậy, theo hướng dẫn trên đây thì không phải khi người bị kết án bị mắc
một trong các bệnh: lao, ung thư, bại liệt mới được coi là bị ốm nặng. Cần chú ý là ba loại bệnh đó chỉ là ví dụ, nếu người bị kết án mắc phải, thì được coi là bị ốm nặng. Trong Thông tư sau khi viện dẫn ba loại bệnh đó còn có ba dấu chấm (...). Điều đó có nghĩa là ngoài ba loại bệnh đó còn có thể có nhiều loại bệnh khác (ví dụ như: xơ gan cổ chướng, AIDS...), nếu người bị kết án mắc phải các bệnh này thì cũng có thể coi là họ bị ốm nặng để xem xét cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, dù mắc phải bệnh gì, thì Điều kiện quyết định để cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là họ phải bị đau ốm tới mức không thể đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù được, việc đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ. Việc quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù trong các trường hợp này là nhằm tạo cho họ có Điều kiện để chữa bệnh.
1. Vấn đề có nhận hồ sơ vụ án và vào sổ thụ lý hay không trong trường hợp này đã được hướng dẫn tại các Điểm 1 và 2 Thông tư liên ngành số
7/TTLN ngày 15-9-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn việc giao nhận hồ sơ vụ án hình sự"; cụ thể là
"Đối với vụ án chỉ có bị can bị tạm giam thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố Viện kiểm sát gửi đến Toà án hồ sơ vụ án và
quyết định truy tố cùng với biên bản về việc Viện kiểm sát giao cáo trạng cho bị can. Nếu trong hồ sơ vụ án chưa có biên bản về việc Viện kiểm
sát giao cáo trạng cho bị can thì Toà án chưa nhận hồ sơ vụ án. Đối với vụ án vừa có bị can đang bị tạm giam, vừa có bị can tại ngoại, cũng như
vụ án chỉ có bị can tại ngoại, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố, Viện kiểm sát gửi đến Toà án hồ sơ vụ án và quyết định
truy tố cùng với biên bản giao cáo trạng cho bị can đang bị tạm giam, cũng như bị can tại ngoại. Nếu Viện kiểm sát gặp khó khăn trong việc giao
cáo trạng cho bị can tại ngoại, thì chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày gửi cho Toà án hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát gửi đến Toà án biên bản về việc
Viện kiểm sát giao cáo trạng cho bị can tại ngoại. Hết thời hạn đó, nếu Viện kiểm sát không gửi đến Toà án đủ các biên bản giao cáo trạng cho bị
can, thì Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát vì lý do chưa hoàn thành thủ tục tố tụng" (Xem cuốn các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1990; trang 164-165).
8. Khi hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến cho Toà án, nhưng cáo trạng chưa được tống đạt cho bị can thì Toà án có nhận hồ sơ vụ án và vào sổ thụ lý hay không? Nếu Toà án nhận hồ sơ thì Toà án có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn không?
2. Việc hướng dẫn Toà án nhận hồ sơ vụ án trong trường hợp có bị can tại ngoại và Viện kiểm sát gặp khó khăn trong việc giao cáo trạng cần được hiểu là Toà án tạm thời nhận hồ sơ chờ Viện kiểm sát hoàn thành thủ tục tố tụng. Trong trường hợp này Toà án chỉ vào sổ theo dõi mà chưa thụ lý vụ án. Toà án chỉ thụ lý vụ án và phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà sau khi Viện kiểm sát đã hoàn thành thủ tục tố tụng (sau khi nhận được biên bản bàn giao cáo trạng cho bị can). Chỉ khi có căn cứ khẳng định được rằng bị can đã nhận được cáo trạng, Tòa án đã thụ lý vụ án, thì Toà án mới có quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn.
9. Một người thực tế có tham gia vào việc phạm tội nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 và Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 (Ví dụ: Trẻ em từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc họ có thể là bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nếu như xét thấy sự có mặt của họ tại phiên toà là cần thiết để khai báo và đối chất với các bị cáo trong vụ án, Tòa án đã triệu tập họ hợp lệ đến lần thứ 2 mà họ vẫn cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng, thì có thể dẫn giải họ đến phiên toà được không? Nếu được thì áp dụng Điều Khoản nào của Bộ luật tố tụng hình sự và cơ quan nào được quyền ra lệnh dẫn giải, cơ quan nào thi hành lệnh dẫn giải?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự thì "người nào biết được những tình Tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng". Như vậy, đối với trường
hợp một người thực tế có tham gia thực hiện tội phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (do chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện) hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, thì họ không những có thể là bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà họ còn có thể là người làm chứng; vì vậy, nếu xét thấy sự có mặt của họ tại phiên toà là cần thiết để khai báo và đối chất với các bị cáo trong vụ án, thì Tòa án có thể triệu tập họ đến phiên toà với tư cách là người làm chứng. Trong trường hợp họ đã được Toà án triệu tập, nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng thì theo quy định tại Khoản 4 Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự họ có thể bị dẫn giải đến phiên toà. Việc dẫn giải người làm chứng đến phiên toà đã được hướng dẫn tại Điểm 2 Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 20-3- 1993 của TANDTC, VKSNDTC, BNV, BTP "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLTTHS"; cụ thể là: "... Trong trường hợp... Toà án ra quyết định dẫn giải người làm chứng, thì quyết định đó được gửi cho Thủ trưởng cơ quan công an cùng cấp. Cơ quan công an có trách nhiệm dẫn giải người làm chứng đến đúng thời gian, địa Điểm ghi trong quyết định..." (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1995; trang 106, 107).
10. Hiện nay ở địa phương có hai quan Điểm trái ngược nhau về một vấn đề như sau:
- Quan Điểm thứ nhất cho rằng: ở giai đoạn Điều tra chỉ có những người là Điều tra viên mới được quyền tiến hành tố tụng, thu thập các chứng cứ (như hỏi cung bị can, ghi lời khai của người bị hại hoặc nhân chứng...); còn những tình Tiết có liên quan đến vụ án được thu thập bởi những người không phải là Điều tra viên thì không phải là chứng cứ pháp lý được quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Quan Điểm thứ hai cho rằng: những cán bộ cảnh sát hình sự hoặc phó (trưởng) công an xã, phường, thị trấn cũng có thể ghi lời khai của người bị hại hoặc nhân chứng... thu thập vật chứng... và các tài liệu đó cũng được xem là chứng cứ.
Trong hai quan Điểm trên thì quan Điểm nào là đúng?
Trước hết cần chú ý là không phải bất cứ biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của người bị hại, biên bản ghi lời khai của nhân chứng... (mặc dù do Điều tra viên thực hiện) đều được coi là chứng cứ. Chỉ được coi là chứng cứ những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình Tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án đúng đắn. Ví dụ: Biên bản ghi lời khai của một người được Điều tra viên xác định là người làm chứng, nhưng sự thực người đó không biết bất cứ tình Tiết nào có liên quan đến vụ án, thì biên bản ghi lời khai của người này không phải là chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "Để thu thập chứng cứ, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có quyền... yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những tình Tiết làm sáng tỏ vụ án" (Khoản 1) và "... cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án" (Khoản 2). Đồng thời theo quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "những tình Tiết có liên quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ. Trong trường hợp những tài liệu này có những dấu hiệu quy định tại Điều 56 Bộ luật này thì được coi là vật chứng". Do đó, trong các trường hợp cán bộ cảnh sát hình sự, Trưởng hoặc Phó trưởng công an xã, phường, thị trấn trong khi thực hiện công vụ đã tiến hành lập biên bản về việc vi phạm pháp luật, ghi lời khai của người bị hại hoặc người làm chứng... và
chuyển cho cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án thì các tài liệu này cũng được coi là chứng cứ, nếu đáp ứng các Điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự.
11. Cách xác định ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo, người bị hại chưa thành niên như thế nào để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp nhưng vẫn không xác định được?
Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình Tiết tăng nặng và những tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội".
Như vậy, theo tinh thần quy định trên đây trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo, người bị hại thì về nguyên tắc chung các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng phương pháp nào xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo chính xác và có lợi cho bị can, bị cáo; do đó, trong trường hợp này cần xác định ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo, người bị hại chưa thành niên như sau:
1. Cách xác định ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo chưa thành niên.
a- Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
b- Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
c- Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
d- Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
2. Cách xác định ngày, tháng sinh của người bị hại chưa thành niên.
a- Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của tháng đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
b- Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mồng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
c- Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào của nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày mồng một tháng giêng hoặc ngày
mồng một tháng 7 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
d- Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm, thì lấy ngày mồng một tháng giêng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
12. Đề nghị hướng dẫn về thủ tục Điều chỉnh hình phạt tù đối với các bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án và người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù, nhưng lại được Toà án cấp phúc thẩm giảm hình phạt tù theo quy định tại Khoản 2 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự?
Không cần phải có bất kỳ thủ tục nào Điều chỉnh hình phạt tù, quyết định thi hành án phạt tù đối với bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án phạt tù và họ đang chấp hành hình phạt tù, nhưng lại được Tòa án cấp phúc thẩm giảm án theo quy định tại Khoản 2 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự, bởi vì việc Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án phạt tù là đúng. Việc tính thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án trong trường hợp này cũng được thực hiện tương tự như trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Cụ thể là Toà án cấp phúc thẩm trực tiếp hoặc thông qua Toà án cấp sơ thẩm gửi cho cơ quan thi hành án phạt tù, người bị kết án bản sao bản án phúc thẩm để thi hành. Cơ quan thi hành án sẽ lưu bản sao bản án phúc thẩm này vào hồ sơ thi hành án và căn cứ vào bản sao bản án phúc thẩm này để tính thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án.
Đối với Toà án cấp phúc thẩm cần chú ý là trong trường hợp bị cáo bị phạt tù và đang chấp hành hình phạt tù mà Toà án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và hình phạt này bằng hoặc ngắn hơn thời hạn họ đã chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cấp phúc thẩm cần tuyên bố trong bản án là trả tự do ngay cho bị cáo, nếu họ không bị tạm giữ, tạm giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
13. Trường hợp bị cáo bỏ trốn, cơ quan công an đã ra lệnh truy nã nhưng không có kết quả; Toà án xét xử vắng mặt bị cáo và ra quyết định thi hành án phạt tù nhưng không bắt được bị cáo; trường hợp này Toà án có phải yêu cầu cơ quan công an ra lệnh truy nã mới để bắt người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù hay không?
Theo tinh thần quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như tinh thần hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, thì thẩm quyền ra quyết định (lệnh) truy nã và quyết định đình nã là của cơ quan Điều tra. Quyết định (lệnh) truy nã chỉ hết hiệu lực khi người bị truy nã đã chết hoặc bị bắt giữ theo quyết định (lệnh) truy nã hoặc trong trường hợp có quyết định đình nã của cơ quan Điều tra; do đó, trong trường hợp bị cáo bỏ trốn, cơ quan công an đã ra quyết định (lệnh) truy nã nhưng không có kết quả và Toà án xét xử vắng mặt bị cáo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN nói trên, thì khi bản án sơ thẩm của Toà án có hiệu lực pháp luật Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và gửi cho cơ quan thi hành án phạt tù cùng bản sao bản án này mà không cần phải yêu cầu cơ quan Điều tra ra quyết định (lệnh) truy nã mới.
14. Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra phải có mặt đại diện của gia đình bị can...". Vậy "trường hợp cần thiết" là
những trường hợp như thế nào để có căn cứ xác định có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không?
Việc quy định (hoặc hướng dẫn) cụ thể những trường hợp nào là trường hợp cần thiết mà khi thuộc một trong những trường hợp đó việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra phải có mặt đại diện của gia đình bị can là rất quan trọng, bởi lẽ để căn cứ vào đó mà Viện kiểm sát, Toà án xác định có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không. Tuy nhiên, do Bộ luật tố tụng hình sự chưa có quy định cụ thể và Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cũng chưa có hướng dẫn, đồng thời theo quy định tại Khoản 1 Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự, thì đại diện của gia đình bị can, bị cáo có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan Điều tra; do đó, việc đánh giá trường hợp nào là "trường hợp cần thiết" hiện nay phụ thuộc vào đánh giá của cơ quan Điều tra. Vì vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên toà, nếu theo đánh giá của Toà án thì trường hợp đó có thể được coi là trường hợp cần thiết, nhưng việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra không có mặt đại diện của gia đình bị can (do cơ quan Điều tra đánh giá trường hợp này không phải là trường hợp cần thiết), thì Toà án không được trả hồ sơ để Điều tra bổ sung với lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
15. Hội thẩm nhân dân là giáo viên đã nghỉ hưu có thể tham gia thành phần Hội đồng xét xử đối với bị cáo vị thành niên theo như quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự được hay không?
Khi xét xử sơ thẩm mà bị cáo là người chưa thành niên, thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự "thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh".
Khái niệm "giáo viên" quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự cần được hiểu là những "nhà giáo" - những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác, kể cả trong trường hợp họ đã nghỉ hưu.
16. Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên đã bỏ nhà đi khỏi địa phương, nhiều năm đến địa phương khác, không có nơi ở nhất định, gia đình bị cáo cũng đã chuyển đi không còn ai ở địa phương nơi bị cáo sinh ra. Chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú trước đây cũng như tại nơi bị cáo đến đều trả lời không biết bị cáo là ai nên họ không tham gia làm đại diện. Trong trường hợp này việc áp dụng Khoản 1 Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Điểm 6 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 20-6-1992 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về lý lịch của bị can, bị cáo"; cụ thể: "Theo quy định ở Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội nơi bị cáo học tập, lao động và sinh sống. Tuy nhiên, trong trường hợp không xác minh được lý lịch của bị cáo thì tại phiên toà xét xử không nhất thiết phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội". (Xem Cuốn các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1992; trang 144). Như vậy, trong trường hợp này, Toà án chỉ cần yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 37 và Điều 275 Bộ luật tố tụng hình sự.
17. Nếu tại phiên toà Hội đồng xét xử thấy cần khởi tố vụ án do phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới cần phải Điều tra thì hình thức quyết định khởi tố vụ án bằng một
quyết định khởi tố vụ án riêng hay ghi thành một Điểm trong phần quyết định của bản án? Dù bằng hình thức nào thì việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định này như thế nào?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự, thì "...Toà án ra quyết định khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải Điều tra". Khoản 3 Điều này quy định "Trong thời hạn 24 giờ... quyết định khởi tố của Toà án được gửi đến Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc Điều tra". Đồng thời theo quy định về nội dung bản án tại Điều 198 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong bản án không có việc xem xét quyết định khởi tố vụ án. Như vậy, theo các quy định này thì việc Toà án khởi tố vụ án tại phiên toà là bằng một quyết định khởi tố vụ án riêng mà không được ghi thành một Điểm trong phần quyết định của bản án.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 91 Bộ luật tố tụng hình sự thì "trong trường hợp quyết định khởi tố của Toà án không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Toà án cấp trên".
Cần chú ý là theo quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự thì cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều có quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời theo quy định tại Khoản 2 Điều 213 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ có quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Toà án cấp sơ thẩm mới có thể bị kháng cáo (trừ quyết định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì việc kháng cáo hoặc kháng nghị đối với quyết định này được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm); do đó, đối với quyết định khởi tố vụ án của Toà án thì không người nào có quyền kháng cáo.
18. Tại phiên toà phúc thẩm nếu những người tham gia tố tụng hoặc Viện kiểm sát đề nghị hoãn phiên toà vì chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 210 Bộ luật tố tụng hình sự thì giải quyết như thế nào, có phải hoãn phiên toà theo Điều 168a Bộ luật tố tụng hình sự không?
Khoản 1 Điều 210 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định Toà án cấp sơ thẩm thông báo cho Viện kiểm sát mà không quy định cụ thể là Viện kiểm sát nào (Viện kiểm sát cùng cấp hay Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cùng cấp). Tinh thần của quy định này cần được hiểu là Viện kiểm sát cùng cấp. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "Tại phiên toà phúc thẩm sự tham gia của kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc; nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên toà". Đồng thời theo hướng dẫn tại Mục 3 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự" thì: "Để tạo Điều kiện cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm có tài liệu tham gia phiên toà, khi gửi hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp sơ thẩm cần gửi thêm một bản sao bản án cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (bản này không đánh số thứ tự các tài liệu trong hồ sơ).
Để cả hai bên đều được chủ động thời gian nghiên cứu hồ sơ, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Toà án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên cứu trước. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cấp tỉnh là 10 ngày, của Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 20 ngày. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Toà án trong thời hạn đó". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; trang 138).
Mặt khác theo quy định tại Điều 214 Bộ luật tố tụng hình sự thì "Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án". Điều này có nghĩa là khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án để tham gia phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát cấp phúc thẩm cũng phải nghiên cứu các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm; do đó, nếu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đề nghị hoãn phiên toà vì chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị là không đúng tinh thần quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các hướng dẫn của Thông tư liên ngành nói trên.
Đối với những người tham gia tố tụng liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị mà xin hoãn phiên tòa với lý do chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 210 Bộ luật tố tụng hình sự "Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo cho họ biết"; do đó, nếu họ có yêu cầu xin hoãn phiên toà thì Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của họ về việc xin hoãn phiên toà đó, đồng thời thông báo luôn cho họ biết về việc kháng cáo, kháng nghị.
Thời hạn hoãn phiên toà phúc thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự là không được quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà.
19. Tại phiên toà trong phần xét hỏi thấy có những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên toà được, thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung không? Nếu được thì đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó được giải quyết như thế nào?
Mặc dù trong phần xét xử sơ thẩm của Bộ luật tố tụng hình sự không có Điều luật quy định cụ thể về việc Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung như Điều 154 quy định thẩm quyền của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, Điều đó không có nghĩa là tại phiên toà sơ thẩm, khi thấy có một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử không được ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự thì một trong các quyết định mà Hội đồng xét xử phải thảo luận và thông qua tại phòng nghị án, đó là quyết định yêu cầu Điều tra bổ sung. Điều đó có nghĩa là tại phiên toà khi xét thấy có một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung.
Theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần I Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự" thì: "khi Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát Điều tra bổ sung, thì Toà án xoá sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Toà án trả hồ sơ vào sổ thụ lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Toà án thụ lý lại. Ngày chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đóng dấu (hoặc ghi) vào bìa hồ sơ"; do đó, đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó Toà án không phải giải quyết gì, mà vẫn được lưu trong hồ sơ vụ án. Sau khi Viện kiểm sát đã Điều tra bổ sung hoặc không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu Điều tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án thì Toà án thụ lý lại và giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Theo hướng dẫn tại Mục II Thông tư liên ngành nói trên thì "... khi nhận lại hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử" (xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; trang 135).
20. Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự quy định những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng. Thực tế có trường hợp Luật sư và Thư ký phiên toà có quan hệ là cha con ruột thì có coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không?
Nếu không có căn cứ rõ ràng nào khác (ngoài các căn cứ quy định tại các Điểm 1 và 2 Điều 28, Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự), mặc dù trong vụ án giữa người tiến hành tố tụng là Thư ký
phiên toà và người tham gia tố tụng là Luật sư (người bào chữa) có quan hệ ruột thịt (cha con, anh em ruột...) thì Thư ký phiên toà không thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự thì Luật sư không được bào chữa. Nếu Toà án chấp nhận họ là người bào chữa là vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự, tức là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có Luật sư đã tham gia bào chữa cho bị can từ giai đoạn Điều tra (hoặc bào chữa cho bị cáo từ giai đoạn sơ thẩm) và tiếp tục bào chữa cho bị cáo tại phiên toà sơ thẩm (hoặc bào chữa cho bị cáo tại phiên toà phúc thẩm) thì trong trường hợp này để tạo thuận lợi cho Luật sư và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, Toà án không phân công người thân thích của Luật sư làm Thư ký phiên toà. Nếu đã phân công thì cần thay đổi người khác làm Thư ký phiên toà.
21. Bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm phạt tù và phạt tiền là hình phạt bổ sung. Chỉ có bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời tăng mức hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Toà án cấp phúc thẩm quyết định như vậy có đúng hay không?
Trong trường hợp này chỉ có kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo và Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên (hoặc giảm) mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo là theo hướng có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên việc Toà án cấp phúc thẩm tăng mức hình phạt tiền là hình phạt bổ sung khi không có kháng nghị của Viện kiểm sát là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại Khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự.
22. Việc xét giảm thời gian thử thách của án treo được tiến hành như thế nào? Thành phần của Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo gồm những ai?
Trước đây về Điều kiện, thủ tục và thành phần Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo đã được hướng dẫn cụ thể tại Mục VIII Nghị quyết số 1/HĐTP ngày 18-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự" (xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng tập 2; năm 1992; tr.13). Quy định về án treo trong Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản không có gì khác quy định về án treo trong Bộ luật hình sự năm 1985; do đó, Điều kiện, thủ tục và thành phần Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo vẫn được thực hiện theo hướng dẫn trong Nghị quyết số 1/HĐTP nói trên. Cần lưu ý là ở những Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực nếu có đủ Thẩm phán thì Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo là ba Thẩm phán; nếu không có đủ ba Thẩm phán thì thành phần Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo là hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân (hoặc Hội thẩm quân nhân).
23. Đối với các vụ án về các tội chiếm đoạt nếu theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng trong vụ án có người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài, thì Toà án cấp nào có thẩm quyền xét xử?
Không chỉ đối với các vụ án về các tội chiếm đoạt, mà đối với tất cả các loại vụ án nói chung, nếu theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng trong vụ án có bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài, thì căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
24. Hiện nay vừa có các Đoàn luật sư vừa có các Văn phòng luật sư. Vậy trong các trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có Luật sư bào chữa cho bị cáo, thì Toà án yêu cầu Đoàn luật sư hay yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo?
Theo tinh thần quy định tại Khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong các trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có Luật sư bào chữa cho bị cáo, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư mà không phải là Văn phòng luật sư, bởi vì Đoàn luật sư là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, còn Văn phòng luật sư là tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ tư vấn pháp lý.
25. Người bị kết án là phụ nữ đang chấp hành hình phạt tù, nhưng phát hiện là có thai và được Ban giám thị trại giam đề nghị Toà án cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì Toà án có chấp nhận không?
Theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự, thì phụ nữ đang có thai là một trong các trường hợp có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; do đó, khi người bị kết án là phụ nữ đang chấp hành hình phạt tù, nhưng phát hiện có thai, nếu Ban giám thị trại giam đề nghị Toà án cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì nói chung Toà án nên chấp nhận cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu xét thấy cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì họ lại tiếp tục phạm tội;
b) Họ không có nơi cư trú nhất định;
c) Họ bị xử phạt tù từ 10 năm trở lên về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. III. VỀ DÂN SỰ
1. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 627 Bộ luật dân sự được xác định như thế nào?
a. Khoản 2 Điều 627 Bộ luật dân sự quy định về chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trước đây Toà án nhân dân tối cao tạm hướng dẫn là: "Nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, hoặc giao cho người khác sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, thì chủ sở hữu và người chiếm hữu hoặc người sử dụng phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra" (Xem Cuốn giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1999; trang 111). Nay Toà án nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn như sau:
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu chủ sở hữu vẫn chiếm hữu, sử dụng.
- Người được chủ sở hữu giao cho chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác. Thoả thuận khác không được trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường (ví dụ: chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng thoả thuận cùng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại; thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu Khoản tiền đã bồi thường; thoả thuận ai có Điều kiện hơn thì người đó bồi thường thiệt hại trước...)
b. Khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân sự quy định các trường hợp phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo quy định tại Khoản 3 này thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại (ví dụ một người đâm đầu vào xe ô tô để tự tử), thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì thực hiện theo quy định đó của pháp luật.
c. Khoản 4 Điều 627 Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao gây ra trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Về nguyên tắc chung nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã thực hiện đầy đủ các quy định về bảo quản, sử dụng... nguồn nguy hiểm cao độ), thì chỉ người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ mà gây thiệt hại phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi (Ví dụ: để xe ô tô bên vệ đường không khoá và không rút chìa khoá khỏi ổ điện...) để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật và gây thiệt hại, thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại.
2. Việc quyết định bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại Điều 616 Bộ luật dân sự được thực hiện theo phương thức nào, bởi vì thực tiễn cho thấy có Toà án quyết định bồi thường hàng tháng, có Toà án quyết định bồi thường một lần...?
Điều 616 Bộ luật dân sự chỉ quy định thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm (bao gồm bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động; tiền cấp dưỡng trong trường hợp người bị thiệt hại chết). Khi giải quyết yêu cầu đối với các Khoản này, trước hết Toà án cần tiến hành hoà giải; nếu qua hoà giải mà các bên thoả thuận được với nhau về phương thức bồi thường thiệt hại nào (hàng tháng, hàng quý, hàng năm hoặc một lần) thì Toà án chấp nhận sự thoả thuận của các bên về phương thức bồi thường thiệt hại đó. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức bồi thường thiệt hại hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, nếu người được bồi thường thiệt hại hoặc người được cấp dưỡng yêu cầu được bồi thường hoặc cấp dưỡng theo phương thức một lần và xét thấy yêu cầu của họ là chính đáng và người phải bồi thường, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có Điều kiện thi hành án thì Toà án có thể quyết định phương thức một lần.
3. Khi giải quyết các tranh chấp về cho vay ngoại tệ có lãi thì đối với phần lãi cần quyết định như thế nào?
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các giao dịch giữa các cá nhân về việc vay ngoại tệ có lãi là vô hiệu; do đó, khi có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án áp dụng Điều 146 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả cho bên cho vay số nợ gốc (tính ra tiền Việt Nam tại thời Điểm xét xử sơ thẩm). Đối với Khoản lãi nếu bên vay đã trả cho bên cho vay thì phải tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước; nếu chưa trả thì không tuyên tịch thu.
4. Khi có các yêu cầu chia tài sản chung là nhà mặt phố có diện tích hẹp, nhưng có địa thế kinh doanh tốt thì cần giải quyết thế nào?
Về nguyên tắc chúng ta phải tuân theo quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự về chia tài sản thuộc sở hữu chung. Để có quyết định đúng Toà án cần Điều tra xem xét cụ thể nhà ở. Nếu các đương
sự đều có yêu cầu chia tài sản chung và tài sản chung đó có thể chia được để sử dụng kinh doanh, cho thuê lại (vẫn bảo đảm Điều kiện sinh hoạt tối thiểu và sự độc lập của mỗi chủ sở hữu sau khi chia) thì Toà án quyết định chia tài sản chung. Nếu tài sản chung là nhà ở đó không thể chia được (không bảo đảm Điều kiện sinh hoạt tối thiểu và sự độc lập của mỗi chủ sở hữu sau khi chia) thì Toà án cho định giá tài sản thành tiền theo giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương vào thời Điểm xét xử sơ thẩm để chia.
5. Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà có trường hợp người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác, thì có đưa những người đó vào tham gia tố tụng không?
Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc người nợ phải trả nợ cho họ;
- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.
- Chủ nợ chưa có yêu cầu vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.
6. Người có công với cách mạng được Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho một Khoản tiền. Nay người đó đã chết, nếu xảy ra tranh chấp đòi chia số tiền đó và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án chia thừa kế hay vụ án dân sự khác?
Tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà xác định đó là vụ án gì; cụ thể như sau:
a. Trong các trường hợp sau đây là tranh chấp chia thừa kế, nếu có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung như đối với vụ án chia thừa kế:
- Nếu Khoản tiền đó là Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho chính người có công với cách mạng và người đó đã nhận được khi còn sống, nhưng sau khi chết còn để lại số tiền đó hoặc tài sản được tạo lập từ số tiền đó và những người thân thích của người đó có tranh chấp;
- Nếu Khoản tiền đó là Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho chính người có công với cách mạng, nhưng sau khi người đó chết, thì những người thân thích của người đó mới nhận được và giữa họ có tranh chấp.
b. Trong trường hợp Khoản tiền đó là Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho những người thân thích của người có công với cách mạng và giữa họ có tranh chấp, đồng thời có yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự về yêu cầu chia tài sản chung, nhưng cần chú ý:
- Nếu trong văn bản, tài liệu về trợ cấp, hỗ trợ có ghi rõ trợ cấp hay hỗ trợ cho người nào cụ thể, thì chỉ những người có tên trong văn bản, tài liệu đó mới được hưởng.
- Nếu trong văn bản, tài liệu về trợ cấp, hỗ trợ không ghi rõ trợ cấp hay hỗ trợ cho người nào cụ thể mà chỉ ghi trợ cấp, hỗ trợ cho thân nhân của người có công với cách mạng, thì cần căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước quy định về đối tượng, Điều kiện được hưởng trong việc thực hiện chính sách cụ thể đó để xác định thân nhân của người có công với cách mạng trong việc thực hiện trợ cấp, hỗ trợ cụ thể này bao gồm những ai. Chỉ những người thuộc đối tượng và có đủ Điều kiện đã quy định mới được hưởng.
7. Trong trường hợp hai bên nam nữ kết hôn với nhau nhằm Mục đích để được xuất cảnh đi nước ngoài hoặc để được nhập hộ khẩu, nếu đương sự có đơn xin ly hôn thì Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay xử cho ly hôn?
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì nếu việc kết hôn vi phạm một trong các quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật này là trái pháp luật và nếu dù một trong các bên hoặc cả hai bên có đơn xin ly hôn, thì tuỳ từng trường hợp vi phạm mà Toà án áp dụng Điều 9, Điều 10 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Trong trường hợp hai bên nam nữ kết hôn với nhau mặc dù chỉ với Mục đích để được xuất cảnh đi nước ngoài hoặc để được nhập hộ khẩu nhưng không vi phạm một trong các Điều 9, Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nay đương sự xin ly hôn thì Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án xin ly hôn theo thủ tục chung.
8. Trường hợp nam, nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng trong Khoảng thời gian từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 và đến nay họ có yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Khi giải quyết vụ án Toà án nhận thấy họ không đủ Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Toà án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng hay tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật?
Điểm b Mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội "Về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 35 của Quốc hội) quy định: "Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 mà có đủ Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01-01-2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết".
Theo quy định trên đây Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết việc ly hôn khi có yêu cầu nếu có đủ các Điều kiện sau đây:
a. Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng (Thế nào là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng đã được hướng dẫn tại Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC- BTP ngày 3-1-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp "Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình").
b. Việc họ chung sống với nhau như vợ chồng có đủ các Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Thế nào là vi phạm Điều kiện kết hôn đã được hướng dẫn tại Điểm d Mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000").
Như vậy, trong trường hợp họ không có đủ các Điều kiện a và b trên đây thì quan hệ của họ không được coi như quan hệ vợ chồng, nếu họ có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng mà không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật, bởi vì họ không có đăng ký kết hôn. Trong trường hợp này nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng Khoản 2 và Khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Trong trường hợp có đương sự đề nghị trưng cầu giám định, nhưng họ lại không nộp tiền tạm ứng chi phí về giám định thì Toà án giải quyết như thế nào?
Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho đương sự có đề nghị trưng cầu giám định biết quy định tại Điều 33 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; cụ thể là: "Đương sự đã đề nghị trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí về giám định; nếu vì họ không nộp mà việc giám định không được tiến hành thì Toà án có thể căn cứ vào kết quả Điều tra đã đạt được để giải quyết vụ án hoặc tự mình trưng cầu giám định". Nếu Toà án đã giải thích mà đương sự không nộp tiền tạm ứng chi phí về giám định và vì thế việc giám định không thể tiến hành được, thì Toà án có thể tự mình trưng cầu giám định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong tố tụng dân sự trách nhiệm chứng minh là của đương sự cho nên thông thường Toà án không tự mình trưng cầu giám định, song Toà án cần tiến hành mọi biện pháp có thể để Điều tra, thu thập chứng cứ và căn cứ vào kết quả Điều tra, thu thập chứng cứ đã đạt được để giải quyết vụ án.
2. Tại Điểm 5 Phần II Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự" có hướng dẫn: "Trước khi xét xử phúc thẩm Toà án cũng tiến hành hoà giải...". Thực tiễn xét xử cho thấy trước khi xét xử phúc thẩm các Toà án cấp phúc thẩm thường không tiến hành hoà giải. Vậy có vi phạm thủ tục tố tụng không?
Trước đây Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn: "trước khi xét xử phúc thẩm Toà án cũng tiến hành hoà giải...". Hướng dẫn này không cụ thể là có bắt buộc hay không? Nay Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về vấn đề này như sau:
Theo quy định tại Điều 65 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì trước khi xét xử phúc thẩm Toà án "có quyền" hoà giải. Như vậy theo tinh thần của quy định này thì trước khi xét xử phúc thẩm không bắt buộc Toà án cấp phúc thẩm phải tiến hành hoà giải. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để giúp các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải"; do đó, sau khi thụ lý vụ án để tiến hành giải quyết theo trình tự phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm nên tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án (trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải). Trong trường hợp trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì lập biên bản hoà giải thành. Trong trường hợp tại phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì không cần phải lập biên bản hoà giải thành, nhưng phải ghi đầy đủ vào biên bản phiên toà. Tuy nhiên, cần chú ý là dù trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải mở phiên toà. Trên cơ sở sự thoả thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án, Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điểm 2 Điều 69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
3. Về giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia, nếu có yêu cầu thì Toà án có thụ lý giải quyết hay không?
Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội "Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991", thì Nghị quyết này áp dụng đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước
ngày 1-7-1991 bao gồm: thuê nhà ở; cho mượn; cho ở nhờ nhà ở; mua bán nhà ở; đổi nhà ở; tặng cho nhà ở; thừa kế nhà ở; quản lý nhà vắng chủ giữa cá nhân với cá nhân mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia. Tại Khoản 2 Mục II Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội" cũng đã hướng dẫn đối với các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch dân sự về nhà ở quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 nói trên mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia, thì Toà án chưa thụ lý giải quyết; nếu đã thụ lý và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết; nếu đã có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết, thì tiếp tục tạm đình chỉ việc giải quyết.
Đây là vấn đề rất bức xúc, đang được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và sẽ có Nghị quyết riêng để giải quyết đối với loại giao dịch dân sự này.
4. Người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, học tập... và kết hôn với người Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Sau một thời gian chung sống, thì người nước ngoài về nước và không còn có liên lạc gì với người vợ (hoặc người chồng) ở Việt Nam với thời gian trên 6 tháng. Người vợ (hoặc người chồng) ở Việt Nam có đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn với người nước ngoài đó, thì Toà án có thụ lý để giải quyết không?
Trong Báo cáo Công tác ngành Toà án năm 2000 (tr. 34) có đề xuất theo hướng nếu có yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn với người nước ngoài thì Toà án thụ lý và giải quyết cho ly hôn. Đề xuất này là đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì Toà án phải thụ lý để giải quyết, nhưng cần phân biệt như sau:
a. Nếu thông qua con đường ngoại giao, qua việc uỷ thác tư pháp hoặc bằng các biện pháp khác mà đã liên hệ được với bị đơn là người nước ngoài, thì Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử không phụ thuộc vào thái độ của bị đơn có đồng ý, không đồng ý hoặc cố tình trốn tránh (cần chú ý là phải có văn bản chứng minh việc đã liên hệ được với bị đơn, như: biên bản làm việc với bị đơn, lời khai của bị đơn, văn bản của cơ quan thực hiện việc uỷ thác cho biết đã liên hệ được với bị đơn ).
b. Nếu thông qua con đường ngoại giao, qua việc uỷ thác tư pháp hoặc bằng các biện pháp khác mà chưa liên hệ được với bị đơn là người nước ngoài, thì Toà án phải áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, chờ quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.
5. Công dân Việt Nam đi học tập, lao động, công tác ở nước ngoài sau khi hết thời hạn thì bỏ đi đâu không rõ và đã quá thời hạn hai năm. Người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết tuyên bố mất tích thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp nào?
Khi công dân Việt Nam đi học tập, lao động, công tác ở nước ngoài sau khi hết thời hạn thì bỏ đi đâu không rõ và không có tin tức thì không thể coi đây là trường hợp có nhân tố nước ngoài; do đó, nếu người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết tuyên bố mất tích, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thụ lý giải quyết.
6. Đối với trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo, nhưng xét thấy phần án phí trong bản án sơ thẩm có sai sót nên có sửa một phần của bản án sơ thẩm về phần án phí. Vậy trường hợp này đương sự có phải chịu tiền án phí phúc thẩm không?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trong phần quyết định của bản án Toà án cần quyết định về việc giải quyết vụ án, về án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, trả tiền công lao động, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành vi nhất định thì Hội đồng xét xử có thể quyết định cho thi hành ngay. Mặt khác theo Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ "quy định về án phí, lệ phí Toà án" thì : "Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm nếu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm, huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm". Do đó, đối với trường hợp Toà án cấp phúc thẩm tuy chỉ sửa một phần quyết định của bản án về phần án phí, thì cũng là đã sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm; vì vậy, trong trường hợp này đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
7. Nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng thường chưa xuất trình được ngay biên lai nộp tiền cho Toà án được mà phải sau một thời gian; vậy trong trường hợp này khi Toà án nhận được biên lai thì Toà án lấy ngày thụ lý vụ án là ngày nào, ngày nhận được biên lai hay ngày đương sự nộp tiền (ghi trong biên lai)? Nếu lấy ngày đương sự nộp tiền (ghi trong biên lai), thì trong thời gian từ ngày đương sự nộp tiền đến ngày Toà án nhận được biên lai, Toà án đã thụ lý nhiều vụ án khác.
Cần chú ý là Khoản 1 và Khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự chỉ quy định thời hạn phải nộp tiền tạm ứng án phí, mà không quy định cụ thể thời hạn phải xuất trình cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Thực tiễn cho thấy là ngày đương sự xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án thường sau ngày đương sự nộp tiền tạm ứng án phí cho cơ quan thi hành án. Khoản 2 Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Toà án thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu đương sự được miễn án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án nhận đơn khởi kiện. Nếu đương sự được miễn nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án cho miễn nộp tiền tạm ứng án phí". Mặc dù Khoản 2 Điều 37 này không quy định cụ thể như Điều 33 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Khoản 2 Điều 35 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nhưng không nên hiểu máy móc "ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí" là ngày họ trực tiếp nộp tiền tạm ứng án phí cho cơ quan thi hành án (ghi trong biên lai). Về nguyên tắc, Toà án chỉ chấp nhận đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí khi họ xuất trình cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí; do đó, trong trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí tại cơ quan thi hành án, nhưng chưa xuất trình được ngay biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án mà phải sau một thời gian mới xuất trình cho Toà án được, thì ngày thụ lý vụ án là ngày đương sự xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
8. Theo Toà án thì khi có người đến nộp đơn xin ly hôn Toà án hướng dẫn cho họ đến cơ quan thi hành án để nộp dự phí ly hôn, nhưng ở một số địa phương khi đương sự đến nộp dự phí ly hôn thì cơ quan thi hành án thu ngay án phí ly hôn và nộp luôn vào công quỹ. Cơ quan thi hành án cho rằng thu ngay án phí ly hôn mới đúng Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Vì vậy, khi Toà án có quyết định trả 50% dự phí cho đương sự thì cơ quan thi hành án không trả lại cho đương sự. Cách hiểu như một số cơ quan thi hành án như vậy có đúng không? Nếu cơ quan thi hành án không trả lại cho đương sự tiền dự phí ly hôn thì phải giải quyết như thế nào?
Trước hết cần lưu ý với các Toà án các cấp là khái niệm "dự phí" được sử dụng trước khi Toà án nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 "Về chế độ án phí, lệ phí tại Toà án". Kể từ khi ban hành Thông tư này đến nay trong các văn bản quy phạm pháp luật không dùng khái niệm "dự phí" này nữa. Theo Thông tư số 40/TATC ngày 1-6-1976 của Toà án nhân
dân tối cao "về chế độ án phí, lệ phí và cấp phí thi hành tại Toà án nhân dân" thì dự phí sơ thẩm chính là tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, dự phí kháng cáo chính là tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (xem Tập hệ thống hoá luật lệ về tố tụng dân sự; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1976; trang 64, 65). Theo quy định tại Khoản 1 Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì khi nhận được đơn khởi kiện "nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nộp đơn, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí".
Đồng thời Khoản 2 và Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ "quy định về án phí, lệ phí Toà án" quy định:
"...
2. Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi vào tài Khoản tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước và được rút ra để thi hành án theo quy định của Toà án.
3. Trong trường hợp người nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí nêu tại Khoản 2 Điều này được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền đã nộp, thì cơ quan thi hành án đã thu tiền tạm ứng phải làm thủ tục trả lại tiền cho người đã nộp. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí phải chịu án phí thì ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành số tiền tạm ứng đã thu phải được chuyển nộp vào ngân sách Nhà nước".
Như vậy, khi nhận đơn xin ly hôn, xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình Toà án đã báo cho nguyên đơn đến cơ quan thi hành án để nộp tiền tạm ứng án phí ly hôn là đúng. Theo tinh thần quy định tại Điều 11 Nghị định số 70/CP nói trên và Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đương sự chỉ phải chịu án phí khi có quyết định của Toà án về việc giải quyết vụ án trong đó có quyết định về án phí. Việc một số cơ quan thi hành án cho rằng trong trường hợp xin ly hôn thì thu ngay án phí ly hôn mà không phải là tiền tạm ứng án phí ly hôn là hoàn toàn không đúng với quy định tại Nghị định số 70/CP nói trên của Chính phủ. Các Toà án cần thực hiện đúng quy định trong Nghị định số 70/CP của Chính phủ về án phí, lệ phí Toà án. Khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật trong đó có quyết định của Toà án trả lại 50% tiền tạm ứng án phí cho đương sự thì theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Nghị định số 70/CP của Chính phủ, cơ quan thi hành án có trách nhiệm phải thi hành. Nếu không thi hành là không đúng quy định của pháp luật và đương sự có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
9. Ông A làm đơn khởi kiện đến Toà án, nhưng do hoàn cảnh đặc biệt là vì già yếu không đi lại được, đường xá xa xôi, không có ai để uỷ quyền, nên không có mặt tại phiên toà được. Trong khi đó có cơ sở xác định quyền lợi của ông A bị xâm hại. Vậy Toà án nơi cư trú của nguyên đơn có được thụ lý để giải quyết vụ án hay không? Nếu Toà án có thẩm quyền thụ lý vụ án, nhưng nguyên đơn vì già yếu, ốm đau không thể có mặt tại Toà án, nên không thể tiến hành hoà giải được, thì Toà án có được xét xử vắng mặt nguyên đơn hay không?
a- Nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm 3, 4 và 5 Điều 14 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì Toà án nơi cư trú của nguyên đơn không được thụ lý vụ án để giải quyết, vì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đó.
b- Theo quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì hoà giải là thủ tục bắt buộc chỉ khi không hoà giải được hoặc hoà giải không thành thì mới đưa vụ án ra xét xử, trừ
những trường hợp không phải hoà giải quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh này. Đồng thời theo hướng dẫn tại Điểm 4 Mục II Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", thì những việc không hoà giải được là những việc "bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng (Khoản 4 Điều 44) hoặc những trường hợp không có Điều kiện tiến hành hoà giải như: có một bên đương sự đang ở nước ngoài, đang bị giam giữ hoặc do những trở ngại khách quan như bị tai nạn, ốm đau nên không thể có mặt được khi hoà giải". Mặt khác theo quy định tại Khoản 3 Điều 48 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì "việc xét xử vẫn được tiến hành nếu đương sự yêu cầu xét xử vắng mặt họ...". Như vậy, theo các quy định và hướng dẫn trên đây trong trường hợp nguyên đơn do sức khỏe già yếu, ốm đau, không có người để uỷ quyền cho họ tham gia tố tụng và có yêu cầu xét xử vắng mặt họ, thì Toà án không phải tiến hành hoà giải và tiến hành việc xét xử vụ án theo thủ tục chung mà không cần sự có mặt của nguyên đơn.
10. Tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 70/CP quy định "Trước khi mở phiên toà, Toà án hoà giải mà các đương sự tự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, thì đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định tại Điều 7 của Nghị định này".
Tại Khoản 3 Điều 11 quy định "... Trong trường hợp thuận tình ly hôn, thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí dân sự sơ thẩm"
Vậy trong trường hợp thuận tình ly hôn thì theo Nghị định số 70/CP nói trên mỗi bên đương sự phải chịu 25.000đ hay 12.500đ?
Cần chú ý là trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn không thuộc trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án (hòa giải thành) để được tính án phí theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ "quy định về án phí, lệ phí Toà án". Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn (thuận tình ly hôn), Toà án tiến hành hoà giải để hai bên đương sự trở về đoàn tụ với nhau, nhưng họ vẫn kiên quyết xin ly hôn thì đây là hoà giải đoàn tụ không thành. Nếu như đối với các trường hợp tranh chấp khác thì trong trường hợp này Toà án phải lập biên bản hoà giải không thành và đưa vụ án ra xét xử, nhưng đối với trường hợp họ vẫn kiên quyết xin ly hôn, thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành và sau đó lập biên bản về sự thoả thuận của các đương sự về thuận tình ly hôn... Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày lập các biên bản này mà các đương sự không có thay đổi ý kiến thì Toà án áp dụng Khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ra quyết định công nhận cho thuận tình ly hôn. Chính vì vậy, Khoản 3 Điều 11 Nghị định số 70/CP nói trên quy định trong trường hợp thuận tình ly hôn, thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí dân sự sơ thẩm, có nghĩa là phải chịu một nửa của 50.000 đồng (tức là 25.000 đồng).
11. Trong vụ án ly hôn hai bên thoả thuận chia tài sản chung thì Toà án có cần phải định giá tài sản hay không và họ có phải chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch hay không?
Có cần phải định giá tài sản hay không và họ có phải chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch hay không thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể như sau:
a. Nếu các đương sự đã tự thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung và sự thoả thuận đó bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con theo quy định tại Điều 90, Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì Toà án không cần phải định giá tài sản và họ không phải chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch.
b. Nếu các đương sự khi có yêu cầu ly hôn chưa thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản và cũng chưa thoả thuận được về giá trị tài sản có yêu cầu Toà án giải quyết hoặc có thoả thuận với mức thấp nhằm Mục đích trốn thuế, giảm tiền nộp án phí thì theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án phải yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp trước khi hoà giải. Nếu Toà án tiến hành hoà giải theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Toà án tiến hành hoà giải trước khi mở phiên toà) mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung, thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 7, Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án, các đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định tại Khoản 2 Điều 7 của Nghị định này, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí. Nếu tại phiên toà Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự mới thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung thì họ phải chịu án phí như trường hợp Toà án phải tiến hành xét xử.
12. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "... Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo; Nếu trong thời hạn đó mà không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì coi như không kháng cáo..., trừ trường hợp có lý do chính đáng". Thực tiễn cho thấy trong phần quyết định của các bản án dân sự sơ thẩm chỉ ghi quyền kháng cáo mà không ghi "nếu có kháng cáo thì phải nộp 50.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo". Như vậy trong các bản án dân sự sơ thẩm không ghi vấn đề này có phải là thiếu sót hay không? Đề nghị hướng dẫn có cần phải ghi thêm việc phải nộp 50.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong phần quyết định của bản án dân sự sơ thẩm hay không?
Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định:
"Trong bản án Hội đồng xét xử trình bày đầy đủ nội dung vụ án, những tình Tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ pháp luật mà Toà án dựa vào để giải quyết các vấn đề trong vụ án, quyết định của Toà án về giải quyết vụ án, về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự... Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, trả tiền công lao động, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành vi nhất định thì Hội đồng xét xử có thể quyết định cho thi hành ngay". Như vậy, theo Khoản 2 Điều 53 này thì Tòa án chỉ phải ghi trong phần quyết định của bản án dân sự sơ thẩm quyền kháng cáo (ai có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo và đối tượng kháng cáo) mà không phải ghi hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nếu có kháng cáo; do đó, trong các bản án dân sự sơ thẩm không ghi hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng với quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự mà không phải là thiếu sót.
Để bảo đảm cho các đương sự thực hiện được quyền kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật tại Phần VII Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự" đã hướng dẫn:
"Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, cho nên ngay sau khi nhận đơn khởi kiện của đương sự, Toà án phải giải thích cho họ biết về chế độ án phí, về việc họ phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án mới thụ lý vụ án để giải quyết; giải thích ngay cho tất cả các đương sự biết cả việc nếu họ kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm và hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn đó" (Mục 2) và "Người kháng cáo không nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo (trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm), mặc dù đã được Toà án giải thích, nhắc nhở, thì coi như không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải gửi hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc giải thích, nhắc nhở đó." (Mục 3).
13. Một người có hành vi phạm tội đã bị khởi tố bị can, nhưng bỏ trốn. Cơ quan Điều tra đã ra quyết định truy nã, nhưng đã hơn hai năm vẫn không có kết quả. Người có quyền, lợi ích liên quan như Ngân hàng là chủ nợ có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố người bị truy nã đó mất tích để xử lý Khoản nợ theo quy định của pháp luật hoặc người vợ (hay người chồng) có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố người bị truy nã đó mất tích đồng thời xin ly hôn với người đó thì Toà án có thụ lý vụ án hay không? Nếu thụ lý vụ án thì hướng giải quyết vụ án đó như thế nào?
Theo quy định tại Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trường hợp này không thuộc một trong những trường hợp Toà án trả lại đơn khởi kiện; do đó, Toà án phải thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh này. Việc giải quyết vụ án về tuyên bố một người mất tích trong trường hợp này cũng được thực hiện theo thủ tục chung có nghĩa là phải theo đúng các quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ luật dân sự, các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và hướng dẫn tại Mục III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự". Trong trường hợp người vợ (hoặc người chồng) của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn, thì căn cứ vào Khoản 2 Điều 88 Bộ luật dân sự và Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Toà án giải quyết cho ly hôn. Đối với chia tài sản chung của vợ chồng, việc nuôi dưỡng giáo dục con và việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích, thì Toà án áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 89 Bộ luật dân sự để giải quyết.
14. Cả hai vợ chồng đều có đơn xin ly hôn, Tòa án đã thụ lý và tiến hành hoà giải để hai bên trở về đoàn tụ với nhau, nhưng không thành. Cả hai bên đều xin được ly hôn và thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung, việc trông nom nuôi dưỡng giáo dục con. Toà án đã lập biên bản về việc cả hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và về việc các đương sự thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung, việc trông nom, nuôi dưỡng giáo dục con. Trong thời hạn 15 ngày, một trong hai bên đương sự thay đổi ý kiến về việc chia tài sản chung và yêu cầu Toà án giải quyết. Vậy trong trường hợp này Toà án phải giải quyết như thế nào? Toà án có được tách phần tự nguyện xin ly hôn và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về mặt tình cảm (ly hôn) hay không? Toà án có được tiếp tục tiến hành hoà giải về việc chia tài sản chung hay không?
Theo hướng dẫn tại Điểm 2 Mục II Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự" thì "hoà giải cũng là một thủ tục bắt buộc khi cả hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn; do đó, nếu Toà án đã hoà giải để hai bên đương sự trở về đoàn tụ với nhau, nhưng họ vẫn kiên quyết xin ly hôn, thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản về sự thoả thuận của các đương sự về thuận tình ly hôn, phân chia tài sản và nuôi con...Việc ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử trong các trường hợp này cũng được thực hiện theo hướng dẫn trên" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1992; tr.292). Theo hướng dẫn tại đoạn 1 Điểm 2 này cũng như quy định tại Khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì "trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến...thì Toà án đưa vụ án ra xét xử". Mặt khác theo tinh thần quy định tại
Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì khi thuận tình ly hôn các bên phải có thoả thuận việc chia tài sản chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con, Toà án mới công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy, trong trường hợp trên đây mặc dù chỉ có một đương sự thay đổi ý kiến về việc chia tài sản chung thì Toà án cũng không được tách phần thuận tình ly hôn để ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tất cả các vấn đề đều được giải quyết trong bản án của Tòa án.
15. Anh A xin ly hôn chị B, Toà án thụ lý vụ án và tiến hành hoà giải. Tại phiên hoà giải anh A nhất trí về đoàn tụ với chị B. Trong trường hợp này, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ngay sau khi các đương sự thoả thuận được với nhau hay sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản về việc các đương sự thoả thuận được với nhau.
Toà án ra quyết định gì và vào thời Điểm nào là hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung của việc "anh A nhất trí với chị B"; cụ thể là:
a- Nếu tại phiên hoà giải mà anh A nhất trí về đoàn tụ với chị B và rút đơn xin ly hôn, thì Toà án lập biên bản về việc anh A rút đơn xin ly hôn và áp dụng Điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
b- Nếu tại phiên hoà giải mà anh A nhất trí về đoàn tụ với chị B nhưng không rút đơn xin ly hôn mà thoả thuận cùng chị B về đoàn tụ với nhau trên cơ sở hoà giải của Toà án, thì theo quy định tại Khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Toà án lập biên bản hoà giải thành. Trong trường hợp này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, đương sự không thay đổi ý kiến, thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật.
16. Về nội dung hoà giải và thành phần tham gia hoà giải trong vụ án về ly hôn (vợ hoặc chồng có đơn xin ly hôn hoặc cả hai vợ chồng xin ly hôn), còn có ý kiến khác nhau.
Theo một số Toà án hiểu thì Mục đích của việc hoà giải là để hai bên đương sự về đoàn tụ với nhau; do đó, nội dung hòa giải là phân tích, khuyên nhủ để vợ chồng về đoàn tụ với nhau và thành phần mà Toà án triệu tập để hoà giải là nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện (vợ và chồng). Một số Viện kiểm sát nhân dân cho rằng nội dung và thành phần tham gia hoà giải như trên là chưa đầy đủ. Theo ý kiến của Viện kiểm sát thì việc hoà giải mà Toà án phải tiến hành bao gồm cả 3 nội dung: hoà giải về hôn nhân, nuôi con và phân chia tài sản; thành phần tham gia hoà giải ngoài nguyên đơn, bị đơn (vợ chồng) còn phải có mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ).
Đề nghị Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: Việc hòa giải trong vụ kiện ly hôn bao gồm những vấn đề gì và nội dung nào? Thành phần tham gia hoà giải gồm những ai?
Việc xác định những vấn đề gì cần phải tiến hành hoà giải, nội dung hoà giải như thế nào và ai phải có mặt khi hoà giải trong các vụ án ly hôn phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
a. Về những vấn đề gì cần phải tiến hành hoà giải
Theo tinh thần quy định tại Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trong quá trình giải quyết vụ án Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết tất cả những vấn đề mà một hoặc các bên đương sự có yêu cầu Toà án giải quyết, trừ các việc Toà án không được tiến hành hoà giải quy định tại các Điểm 1, 2, 3 và 4 Điều 43 này. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án quyết định tiến hành hoà giải việc gì trước và hoà giải việc gì sau.
Ví dụ 1: Vợ hoặc chồng có đơn xin ly hôn hoặc cả hai vợ chồng đều có đơn xin ly hôn và yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản, cũng như việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con, thì trước hết Toà án tiến hành hoà giải để hai bên trở về đoàn tụ với nhau; nếu hai bên đồng ý trở về đoàn tụ với nhau, thì Toà án không phải tiến hành hoà giải các vấn đề khác còn lại; nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên kiên quyết xin ly hôn, thì Toà án tiến hành hoà giải các vấn đề khác còn lại với nội dung trong trường hợp Toà án xử cho ly hôn hay công nhận cho thuận tình ly hôn thì các đương sự thoả thuận việc chia tài sản như thế nào, việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con như thế nào?
Ví dụ 2: Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật có yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc chia tài sản chung của họ và việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con, thì Toà án không được tiến hành hoà giải yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, nhưng Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải với nội dung trong trường hợp Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì các đương sự thoả thuận việc chia tài sản như thế nào và việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con như thế nào?
b. Về nội dung hoà giải
Việc hoà giải các vấn đề khác nhau có nội dung khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát nội dung của hoà giải là bằng sự có mặt của người Thẩm phán, các bên đương sự trình bày những lý do mà họ phải yêu cầu Toà án giải quyết. Trên cơ sở đó Thẩm phán hỏi ý kiến của các bên; phân tích các quy định của pháp luật; những mặt được của việc các bên thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vấn đề đó; hậu quả pháp lý của việc Toà án phải quyết định...Có thể nói nội dung hoà giải và kết quả của việc hoà giải phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của người Thẩm phán.
c. Về thành phần tham gia hoà giải
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hoà giải". Tuy nhiên, trong khi hoà giải về ly hôn mà có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ của vợ chồng) thì cần phân biệt như sau:
- Nếu giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ) với vợ chồng đã tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết quyền, nghĩa vụ của các bên, thì không cần phải tiến hành hoà giải giữa vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ).
- Nếu giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ) với vợ chồng không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết quyền, nghĩa vụ của các bên thì cần phân biệt là trong vụ án này có hai nhóm quan hệ: nhóm quan hệ giữa vợ, chồng và nhóm quan hệ giữa vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ). Mặt khác, nhóm quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ nhân thân; do đó, không tiến hành hoà giải hai nhóm quan hệ này trong cùng một phiên hoà giải. Nếu thuộc trường hợp có Điều kiện tiến hành hoà giải thì cần tiến hành hoà giải việc giải quyết quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ) trong một phiên hoà giải khác.
V. VỀ HÀNH CHÍNH.
1. Trong trường hợp có nhiều người khiếu kiện đến Toà án đối với một quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở... (Khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính), thì có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án hay không, nếu tất cả những người này không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung), thì trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết hoặc trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý, thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khiếu kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Theo Điểm a Khoản 1 Điều 13 này chỉ trong trường hợp có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo (cùng đối với một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính), thì việc giải quyết mới thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo; do đó, trong trường hợp có nhiều người khiếu kiện đến Toà án đối với một quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở... mà không có ai khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc trong trường hợp có nhiều người đều khiếu kiện đến Toà án đối với một quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở...đồng thời đều khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết khiếu kiện đó thuộc thẩm quyền của Toà án.
2. Đề nghị giải đáp cụm từ: "... vì những trở ngại khách quan khác" mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì những trường hợp được coi là trở ngại khách quan là những trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa. Ngoài ra trong thực tế còn có những trở ngại khác; ví dụ: do nhu cầu chiến đấu và phục vụ chiến đấu nơi xa; do yêu cầu của công tác đặc biệt không được liên lạc với bên ngoài; do bị một tổ chức tội phạm bắt cóc... cũng được coi là trở ngại khách quan mà trong Điều luật không thể liệt kê cụ thể hết được cho nên mới dùng cụm từ "trở ngại khách quan khác". Tham khảo Từ điển Tiếng Việt thì "khách quan" là cái tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người... và "trở ngại" là cái gây khó khăn, cái làm cản trở. Như vậy, có thể hiểu "trở ngại khách quan" là những khó khăn, cản trở tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người. Ngoài những trở ngại khách quan được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, thì bất cứ một trở ngại nào đáp ứng các Điều kiện này đều có thể được Toà án chấp nhận là "trở ngại khách quan khác" và thời gian có trở ngại khách quan đó không tính vào thời hiệu khởi kiện.
3. Người ra quyết định hành chính bị khiếu kiện đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc do chia tách huyện, tách tỉnh không còn ở huyện, tỉnh cũ hoặc về hưu, thì xác định tư cách "người bị kiện" như thế nào? Toà án nơi xảy ra khiếu kiện hay Toà án nơi người đã ra quyết định cư trú (hay công tác) có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện này?
Cần chú ý là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước quy định tại Điều 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết định hành chính hoặc một hành vi hành chính do một người cụ thể (Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B...) ký hoặc thực hiện, nhưng việc người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đó phải dưới danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền (ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công an phường...); do đó, chỉ có thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân... của Trưởng Công an phường... mà không thể gọi quyết định hành chính
đó, hành vi hành chính đó của một người cụ thể (Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B...). Vì vậy, trong trường hợp người ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc về hưu... mà quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó bị khiếu kiện, thì người được bầu, được cử, được bổ nhiệm... thay chức vụ, chức danh của người đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa họ chính là người bị kiện.
Trên cơ sở xác định người bị kiện như trên, căn cứ vào quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định Toà án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đó.
VI. VỀ LAO ĐỘNG.
Trong một doanh nghiệp Nhà nước có việc lập quỹ trái phép. Người lao động được giao nhiệm vụ quản lý quỹ trái phép đã chiếm đoạt tiền trong quỹ trái phép đó, nên đã bị doanh nghiệp ra quyết định xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải. Vậy quyết định xử lý kỷ luật của doanh nghiệp là đúng hay sai?
Mặc dù là quỹ trái phép nhưng vẫn là tài sản của Nhà nước; do đó, hành vi chiếm đoạt tiền trong quỹ trái phép của người được giao trách nhiệm quản lý là hành vi tham ô. Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 85 Bộ luật lao động, thì doanh nghiệp có quyền xử lý kỷ luật người lao động bằng hình thức sa thải.
Trên đây là những giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn công tác của Toà án. Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì chưa cụ thể hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung hoặc sửa đổi.
Trịnh Hồng Dương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 96/2002/KHXX Hà Nội, ngày 08 tháng 7 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 96/2002/KHXX NGÀY 8 THÁNG 7 NĂM 2002 VỀ VIỆC HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai
Sau khi nghiên cứu Công văn số 124/CVTA ngày 22-5-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Bộ luật hình sự, thì phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong các trường hợp có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; do đó, đối với trường hợp người bị kết án phạt tù là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và có đề nghị được hoãn chấp hành hình phạt tù, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Nói chung, Toà án nên chấp nhận cho người bị kết án phạt tù là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con họ đủ 36 tháng tuổi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Nếu xét thấy cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù thì họ lại tiếp tục phạm tội;
b) Họ không có nơi cư trú nhất định;
c) Họ bị xử phạt tù từ 10 năm trở lên về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với trường hợp Dương Thị Dung, nếu có căn cứ để xác định Dương Thị Dung đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và không thuộc một trong các trường hợp nêu tại các Điểm a, b và c trên đây, thì quý Toà chấp nhận cho Dương Thị Dung được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 128/2002/KHXX Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 128/2002/KHXX NGÀY 27 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC TÍNH THỜI HẠN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Sau khi nghiên cứu Công văn số 10/CV-TA ngày 10-4-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Đắc Lắc, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tại Công văn số 166/2001/KHXX ngày 14- 12-2001 của Toà án nhân dân tối cao về việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị có đoạn viết: "...Để bảo đảm thống nhất việc tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị, từ nay trở đi việc xác định thời Điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thời Điểm kết thúc thời hạn đó được thực hiện theo quy định tại Điều 161 và Điều 162 Bộ luật dân sự...".
Theo nội dung hướng dẫn nói trên thì cần hiểu thời Điểm "từ nay trở đi" là từ ngày ban hành Công văn số 166/2001/KHXX (ngày 14-12-2001) trở đi , các Toà án nhân dân áp dụng hướng dẫn trong Công văn này để xác định thời Điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thời Điểm kết thúc thời hạn đó. Đối với các trường hợp trước đây do chưa được hướng dẫn cụ thể nên việc xác định thời Điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị và thời Điểm kết thúc thời hạn đó khác với nội dung hướng dẫn của Công văn nói trên như các ví dụ mà quý Toà nêu trong Công văn số 10/CV-TA thì không áp dụng hướng dẫn tại Công văn này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, trừ trường hợp bản án, quyết định của Toà án bị kháng nghị theo các căn cứ khác.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo, vận dụng và giải quyết tốt các vấn đề nghiệp vụ.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 129/2002/KHXX Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 129/2002/KHXX NGÀY 27 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC TRAO ĐỔI VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Kính gửi: Toà án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi
Sau khi nghiên cứu Công văn số 140/CV.TA năm 2002 của Toà án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Ngoài một số nguồn nguy hiểm cao độ đã liệt kê, Khoản 1 Điều 627 Bộ luật dân sự còn quy định "... các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định", quy định này được hiểu là khi pháp luật có quy định về các nguồn nguy hiểm cao độ khác ngoài các nguồn đã được liệt kê tại Khoản 1 Điều 627 thì mới được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, ngoài các quy định tại Khoản 1 Điều 627 nêu trên, cho đến nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định thêm về vấn đề này. Đối với các loại thuốc tân dược xét về bản chất, thành phần và công dụng, thuốc tân dược được dùng để điều trị bệnh nên không được coi là nguồn nguy hiểm cao độ theo tinh thần của Điều 627 Bộ luật dân sự.
2. Về trường hợp của bà Trần Thị Diên Hồng. Theo nội dung Công văn của quý Toà thì sau khi có kết luận của Tổ chức giám định pháp y trung ương, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định đình chỉ vụ án hình sự đối với y sĩ Trần Thị Diên Hồng. Nay gia đình nạn nhân khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại; do đó, khi thụ lý để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về dân sự của gia đình nạn nhân Mai Thị Kim Anh, Toà án cần lưu ý như sau:
Theo tinh thần quy định tại Điều 53 Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày 30-6-1989, thì thầy thuốc vi phạm các quy định về khám bệnh, chữa bệnh... nếu gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản của người khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Cũng theo quy định tại Điều 609 Bộ luật dân sự thì người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng của người khác thì phải bồi thường. Như vậy, Toà án cần xác định và có kết luận y sĩ Trần Thị Diên Hồng có vi phạm các quy định về khám, chữa bệnh hay không, có được phép và có đủ năng lực để tiến hành nạo thai cho phụ nữ hay không, tai nạn xảy ra là tai nạn điều trị do sự kiện bất khả kháng hay do lỗi nghề nghiệp? Nếu có căn cứ xác định bà Trần Thị Diên Hồng không vi phạm, không có lỗi thì bà Trần Thị Diên Hồng không phải bồi thường. Nếu xác định được bà Trần Thị Diên Hồng có vi phạm, có lỗi thì bà Trần Thị Diên Hồng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra. Tuy nhiên, do bà Trần Thị Diên Hồng là công chức nhà nước cho nên cần làm rõ việc bà Hồng gây thiệt hại có phải trong khi thi hành công vụ hay không? Nếu bà Hồng gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ thì theo quy định tại điều 623 Bộ luật dân sự, cơ quan nhà nước (trong trường hợp này là Trung tâm y tế huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi) phải bồi thường thiệt hại do công chức của mình gây ra. Việc bồi thường thiệt hại được giải quyết theo quy định tại Chương V Phần thứ ba Bộ luật dân sự và Nghị định số 47/CP ngày 3-5-1997 của Chính phủ "về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra". Nếu Trung tâm y tế huyện Tư Nghĩa, tỉnh
Quảng Ngãi phải bồi thường cho người bị thiệt hại thì sau khi thực hiện việc bồi thường thiệt hại xong phải có trách nhiệm yêu cầu bà Trần Thị Diên Hồng hoàn trả khoản tiền mà Trung tâm đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Trên đây là ý kiến trao đổi của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà nghiên cứu áp dụng, giải quyết tốt các vấn đề nghiệp vụ.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 130/2002/KHXX Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 130/2002/KHXX NGÀY 29 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
Sau khi nghiên cứu Công văn số 02/KT-TA ngày 24-4-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Khoản 1 Điều 24 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì: "Khi cần thiết Toà án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự trưng cầu giám định".
Việc trưng cầu giám định và tiến hành giám định tư pháp phải theo đúng các quy định tại Nghị định số 117/HĐBT ngày 21-7-1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về giám định tư pháp và hướng dẫn của Thông tư số 78/TT-QĐ ngày 26-1-1989 của Bộ Tư pháp. Ở nước ta, tổ chức giám định tư pháp được thành lập ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Tổ chức giám định tư pháp ở trung ương thực hiện giám định các vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương ra quyết định trưng cầu giám định và giám định các vụ việc phức tạp do cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương trưng cầu. Tổ chức giám định tư pháp ở cấp tỉnh thực hiện giám định các vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương và trung ương trưng cầu.
Như vậy, theo các quy định trên đây thì khi cần thiết phải giám định tư pháp quý Toà có quyền yêu cầu tổ chức giám định tư pháp tại địa phương thực hiện giám định bằng việc ra quyết định trung cầu giám định.
Trong trường hợp ở địa phương không có tổ chức giám định tư pháp chuyên ngành về các vấn đề cần giám định theo yêu cầu của Toà án hoặc cơ quan giám định từ chối việc giám định và Toà án thấy rằng cần phải yêu cầu tổ chức giám định ở nơi khác, thì Toà án có quyền trưng cầu tổ chức giám định tư pháp ở trung ương để tổ chức này thực hiện giám định hoặc yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan nhà nước chuyên ngành cử người giám định.
Trong trường hợp các đương sự trong vụ án thoả thuận được với nhau về việc yêu cầu cơ quan, tổ chức có đầy đủ năng lực ở địa phương hoặc ở địa phương khác tiến hành giám định và tự chịu chi phí giám định, thì Toà án chấp nhận sự thoả thuận của họ.
2. Đối với trường hợp mà quý Toà nêu tại Công văn số 02/KT-TA ngày 24-4-2002, thì Toà án không ký hợp đồng kinh tế với Công ty kiểm định xây dựng Sài Gòn, Công ty kiểm toán thành phố Hồ Chí Minh mà vẫn thực hiện theo nội dung hướng dẫn như đã nêu tại Điểm 1 nói trên.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 131/2002/KHXX Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 131/2002/KHXX NGÀY 29 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VIỆC XIN THAY ĐỔI NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai
Sau khi nghiên cứu Công văn số 65/DS ngày 14-5-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại điểm 1 Điều 14 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trong trường hợp bị đơn không có nơi cư trú ở Việt Nam, thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú cuối cùng của bị đơn ở Việt Nam giải quyết. Theo nội dung Công văn của quý Toà, thì chị Nguyễn Thị Hồng Diễm trước khi xuất cảnh sang Pháp định cư đã cư trú ở Bình Định; do đó, trong trường hợp này Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án xin thay đổi việc nuôi con sau khi ly hôn giữa anh Hạnh và chị Diễm là Toà án nhân dân tỉnh Bình Định nơi cư trú cuối cùng của chị Diễm ở Việt Nam.
Bởi vậy, nếu quý Toà chưa thụ lý vụ án về việc anh Võ Duy Hạnh yêu cáu thay đổi việc nuôi con sau khi ly hôn thì quý Toà cần giải thích, hướng dẫn cho anh Hạnh nộp đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con tại Toà án nhân dân tỉnh Bình Định; nếu quý Toà đã thụ lý vụ án, thì căn cứ vào quy định tại Điều 15 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quý Toà cần chuyển vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Định để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền và thông báo cho anh Hạnh biết.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong việc giải quyết vụ án ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 132/2002/KHXX Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 132/2002/KHXX NGÀY 29 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC THỂ LỆ HỢP THỨC HOÁ GIẤY TỜ, TÀI LIỆU
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
Sau khi nghiên cứu Công văn số 53/DS ngày 28-02-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn (do Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chuyển đến), Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã có hiệu lực kể từ ngày 25-12-1999; do đó, việc tương trợ tư pháp giữa hai Bên ký kết Hiệp định về các vấn đề dân sự và hình sự phải tuân theo các quy định của Hiệp định nói trên (các Điều 1, 4, 7, 8 và 12).
Theo tinh thần quy định tại Điều 4 Hiệp định thì khi yêu cầu và thực hiện tương trợ tư pháp hai Bên ký kết sẽ liên hệ với nhau qua các cơ quan trung ương của mình, trừ trường hợp Hiệp định này có quy định khác. Cơ quan trung ương của phía Việt Nam là Bộ Tư pháp (đối với các vấn đề về dân sự) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (đối với các vấn đề về hình sự). Cơ quan trung ương của phía Trung Quốc là Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc.
Như vậy, khi cần thực hiện tương trợ tư pháp đối với các vấn đề về dân sự thì theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền Trung Quốc sẽ thực hiện việc tương trợ tư pháp, tiến hành thu thập chứng cứ, sẽ thông báo bằng văn bản cho Bộ Tư pháp Việt Nam kết quả thực hiện yêu cầu Điều tra, thu thập chứng cứ, kèm theo các tài liệu thu thập được có tính chất chứng cứ. Những tài liệu, chứng cứ được thu thập tuân thủ theo trình tự này đều có giá trị sử dụng trong việc giải quyết vụ án.
Như vậy, khi giải quyết các vụ án dân sự, hình sự có liên quan đến công dân, pháp nhân Trung Quốc mà Toà án Việt Nam cần tiến hành Điều tra, thu thập chứng cứ thì phải thông qua thể thức tương trợ tư pháp nói trên theo quy định của Hiệp định.
Đối với những tài liệu của người làm chứng do người này hoặc đương sự nộp cho Toà án Việt Nam không được thu thập tuân thủ theo trình tự do Hiệp định quy định mặc đù có chứng nhận của cơ quan Công chứng hoặc chứng thực của cơ quan có thẩm quyền khác của Trung Quốc để có giá trị sử dụng trong việc giải quyết vụ án tại Toà án Việt Nam, thì phải qua thủ tục hợp pháp hoá lãnh sự theo hướng dẫn tại Điểm 3 Mục I Thông tư số 01/1999/HT-NG ngày 3-6- 1999 của Bộ Ngoại giao về thể lệ hợp pháp hoá giấy tờ, tài liệu: "Giấy tờ, tài liệu của nước ngoài trước khi sử dụng tại Việt Nam phải được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác".
2. Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi với Bộ Tư pháp và được Bộ Tư pháp cho biết hiện nay Nhà nước ta chưa có văn bản nào hướng dẫn thực hiện Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong trường hợp mà quý Toà có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc thực hiện tương trợ tư pháp thì cần liên hệ với Bộ Tư pháp theo địa chỉ: Vụ Pháp
luật quốc tế và hợp tác quốc tế Bộ Tư pháp (số 60 Trần Phú - Hà Nội) để được hướng dẫn chi Tiết.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 134/2002/KHXX Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 134/2002/KHXX NGÀY 29 THÁNG 8 NĂM 2002 VỀ VIỆC THAY ĐỔI VIỆC NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum
Sau khi nghiên cứu Công văn số 67/CV-TA ngày 04-4-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Căn cứ vào quy định tại Điều 93 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì trong trường hợp cụ thể mà quý Toà nêu tại Công văn số 67/CV-TA ngày 04-4-2002 nói trên, khi xem xét đơn yêu cầu của người chồng (người có đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con) về việc xin thay đối người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, quý Toà lưu ý đề nghị người chồng làm rõ các lý đo của việc xin thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuỳ vào kết quả cụ thể mà có đường lối xử lý như sau:
a. Nếu người chồng khiếu nại quyết định của bản án phúc thẩm và nêu lý do thay đổi người trực tiếp nuôi con là việc Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm giao con cho người mẹ trực tiếp nuôi là không đúng với các quy định của pháp luật, không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con, thì theo tinh thần quy định tại Điều 71 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, trường hợp này là một trong những căn cứ để xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm; do đó, trong trường hợp này Toà án cần hướng dẫn cho người chồng gửi đơn khiếu nại đến Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
b. Nếu người chồng không khiếu nại quyết định của bản án phúc thẩm mà có các chứng cứ mới chứng minh là sau khi có bản án phúc thẩm người vợ không có đủ Điều kiện để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con (như: sau khi có bản án phúc thẩm người vợ bị lâm bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn nghiêm trọng, xuất cảnh đi nước ngoài để con lại không có người nuôi dưỡng...) nên không thể tiếp tục việc trực tiếp nuôi con và người chồng mới có đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, thì Toà án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
2. Trong trường hợp thuộc Điểm b Mục 1 trên đây, thì đây là một vụ án hoàn toàn mới phát sinh sau khi có bản án phúc thẩm; do đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì Toà án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con 1à Toà án cấp huyện, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 2 của Điều này.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 148/2002/KHXX Hà Nội, ngày 30 tháng 9 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 148/2002/KHXX NGÀY 30 THÁNG 9 NĂM 2002 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 46, 47 BLHS
Kính gửi: Toà án nhân dân thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam
Sau khi nghiên cứu Công văn số 25/TA ngày 6-5-2002 của Toà án nhân dân thị xã Hội An, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Về việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự.
Theo tinh thần quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, thì Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt nhẹ hơn dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định từ Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Như vậy, việc Toà án nào hoặc Hội đồng xét xử nào quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định khi bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (cho dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự) là trái với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cần lưu ý là theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 và hướng dẫn tại Mục B phần II Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự", thì khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó chỉ cần có ít nhất một tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; do đó, đối với những hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2000 mà sau thời điểm này mới bị xét xử, căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội", thì Toà án vẫn có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định khi có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên mà trong đó chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 hoặc Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
2. Về trường hợp bị cáo có bà ngoại là người được Nhà nước tặng danh hiệu Người mẹ Việt Nam anh hùng hoặc có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen trong quá trình học tập và công tác (không phải là huân, huy chương) thì có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự hay không?
Một số tình tiết được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự đã được hướng dẫn cụ thể tại Điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4- 8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999". Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử có thể còn có những tình tiết khác cũng có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ; vì vậy, cuối Điểm c này có hướng
dẫn: "... khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án". Như vậy, tình tiết bị cáo có bà ngoại là người được Nhà nước tặng danh hiệu Người mẹ Việt Nam anh hùng hoặc có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen trong quá trình học tập và công tác là thuộc vào trường hợp này và để có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không phải xem xét từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Bị cáo là người cháu được bà ngoại là mẹ Việt Nam anh hùng nuôi dưỡng từ nhỏ, là người thân duy nhất còn lại hoặc trường hợp bị cáo có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen về những thành tích xuất sắc trong công tác... thì khi xét xử Toà án có thể coi đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 162/2002/KHXX Hà Nội, ngày 04 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 162/2002/KHXXNGÀY 4 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Khoản 1 phần III Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-6-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính "Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản", thì đối với các Khoản tiền phạt Toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong người thi hành án phải chịu Khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Như vậy, khi xét xử các vụ án hình sự mà Toà án quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo (kể cả áp dụng phạt tiền là hình phạt chính hoặc phạt tiền là hình phạt bổ sung), thì Toà án phải thực hiện đúng quy định tại Khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Khoản 1 phần III Thông tư liên tịch số 01/TTLT nêu trên.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà nghiên cứu, vận dụng khi xét xử các vụ án hình sự.
Mai Ngọc Trinh
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 169/2002/KHXX Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 169/2002/KHXX NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC ĐƯỜNG LỐI GIẢI QUYẾT CÁC KHIẾU KIỆN, CÁC TRANH CHẤP ĐÒI LẠI ĐẤT ĐÃ GIAO CHO NGƯỜI KHÁC SỬ DỤNG
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Để bảo đảm việc giải quyết của Toà án nhân dân được thống nhất, đúng pháp luật, ngày 04-9- 2001 Toà án nhân dân tối cao đã có Công văn số 108/2001/KHXX gửi Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ đề nghị cho biết đường lối xử lý của Nhà nước đối với các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng. Trên cơ sở đề nghị của các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), ngày 04-10-2002 Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 5538/VPCP-VII thông báo cho Toà án nhân dân tối cao về ý kiến của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề nghị của các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ; cụ thể 1à:
"1. Trường hợp áp dụng Khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai 1993: Trong thực tiễn có thể có trường hợp việc thực hiện chính sách đất đai là chưa đúng với quy định tại thời điểm đó (sai đối tượng, sai căn cứ...) như Công văn 108/2001/KHXX ngày 04-9-2001 của Toà án nhân dân tối cao nêu. Tuy nhiên, việc xem xét giải quyết các vấn đề có liên quan đến quan hệ đất đai phải xuất phát từ nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, như Hiến pháp 1992 và Luật Đất đai 1993 đã quy định. Cùng với các quy định này và trong thực tiễn thi hành quy định tại Khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai 1993 đến nay đã đảm bảo được ổn định chính trị, xã hội. Mặt khác, những người hiện đang sử dụng đất này thực tế đã được Nhà nước giao đất và sử dụng ổn định lâu dài, do đó không nên đặt ra vấn đề trả lại đất cho chủ cũ.
2. Trường hợp thực hiện Quyết định số 13-HĐBT ngày 01-02-1989 của Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 13/HĐBT được ban hành nhằm giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất trong thời gian đó. Sau khi Luật Đất đai 1993 có hiệu lực thi hành thì Quyết định này không còn hiệu lực nữa. Nếu chủ sử dụmg đất trước đây, nay đòi lại đất thì áp dụng Khoản 2 Điều 2 của Luật Đất đai 1993 không thừa nhận việc đòi lại đất cũ đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước".
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án các cấp khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng cần quán triệt đường lối xử lý trên đây của Chính phủ. Tuy nhiên, để bảo đảm việc giải quyết được thống nhất, đúng pháp luật, Toà án nhân dân tối cao lưu ý một số điểm sau đây:
1. Khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng, Toà án cần thực hiện đúng các hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03-01-2002 của Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất".
2. Toà án chỉ được căn cứ vào đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ (được thông báo trong Công văn số 5538/VPCP-VII của Văn phòng Chính phủ) khi giải quyết các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ví dụ 1: Thực hiện Thông tư số 73/TTg ngày 07-7-1962 của Thủ tướng Chính phủ "Về việc quản lý đất của tư nhân cho thuê, đất vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị" và Thông tư số 10-TTg ngày 04-02-1963 của Thủ tướng Chính phủ giải thích Thông tư số 73/TTg này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ra quyết định quản lý một diện tích đất của M đang cho người khác thuê và đã giao cho N sử dụng. Nay M khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho N sử dụng.
Ví dụ 2: Thực hiện Quyết định số 13-HĐBT ngày 01-02-1989 của Hội đồng Bộ trưởng "Về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất", cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quyết định thu hồi một diện tích đất của X và giao cho Y là thương binh sử dụng. Nay X khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho Y sử dụng.
Đối với các trường hợp nêu trong hai ví dụ trên đây, khi giải quyết khiếu kiện, tranh chấp, Toà án không đặt vấn đề xem xét việc thu hồi, quản lý đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đúng hay không đúng về các điều kiện thu hồi, quản lý đất mà phải căn cứ vào đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ; cụ thể là phải áp dụng Khoản 2 Điều 2 Luật Đất đai không chấp nhận yêu cầu của đương sự về việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng. Nếu họ có yêu cầu đền bù về việc làm tăng giá trị của đất, thanh toán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết theo thủ tục chung. Tuỳ từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận yêu cầu của họ.
3. Đối với các trường hợp người thuê đất, mượn đất, chiếm dụng đất... của người khác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đó cho sử dụng là do họ tự kê khai, tự làm các thủ tục mà không phải do việc thực hiện một chính sách đất đai nào đó của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì không phải là đối tượng thuộc đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ.
Ví dụ 1: A thuê đất của B. Trong quá trình thuê đất A tự kê khai, tự làm các thủ tục xin cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất. Trên cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có quyết định giao đất cho A.
Nay B khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho A sử dụng.
Ví dụ 2: C là người sử dụng hợp pháp một khu đất. Vì lý do nào đó mà không có điều kiện trực tiếp quản lý, sử dụng khu đất này. Tuy vậy, Nhà nước không thu hồi, không quản lý đối với khu đất đó. D đã chiếm dụng một phần hoặc toàn bộ khu đất đó để sản xuất hoặc để xây dựng nhà ở và đã tự kê khai, tự làm các thủ tục xin cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất đối với diện tích đất đã chiếm dụng. Trên cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có quyết định giao đất cho D. Nay C khiếu kiện hoặc có tranh chấp đòi lại đất đã giao cho D sử dụng.
Đối với các trường hợp nêu trong hai ví dụ trên đây, khi giải quyết khiếu kiện, tranh chấp, Toà án không được căn cứ vào đường lối xử lý nêu trên của Chính phủ mà phải căn cứ vào các quy định của Luật Đất đai, Bộ luật dân sự cũng như các quy định khác của pháp luật và tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà quyết định việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của đương sự; nếu đương sự có yêu cầu đền bù về việc làm tăng giá trị của đất, thanh toán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất, thì Toà án cũng giải quyết theo thủ tục chung.
4. Các hướng dẫn trong Công văn này được thực hiện kể từ ngày 15 tháng 11 năm 2002 khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm các vụ án về khiếu kiện, về tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng.
Đối với các vụ án hành chính, dân sự có liên quan đến việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Công văn này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao biết để có giải thích, hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 172/2002/KHXX Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 172/2002/KHXX NGÀY 25 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT ĐỀ NGHỊ CỦA LUẬT SƯ VỀ XÁC ĐỊNH TUỔI CỦA NGƯỜI BỊ HẠI BẰNG GIÁM ĐỊNH XƯƠNG
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ
Sau khi nghiên cứu Công văn số 66/TAT.CV ngày 17-9-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Cần Thơ, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định một trong các trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều 44 Bộ luật này. Như vậy, đối với các trường hợp không bắt buộc phải trưng cầu giám định theo quy định tại Khoản 5 Điều 44 Bộ luật tố tụng hình sự mà những người tham gia tố tụng có đề nghị trưng cầu giám định thì việc cơ quan tiến hành tố tụng có chấp nhận đề nghị đó hay không phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể; nếu xét thấy việc trưng cầu giám định là cần thiết để xác định sự thật khách quan của vụ án và việc giám định có thể thực hiện được thì đề nghị đó cần được chấp nhận; song xem xét trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 66/TAT.CV ngày 17-9-2002 thì đề nghị của Luật sư về xác định tuổi của người bị hại bằng giám định xương là không có cơ sở để chấp nhận với các lý do là việc giám định xương ở nước ta đang rất khó khăn và nếu có giám định xương thì cũng không thể xác định được chính xác ngày tháng sinh của người bị hại. Trong trường hợp giấy khai sinh, hộ khẩu của người bị hại là chứng cứ duy nhất để xác định tuổi của người bị hại mà chưa đủ cơ sở để tin cậy thì Toà án có thể trả hồ sơ để Điều tra bổ sung như lấy lời khai của bố mẹ, người thân thích của người bị hại về nơi sinh, thời Điểm người bị hại sinh ra thì xã hội có sự kiện gì, có ai trong thôn xóm cùng sinh, sổ chứng sinh nơi người bị hại sinh ra... để xác định đúng ngày tháng sinh của người bị hại. Nếu áp dụng mọi biện pháp hợp pháp nhưng vẫn không xác định được chính xác tuổi của người bị hại, thì xác định ngày tháng sinh của người bị hại theo hướng dẫn tại Điểm 11 Phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10-6-2002 của Toà án nhân dân tối cao "Giải đáp các vấn đề nghiệp vụ" (Xem cuốn Các văn bản hướng dẫn, giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, hành chính, lao động và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 2002; Trang 34-36).
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 173/2002/KHXX Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 173/2002/KHXX NGÀY 25 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KHI XÉT XỬ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM CHƯA ĐỦ 13 TUỔI
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre
Sau khi nghiên cứu Công văn số 1402 ngày 13-9-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Nếu như hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì theo quy định tại Khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự, người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười năm; phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. Theo quy định này nếu phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự, thì Toà án phải áp dụng điểm tương ứng của Khoản 2 và Khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo theo mức hình phạt quy định tại Khoản 2 là từ bảy năm đến mười lăm năm tù; nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 111 Bộ luật hình sự, thì Toà án phải áp dụng điểm tương ứng của Khoản 3 và Khoản 4 Điều 111 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo theo mức hình phạt quy định tại Khoản 3 là từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khác với quy định tại Khoản 4 Điều 111, Khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự chỉ quy định: "Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình". Do vậy nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều này thì cần xem xét tình tiết định khung hình phạt đó có được quy định là tình tiết tăng nặng tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự hay không; nếu 1à tình tiết tăng nặng được quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, thì Toà án áp dụng Khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự và các điểm tương ứng về các tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án tương xứng; nếu các tình tiết định khung đó không được quy định 1à tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, thì cũng cần phải xem xét để đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng tương tự như hướng dẫn tại Điểm c Thông tư liên tịch số 01/1998/LTLT/TANDTC-VKSNĐTC-BNV ngày 02-01-1998 mà quý Toà đã viện dẫn trong Công văn Số 1402 ngày 13-9-2002 (Cần lưu ý hướng dẫn này là để xử phạt mức hình phạt đối với bị cáo mà không phải để áp dụng các tình Tiết định khung như quý Toà hiểu).
Như vậy, đối với trường hợp Nguyễn Thành Phương nêu trong Công văn số 1402 ngày 13-9- 2002 của quý Toà thì việc Toà án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm về áp dụng pháp luật là đúng. Tuy nhiên trong vụ án cụ thể này việc Toà án cấp phúc thẩm nhận định "có tính chất loạn luân" là tình tiết tăng nặng là không đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và nếu theo đúng quy định của pháp luật thì Nguyễn Thành Phương còn phải bị truy cứa trách nhiệm
hình sự về tội loạn luân theo Điều 150 Bộ luật hình sự, song do các cơ quan điều tra, truy tố không khởi tố và truy tố Phương về tội này và xét thấy trong trường hợp cụ thể này cũng không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phương về tội loạn luân mà chỉ xem xét tính chất nguy hiểm của hành vi loạn luân để xử phạt bị cáo mức án cao nhất là có đầy đủ căn cứ.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 174/2002/KHXX Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 174/2002/KHXX NGÀY 26 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO, NGƯỜI BỊ HẠI VỀ GIÁM ĐỊNH LẠI HOẶC GIÁM ĐỊNH BỔ SUNG
Kính gửi: Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn
Sau khi nghiên cứu Công văn số 158/CV ngày 29 tháng 7 năm 2002 của Toà án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo tinh thần quy định tại các điều 34, 39 và 133 Bộ luật tố tụng hình sự thì bị can, bị cáo, người bị hại có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu (kể cả yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung). Thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử cho thấy trong một số trường hợp bị can, bị cáo hoặc người bị hại không đồng ý với kết luận giám định và có yêu cầu giám định hại hoặc giám định bổ sung. Đối với trường hợp khi xét xử mà bị cáo hoặc người bị hại có yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung thì Toà án cần xem xét yêu cầu của họ có cơ sở và chính đáng hay không để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Việc giám định là những vấn đề về chuyên ngành do những người có chuyên môn thực hiện và theo quy định tại khoản 1 Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự thì "người giám định kết luận về vấn đề được yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận đó"; do đó, kết luận giám định là một trong những chứng cứ để Toà án xét xử vụ án. Khi trong vụ án có các kết luận giám định khác nhau thì thông thường Toà án chấp nhận kết luận giám định của cơ quan giám định cao hơn. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 55 và khoản 5 Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án có thể không đồng ý với kết luận giám định và nếu xét thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử quyết định giám định lại hoặc giám định bổ sung theo thủ tục chung, nhưng phải nêu rõ lý do. Để xem xét yêu cầu của bị cáo hoặc người bị hại có cơ sở và chính đáng hay không cũng như để có căn cứ đồng ý với kết luận giám định hay không thì Toà án cần: xem xét các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như bệnh án, giấy ra viện,...; xem xét vết thương của người bị hại; căn cứ vào Thông tư số 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Liên bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội "quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới"; đề nghị người giám định, cơ quan giám định giải thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định; căn cứ vào Điều 168 Bộ luật tố tụng hình sự triệu tập người giám định tham gia phiên toà; xem xét đánh giá các ý kiến nhận xét của kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia phiên toà về kết luận giám định, ý kiến trả lời giải thích của người giám định về những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định theo quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với trường hợp cụ thể mà quý Toà nêu trong Công văn số 158/CV ngày 29-7-2002 thì quý Toà căn cứ vào hướng dẫn trên đây để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người bị hại là anh Ỷ về giám định lại thương tật đối với anh.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 175/2002/KHXX Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 175/2002/KHXX NGÀY 27 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 19/2002/CT-TTG CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Ngày 13/9/2002 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 19/2002/CT-TTg "về tăng cường công tác quản lý thuế giá trị gia tăng". Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong Chỉ thị còn nêu rõ: "trong quá trình thực hiện, một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng một số quy định chưa chặt chẽ của Luật thuế giá trị gia tăng và Luật doanh nghiệp để lập hồ sơ khống về hàng hoá xuất khẩu, lập doanh nghiệp để buôn bán hoá đơn nhằm thực hiện hành vi gian lận, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác của Nhà nước đã có nhiều biện pháp ngăn chặn nhưng chưa khắc phục được triệt để và có hiệu quả".
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các địa phương trong phạm vi chức năng của mình thực hiện một số biện pháp để tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng có hiệu quả, giảm thất thoát, ngăn chặn và khắc phục kịp thời các hành vi gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng, thành lập doanh nghiệp để mua bán hoá đơn bất hợp pháp. Đối với ngành Toà án nhân dân, tại điểm 7 của Chỉ thị đã nêu rõ: "Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo Viện kiểm sát, Toà án nhân dân các cấp truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ gian lận về thuế do cơ quan thuế và cơ quan Công an đã phát hiện chuyển sang".
Để góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện Chỉ thị nói trên của Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao lưu ý các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp một số vấn đề sau đây:
1. Toà án các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, Viện kiểm sát, Hải quan, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác để từ kết quả thanh tra, kiểm tra và sự tố giác của quần chúng kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, đúng pháp luật các hành vi gian lận, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước.
2. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát cùng cấp chuyển sang thì phân công Thẩm phán làm Chủ toạ phiên toà, khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và bố trí lịch xét xử để sớm đưa vụ án đó ra xét xử kịp thời, nhanh chóng, nghiêm minh và đúng pháp luật theo tinh thần của Chỉ thị. Cần xử phạt nghiêm khắc người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
3. Cần chú ý việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản và các biện pháp tư pháp phù hợp nhằm thu hồi tài sản cho Nhà nước đã bị các bị cáo chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại.
4. Nếu qua việc xét xử vụ án về loại tội phạm này tại phiên toà mà phát hiện có người phạm tội nhưng chưa bị khởi tố, truy tố thì căn cứ vào khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc kiến nghị cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
5. Nếu có thể thì cần mở phiên toà lưu động, cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở địa phương và trung ương để có kế hoạch tuyên truyền, đưa tin kịp thời kết quả của việc xét xử vụ án nhằm nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa và phát động quần chúng tham gia đấu tranh phát hiện và chống loại tội phạm này.
Nhận được Công văn này đề nghị các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao cần phổ biến và quán triệt Chỉ thị số 19/2002/CT-TTg ngày 13/9/2002 của Thủ tướng Chính phủ và nội dung của Công văn này cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị mình để việc thực hiện có hiệu quả.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 177/2002/KHXX Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 177/2002/KHXX NGÀY 5 THÁNG 12 NĂM 2002 VỀ VIỆC CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam
Sau khi nghiên cứu Công văn số 44/CV-TA ngày 12/9/2002 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự thì "Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Một giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi giao dịch đó có đủ các điều kiện quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự, trong đó có điều kiện "Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện".
Việc người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện được hiểu là: các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện thoả thuận với nhau về các nội dung của giao địch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép từ phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
Về nguyên tắc việc giao kết hợp đồng phải qua các giai đoạn khác nhau, đó là: đề nghị giao kết hợp đồng, trả lời về đề nghị giao kết hợp đồng..., sau đó mới giao kết hợp đổng.
Trước thời điểm các bên giao kết hợp đồng các bên phải thoả thuận về tất cả các nội dung của hợp đồng. Các thoả thuận đó đều phải dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Như vậy, yếu tố "hoàn toàn tự nguyện" của các bên được tính đến thời điểm các bên giao kết hợp đồng dân sự quy định tại Điều 403 Bộ luật Dân sự.
Sau khi hợp đồng dân sự được giao kết, hợp đồng sẽ có hiệu lực. Hiệu lực của hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 404 Bộ luật Dân sự. Hợp đồng dân sự được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Việc thực hiện hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc quy định tại Điều 409 Bộ luật Dân sự.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 178/2002/KHXX Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 178/2002/KHXX NGÀY 5 THÁNG 12 NĂM 2002 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Kính gửi: Toà án nhân dân thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp
Sau khi nghiên cứu Công văn số 52/CV-TA ngày 22/8/2002 của Toà án nhân dân thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Về việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất mà đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 và người sử dụng đất chết không để lại di chúc.
Đối với vấn đề này về nguyên tắc, khi thụ lý, giải quyết loại việc này Toà án phải căn cứ vào hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất" để xác định xem tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án hay không (đặc biệt là đối với các loại đất không có tài sản).
Nếu tranh chấp đó không thuộc một trong các trường hợp nêu tại phần I của Thông tư liên tịch nói trên (có nghĩa là tranh chấp đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án), thì Toà án không thụ lý giải quyết.
Nếu tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Toà án, thì Toà án căn cứ vào các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai năm 1993 để thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
2. Về việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất mà người có đất chết trước ngày 15/10/1993, không để lại di chúc, sau đó chỉ có một trong các thừa kế của người đó được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC nói trên, thì tranh chấp quyền sử dụng đất mà đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 1à thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Tuy nhiên, Toà án có chấp nhận yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất cho các đương sự hay không thì phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể.
Ví dụ: Nếu qua điều tra thu thập chứng cứ mà có đủ căn cứ kết luận phần đất do người chết để lại đã được tất cả những người trong họ tộc nhất trí giao cho một trong các thừa kế được quyền sử dụng có sự đồng ý của chính quyền địa phương và người đó đã làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 1993, nay các thừa kế khác thấy đất có giá trị cao nên đòi chia thừa kế quyền sử dụng đất đó và có tranh chấp, thì Toà án không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất của các thừa kế khác; nếu có đủ cơ sở kết luận một trong các đồng thừa kế bằng thủ đoạn nào đó (giấu giếm tự kê khai...) để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án chia thừa kế quyền sử dụng đất cho các đồng thừa kế khác
theo thủ tục chung và áp dụng Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Uỷ ban nhân dân đã cấp.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 77/2003/HĐTP Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2003
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 77/2003/HĐTP NGÀY 27 THÁNG 6 NĂM 2003 VỀ VIỆC THÔNG BÁO VIỆC TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN NÊU TẠI ĐIỂM B MỤC 1 PHẦN II CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 01 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các Toà phúc thẩm, Toà dân sự toà án nhân dân tối cao
Ngày 16/4/2003 Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình" (gọi tắt là Nghị quyết số 01). Theo hướng dẫn tại điểm b mục 1 Phần II của Nghị quyết số 01 đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nếu sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Sau khi Nghị quyết số 01 được ban hành, ngày 29/4/2003 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã có kết luận số 84a/UBTVQH11 về Tờ trình của Chính phủ đề nghị Quốc hội gia hạn thời hạn thực hiện điểm b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong kết luận này Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã kết luận về việc xử lý đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 mà sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn. Căn cứ vào kết luận này của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và sau khi có ý kiến thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao kết luận thông báo việc tiếp tục giải quyết các vụ án nêu tại điểm b mục 1 Phần II của Nghị quyết số 01 như sau:
1. Do có kết luận số 84a/UBTVQH11 ngày 29/4/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho nên lý do của việc không thụ lý, tạm đình chỉ việc giải quyết các vụ án được hướng dẫn tại điểm b mục 1 Phần II Nghị quyết số 01 không còn nữa; vì vậy, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án xét thấy là thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì tiếp tục thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2. Khi giải quyết tranh chấp về thừa kế trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, nếu sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên chết trước thì cần phân biệt như sau:
a. Đối với trường hợp trước ngày 01/01/2003 họ đã xin đăng ký kết hôn (cụ thể là đã kê khai, có tên trong danh sách những người xin đăng ký kết hôn do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập trước ngày 01/01/2003), nhưng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa kịp hoàn tất thủ tục để cấp đăng ký kết hôn cho họ trước ngày 01/01/2003, thì theo mục 2 của Kết luận số 84a nói trên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp lục hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn và công nhận họ là vợ chồng kể từ khi họ chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế theo Nghị quyết số 35/2000/QH 10. Do đó, trong trường hợp này, nếu sau ngày 01/01/2003 các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa kịp hoàn tất thủ tục để cấp đăng ký kết hôn cho họ mà có một bên chết trước thì bên còn sống được hưởng di sản của người chết như di sản của vợ hoặc chồng chết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
b. Đối với trường hợp trước ngày 01/01/2003 họ không làm thủ tục xin đăng ký kết hôn (cụ thể là không kê khai, không có tên trong danh sách những người xin đăng ký kết hôn do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập trước ngày 01/01/2003) và sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân của họ chỉ được công nhận từ thời điểm đăng ký. Do đó, trong trường hợp này, nếu sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên chết trước thì bên còn sống không được thừa kế tài sản của người chết như di sản của vợ hoặc chồng chết theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 189/2002/KHXX Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2002
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 189/2002/KHXX NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2002 VỀ VIỆC QUYẾT ĐỊNH VỀ ÁN PHÍ TRONG BẢN ÁN DÂN SỰ, KINH TẾ, LAO ĐỘNG, HÀNH CHÍNH
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh - Các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Trong thời gian qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương và một số cơ quan thi hành án đề nghị Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cách tuyên về án phí dân sự, án phí kinh tế, án phí lao động, án phí hành chính trong trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí nhằm bảo đảm thống nhất, đúng pháp luật và có căn cứ để thi hành án. Căn cứ vào quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
Theo Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ "quy định về án phí, lệ phí Toà án" thì tiền tạm ứng án phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi vào tài khoản tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước và được rút ra để thi hành án theo quyết định của Toà án; người đã nộp tiền tạm ứng án phí được trả lại toàn bộ, nếu theo quyết định của Toà án họ không phải chịu án phí hoặc được trả lại phần chênh lệch, nếu theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí ít hơn số tiền tạm ứng án phí mà họ đã nộp; trong trường hợp người nộp tiền tạm ứng án phí được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền đã nộp thì cơ quan thi hành án đã thu tiền tạm ứng án phí phải làm thủ tục trả lại tiền cho người đã nộp.
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự thì một trong những căn cứ để thi hành án là những bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này.
Căn cứ vào các quy định trên đây thì quyết định của Toà án về án phí là căn cứ để thi hành án đối với người phải chịu án phí và là căn cứ để làm thủ tục rút tiền từ tài khoản tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước để trả lại cho người đã nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ không phải chịu án phí hoặc trả lại phần chênh lệch trong trường hợp họ phải chịu án phí ít hơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp; do đó, khi quyết định về án phí và người phải chịu án phí mà có người đã nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án phải quyết định cả việc xử lý số tiền tạm ứng án phí; cụ thể như sau:
1. Trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, nhưng theo quyết định của Toà án họ không phải chịu án phí sơ thẩm.
Ví dụ: Ông A đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 50.000 đồng, nhưng theo quyết định của Toà án ông A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Ông A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho ông A 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số ngày... tháng... năm... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án...".
2. Trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, nhưng theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí sơ thẩm ít hơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Ví dụ: Ông B đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 2.000.000 đồng, nhưng theo quyết định của Toà án ông B chỉ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là l.000.000 đồng, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Ông B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là l.000.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 2.000.000 đồng theo biên lai số... ngày... tháng... năm... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án...; ông B được hoàn trả lại số tiền chênh lệch là 1.000.000 đồng".
3. Trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí sơ thẩm bằng tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Ví dụ: Anh M đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 15.000.000 đồng và theo quyết định của Toà án anh M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm cũng là 15.000.000 đồng, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Anh M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 15.000.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 15.000.000 đồng theo biên lai số... ngày... tháng... năm... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án...; anh M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm".
4 . Trường hợp đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, nhưng theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí sơ thẩm nhiều hơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Ví dụ: Bà C đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 1.000.000 đồng, nhưng theo quyết định của Toà án bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là l.500.000 đồng, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Bà C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là l.500.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 1à 1.000.000 đồng theo biên lai số... ngày... tháng.... năm... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án.... ; bà C còn phải nộp 500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm".
5. Trường hợp người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nhưng theo quyết định của Toà án họ không phải chịu án phí phúc thẩm.
Ví dụ: Chị N là người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí (dân sự phúc thẩm là 50.000 đồng, nhưng theo quyết định của Toà án chị N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Chị N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; hoàn trả lại cho chị N 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai số ngày... tháng... năm ... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án....".
6. Trường hợp người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí phúc thẩm.
Ví dụ: Bà X là người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 50.000 đồng và theo quyết định của Toà án bà X cũng phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, thì Toà án cần tuyên rõ:
"Bà X phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 50.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 50.000 đồng theo biên lai số... ngày.... tháng.... năm..... của Phòng (hoặc Đội) thi hành án....; bà X đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
7. Để bảo đảm chính xác, tránh sự nhầm lẫn về số tiền và theo quy định chung thì số tiền ngoài việc ghi bằng số còn phải viết đầy đủ bằng chữ.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc cần được giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA KINH TẾ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ******** ********
Hà Nội, ngày 04 tháng 7 năm 2003 Số: 54/2003/KT V/v trao đổi nghiệp vụ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình
Toà Kinh tế Toà án nhân dân tối cao đã nhận được công văn số 01/KT ngày 04 tháng 6 năm 2003 của Toà án nhân dân tỉnh Thái bình, về việc trao đổi nghiệp vụ giải quyết vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng mua bán xăng dầu giữa:
Nguyên đơn: Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai - Công ty vật tư vận tải và xếp dỡ Quảng Ninh.
Bị đơn: Công ty TNHH thương mại sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu tổng hợp Thái Bình.
Sau khi nghiên cứu nội dung công văn số 01/KT và hồ sơ vụ án, Toà Kinh tế Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Tại Khoản 2 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: “Đương sự là pháp nhân thì thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền”. Đối chiếu với quy định nêu trên thì ông Phạm Văn Hải - Giám đốc Công ty TNHH sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu tổng Thái Bình (là người đại diện theo pháp luật của Công ty) phải tham gia tố tụng tại Toà án với tư cách là đại diện của bị đơn, nếu ông Hải không có mặt thì phải có uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng.
Trong vụ án này, tuy Công ty TNHH thương mại sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu tổng hợp Thái Bình vẫn còn địa chỉ như trong giấy đăng ký kinh doanh, nhưng theo ý kiến của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình cho biết thì hiện nay Công ty này không còn hoạt động nữa, giám đốc và các thành viên Công ty đều không có mặt tại Công ty như tại địa phương. Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình đã tiến hành các biện pháp để tìm địa chỉ cư trú của Giám đốc Phạm Văn Hải nhưng đến này vẫn chưa xác định được nên chưa lấy được lời khai của ông Hải. Vì vậy, theo hướng dẫn tại Điểm 5 Công văn số 11/KHXX ngày 23 tháng 01 năm 1996 của Toà án nhân dân tối cao thì trong trường hợp này Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình cần áp dụng Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2. Mặc dù trong hồ sơ vụ án không có tài liệu nào về hồ sơ pháp lý của Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai (quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh...) nhưng căn cứ vào giấy uỷ quyền của Giám đốc Công ty vật tư vận tải và xếp dỡ cho Giám đốc Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai được ký kết các hợp đồng kinh tế thì có thể xác định, Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai là đơn vị phụ thuộc của Công ty vật tư vận tải và xếp dỡ, không có tư cách pháp nhân. Nếu đúng như vậy thì việc Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình xác định Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai là nguyên đơn trong vụ án là không đúng mà phải đưa Công ty vật tư vận tải và xếp dỡ tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn mới đúng; đồng thời đơn khởi kiện ngày 20 tháng 01 năm 1999 do giám đốc Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai ký là không đúng thẩm quyền (do không có uỷ quyền tham gia tố tụng tại Toà án).
3. Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì ngày 20.9.1998 các bên đã kỹ biên bản thanh lý hợp đồng và ngày 22 tháng 9 năm 1998 đã ký biên bản đối chiếu công nợ, đến này Xí nghiệp vật tư vận tải Hòn Gai chỉ kiện đòi Công ty TNHH thương mại sản xuất dịch vụ và xuất nhập khẩu Thái Bình phải thanh toán số tiền nợ đã xác nhận là 98.126.400đ, các bên không có tranh chấp với nhau về hợp đồng kinh tế. Vì vậy, khi giải quyết vụ án quý Toà cần lưu ý nghiên cứu kỹ Điểm a Khoản 3 Mục 1 Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 07 tháng 01 năm 1995 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, để xác định đây là vụ án dân sự hay vụ án kinh tế để giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hoặc thủ tục tố tụng dân sự.
Trên đây là ý kiến của Toà Kinh tế Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo khi giải quyết vụ án.
(Lưu ý: không để văn bản này trong hồ sơ vụ án)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CHÁNH TOÀ TOÀ KINH TẾ Đỗ Cao Thắng
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2003 Số: 97/2003/KHXX V/v xác định tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Sau khi nghiên cứu Công văn số 676/TA ngày 26 tháng 5 năm 2003 của Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự đã được hướng dẫn tại điểm 1 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự”; cụ thể là: “Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tất dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân. Như vậy, cần phải hiểu là chỉ khi tỷ lệ thương tất dưới 11% và có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn trên đây thì mới áp dụng tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân”; do đó, quan điểm thứ hai nêu trong Công văn số 676/TA ngày 26 tháng 5 năm 2003 của quý Toà là đúng.
Trên đây là ý kiến của Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao đề nghị Toà tham khảo trong quá trình giải quyết vụ án cụ thể tại địa phương.
TL. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO KT VIỆN TRƯỞNG VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ PHÓ VIỆN TRƯỞNG Nguyễn Thị Thanh Thuỷ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 98/2003/KHXX Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2003
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 98/2003/KHXX NGÀY 5 THÁNG 8 NĂM 2003 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI THEO NGHỊ QUYẾT 388/2003/NQ- UBTVQH11
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Sau khi nghiên cứu Công văn số 892/CV-TA ngày 30/6/2003 của Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và các tài liệu kèm theo và sau khi báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Đồng chí Đặng Quang Phương - Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Việc các ông Nguyễn Hoài An, Nguyễn Phúc Đồ có đơn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại và khôi phục danh dự thì trước hết các ông này phải xem xét mình có thuộc một trong các trường hợp dược bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 1 và không thuộc trường hợp nào quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388) hay không.
Giả sử có đầy đủ căn cứ cho rằng các ông này thuộc trường hợp được bồi thường thiệt hại thì theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 10 Nghị quyết số 388 "Toà án cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo có tội nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội thì Toà án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại"; cụ thể trong trường hợp này là Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.
Giả sử có đầy đủ căn cứ cho rằng Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 388 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng sẽ tiến hành thương lượng với các ông này về việc bồi thường. Chỉ trong trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 388 mà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng không tiến hành thương lượng hoặc trong trường hợp thương lượng không thành thì các ông này mới có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án nhân dân cấp huyện nơi các ông cư trú hoặc làm việc giải quyết bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp cụ thể này quý Toà cần trả lại đơn cho các ông Nguyễn Hoài An, Nguyễn Phúc Đồ và thông báo cho các ông này biết để các ông thực hiện theo đúng quy định của Nghị quyết số 388 nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nếu thực sự các ông bị oan thuộc đối tượng được bồi thường thiệt hại.
Trên đây là ý kiến của Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo, vận dụng trong việc giải quyết vấn đề cụ thể được nêu trong Công văn số 892/CV-TA ngày 30/6/2003 của quý Toà.
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 99/2003/KHXX Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2003
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 99/2003/KHXX NGÀY 5 THÁNG 8 NĂM 2003 VỀ VIỆC HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình
Sau khi nghiên cứu Công văn số 23/CV-TA ngày 12/6/2003 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình về việc hoãn chấp hành hình phạt tù cho đối tượng là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 61 Bộ luật Hình sự, nếu người bị xử phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Như vậy, luật quy định là họ có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù, chứ không phải đương nhiên được hoãn chấp hành hình phạt tù. Để việc quyết định cho đối tượng này được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không cần phân biệt như sau:
a. Nếu là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bị xử phạt tù lần đầu (có thể kể cả mức án cao) và sau khi bị xử phạt tù không thực hiện bất kỳ hành vi vi phạm phát luật nghiêm trọng nào thì tinh thần chung là cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
b. Nếu là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, sau khi bị xử phạt tù, chưa chấp hành hình phạt tù lại tiếp tục phạm tội, cho dù chưa được hoãn chấp hành hình phạt tù lần nào nhưng tinh thần chung là không cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù.
c. Nếu là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, sau khi đã được cho hoãn chấp hành hình phạt tù nhưng trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù lại tiếp tục phạm tội thì theo quy định tại khoản 2 Điều 233 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với những trường hợp này Toà án đã quyết định cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải huỷ quyết định đó và ra lệnh bắt họ chấp hành hình phạt tù.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 105/2003/KHXX Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2003
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 105/2003/KHXX NGÀY 18 THÁNG 8 NĂM 2003 VỀ VIỆC ÁP DỤNG ĐIỀU 248 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Kính gửi: Toà án nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
Sau khi nghiên cứu Công văn số 89/CV-TA ngày 01/7/2003 của quý Toà, Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Cá độ bóng đá thực chất cũng là một hình thức đánh bạc. Đặc thù của tội đánh bạc nói chung là người đánh bạc không thể thực hiện hành vi đánh bạc một mình mà mỗi lần đánh bạc phải có nhiều người (ít nhất từ hai người trở lên) cùng tham gia đánh bạc với nhau hoặc đánh bạc với nhiều người khác nhau, cho nên đối với tội đánh bạc không thể lấy tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc làm định mức để truy cứu trách nhiệm hình sự người đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc đề xem xét; cụ thể là:
a. Nếu tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (có nghĩa là dưới một triệu đồng theo hướng dẫn tại điểm 6.3 mục 6 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một sôa quy định của Bộ luật Hình sự) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều 248 và Điều 249 Bộ luật Hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
b. Nếu tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của lần đánh bạc nào mà bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (có nghĩa là từ một triệu đồng trở lên theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02 nêu trên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó.
c. Nếu tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (ví dụ: cá độ bóng đá từ 2 lần trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.
d. Nếu phạm tội đánh bạc nhiều lần (ví dụ: cá độ bóng đá từ 5 lần trở lên), thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về thời gian và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung "có tính chất chuyên nghiệp" quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự.
Trên đây là ý kiên của Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo, vận dụng trong quá trình giải quyết vụ án tại địa phương.
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ********
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 120/2003/KHXX
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2003
CÔNG VĂN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 120/2003/KHXX NGÀY 18 THÁNG 9 NĂM 2003 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT ĐƠN, THƯ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO...
Kính gửi:
- Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân địa phương - Các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao
Từ trước đến nay ngành Toà án nhân dân luôn luôn quan tâm đến công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại và tố cáo liên quan đến ngành Toà án nhân dân nói chung và đơn, thư khiếu nại, kháng cáo đối với bản án, quyết định do Toà án ban hành trong quá trình tiến hành tố tụng nói riêng. Nhìn chung công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo trong ngành Toà án nhân dân đã đạt được những kết quả tốt, đặc biệt công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, kháng cáo đối với các bản án, quyết định của Toà án được ban hành trong quá trình tiến hành tố tụng là kịp thời, đúng thời hạn do pháp luật tố tụng quy định. Tuy nhiên, bên cạnh đó có lúc, có Toà án hoặc đơn vị, cá nhân do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mà chưa giải quyết tốt đơn, thư khiếu nại, tố cáo nói chung. Việc giải quyết khiếu nại, kháng cáo đối với các bản án, quyết định của Toà án được ban hành trong quá trình tiến hành tố tụng, nhưng chưa có hiệu lực pháp luật có nơi còn quá chậm, thậm chí có trường hợp còn để quá thời hạn luật định. Việt giải quyết đơn, thư đề nghị xem xét lại các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật chưa đạt kết quả như mong muốn, có trường hợp cá biệt khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm thì đã quá thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong thời gian gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng. Bên cạnh những trường hợp khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, thì cũng không ít trường hợp khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo nói chung và công tác giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành Toà án nhân dân nói riêng.
Để nâng cao hiệu quả việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành Toà án nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân địa phương, các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình tổ chức thực hiện việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo trong ngành Toà án nhân dân như sau:
1. Việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong ngành Toà án nhân dân hoặc đơn, thư tố cáo đối với cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân vi phạm kỷ luật, phẩm chất đạo đức hoặc vi phạm pháp luật.
Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật khác (Luật tổ chức Toà án nhân dân; Pháp lệnh cán bộ công chức; Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân
dân...) cũng như việc phân cấp quản lý cán bộ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao để giải quyết kịp thời, trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Các đồng chí Vụ trưởng Vụ tổ chức - cán bộ và Trưởng ban Ban thanh tra Toà án nhân dân tối cao ngoài việc giải quyết các việc thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc theo sự uỷ quyền của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, có nhiệm vụ giúp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong ngành Tòa án nhân dân hoặc đơn, thư tố cáo đối với cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân vi phạm kỷ luật, phẩm chất đạo đức hoặc vi phạm pháp luật.
2. Việc giải quyết đơn khởi kiện hoặc kháng cáo, khiếu nại đối với bản án, quyết định của Toà án được ban hành trong quá trình tiến hành tố tụng, nhưng chưa có hiệu lực pháp luật.
Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao (đặc biệt là các đồng chí Chánh toà các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao) căn cứ vào quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân và quy định của pháp luật tố tụng tổ chức giải quyết kịp thời, đúng thời hạn do pháp luật quy định và bảo đảm đúng pháp luật.
3. Viêc giải quyết đơn đề nghị, yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 11 Luật tổ chức Toà án nhân dân thì:
"1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định".
Thực tiễn công tác giải quyết đơn, thư đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cho thấy có một số trường hợp việc đề nghị của người bị kết án, của đương sự là chính đáng, nhưng cũng không ít trường hợp đề nghị của người bị kết án của đương sự là không chính đáng mà với mục đích "cầu may" hoặc kéo dài việc thi hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Đề bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án, của đương sự, trong trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới được phát hiện, các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc giải quyết đơn đề nghị, yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Cụ thể như sau:
a) Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh cần kiện toàn, nâng cao năng lực công tác của Phòng Giám đốc, Kiểm tra. Khi nhận được đơn, thư đề nghị, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cần phân loại và căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng để xử lý. Nếu phát hiện có sai lầm thì kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, bảo đảm không để tình trạng có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án khi phát hiện có sai lầm thì đã quá thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
b) Các đồng chí Chánh toà các Toà chuyên trách: Toà Hình sự, Toà Dân sự, Toà Kinh tế, Toà Lao động, Toà Hành chính trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo sự phân công của Chánh án Toà án nhân dân tối cao cần tổ chức việc xem xét giải quyết đơn, thư đề nghị, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật một cách hợp lý và khoa học. Cần phân công, phân nhiệm rõ ràng theo quy chế làm việc và tổ chức phân loại đơn, thư đề nghị, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân để giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án, của đương sự được bảo vệ. Tuỳ từng trường hợp cụ thể theo quy định cần phải báo cáo kịp thời các đồng chí Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao được Chánh án Toà án nhân dân tối cao phân công phụ trách để cho ý kiến chỉ đạo, xem xét, giải quyết. Tuyệt đối khắc phục tình trạng khi phát hiện bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm thì đã quá thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
c) Đồng chí Trưởng ban Ban Thanh tra Toà án nhân dân tối cáo cần tổ chức và tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương, các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao theo sự phân công của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đặc biệt là các vụ án có đơn, thư đề nghị, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, góp phần giải quyết tốt có hiệu quả đơn, thư, đề nghị, yêu cầu này; bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải đúng pháp luật.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chi Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao cần xác định việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành Toà án nhân dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành.
Sau khi nhận được Công văn này cần quán triệt để toàn thể cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý và tổ chức thực hiện kịp thời có hiệu quả. Trong quá trình tổ chức thực hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần phản ánh cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao để có hướng xử lý kịp thời.
Nguyễn Văn Hiện
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ********
Số: 121/2003/KHXX
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ******** Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 2003
CÔNG VĂN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 121/2003/KHXX NGÀY 19 THÁNG 9 NĂM 2003 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN, BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao - Các đồng chí Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Toà án nhân dân tối cao đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại (sau đây gọi chung là phần dân sự) trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của các Toà án các cấp trong thời gian qua cho thấy một số Toà án giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự vẫn còn có những sai sót, lúng túng. Để thi hành đúng các quy định của pháp luật, bảo đảm sự thống nhất trong việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự tại các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
I. VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Phần dân sự trong vụ án hình sự được hướng dẫn trong Công văn này bao gồm: đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường giá trị tài sản do tài sản bị chiếm đoạt, nhưng đã bị mất hoặc bị huỷ hoại; buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
2. Về nguyên tắc chung phần dân sự trong vụ án hình sự phải được giải quyết cùng với xem xét về phần hình sự trong cùng vụ án hình sự. Chỉ được tách để giải quyết phần hay một phần dân sự trong vụ án hình sự bằng một vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự;
b. Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu;
c. Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Toà án nói riêng;
d. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân dự vắng mặt tại phiên toà và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
3. Cần chú ý phân biệt phần dân sự trong vụ án hình sự như sau:
a. Phần dân sự trong vụ án hình sự có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Ví dụ 1: Phần dân sự có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm
Nguyễn Văn A chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện năm hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế. Cơ quan điều tra đã chứng minh làm rõ năm hành vi này, nhưng chưa chứng minh thiệt hại do mỗi hành vi cụ thể gây ra và tổng thiệt hại do năm hành vi này gây ra đã đến một trăm triệu đồng hay chưa mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn dân sự là tổng thiệt hại một trăm linh năm triệu đồng. Nguyễn Văn A khai và chứng minh rằng thiệt hại không đến bảy mươi triệu đồng. Trong trường hợp này việc xác định tổng thiệt hại thực tế do năm hành vi cố ý làm trái của Nguyễn Văn A gây ra là rất quan trọng đối với việc xác định cấu thành tội phạm, tức là để kết luận Nguyễn Văn A có phạm tội hay không.
Ví dụ 2: Phần dân sự có liên quan đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trần N dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản gồm 1.000 USD, một xe máy, một đồng hồ đeo tay và một số tài sản khác của anh V với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt theo lời khai của người bị hại là 53 triệu đồng. Cơ quan điều tra chưa chứng minh lời khai của người bị hại có căn cứ hay không, giá trị chiếm đoạt của mỗi loại tài sản và tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế là bao nhiêu. Trần N bị truy tố theo điểm e khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp này việc điều tra chứng minh tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế là bao nhiêu là rất cần thiết vì đó là căn cứ để kết luận Trần N phạm tội cướp tài sản theo khoản nào của Điều 133 Bộ luật Hình sự.
b. Phần dân sự trong vụ án hình sự không có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Ví dụ: Lê B cố ý gây thương tích cho chị C với tỷ lệ thương tật 40% (có kết luận giám định). Trong hồ sơ vụ án chỉ mới làm rõ chị C phải điều trị tại bệnh viện 30 ngày. Chị C yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm với tổng số tiền là 100 triệu đồng, nhưng không nêu từng khoản cụ thể, không cung cấp các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình (ngoài việc cung cấp mấy đơn thuốc). Trong trường hợp này phần dân sự không có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Lê B.
II. VIỆC GIẢI QUYẾT TRONG TỪNG TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
1. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Tố tụng hình sự thì "sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên toà"; do đó, cần phân biệt như sau:
a. Trong trường hợp phần dân sự trong vụ án hình sự thuộc điểm a mục 3 Phần I của Công văn này và xét thấy không thể bổ sung tại phiên toà được thì Thẩm phán căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 151 và điểm a khoản 2 Điều 154 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
b. Trong trường hợp phần dân sự trong vụ án hình sự thuộc điểm b mục 3 Phần I của Công văn này mà vì lý do nào đó cơ quan điều tra chưa thu thập chứng cứ, chứng minh làm rõ thì Thẩm phán có quyền tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên toà, như: yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, có thể triệu tập người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng để lấy lời khai hoặc các việc khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự... Trong trường hợp
này không phân biệt vào kết quả thu thập chứng cứ, chứng minh đã đủ hay chưa, thì trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 151 Bộ luật Tố tụng hình sự Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Căn cứ vào kết quả xét hỏi và xem xét các chứng cứ tại phiên toà sơ thẩm mà Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyết định tương ứng được hướng dẫn tại mục 2 Phần II này.
2. Tại phiên toà hình sự sơ thẩm
Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự tại phiên toà hình sự sơ thẩm cần phân biệt như sau:
a. Trong trường hợp thuộc điểm a mục 3 Phần I của Công văn này mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà và các thành viên khác của Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa phát hiện được hoặc đã phát hiện được nhưng cho rằng có thể bổ sung được thì Hội đồng xét xử sơ thẩm phải tạm dừng phiên toà và vào phòng nghị án thảo luận, thông qua quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần chú ý là nếu qua tranh luận hoặc nghị án mới phát hiện được thì phải trở lại xét hỏi rồi mới xem xét, quyết định.
b. Trong trường hợp thuộc điểm b mục 3 Phần I của Công văn này mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên toà vẫn không làm được rõ hơn và xét thấy thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại mục 2 Phần I của Công văn này thì Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định tách phần dân sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu. Cần chú ý là trong trường hợp này nếu người bị hại, nguyên đơn dân dự thể hiện ý chí là không có yêu cầu giải quyết phần dân sự hoặc các bên đã tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vấn đề này và xét thấy sự thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì Hội đồng xét xử sơ thẩm ghi nhận việc đương sự không có yêu cầu hoặc sự thoả thuận đó của đương sự trong bản án hình sự sơ thẩm.
3. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, nếu Toà án cấp phúc thẩm xét thấy các tài liệu, chứng cứ về phần dân sự trong vụ án hình sự chưa đầy đủ, thì căn cứ vào Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về bổ sung, xem xét chứng cứ tại Toà án cấp phúc thẩm có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới, tiếp nhận những chứng cứ mới do người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị nộp bổ sung. Căn cứ vào kết quả xét hỏi và xem xét chứng cứ cũ, chứng cứ mới tại phiên toà mà Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyết định tương ứng được hướng dẫn tại mục 4 Phần II này.
4. Tại phiên toà hình sự phúc thẩm
a. Trong trường hợp thuộc điểm a mục 3 Phần I của Công văn này mà Toà án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự cũng như tại phiên toà phúc thẩm qua xét hỏi, xem xét những chứng cứ cũ, chứng cứ mới tại phiên toà vẫn không làm rõ được, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 220 và khoản 1 Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự huỷ bản án sơ thẩm để tiến hành lại tố tụng từ giai đoạn điều tra. Cần chú ý là trong vụ án có nhiều bị cáo thì chỉ huỷ bản án sơ thẩm để tiến hành lại tố tụng từ giai đoạn điều tra đối với bị cáo nào mà việc điều tra bổ sung phần dân sự có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm hoặc đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đó. Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự cũng như tại phiên toà phúc thẩm qua xét hỏi, xem xét chứng cứ cũ, chứng cứ mới tại phiên toà và đã làm rõ được thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyết định tương ứng mà
không được huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại. Cần chú ý là trong trường hợp sửa bản án sơ thẩm, thì phải tuân thủ quy định tại Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự.
b. Trong trường hợp thuộc điểm b mục 3 Phần I của Công văn này mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự cũng như tại phiên toà phúc thẩm vẫn không làm được rõ hơn phần dân sự và đây là do việc xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm không đầy đủ, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự trong vụ án hình sự để xét xử sơ thẩm lại với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm khác. Nếu xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã thực hiện các biện pháp để xác minh, thu thập chứng cứ, song vẫn không được và thuộc một trong các trường hợp cần tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu, nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự trong vụ án hình sự và tách phần dân sự này để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân dự, khi có yêu cầu.
5. Tại phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
a. Trong trương hợp thuộc điểm a mục 3 Phần I của Công văn này mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm vẫn không làm rõ được, nhưng vụ án vẫn được xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 254 và Điều 256 hoặc khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự, huỷ bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để tiến hành tố tụng lại từ giai đoạn điều tra. Nếu chỉ có bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị thì huỷ bản án sơ thẩm đó để tiến hành tố tụng lại từ giai đoạn điều tra.
Nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên toà sơ thẩm hoặc tại phiên toà phúc thẩm qua xét hỏi xem xét chứng cứ đã làm rõ được, nhưng Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm xét xử sai thì tuỳ từng trường hợp cụ thể, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào điều luật tương ứng của Bộ luật Tố tụng hình sự huỷ bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm hoặc chỉ huỷ bản án phúc thẩm để xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc từ cấp phúc thẩm. Nếu bản án phúc thẩm có sai lầm, nhưng bản án sơ thẩm đúng thì chỉ huỷ bản án phúc thẩm có sai lầm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
b. Trong trường hợp thuộc điểm b mục 3 Phần I của Công văn này và xét thấy phần dân sự chưa được làm rõ và đây là do việc xác minh, thu thập chứng cứ hoặc bổ sung chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm là không đầy đủ, thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm huỷ quyết định của bản án phúc thẩm hoặc cả quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự để xét xử lại từ cấp phúc thẩm hoặc từ cấp sơ thẩm.
Nếu xét thấy Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm đã thực hiện các biện pháp để xác minh, thu thập chứng cứ, bổ sung chứng cứ, song vẫn không được và thuộc một trong các trường hợp cần tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự, khi có yêu cầu, nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử, thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm huỷ quyết định của bản án phúc thẩm, quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự trong vụ án hình sự và tách phần dân sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu.
III. THỦ TỤC THỤ LÝ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ PHẦN DÂN SỰ TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
1. Trong trường hợp Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu theo hướng dẫn tại các điểm, mục tương ứng Phần II của Công văn này, thì Toà án chỉ thụ lý để giải quyết phần dân sự khi đương sự có yêu cầu (có đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện). Việc thụ lý và giải quyết vụ án được tiến hành theo thủ tục chung theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
2. Trong trường hợp Toà án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp giám đốc hoặc tái thẩm quyết định tiến hành tố tụng lại từ giai đoạn điều tra theo hướng dẫn tại các điểm, mục tương ứng Phần II của Công văn này, thì sau khi nhận được hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến Toà án cấp sơ thẩm thụ lý và chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục chung theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm huỷ quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự để xét xử sơ thẩm lại; Toà án cấp giám đốc huỷ quyết định của bản án phúc thẩm hoặc cả quyết định của bản án sơ thẩm về phần dân sự để xét xử lại từ cấp phúc thẩm hoặc từ cấp sơ thẩm thì việc thụ lý, giải quyết như sau:
a. Theo quy định của pháp luật tố tụng thì Toà án quân sự không có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự. Mặt khác khi phần dân sự bị huỷ để xét xử lại từ cấp phúc thẩm hoặc từ cấp sơ thẩm, thì quyết định về trách nhiệm hình sự đã có hiệu lực pháp luật, trong một số trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt. Để bảo đảm sự thống nhất và do đây là vụ án hình sự, nhưng chỉ bị huỷ phần dân sự để xét xử lại từ cấp phúc thẩm hoặc từ cấp sơ thẩm, cho nên Toà án đã xét xử phúc thẩm hoặc sơ thẩm vụ án đó khi nhận lại hồ sơ vụ án phải vào sổ thụ lý loại vụ án hình sự, phân công Thẩm phán chủ toạ phiên toà và chuẩn bị việc xét xử. Để bảo đảm cho việc xét xử phần dân sự đúng pháp luật, Toà án có quyền tiến hành những việc cần thiết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để xác minh, thu thập chứng cứ và quyết định việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
b. Tuy Toà án mở phiên toà xét xử vụ án hình sự, nhưng chỉ xử về phần dân sự, đồng thời khi xét xử lại vụ án hình sự về phần dân sự nếu bị đơn là người phạm tội thì họ đã bị kết án cho nên không thể buộc họ đứng trước vành móng ngựa một lần nữa (nơi chỉ dành cho bị cáo) và trong một số trường hợp bị đơn không phải là người phạm tội; do đó, để bảo đảm sự thống nhất trong các trường hợp và sự bình đẳng giữa các đương sự, mặc dù mở phiên toà xét xử vụ án hình sự, nhưng được tiến hành như phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
c. Việc tuyên bố khi khai mạc phiên toà và ghi trong phần mở đầu của bản án, ngoài những vấn đề theo quy định chung, cần chú ý thêm cách tuyên bố và ghi như sau:
Hôm nay, ngày......... tháng......... năm........., Toà án......................... mở phiên toà để xét xử vụ án hình sự về phần dân sự giữa:
Nguyên đơn dân sự:......................... là bị hại hoặc là người đại diện hợp pháp của người bị hại và địa chỉ; nếu là cá nhân không phải là người bị hại hoặc cơ quan, tổ chức thì ghi rõ họ, tên cá nhân hoặc tên cơ quan, tổ chức đó và địa chỉ.
Bị đơn dân sự:............................. là người bị kết án trong vụ án và địa chỉ; nếu là cá nhân không phải là người đã bị kết án hoặc cơ quan, tổ chức, thì ghi họ, tên cá nhân hoặc tên cơ quan, tổ chức đó và địa chỉ.
Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao biết để có giải thích, hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 138/2003/KHXX Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2003
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ, NHƯNG CHO HƯỞNG ÁN TREO CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Về việc thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo
Theo quy định tại khoản 2 Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự, thì: "Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định… phạt tù nhưng cho hưởng án treo… thì bản án… của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị". Quy định này cần được hiểu là trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo thì Tòa án phải căn cứ vào khoản 2 Điều 226 và khoản 4 Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác mặc dù bản án sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Việc thi hành ngay bản án hoặc quyết định của Tòa án theo quy định này cần được hiểu là thi hành ngay quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu họ không bị tạm giam về một tội khác, còn việc ra quyết định thi hành bản án cũng như việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo phải được tiến hành theo quy định tại khoản 3 Điều 226, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Điều 7 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ "Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo".
2. Về việc cấp sổ theo dõi người bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo
Căn cứ các quy định tại khoản 3 Điều 226, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Nghị định số 61/2000/NĐ-CP (đã viện dẫn ở trên) thì khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải ra quyết định thi hành án và cấp sổ theo dõi, bản sao bản án cho người bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo để hộ thi hành, còn thủ tục thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đã được hướng dẫn cụ thể tại Điều 7 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP nêu trên. Nếu trên thực tế những Tòa án nào không thực hiện việc cấp sổ theo dõi cho người bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo để họ thi hành là không đúng với quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 140/2003/KHXX Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2003
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 140/2003/KHXX NGÀY 31 THÁNG 10 NĂM 2003 VỀ VIỆC THI HÀNH MỤC 3 PHẦN III NGHỊ QUYẾT SỐ 02/2003/NQ-HĐTP
Kính gửi: Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai
Sau khi nghiên cứu Công văn số 33/CV-TA ngày 22/7/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đề nghị hướng dẫn việc thi hành mục 3 Phần III Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Theo hướng dẫn tại mục 3 Phần III Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003, thì Tòa án xem xét giải quyết việc miễn chấp hành hình phạt cho người bị kết án đối với các trường hợp mà theo các văn bản hướng dẫn trước đây người đó bị coi là có tội, nhưng nay theo Nghị quyết này thì hành vi của người đó không bị coi là có tội. Hướng dẫn của Nghị quyết này được áp dụng đối với tất cả các trường hợp người phạm tội bị kết án trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực pháp luật không phân biệt là khi xét xử Tòa án áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985 hay Bộ luật Hình sự năm 1999 (ngoài các trường hợp đã được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại điểm b mục 2, các điểm c, d mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội; mục 4 Nghị quyết số 299/2000/NQ-UBTVQH 10 ngày 28/1/2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 12/6/2000 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội và Nghị quyết số 299/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28/1/2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội"; Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 12/6/2000 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội").
2. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự và đối chiếu với trường hợp mà quý Tòa nêu trong Công văn số 33/CV-TA, thì Tòa án nhân dân tỉnh A nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc là Tòa án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù. Về thủ tục miễn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo tinh thần quy định tại khoản 2 này thì hồ sơ đề nghị xét miễn chấp hành hình phạt tù là do Viện kiểm sát cùng cấp chuẩn bị và đề nghị.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để quý Tòa tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể ở địa phương mình.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2023 Số: 56/TANDTC-V1 V/v trả kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang (do Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyển đến tại Công văn số 2081/BDN ngày 30/12/2022) với nội dung: “Hiện nay, một số vụ án trong quá trình xét xử thời gian kéo dài, triệu tập nhiều lần trong điều tra, xét hỏi, xử không đúng tội danh, phải trả hồ sơ để điều tra, xác minh bổ sung...gây mất thời gian và chưa nghiêm minh. Do đó đề nghị tăng cường chất lượng công tác xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật”.
Về vấn đề này, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xin trả lời như sau:
Hiện nay, tình hình tội phạm diễn ra khó lường, hành vi phạm tội ngày càng được thực hiện một cách tinh vi, xảo quyệt, số người phạm tội là người có trình độ cao ngày càng nhiều, tính chất của hành vi phạm tội ngày càng phức tạp, tỷ lệ phạm tội liên quan đến công nghệ thông tin, lợi dụng chính sách, xuyên biên giới, có tổ chức,... ngày càng gia tăng. Do đó, quá trình giải quyết một số vụ án có tính chất phức tạp bị kéo dài. Có vụ phải trả hồ sơ điều tra, xác minh bổ sung để củng cố chứng cứ, làm rõ những nội dung mà ở giai đoạn điều tra Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa thực hiện, bảo đảm có đủ căn cứ để xác định bản chất khách quan của vụ án, tránh để oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Đối với một số vụ án xét xử không đúng tội danh, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 01/2023/CT-CA ngày 03/01/2023 về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án năm 2023, trong đó có nội dung sau:
- “Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, bảo đảm xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm cũng như vi phạm thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, áp dụng hình phạt khác không phải là hình phạt tù phải bảo đảm có căn cứ, đúng pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ, đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án dư luận xã hội quan tâm; nhất là chủ động, tích cực tổ chức xét xử nghiêm túc, đảm bảo đúng tiến độ, đúng pháp luật đối với các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo.”
- “Triển khai sâu rộng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả. Tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm để giúp các Thẩm phán tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao chất lượng tổ chức phiên tòa và coi đây là một trong các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Thẩm phán.”
Thời gian vừa qua, để nâng cao chất lượng xét xử Tòa án nhân dân tối cao vẫn thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn trực tuyến trong phạm vi cả nước về công tác chuyên môn (điểm cầu kết nối từ các Tòa án cấp huyện cho đến Tòa án nhân dân tối cao), giải đáp những vướng mắc trong công tác xét xử; triển khai thành công phần mềm Trợ lý ảo để giúp các Thẩm phán có điều kiện nghiên cứu, so sánh, đối chiếu các vụ án đang thụ lý với các vụ án tương tự đã xét xử; tăng cường phát triển án lệ, giúp tạo nguồn nghiên cứu, áp dụng cho các Thẩm phán.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xin chân thành cảm ơn ý kiến góp ý của cử tri tỉnh An Giang; đồng thời, mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm của cử tri và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang đối với công tác của Tòa án; thông qua đó, sẽ giúp Tòa án nhân dân tối cao đề ra các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống.
Trân trọng./
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Ban Dân nguyện Ủy ban thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Cổng thông tin điện tử TANDTC; - Lưu: VP, Vụ GĐKT I (2bMTrg).
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2023 Số: 57/TANDTC-V1 V/v trả kiến nghị của cử tri tỉnh Lạng Sơn
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Lạng Sơn (do Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội chuyển đến tại Công văn số 2081/BDN ngày 30/12/2022) với nội dung: “Cử tri đề nghị Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc quyết định kháng nghị hay không kháng nghị đối với các bản án tử hình theo quy định tại Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự”.
Về vấn đề này, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xin trả lời như sau:
Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành, trong đó quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao như sau:
“1. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được thực hiện:
a) Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (...).
b) Sau khi đã xem xét hồ sơ vụ án để quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án nhân dân tối cao phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.
Thực hiện quy định trên, trong thời gian qua và hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang tích cực, khẩn trương và rất thận trọng khách quan thực hiện xem xét bản án tử hình trước khi thi hành. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy bản án tử hình là có căn cứ thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quyết định không kháng nghị; nếu xét thấy bản án tử hình vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, hình phạt chưa phù hợp với quy định của pháp luật thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm để xem xét lại. Như vậy, công tác xem xét bản án tử hình trước khi thi hành của Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện chặt chẽ, cẩn trọng, bảo đảm đúng quy định nên đòi hỏi nhiều thời gian và nguồn nhân lực.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xin chân thành cảm ơn ý kiến góp ý của cử tri tỉnh Lạng Sơn; đồng thời, mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm của cử tri và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn đối với công tác của Tòa án; thông qua đó, sẽ giúp Tòa án nhân dân tối cao đề ra các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống.
Trân trọng./
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Ban Dân nguyện Ủy ban thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Cổng thông tin điện tử TANDTC; - Lưu: VP, Vụ GĐKT I (2bMTrg).
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 72/2004/KHXX Hà Nội, ngày 21 tháng 4 năm 2004
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 72/2004/KHXX NGÀY 21 THÁNG 4 NĂM 2004
Kính gửi:
- Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án Quân sự các cấp - Đồng chí Chánh án Toà án quân sự Trung ương, các đồng chí Chánh Toà các Toà Phúc thẩm và Toà Hình sự Toà án nhân dân tối cao
Ngày 17/3/2003 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ- UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư Liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/03/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 388 này (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01). Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, đồng chí Chánh án Toà án quân sự Trung ương, các đồng chí Chánh toà các Toà phúc thẩm và toà hình sự Toà án nhân dân tối cao tổ chức thực hiện Nghị Quyết số 388 và Thông tư liên tịch số 01 như sau:
1. Về Thẩm quyền tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại
a. Trường hợp bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Toà án nhân dân địa phương hoặc Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực (nếu có), thì đồng chí Chánh án Toà án đó tổ chức thực hiện tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại.
b. Trường hợp bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Toà án nhân dân Tối cao (nếu có), thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao uỷ quyền việc tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại như sau:
- Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại do Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao gây ra (nếu có), thì uỷ quyền cho đồng chí Chánh toà Toà phúc thẩm đó tổ chức tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại.
- Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại do Toà án quân sự Trung ương gây ra (nếu có), thì Uỷ quyền cho đồng chí Chánh án Toà án quân sự trung ương tổ chức tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại.
- Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại do Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao hoặc do Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (trước đây) gây ra (nếu có), thì Uỷ quyền cho đồng chí Chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao tổ chức tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại.
2. Về việc tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại
Sau khi nhận được đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại và các giấy tờ kèm theo cần phải tổ chức xem xét ngay để:
a. Nếu xét thấy trường hợp cụ thể đó là được bồi thường thiệt hại và việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của mình tổ chức giải quyết, thì tổ chức tiến hành giải quyết bồi thường thiệt hại ngay theo đúng quy định của Nghị quyết số 388 và hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01.
b. Nếu xét thấy trường hợp cụ thể đó là được bồi thường thiệt hại, nhưng còn có tranh chấp về việc cơ quan tiến hành tố tụng nào có trách nhiệm bồi thường hoặc về việc trường hợp cụ thể đó có được bồi thường thiệt hại hay không, thì cần giải quyết ngay theo hướng dẫn tại phần VII Thông tư liên tịch số 01.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc thì yêu cầu các đồng chí báo cáo cho Toà án nhân nhân tối cao biết để có giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2004 Số: 89/2004/KHXX V/v sử dụng hạn chế bất động sản liền kề
Kính gửi: Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
Sau khi nghiên cứu Công văn số 27/TA ngày 29/3/2004 của Toà án nhân dân huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, Viện Khoa học xét xử - Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 278 của Bộ luật Dân sự thì: “Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các của mình về lối đi, cấp, thoát nước, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý nhưng phải đền bù, nếu không có thoả thuận khác”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 278 nêu trên thì căn cứ để phát sinh quyền sử dụng bất động sản liền kề là nhu cầu về lối đi, cấp, thoát nước, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý. Các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý có thể là nhu cầu về sửa chữa, xây dựng nhà ở... mà cần phải sử dụng bất động sản liền kề hoặc khoảng không gian trên khuôn viên bất động sản liền kể của người khác.
Đối chiếu với trường hợp nêu trong Công văn số 27/TA ngày 29/3/2004 của quý Toà thì ông Đặng Văn Trung có quyền yêu cầu được sử dụng hạn chế bất động sản liền kề thuộc sở hữu của ông Đỗ Trung Hoàng để tô tường nhà theo quy định tại Điều 278 của Bộ Luật dân sự.
Khi giải quyết yêu cầu của ông Đặng Văn Trung quý Toà cần tiến hành hoà giải để hai bên thương lượng, thoả thuận với nhau về cách thức sử dụng khoảng không gian, tiền đền bù thoả đáng cho việc sử dụng khoảng không gian đó.
Trong trường hợp các bên không thoả thuận được về mức độ đền bù thì Toà án buộc ông Đặng Văn Trung phải thanh toán khoản tiền đền bù thoả đáng cho Đỗ Trung Hoàng.
Trên đây là ý kiến của Viện khoa học xét xử - Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong việc giải quyết vụ án cụ thể tại địa phương.
TL. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Q. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KHOA HỌC XÉT XỬ Nguyễn Văn Luật
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 03 tháng 6 năm 2004 Số: 100/2004/KHXX V/v giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
Sau khi nghiên cứu Công văn số 39/2004/CV-TDS ngày 06/4/2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Dân sự thì người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết. Theo quy định của pháp luật thì cha, mẹ và con, anh chị em ruột với nhau bao giờ cũng có quyền, lợi ích liên quan đối với nhau; do đó, về nguyên tắc chung họ có thể yêu cầu Toà án quyết định tuyên bố người kia là đã chết theo quy định của pháp luật.
2. Để xác định Toà án nhân dân cấp huyện hay Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là đã chết phải căn cứ vào quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; cụ thể là:
- Trong trường hợp người yêu cầu Toà án tuyên bố một người là đã chết cư trú ở Việt Nam (không có sự tham gia của người Việt Nam ở nước ngoài...) thì đây là loại việc dân sự không có yếu tố nước ngoài, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện. Đối với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 39/2004/CV-TDS mà chỉ có một mình anh Nguyễn Việt Kiều có đơn yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố anh Nguyễn Hữu Trúc Khanh là đã chết thì Toà án nhân dân huyện Giá Rai có thẩm quyền giải quyết.
- Đối với trường hợp trong số những người có đơn yêu cầu gửi Toà án vừa có người cư trú ở Việt Nam vừa có người định cư ở nước ngoài thì đây là loại việc dân sự có yếu tố nước ngoài, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Đối với trường hợp quý Toà nêu trong Công văn số 39/2004/CV-TDS mà cả anh Nguyễn Việt Kiều và bố mẹ anh định cư ở nước ngoài đều có đơn yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố anh Nguyễn Hữu Trúc Khanh là đã chết thì Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu có thẩm quyền giải quyết.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong việc giải quyết vụ án cụ thể tại địa phương.
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 07 tháng 6 năm 2004
Số: 102/2004/KHXX V/v giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Kính gửi: Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 1047/DS ngày 20/4/2004 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra được quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự và tại Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47).
Các văn bản quy phạm pháp luật nói trên quy định nguyên tắc chung đối với việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ Điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Điều 6 Nghị định số 47 có quy định “trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại hoặc một trong các bên không thực hiện nghiêm chỉnh thoả thuận, thì các bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết”. Tuy nhiên, việc Toà án giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải theo quy định của cơ quan có thẩm quyền (trường hợp nào được bồi thường, các khoản được bồi thường, mức bồi thường...). Cho đến thời điểm này Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mới có Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết này. Như vậy, cho đến thời điểm này trong trường hợp các bên không thương lượng được với nhau về việc bồi thường thiệt hại hoặc trong trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không tiến hành thương lượng trong hạn luật định đối với thiệt hại do người thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra thì người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Toà án giải quyết và Toà án phải thụ lý giải quyết theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên.
Đối với các trường hợp yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và thi hành án dân sự gây ra, theo quy định của pháp luật thì đây là quyền của đương sự, nhưng do chưa có quy định cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho nên Toà án chưa có căn cứ để thụ lý giải quyết. Vì vậy, khi có đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này thì Toà án chưa thụ lý giải quyết.
Toà án nhân dân tối cao thông báo để quý Toà biết.
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN
Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2004 Số: 117/2004/KHXX V/v Triển khai thi hành BLTTHS năm 2003
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp - Các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Bộ Luật tố tụng hình sự mới; Bộ Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2004. Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 (sau đây viết tắt là BLTTHS), Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp triển khai nghiên cứu kỹ các quy định của BLTTHS; đặc biệt là những quy định mới được sửa đổi, bổ sung. Trong khi chưa có các văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, Toà án nhân dân tối cao lưu ý một số điểm sau đây:
I. VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA
1. Đối với luật sư
Cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định tại các điều 56, 57, 58 và 190 BLTTHS cũng như các quy định của Pháp lệnh luật sư và những văn bản có liên quan để xem xét việc cấp giấy chứng nhận (hoặc không cấp giấy chứng nhận) người bào chữa cho luật sư. Đặc biệt, cần lưu ý quy định bổ sung tại Điều 190 BLTTHS về việc nếu người bào chữa vắng mặt thì Toà án vẫn mở phiên toà xét xử, trừ trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS.
2. Đối với người đại diện hợp pháp của bị cáo
Cần nghiên cứu và nắm chắc các quy định tại các điều 56 và 57 BLTTHS và những văn bản có liên quan để xác định đúng trường hợp nào thì được công nhận là đại diện hợp pháp của bị cáo và được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo.
3. Đối với bào chữa viên nhân dân
Tại Khoản 3 Điều 57 BLTTHS đã bổ sung quy định: “Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”. Để thi hành đúng và thống nhất quy định này, cần lưu ý về những điều kiện và những thủ tục cần thiết để được công nhận là bào chữa viên nhân dân.
II. VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử
Cần thi hành đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS về thời hạn chuẩn bị xét xử, cụ thể là trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phải ra
một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày. Đối với những vụ án phức tạp thì Chánh án Toà án cấp sơ thẩm có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ theo từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.
2. áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Toà án cấp sơ thẩm phải xem xét ngay việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; cần xem xét ngay trường hợp nào vẫn còn thời hạn tạm giam, trường hợp nào đã hết thời hạn tạm giam và cần thiết phải tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam. Đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên toàn thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết hoặc còn ít hơn bốn mươi ngày thì theo quy định tại Điều 228 BLTTHS, Hội đồng xét xử cần phải ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Không được ghi trong bản án “tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án” như trước khi BLTTHS có hiệu lực thi hành.
3.Về việc hoãn phiên toà
Việc hoãn phiên toà phải thực hiện đúng theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 190, 191, 192, 193 và 194 BLTTHS. Lý do hoãn phiên toà phải được ghi rõ trong biên bản phiên toà và lưu vào hồ sơ vụ án. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm là không quá ba mươi ngày, kể từ ngày quyết định hoãn phiên toà.
4. Về việc giao bản án
Việc giao bản án của Toà án phải thực hiện đúng các quy định tại Điều 229 BLTTHS, cụ thể như sau:
Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Cần lưu ý là trong trường hợp vụ án có bị cáo hoặc đương sự khác (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự...) vắng mặt tại phiên toà sơ thẩm thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi bản án cho người vắng mặt đồng thời tiến hành niêm yết bản án tại Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để có căn cứ xác định thời hạn kháng cáo, kháng nghị (việc niêm yết bản án phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân nơi niêm yết bản án và lưu vào hồ sơ vụ án).
III. XÉT XỬ PHÚC THẨM
1. Xét kháng cáo quá hạn
Việc xét kháng cáo quá hạn phải được thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 235 BLTTHS; cụ thể là Toà án cấp phúc thẩm phải thành lập một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán để xét kháng cáo quá hạn; Hội đồng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Như vậy, trong trường hợp có bị cáo kháng cáo quá hạn thì việc xét kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm không phụ thuộc vào việc ngoài bị cáo kháng cáo quá hạn, thì trong vụ án đó còn có kháng cáo của các bị cáo khác hoặc đương sự khác trong hạn luật định hay không. Chỉ trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo quá hạn của bị cáo và người này cần có mặt tại phiên toà phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét hỏi về hành
vi phạm tội của những bị cáo khác thì họ được triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm với tư cách là người làm chứng.
2. Về việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm phải xem xét ngay việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam đã hết hoặc còn ít hơn bốn mươi ngày, thì Hội đồng xét xử phải ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
3. Việc giao bản án và quyết định phúc thẩm
Việc giao bản án và quyết định phúc thẩm cần được thực hiện đúng quy định tại Điều 245 BLTTHS; cụ thể là trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho người kháng nghị, Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án phúc thẩm có tuyên hình phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
Nhận được Công văn này đề nghị các đồng chí Chánh án các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đồng chí Chánh án Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phổ biến và quán triệt cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị mình biết để bảo đảm việc thực hiện đúng và thống nhất các quy định của BLTTHS.
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2004
Số: 116/2004/KHXX V/v thực hiện thẩm quyền của TAND theo quy định của Luật Đất đai năm 2003
Kính gửi:
- Các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Các đơn vị trực thuộc Toà án nhân dân tối cao
Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004. Toà án nhân dân tối cao cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang khẩn trương hoàn thiện Thông tư liên tịch hướng dẫn về thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003. Trong khi chờ văn bản hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối cao lưu ý Toà án nhân dân các địa phương thực hiện một số điểm sau đây:
1. Về đối tượng đất mà tranh chấp về quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết. Quy định này đã được hướng dẫn thi hành tại Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC ngày 03-01-2002 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính “Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất. Như vậy, so với quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 về thẩm quyền của Toà án nhân dân giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, thì thẩm quyền của Toà án nhân dân giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 được mở rộng hơn nhiều; do đó, kể từ ngày 01-7-2004 trở đi, sau khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự Toà án phải căn cứ vào quy định tại Điều 136, các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nhằm xác định đúng thẩm quyền và thụ lý giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo thủ tục chung.
2. Theo tinh thần quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì tranh chấp đất đai nhất thiết phải qua hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp. Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là UBND cấp xã) mà một bên hoặc các bên là đương sự không nhất trí, thì họ có quyền khởi kiện đến Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết (nếu tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân theo quy định tại Điều 136). Khi áp dụng quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Toà án cần chú ý:
a. Kể từ ngày 01-7-2004 trở đi Toà án chỉ thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai, nếu tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí và khởi kiện đến Toà án. Trong trường hợp đương sự nộp đơn khởi kiện yêu cầu Toà án thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai mà tranh chấp đó chưa qua hoà giải tại UBND cấp xã thì Toà án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và hướng dẫn cho họ thực hiện theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật Đất đai năm 2003.
b. Đối với tranh chấp đất đai mà Toà án đã thụ lý trước ngày 01-7-2004 thì Toà án tiếp tục giải quyết mà không trả lại đơn khởi kiện cho đương sự để tiến hành việc hoà giải tại UBND cấp xã.
3. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, thì tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng.
b. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có thể khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định cuối cùng.
Căn cứ vào các quy định nêu trên thì sau khi có quyết định giải quyết cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, đương sự không có quyền khiếu kiện đối với quyết định đó tại Toà án nhân dân, trong trường hợp này nếu đương sự gửi đơn đến Toà án, thì Toà án căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 136, khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003, khoản 3 Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trả lại đơn cho đương sự.
4. Việc giải quyết khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai được quy định tại Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 cần chú ý như sau:
a. Khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 bắt buộc phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là chủ tịch UBND cấp huyện) hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Chủ tịch UBND cấp tỉnh) giải quyết. Sau khi có quyết định giải quyết lần đầu của Chủ tịch UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân; do đó, đối với trường hợp đương sự gửi đơn khiếu kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai đến Toà án mà khiếu kiện đó chưa có quyết định giải quyết lần đầu của người có thẩm quyền quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 thì Toà án không thụ lý.
b. Thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai, thời hạn khiếu nại tiếp theo đến cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án nhân dân được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003. Các thời hạn này khác với thời hiệu khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; do đó cần thực hiện quy định về thời hiệu, thời hạn quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003.
5. Cần lưu ý là theo quy định tại khoản 3 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 thì từ nay trở đi việc giải quyết khiếu nại về đất đai quy định tại khoản 2 Điều này không bao gồm trường hợp khiếu nại về quyết định giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003. Theo tinh thần quy định này đối với quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai quy định tại khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, đương sự không có quyền khởi kiện tại Toà án.
6. Khi giải quyết tranh chấp về đất đai, Toà án cần nghiên cứu kỹ nội dung hướng dẫn tại mục 1 Phần I Công văn số 2162/BTNMT-ĐĐ ngày 02-7-2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại về đất đai để thực hiện cho đúng.
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2004
Số: 118/2004/KHXX V/v thi hành Mục 4 Nghị quyết số 32/2004/QH11 của Quốc hội
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà án nhân dân tối cao
Ngày 15-6-2004, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 5 đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 32/2004/QH11 “Về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự”.
Mục 4 của Nghị quyết quy định:
“Kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự được công bố cho đến ngày có hiệu lực:
a) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Bộ luật tố tụng dân sự được công bố thì áp dụng theo quy định tương ứng tại Điều 73 và Điều 79 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 77 và Điều 83 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Điều 75 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động;
b) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động có hiệu lực pháp luật sau ngày Bộ luật tố tụng dân sự được công bố thì áp dụng theo quy định tại Điều 288 và Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự”.
Ngày 24-6-2004 Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 13/2004/L/CTN về việc công bố Bộ luật tố tụng dân sự và Lệnh số 17/2004/L/CTN về việc công bố Nghị quyết số 32/2004/QH11.
Để thi hành đúng quy định tại Mục 4 nêu trên, Toà án nhân dân tối cao lưu ý một số điểm như sau:
1. Về việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 ngày 24-6-2004 (ngày Bộ luật tố tụng dân sự được công bố).
a. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình chỉ được tiến hành trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; việc kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự này thì không bị hạn chế về thời gian. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày phát hiện được tình tiết quy định tại Điều 78 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; việc kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào không bị hạn chế về thời gian.
b. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định kinh tế là chín tháng và thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
c. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc, tái thẩm đối với bản án, quyết định lao động là sáu tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nếu việc kháng nghị có lợi cho người lao động, thì thời hạn đó là một năm.
2. Về việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động có hiệu lực pháp luật sau 0 giờ ngày 24-6-2004.
a. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động được tiến hành trong thời hạn chung là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
b. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động được tiến hành trong thời hạn chung là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 305 của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
a. Đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trước 0 giờ 00 ngày 24-6-2004, thì Hội đồng giám đốc thẩm có quyền quyết định theo quy định tương ứng tại Điều 77 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tại Điều 80 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, tại Điều 78 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.
b. Đối với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động đã có hiệu lực pháp luật mà bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sau 0 giờ 00 ngày 24-6-2004 thì Hội đồng giám đốc thẩm có quyền quyết định theo quy định tại Điều 297 của Bộ luật tố tụng dân sự, cụ thể là:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
- Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;
- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
- Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.
Nhận được Công văn này, đề nghị các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đồng chí Chánh án Toà án dân sự, Toà án kinh tế, Toà án lao động, Toà án nhân dân tối cao cần phổ biến và quán triệt cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị mình biết để bảo đảm thực hiện đúng quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15-6- 2004 của Quốc hội.
KT. CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 222/2004/KHXX Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2004
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 222/2004/KHXX NGÀY 17 THÁNG 12 NĂM 2004 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG GÂY RA
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 25/CV-TA ngày 25-9-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra được quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự và tại Nghị định số 47/CP ngày 03-5-1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47).
Các văn bản quy phạm pháp luật nói trên quy định nguyên tắc chung đối với việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Điều 6 Nghị định số 47 có quy định "trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại hoặc một trong các bên không thực hiện nghiêm chỉnh thoả thuận, thì các bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết". Tuy nhiên, việc Toà án giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố xét xử và thi hành án phải theo quy định của cơ quan có thẩm quyền (trường hợp nào được bồi thường, các khoản được bồi thường, mức bồi thường...). Cho đến thời điểm này Uỷ ban thường vụ Quốc hội mới có Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương đã ban hnàh Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25-3-2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết này. Như vậy cho đến thời điểm này trong trường hợp các bên không thương lượng được với nhau về việc bồi thường thiệt hại hoặc trong trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không tiến hành thương lượng trong hạn luật định đối với thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra thì người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Toà án giải quyết và Toà án phải thụ lý giải quyết theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên.
Đối với các trường hợp yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và thi hành án dân sự gây ra, theo quy định của pháp luật thì đây là quyền của đương sự, nhưng do chưa có quy định cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho nên Toà án chưa có căn cứ để thụ lý giải quyết. Vì vậy, khi có đơn yêu cầu Toà án giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này thì Toà án chưa thụ lý giải quyết.
Toà án nhân dân tối cao thông báo để quý Toà biết.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2004 Số: 242/CV-TA Về công tác đấu tranh chống tham nhũng
Kính gửi:
- Thủ trưởng các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao; - Chánh án Toàn án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Chánh án Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Trong thời gian qua, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng tình hình tham nhũng trên thực tế vẫn chưa có chiều hướng giảm bớt thậm chí ngày càng phức tạp về quy mô và tính chất, việc xử lý các hành vi tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay. Quán triệt sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) về tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
I. TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG:
1. Các Toà án các cấp cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, Viện kiểm sát và các cơ quan chức năng khác để khẩn trương phát hiện, điều tra, kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm về tham nhũng.
2. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát cùng cấp chuyển sang phải phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà, khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và bố trí lịch xét xử để sớm đưa vụ án ra xét xử kịp thời. Cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản của Nhà nước.
3. Cần đặc biệt quan tâm tới các biện pháp kê biên tài sản và các biện pháp tư pháp, các hình phạt bổ sung nhằm thu hồi tài sản của Nhà nước đã bị các bị cáo chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại.
4. Thông qua công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, nếu Toà án phát hiện có sự buông lỏng trong công tác quản lý là nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm thì ngoài việc quyết định xử phạt đối với bị cáo, cần ra quyết định yêu cầu cơ quan hoặc tổ chức có liên quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục các nguyên nhân, điều kiện đó. Mặt khác, nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, Hội đồng xét xử phải xem xét để ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự.
5. Cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để mở một số phiên toà lưu động xét xử các vụ án về tham nhũng và có kế hoạch tổ chức tuyên truyền, đưa tin kịp thời về kết quả của phiên toà, nhằm nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa và phát động quần chúng tham gia đấu tranh phát hiện, tố giác loại tội phạm này.
II. TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGHIỆP VỤ, QUẢN LÝ CÁN BỘ, QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
1. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, công chức Toà án. Tăng cường công tác quản lý nghiệp vụ, quản lý cán bộ nhằm ngăn chặn kịp thời các biểu hiện tiêu cực trong quá trình giải quyết các loại vụ án. Thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao vai trò và vị trí của Ban thanh tra nhân dân, các tổ chức Đảng, đoàn thể đối với việc phát hiện các hành vi tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức trong cơ quan Toà án.
2. Thực hiện đúng các nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính của nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các vi phạm và thất thoát trong lĩnh vực này; các khoản chi tiêu được ngân sách Nhà nước cấp phải sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm.
3. Xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung quy chế công tác của đơn vị, đơn giản hoá thủ tục hành chính tư pháp của Toà án nhằm ngăn chặn, loại trừ việc sách nhiễu hoặc gây phiên hà đối với nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác của các Toà án.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với tập thể và cá nhân cán bộ, công chức Toà án có vi phạm; đối với các cán bộ, công chức Toà án có hành vi tham nhũng thì kiên quyết loại ra khỏi ngành. Đơn vị nào có người bị phát hiện có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng đơn vị đó phải kiểm điểm về trách nhiệm quản lý.
Trên đây là một số nhiệm vụ nhằm tăng cường công tác đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình hiện nay, Chánh án Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí nêu cao tinh thần trách nhiệm, quán triệt đến toàn thể cán bộ công chức trong đơn vị và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc công văn này.
CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Nguyễn Văn Hiện
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******* CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc *******
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2004
Số: 227/2004/KHXX V/v ủy quyền của Chủ tịch UBND tham gia tố tụng tại TAND
Kính gửi:
- Các Tòa án Nhân dân huyện, quận, thị Xã, Thành phố thuộc tỉnh - Các Tòa án Nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
Trong thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao nhận được Công văn của một số Tòa án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn việc có chấp nhận hay không chấp nhận văn bản của Ủy ban nhân dân do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký ủy quyền cho cán bộ thuộc quyền, đại diện tham gia tố tụng dân sự, hành chính. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân các cấp như sau:
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hành chính thì đương sự là pháp nhân tham gia tố tụng thông qua người lãnh đạo của mình hoặc người đại diện được pháp nhân ủy quyền bằng văn bản.
Theo quy định tại Điều 126 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì “Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Ủy ban nhân dân… Phó chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công và phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao…”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên đây thì Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thông qua Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc người đại diện được Chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy quyền bằng văn bản.
Đối với trường hợp Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án dân sự, hành chính liên quan đến lĩnh vực Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công phụ trách thì Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân được quyền tự mình thay mặt Chủ tịch Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng hoặc ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia tố tụng Tòa án chấp nhận văn bản ủy quyền đó là hợp pháp.
KT. CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Đã ký: Đặng Quang Phương
-------------------------------------------------------------
Sao lục số: 12/VP Hà Nội, ngày 14 tháng 1 năm 2005
Nơi nhận: - Các đ/v: Vụ 5, Vụ 12, VPT1, VPT2, 3, hai trường KS, TCKS, Báo BVPL; - Các VKS tỉnh, TP - Lưu. 90b
TL. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ VĂN PHÒNG Đỗ Đức Thà
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 18/2005/KHXX Hà Nội, ngày 02 tháng 2 năm 2005
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 18/2005/KHXX NGÀY 02 THÁNG 02 NĂM 2005 VỀ VIỆC THAM GIA PHIÊN TÒAPHÚC THẨM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Kính gửi:
- Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Tòa án nhân dân tối cao nhận được Công văn số 86/CV-VKSTC-V5 ngày 14/01/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị phối hợp hướng dẫn thi hành quy định tại Khoản 2 Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự về việc tham gia phiên tòa phúc thẩm của Viện Kiểm sát nhân dân đối với các vụ án đã được xét xử sơ thẩm trước ngày 01/01/2005 mà sau ngày 01/01/2005 mới được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Sau khi thống nhất ý kiến với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân các cấp như sau:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự thì "Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp Viện Kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm". Tuy nhiên, Viện Kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm trong những trường hợp quy định tạ Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào những quy định trên đây của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động đã được xét xử sơ thẩm trước ngày 01/01/2005 mà Viện Kiểm sát cùng cấp đã tham gia phiên tòa sơ thẩm, nhưng sau ngày 01/01/2005 Tòa án mới đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm, thì về nguyên tắc chung Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân biết lịch xét xử vụ án và đề nghị Viện Kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa phúc thẩm. Trong trường hợp khi mở phiên tòa mà Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm thì cần phân biệt như sau:
1. Nếu Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên tòa sơ thẩm thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì khi Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Khoản 1 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Nếu Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp đã tham gia phiên tòa sơ thẩm không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì khi Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
Đặng Quang Phương
(Đã Ký)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 106/2005/KHXX Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2005
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 106/2005/KHXX NGÀY 13 THÁNG 5 NĂM 2005 VỀ VIỆC TRANG PHỤC CỦA BỊ CÁO TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp - Các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Ngày 24 tháng 12 năm 2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 743/2004NQ-UBTVQH11 “Về trang phục của bị cáo tại phiên toà xét xử vụ án hình sự”.
Điều 1 Nghị quyết này quy định: “Tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bị cáo là người được tại ngoại và bị cáo đang bị tạm giam được sử dụng thường phục, nhưng phải đảm bảo sự trang nghiêm; bị cáo là quân dân tại ngũ được sử dụng quân phục thường dùng, nhưng không đeo quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu.
Bị cáo là người đang chấp hành hình phạt tù khi ra phiên toà thì sử dụng trang phục riêng cho họ theo quy định của Chính phủ”.
Cho đến nay Nghị quyết đã có hiệu lực thi hành được hơn bốn tháng. Tuy nhiên qua phản ánh của các cơ quan thông tin đại chúng cho thấy đến thời điểm này tại một số phiên toà của một số Toà án nhân dân địa phương, cũng như của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, các bị cáo đang bị tạm giam vẫn mặc trang phục theo quy định của Chính phủ đối với người đang chấp hành hình phạt tù (trang phục kẻ sọc đen trắng đối với phạm nhân). Để góp phần chấm dứt tình trạng này, thi hành nghiêm chỉnh Nghị quyết nói trên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp, các Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao từ nay trở đi khi gửi Lệnh trích xuất bị cáo cho Ban giám thị Trại tạm giam cần ghi vào Lệnh trích xuất bị cáo như sau:
“Ghi chú: Yêu cầu Ban giám thị Trại tạm giam cho các bị cáo mặc trang phục tại phiên toà theo đúng quy định tại Điều 1 Nghị quyết 743/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về trang phục của bị cáo tại phiên toà xét xử vụ án hình sự”.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 13 tháng 06 năm 2005
Số: 132/2005/KHXX V/v: đòi cơ quan thi hành án trả lại tài sản
Kính gửi: Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất - tỉnh Kiên Giang
Tòa án nhân dân tối cao nhận được Bản kiến nghị ngày 12-5-2005 của cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất và bản kiến nghị số 96/CV-THA ngày 20-5-2005 của Cơ quan thi hành án tỉnh Kiên Giang kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang thụ lý đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Đẹp vợ ông Lưu Bỉnh Hiền (thụ lý số 97/DSST ngày 6-4-2005) đòi cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất trả lại số tiền 222.500.000đ đang bị kê biên tạm giữ để bảo đảm thi hành án cho ông Hiền và việc triệu tập cơ quan thi hành án huyện Hoàn Đất tham gia hòa giải với tư cách là bị đơn trong vụ án là không đúng quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự.
Sau khi nghiên cứu nội dung các bản kiến nghị của cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất và cơ quan thi hành án tỉnh Kiên Giang cùng các tài liệu gửi kèm theo, Tòa án nhân dân tối cao lưu ý Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất một số vấn đề sau đây:
Bà Phạm Thị Đẹp có quan hệ sống chung với ông Lưu Bỉnh Hiền (Việt kiều tại Mỹ). Ông Lưu Bỉnh Hiền là người phải thi hành án theo bản án dân sự số 230/DSPT ngày 05-10-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định số 03/QĐ-HGT ngày 27-5-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang với tổng số tiền phải thi hành án là 222.500.000đ.
Số tiền 222.500.000đ mà Cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất, thu từ số tiền bà Đẹp, ông hiền bán nhà đất bị kê biên cho bà Phượng tương ứng với số tiền mà ông Hiền phải thi hành án. Nay bà Đẹp khởi kiện Cơ quan thi hành ánh huyện Hòn Đất ra Tòa án huyện Hòn Đất để đòi lại số tiền đó với lý do số tiền này là rài sản riêng của bà Đẹp.
Để xem xét giải quyết yêu cầu của bà Đẹp, Tòa án phải phân biệt như sau:
1. Cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất đã kê biên thu giữ số tiền 222.500.000đ để thi hành án đối với ông Hiền.
Nếu bà Đẹp, ông Hiền cho rằng quyết định kê biên, giữ tài sản của Chấp hành viên Cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bà Đẹp và ông Hiền, thì bà Đẹp ông Hiền có quyền khêíu nại quyết định đó đến thủ trưởng cơ quan thi hành án có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục quy định tại Điều 60 và Điều 62 của Pháp lệnh thi hành án dân sự mà không có quyền khởi kiện Chấp hành viên hoặc Cơ quan thi hành án ra Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
2. Bà Đẹp chỉ có quyền khởi kiện ra Tòa án trong trường hợp quy định tại Khoản 5 Điều 41 Pháp lệnh thi hành án dân sự; cụ thể là:
“Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên và giải thích cho đương sự về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn ba tháng, kể từ ngày kê biên mà không có người khởi kiện, thì tài sản bị kê biên được xử lý để thi hành án.
Trong trường hợp cần xác định quyền sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung mà các bên không thỏa thuận được, thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Như vậy, nếu bà Đẹp cho rằng khoản tiền mà Cơ quan thi hành án kê biên, thu giữ để bảo đảm thi hành án đối với ông Hiền là tài sản riêng của bà Đẹp thì bà đẹp phải khởi kiện yêu cầu Tòa án xác dịnh tài sản đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình mà không phải là tài sản riêng của ông Hiền hoặc tài sản chung với ông Hiền. Trong trường hợp bà Đẹp và ông Hiền đều cho rằng tài sản đó là của bà Đẹp, thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác định quyền ở hữu đối với tài sản đó. Chỉ trong các trường hợp này, Tòa án mới thụ lý giải quyết.
Do đó, việc Tòa án huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang thụ lý đơn khởi kiện của bà đẹp đòi Cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang phải trả lại 222.500.000đ và xác định Cơ quan thi hành án huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang là bị đơn là không đúng thẩm quyền và không đúng với các quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự.
Vì vậy, Tòa án cần căn cứ vào khỏan 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để quý Tòa tham khảo trong việc giải quyết vụ án cụ tểh tại địa phương.
Nơi nhận: - Như trên; - TAND tỉnh Kiên Giang;(để biết) - Thi hành án huyện Hòn Đất; (để biết) - Thi hành án tỉnh Kiên Giang;(để biết) - Đ/c Chánh án TAND TC (để báo cáo); - Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 14 tháng 06 năm 2005
Số: 133/2005/KHXX V/v: trợ giúp pháp lý và miễn giảm án phí, lệ phí tòa án đối với đương sự là người nước ngoài
Kính gửi: Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội - Việt Nam
Sau khi nghiên cứu nội dung Công văn số VH0412 ngày 12 tháng 4 năm 2005 của Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội đề nghị Tòa án nhân dân tối ca VIệt Nam cho biết pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập đối với trường hợp miễn án phí, trợ giúp pháp lý trong tố tụng tại Tòa án Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao trả lời như sau:
1. Khi xét xử các vụ án hình sự có bị cáo là người nước ngoài, Tòa án Việt Nam phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (viết tắt là BLTTHS); cụ thể như sau:
a. Theo quy định tại Điều 2 của BLTTHS, thì: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết tắt là CHXHCN Việt Nam) phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân nước thành viên của Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành theo quy định của Điều ước quốc tế đó.
Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
b. Trách nhiệm chịu án phí được quy định tại Điều 99 của BLTTHS; cụ thể là:
“1. Án phí do người bị kết án hoặc Nhà nước chịu theo quy định của pháp luật.
2. Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định của Tòa án.
3. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, nếu Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định tại Khoản 2 Điều 105 của Bộ Luật này thì người bị hại phải trả án phí”.
2. Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động có đương sự là người nước ngoài, thì việc giải quyết các vụ án đó tại Tòa án Việt Nam cũng phải theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS); cụ thể như sau:
a. Theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 2 BLTTDS thì:
“…
3. BLTTDS được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó.
4. Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
b. Án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng khác trong các vụ án dân sự được quy định cụ thể tại Chương IX, các điều từ Điều 127 đến Điều 145 của BLTTDS.
3. Hiện nay án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng khác tại Tòa án Việt Nam đang được thực hiện theo Nghị định số 70/CP ngày 12 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 37 của Nghị định này, thì: “Bị cáo, đương sự là người nước ngoài phải nộp án phí, lệ phí Tòa án theo quy định tại Nghị định này, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác”.
4. Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với nhiều nước trên thế giới. Trong các Hiệp định này đều có quy định về án phí và ưu đãi tố tụng; Cụ thể như: miễn cước án phí, miễn án phí và phí luật sư bào chữa, trợ giúp pháp lý miễn phí…
Các quy định về các nội dung nêu trên là cơ sở pháp lý cho Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết các vụ án có bị cáo, đương sự là người nước ngoài.
Tuy nhiên, đối với các vụ án có bị cáo, đương sự là người nước ngoài nhưng là công dân của nước mà nước đó và CHXHCN Việt Nam chưa ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp và pháp lý, thì Tòa án Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
5. Đối với vấn đề trợ giúp pháp lý cho người nước ngoài, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Quý Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội liên hệ với Bộ Tư pháp Việt Nam để được giải thích cụ thể vì Bộ Tư pháp Việt Nam được giao chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao xin được gửi tới Quý Văn phòng để được biết.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo) - Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 20 tháng 06 năm 2005
Số: 134/2005/KHXX V/v thành lập Hội đồng định giá theo quy định tại Điều 92 BLTTDS.
Kính gửi: Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
Sau khi nghiên cứu Công văn số 207/CV.TA.2005 ngày 31-5-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Trong khi chờ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn thi hành quy định tại Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng cần thi hành quy định này như sau:
1. Khi xét thấy cần thiết phải tiến hành định giá tài sản, Tòa án phải xem xét đối tượng cần định giá là loại tài sản nào, có liên quan đến cơ quan chuyên môn nào, Hội đồng định giá cần phải có bao nhiêu thành viên và trong trường hợp cụ thể này cần cử đại diện của cơ quan nào làm Chủ tịch Hội đồng định giá. Trên cơ sở đó, Tòa án có công văn gửi cho các cơ quan chuyên môn đề nghị cử cán bộ làm Chủ tịch và thành viên Hội đồng định giá. Trong công văn cần nêu rõ đối tượng cần định giá, yêu cầu cụ thể đối với Chủ tịch, thành viên Hội đồng định giá và thời hạn cơ quan chuyên môn có công văn trả lời cho Tòa án biết việc cử người tham gia Hội đồng định giá.
2. Sau khi nhận đủ các công văn trả lời của các cơ quan chuyên môn về việc cử người làm Chủ tịch và thành viên Hội đồng định giá; căn cứ vào Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm phán ra quyết định thành lập Hội đồng định giá. Quyết định thành lập Hội đồng định giá phải có các nội dung sau đây:
a. Ngày, tháng, năm ra quyết định thành lập Hội đồng định giá;
b. Tên của Tòa án ra quyết định thành lập Hội đồng định giá;
c. Họ và tên của Chủ tịch Hội đồng định giá và của các thành viên Hội đồng định giá; tên và địa chỉ cơ quan công tác của Chủ tịch và các thành viên Hội đồng định giá;
d. Đối tượng cần định giá;
đ. Nhiệm vụ của Hội đồng định giá;
e. Thời gian tiến hành định giá.
Hội đồng định giá kết thúc nhiệm vụ và tự giải thể sau khi thực hiện xong việc định giá và đưa ra kết quả định giá.
3. Tòa án cần cử một Thư ký Tòa án để giúp Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định giá.
Nơi nhận: - Như trên - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - các Tòa dân sự, kinh tế, lao động TANDTC (để theo dõi); - UBND tỉnh Sóc Trăng (để phối hợp); KT. CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC
- Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC)
Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số: 107/KHXX Hà Nội, ngày 23 tháng 6 năm 2006
CÔNG VĂN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 107/KHXX NGÀY 23 THÁNG 6 NĂM 2006VỀ VIỆC THÔNG BÁO ĐÍNH CHÍNH MẪU BIÊN BẢN HOÀ GIẢI THÀNH
Kính gửi: - Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; - Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Ngày 12-5-2006, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại tiểu Mục 6.2 Mục 6 Phần II của Nghị quyết này hướng dẫn cụ thể như sau:
“Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải ký tên và đóng dấu của Toà án vào biên bản. Các đương sự tham gia phiên hoà giải phải ký tên hoặc Điểm chỉ vào biên bản hoà giải thành. Biên bản hoà giải thành phải được gửi ngay cho các đương sự tham gia hoà giải”.
Tuy nhiên khi soạn thảo và in ấn mẫu biên bản hoà giải thành (mẫu số 08) ở phần cuối của mẫu này đã để sót các chữ: “Các đương sự tham gia phiên hoà giải (chữ ký hoặc Điểm chỉ). Họ và tên”.
Toà án nhân dân tối cao đã đính chính mẫu biên bản hoà giải thành và gửi kèm theo Công văn này để các Toà án nhân dân địa phương thực hiện.
Ngoài ra Khoản 2 Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Toà án lập biên bản hoà giải thành”. Tuy nhiên, Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình có quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định”; do đó, trong vụ án về ly hôn khi các đương sự thật sự tự nguyện ly hôn và Toà án hoà giải không thành, đồng thời lại có tranh chấp về việc chia tài sản và việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, nhưng Toà án hoà giải thành và các đương sự đã thoả thuận được với nhau về các vấn đề này thì việc dùng mẫu biên bản hoà giải thành không thật phù hợp; do đó, Toà án nhân dân tối cao ban hành bổ sung mẫu số 08a và mẫu số 09a để dùng cho trường hợp này (có mẫu số 08a và mẫu số 09a gửi kèm theo Công văn này).
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương nhận được Công văn này và các mẫu gửi kèm theo cần phổ biến ngay trong đơn vị mình để thực hiện.
KT.CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Mẫu số 08
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTPngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN..... (1) CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________
________________________________________________
.........., ngày......... tháng......... năm.........
BIÊN BẢN HOÀ GIẢI THÀNH
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào biên bản hoà giải ngày… tháng... năm...… Xét thấy các đương sự đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự thụ lý số:…/…./TLST-..... ( 2 ) ngày…tháng… năm.....
Lập biên bản hoà giải thành do các đương sự đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án; cụ thể như sau: ( 3 )
1…………………………………………………………………..…………..
2………………………………………………………….………………………….
..…………………………………………………………………………………...
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thoả thuận trên đây, thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án. Hết thời hạn này, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Các đương sự tham gia phiên hoà giải Thẩm phán
(chữ ký hoặc Điểm chỉ) chủ trì phiên hoà giải
Họ và tên
Nơi nhận: - Những người tham gia hoà giải; - Ghi cụ thể các đương sự vắng mặt theo quy định -tại Khoản 3 Điều 184 của BLTTDS; - Lưu hồ sơ vụ án.
______________________________________________________________________________ _____
Hướng dẫn sử dụng mẫu số 08:
(1) Ghi tên Toà án tiến hành phiên hoà giải và lập biên bản hoà giải thành; nếu là Toà án nhân dân cấp huyện, thì cần ghi huyện gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H). Nếu là Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì ghi rõ Toà án nhân dân tỉnh, (thành phố) nào (ví dụ: Toà án nhân dân tỉnh H).
(2) Ghi số ký hiệu và ngày tháng năm thụ lý vụ án (ví dụ: Số 50/2006/TLST-KDTM).
(3) Ghi đầy đủ cụ thể từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án mà các đương sự đã thoả thuận được với nhau theo biên bản hoà giải.
Chú ý: Biên bản hoà giải thành phải được giao (gửi) ngay cho các đương sự tham gia hoà giải.
Mẫu số 08a
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN..... (1) CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________
________________________________________________
.........., ngày......... tháng......... năm.........
BIÊN BẢN GHI NHẬN SỰ TỰ NGUYỆN LY HÔN VÀ HOÀ GIẢI THÀNH
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 186 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào biên bản hoà giải ngày… tháng... năm...… Xét thấy các đương sự thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận được với nhau về việc giải quyết các vấn đề có tranh chấp trong vụ án về hôn nhân và gia đình thụ lý số:…/…./TLST-HNGĐ ngày…tháng… năm...
Lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành các vấn đề có tranh chấp trong vụ án do các đương sự đã thật sự tự nguyện ly hôn và thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án; cụ thể như sau: ( 2 )
1…………………………………………………………………..…………..
2………………………………………………………….………………………….
3..………………………………………………………………………………….
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thoả thuận trên đây, thì phải làm thành văn bản gửi cho Toà án. Hết thời hạn này, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Các đương sự tham gia phiên hoà giải Thẩm phán
(chữ ký hoặc Điểm chỉ) chủ trì phiên hoà giải
Họ và tên Nơi nhận:
- Những người tham gia hoà giải;
- Ghi cụ thể các đương sự vắng mặt theo quy định
- tại Khoản 3 Điều 184 của BLTTDS;
- Lưu hồ sơ vụ án.
___________________________________________________________________________
Hướng dẫn sử dụng mẫu số 08a:
(1) Ghi tên Toà án tiến hành phiên hoà giải và lập biên bản hoà giải thành; nếu là Toà án nhân dân cấp huyện, thì cần ghi huyện gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H). Nếu là Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì ghi rõ Toà án nhân dân tỉnh, (thành phố) nào (ví dụ: Toà án nhân dân tỉnh H).
(2) Ghi đầy đủ cụ thể từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án mà các đương sự đã thoả thuận được với nhau (quan hệ hôn nhân, việc nuôi con, chia tài sản).
Chú ý: Biên bản này phải được giao (gửi) ngay cho các đương sự tham gia hoà giải.
Mẫu số 09a
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao)
TOÀ ÁN NHÂN DÂN........ (1)
___________________
Số:...../...../QĐST-HNGĐ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _____________________________________________________ ...., ngày...... tháng ...... năm......
QUYẾT ĐỊNH
CÔNG NHẬN THUẬN TÌNH LY HÔN VÀ SỰ THOẢ THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ
Căn cứ vào Điều 187 và Điều 188 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành ngày…..tháng……năm ….. về việc các đương sự đã thật sự tự nguyện ly hôn và thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án về hôn nhân và gia đình thụ lý số:…/…./TLST-HNGĐ ngày…tháng… năm.....
XÉT THẤY:
Việc thuận tình ly hôn và thoả thuận của các đương sự được ghi trong biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành ngày….tháng….năm …..là hoàn toàn tự nguyện và không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Đã hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành, không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa (2)…………………………...……………….. 2. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự:(3)
…………………… … …....... ...... ………… ……………….. ...... …....... ...... .....
…………………… … …....... ...... ………… ……………….. ...….. ........ ...... ..... 3. Sự thoả thuận của các đương sự cụ thể như sau:(4)
…………………… … …....... ...... ………… ……………….. ...... .. ........ ...... ...
…………………… … …....... ...... ………… ……………….. ...... .. ........ ...... ...
4. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nơi nhận: TOÀ ÁN NHÂN DÂN.......... Thẩm phán
(Ghi theo quy định tại đoạn 2 Khoản 1 Điều 187 của BLTTDS). ______________________________________________________________________________ ____________
Hướng dẫn sử dụng mẫu số 09a:
(1) Ghi tên Toà án nhân dân ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; nếu là Toà án nhân dân cấp huyện, thì cần ghi rõ Toà án nhân dân huyện gì thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Toà án nhân dân huyện X, tỉnh H), nếu là Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì ghi rõ Toà án nhân dân tỉnh (thành phố) nào (ví dụ: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội).
(2) Ghi họ tên, địa chỉ của chồng và của vợ. Tuỳ theo độ tuổi mà ghi Ông hoặc Bà, Anh hoặc Chị trước khi ghi họ tên.
(3) Ghi họ tên, địa vị pháp lý trong vụ án, địa chỉ của các đương sự theo thứ tự như hướng dẫn cách ghi trong mẫu bản án sơ thẩm (ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao).
(4) Ghi đầy đủ lần lượt các thoả thuận của các đương sự về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án đã được thể hiện trong biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải thành (kể cả án phí).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ****** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Hà Nội, ngày 30 tháng 06 năm 2006
Số: 109/KHXX V/v:xử lý các trường hợp không biết địa chỉ của người bị kiện
Kính gửi: - Các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, Thành phố thuộc Tỉnh - Các toà án nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15-6- 2004, có hiệu lực từ ngày 01-01-2005. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 164 BLTTDS, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính quy định tại Khoản 2 Điều 164 BLTTĐS, trong đó phải ghi rõ tên, địa chỉ của người bị kiện (Điểm đ Khoản 2 Điều 1 64).
Trong trường hợp người khởi kiện không thi hành đúng quy định nêu trên của BLTTDS, thì Toà án yêu cầu họ phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 169 của BLTTĐS. Nếu họ không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 169 của BLTTĐS.
Tuy nhiên, qua theo dõi Mục nhắn tin trên địa chỉ của người bị kiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, Toà án nhân dân tối cao nhận thấy có một số Toà án nhân dân địa phương khi thụ lý vụ án dân sự như: đòi tài sản, tranh chấp di sản thừa kế, ly hôn... đã không kiểm tra đầy đủ đơn khởi kiện cho nên sau khi thụ lý vụ án, do không biết địa chỉ của người bị kiện nên đã ra thông báo tìm kiếm địa chỉ của người bị kiện vắng mặt tại nơi cư trú. Việc làm này là không đúng với quy định của BLTTDS. Trong thông báo tìm kiếm địa chỉ của người bị kiện, Toà án thường yêu cầu người bị kiện trong thời hạn do Toà án ấn định phải có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án; nếu không có mặt đúng hạn, Toà án sẽ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Để thi hành đúng và thống nhất quy định của BLTTDS, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm" của BLTTDS. Tại các tiểu Mục 8.5, 8.6 và 8.7 Mục 8 Phần I của Nghị quyết hướng dẫn:
"8:5. Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ vào Khoản 2 Điều 169 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án. Việc Toà án thụ lý vụ án để sau đó ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án với lý do "chưa tìm được địa chỉ của bị đơn" là không đúng quy định của BLTTDS, vì đây không phải là một trong những trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 189 của BLTTDS. Toà án cũng không được tự mình tiến hành thông báo tìm người bị kiện, vì đây là nghĩa vụ của đương sự.
8.6. Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú
ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện, cho Toà án, nhằm Mục đích dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì được coi là trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình dấu địa chỉ. Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
8.7. Nếu người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ghi trong đơn khởi kiện, thì họ phải thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan."
Toà án nhân dân tối cao đề nghị các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện đúng các hướng dẫn trên đây của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và lưu ý một số Điểm như sau:
1. Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần rà soát lại trong số các vụ án dân sự đã thụ lý và đang có quyết định tạm đình chỉ vì lý do "chưa tìm được địa chỉ của bị đơn" không?
Nếu có vụ án nào thuộc trường hợp này thì tiếp tục đưa ra giải quyết theo hướng dẫn tại các tiểu Mục 8.5, 8.6 và 8.7 Mục 8 Phần I của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Trường hợp người khởi kiện không biết hoặc ghi không đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì trả lại đơn khởi kiện cho họ và xoá sổ thụ lý. Đồng thời hướng dẫn họ thực hiện việc thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Trường hợp người khởi kiện có yêu cầu Toà án thông báo tìm tin tức, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án cần hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và đây là việc dân sự. Toà án xem xét thụ lý giải quyết theo quy định tại Chương XX và Chương XXII BLTTDS.
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2005
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 218/2005/KHXX V/v Giám đốc các quyết định giải quyết việc dân sự
Kính gửi: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 1620/GĐKT-DS ngày 13/6/2005 của Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 316 của Bộ luật tố tụng dân sự thì nói chung các quyết định giải quyết việc dân sự đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trừ các quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hai trường hợp này là Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoặc công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Theo quy định tại Điều 311 của Bộ luật tố tụng dân sự thì “Tòa án áp dụng những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự quy định tại khoản 1,2,3,4 và 6 Điều 26, các khoản 1,2,3,4,5 và 7 Điều 28, khoản 1 và khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 32 của Bộ luật này”; do đó, khi phát hiện quyết định giải quyết việc dân sự không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật (Điều 283 của Bộ luật tố tụng dân sự) hoặc khi phát hiện sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (khoản 2 Điều 188 của Bộ luật tố tụng dân sự) thì căn cứ vào các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự (Điều 311, Điều 285, Điều 283 hoặc Điều 188) người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm có thể kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định tại chương XVIII của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để Qúy Tòa tham khảo trong khi giải quyết
các việc dân sự cụ thể ở địa phương.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC (đã ký) Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Tòa DS, Tòa KT, Tòa LĐ (TANDTC); - VKSNDTC (để phối hợp); - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - các Đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ******* Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2005
Số: 225/2005/KHXX V/v hiệu lực của Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP
Kính gửi: Bộ Công an (C11)
Sau khi nghiên cứu Công văn số 2769/BCA(C11) ngày 15-9-2005 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng; do đó, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được áp dụng Thông tư này khi điều tra, truy tố đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Thông tư này có hiệu lực. Đối với các vụ án đã được thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử đốc thẩm, tái thẩm, thì Tòa án được áp dụng Thông tư này để giải quyết. Trường hợp các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết định có những căn cứ khác.
Trong trường hợp theo các văn bản hướng dẫn trước đây là phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng theo Thông tư này không phải chịu trách nhiệm hình sự, thì áp dụng Khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự miễn trách nhiệm hình sự cho họ. Trong trường hợp này cần giải thích cho họ biết là do chuyển biến của tình hình mà hành vi của họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa cho nên họ được miễn trách nhiệm hình sự, chứ không phải họ bị oan do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra; do đó, họ không có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVHQ11 ngày 17-3-2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “Về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao về hiệu lực của Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004 để Quý Bộ tham khảo khi hướng dẫn địa phương thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo);
- VKSNDTC (để phối hợp); - Bộ Tư pháp (để phối hợp); - Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC)
Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ******** CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ********
Số: 176/2001/KHXX Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2001
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 176/2001/KHXX NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT ĐƠN YÊU CẦU TOÀ ÁN XÁC ĐỊNH CON
Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh
Sau khi nghiên cứu Công văn số 109/CV-DS ngày 06-11-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Đối với trường hợp người phụ nữ sau khi sinh con nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên họ đã cho người khác nuôi con của họ, nay họ có đơn yêu cầu Toà án xác định con của mình, thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
1. Trường hợp ngưòi mẹ có đơn yêu cầu Toà án xác định một người là con của mình, mà người được yêu cầu xác định là con và những người nuôi dưỡng người đó đồng ý cho người mẹ được nhận con không có tranh chấp.
Theo tinh thần quy định tại Điều 64 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch và hướng dẫn tại Công văn số 410/TP-PLDSKT ngày 3-4-2001 của Bộ Tư pháp thì trường hợp này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó:
a. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 5 Điều 36 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn cho người nộp đơn, đồng thời hướng dẫn cho họ biết việc công nhận và đăng ký việc nhận con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người con cư trú.
b. Nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 4 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và hướng dẫn cho họ biết việc công nhận và đăng ký việc nhận con trong trường hợp này là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người con cư trú.
2. Trường hợp người mẹ có đơn yêu cấu Toà án xác định một người là con của mình, mà người được yêu cầu xác định là con và những người nuôi dưỡng có tranh chấp với nhau.
Theo quy định tại Điều 64 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì trường hợp này là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó, Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì trường hợp này không thuộc một trong các việc không được hoà giải; do đó, Toà án tiến hành hoà giải theo thủ tục quy định tại Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Nếu Toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc mẹ nhận con thì lập biên bản hoà giải thành. Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án áp dụng khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong khi giải quyết vụ án cụ thể ở địa phương.
Đặng Quang Phương
(Đã ký)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2006
Số: 187/KHXX V/v: miễn thi hành án đối với Khoản tiền phạt trong vụ án hình sự
Kính gửi: Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái
Sau khi nghiên cứu Công văn số 299/2006/CV-TA ngày 07/9/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ đề nghị hướng dẫn về thủ tục xét miễn thi hành án đối với khoản phạt tiền, án phí trong một số trường hợp cụ thể, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo hướng dẫn tại Mục 3 Phần III Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn một số quy định của Bộ luật hình sự” thì đối với những trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực, nếu theo hướng dẫn tại Nghị quyết này mà người bị kết án không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt. Hướng dẫn này cần được hiểu là đối với những người bị kết án thuộc trường hợp hướng dẫn tại Mục 3 Nghị quyết này, nếu như họ được các cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 269 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 32 của Pháp lệnh về thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị Tòa án xét miễn chấp hành hình phạt, thì Tòa án xem xét và cho họ được miễn chấp hành hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 32 của Pháp lệnh về thi hành án dân sự và hướng dẫn tại tiểu Mục 3.1 Mục 3 Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA-BTC “hướng dẫn việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí” thì Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản án phí, tiền phạt là Toà án cùng cấp với Cơ quan thi hành án đã đề nghị việc miễn, giảm. Như vậy, đối với các hồ sơ đề nghị xét miễn thi hành án đối với các khoản tiền phạt, án phí do Thi hành án thị xã Nghĩa Lộ lập và chuyển đến thì Toà án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ căn cứ vào Khoản 3 Điều 32 của Pháp lệnh về thi hành án dân sự và hướng dẫn tại Thông tư số 02 để xem xét theo thẩm quyền là phù hợp với hướng dẫn tại Mục 3 Phần III Nghị quyết số 02 và không có gì mâu thuẫn với nhau. Nếu xét thấy trường hợp nào thuộc hướng dẫn tại Mục 3 Phần III Nghị quyết số 02 nêu trên, thì Toà án thị xã Nghĩa Lộ cho họ được miễn chấp hành hình phạt tiền, án phí. Đối với người nào đã chấp hành xong hình phạt từ và được miễn chấp hành hình phạt tiền, án phí thì họ đương nhiên được xoá án tích và nếu họ có yêu cầu thì cấp giấy chứng nhận xoá án tích cho họ.
Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao để quý Toà tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc cụ thể thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nơi nhận: - Như trên; - Thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ (để biết); - Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái (để chỉ đạo); - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Lưu VP, Viện KHXX (TANDTC). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ----- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------
Số: 38/KHXX Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2007
CÔNG VĂN
HƯỚNG DẪN VIỆC PHÁP NHÂN KHỞI KIỆN VÀ ỦY QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
Trong thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được Công văn của một số Tòa án nhân dân địa phương và một số cơ quan, tổ chức kinh tế phản ánh còn có các cách hiểu khác nhau khi thực hiện hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục 1 Phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 02) đối với các trường hợp văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của pháp nhân khởi kiện vụ án dân sự.
Để thực hiện đúng và thống nhất hướng dẫn tại tiểu mục 1.4 mục 1 Phần I của Nghị quyết số 02 trong trường hợp pháp nhân hoặc văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân khởi kiện vụ án dân sự (vụ án dân sự gọi chung), Tòa án nhân dân tối cao giải thích và hướng dẫn bổ sung một số điểm như sau:
1. Về người đại diện hợp pháp của pháp nhân
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật dân sự và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự thì người đại diện hợp pháp của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật dân sự về đại diện.
2. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thực hiện việc khời kiện vụ án
Đối với trường hợp này trong đơn khởi kiện tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của pháp nhân, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Ví dụ: Tên, địa chỉ của người khởi kiện: Tổng công ty xây dựng H, có trụ sở tại số 15, phố X, quận M, thành phố N; người đại diện cho Tổng công ty xây dựng H: ông Nguyễn Bá Nam – Tổng Giám đốc (là người đại diện theo pháp luật).
Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của pháp nhân; ghi chức vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ký tên; ghi họ, tên của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và đóng dấu của pháp nhân.
Ví dụ:
Người khởi kiện
Tổng công ty xây dựng H
Tổng Giám đốc
(Chữ ký)
Nguyễn Bá Nam
3. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền cho người khác thực hiện việc khởi kiện vụ án
Đối với trường hợp này trong đơn khởi kiện tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của pháp nhân, phải ghi họ tên, chức vụ của người đại diện theo ủy quyền, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền.
Ví dụ: Tên, địa chỉ của người khởi kiện: Công ty TM và DV Hoàng Anh, có trụ sở tại số 33, đường X, thị xã H, tỉnh Q; người đại diện cho Công ty TM và DV Hoàng Anh: bà Lệ Thanh, Trưởng phòng Phòng kinh doanh của Công ty là người đại diện theo ủy quyền theo văn bản ủy quyền số (nếu có) ngày 15/3/2007 của Giám đốc Công ty TM & DV Hoàng Anh.
Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của pháp nhân; ghi dòng chữ: “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy quyền ký tên; ghi họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của pháp nhân.
Ví dụ:
Người khởi kiện
Công ty TM và DV Hoàng Anh
Người đại diện theo ủy quyền
(Chữ ký)
Lệ Thanh
4. Trường hợp Văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân thực hiện việc khởi kiện vụ án về tranh chấp phát sinh từ giao dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập thực hiện
Theo quy định tại Điều 92 Bộ luật dân sự và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự thì đối với trường hợp này trong đơn khởi kiện tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của pháp nhân, phải ghi họ tên, chức vụ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân, văn bản ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền.
Ví dụ: Tên, địa chỉ của người khởi kiện: Ngân hàng MXY Việt Nam, có trụ sở tại số 45, phố L, quận H, thành phố Hà Nội; người đại diện cho Ngân hàng MXY: ông Trương Thanh Ba – Giám đốc chi nhánh ngân hàng MXY tỉnh Q là người đại diện theo ủy quyền theo văn bản ủy quyền (hoặc quyết định đặt chi nhánh) số 72/NH-MXY ngày 17/3/2007 của Tổng Giám đốc Ngân hàng MXY.
Tại mục “Người khởi kiện” ở cuối đơn khởi kiện cần phải ghi tên của pháp nhân; ghi chức vụ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân; người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân ký tên; ghi họ, tên của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân.
Ví dụ:
Người khởi kiện
Ngân hàng MXY Việt Nam
Giám đốc chi nhánh Ngân hàng MXY tỉnh Q
(Chữ ký)
Trương Thanh Ba
Theo quy định tại Điều 92 Bộ luật dân sự thì trong trường hợp này có thể đóng dấu của pháp nhân hoặc đóng dấu của văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhận được Công văn này cần phổ biến ngay trong đơn vị mình để thực hiện, đồng thời cho niêm yết Công văn này cùng mẫu đơn khởi kiện và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn khởi kiện.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ----- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------
Số: 40/KHXX Hà Nội, ngày 06 tháng 4 năm 2007
CÔNG VĂN
HƯỚNG DẪN “THỤ LÝ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỌ”
Hụi, họ, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) được quy định tại Điều 479 Mục 4 “Hợp đồng vay tài sản” Chương XVIII “Hợp đồng dân sự thông dụng” của Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây viết tắt là BLDS).
Để thi hành Điều 479 của BLDS, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về họ, hụi, biêu, phường (sau đây viết tắt là Nghị định số 144).
Theo quy định tại Điều 31 của Nghị định số 144, thì “trong trường hợp có tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ được giải quyết bằng thương lượng hòa giải hoặc theo yêu cầu của một hoặc nhiều người tham gia họ, tranh chấp đó được giải quyết tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự”; do đó, kể từ ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành (22/12/2006), nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ, thì Tòa án thụ lý giải quyết.
Tòa án nhân dân tối cao lưu ý một số điểm khi thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ như sau:
1. Về thời hiệu khởi kiện
1.1. Đối với họ được xác lập trước ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành thì căn cứ vào khoản 3 Điều 159 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 427 của BLDS, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết đối với các tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ là hai (02) năm, kể từ ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành.
1.2. Đối với họ được xác lập từ ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ là hai (02) năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.
1.3. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
2. Về áp dụng pháp luật
2.1. Khi giải quyết tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ, Tòa án phải xác định đúng loại họ để áp dụng các quy định tương ứng của BLDS và Nghị định số 144.
Ví dụ: Khi có tranh chấp về lãi suất từ họ thì phải xác định đây là họ có lãi. Khi giải quyết phải áp dụng Điều 10, điều tương ứng trong Chương III “Họ có lãi” của Nghị định số 144 và Điều 476 của BLDS.
2.2. Đối với vụ án tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ xảy ra trước ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành đã được Tòa án thụ lý, nhưng chưa được xét xử sơ thẩm (kể cả trường hợp có
quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án); vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ nhưng chưa được xét xử phúc thẩm; vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực bị kháng nghị nhưng chưa được xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày Nghị định số 144 có hiệu lực thi hành, thì áp dụng những quy định của Nghị định này để giải quyết.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhận được Công văn này phổ biến ngay trong đơn vị mình để thực hiện.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ----- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------
Số: 235/TATC-VP Hà Nội, ngày 31 tháng 8 năm 2007
CÔNG VĂN
VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 16/2007/CT-TTG CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm về buôn bán phụ nữ, trẻ em, ngăn chặn và làm giảm rõ rệt tình trạng phụ nữ, trẻ em bị buôn bán ra nước ngoài, nhất là ở khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Campuchia và một số tỉnh thành phố như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Hải Dương, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An… ngày 27/6/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/2007/CT-TTg về việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Để thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này trong toàn ngành Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí, nhất là các Tòa án địa phương được xác định là địa bàn trọng điểm triển khai thực hiện một số công việc như sau:
1. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 01/2005/CT-CA ngày 30/8/2005 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác đấu tranh đối với một số tội phạm gây bức xúc trong tình hình hiện nay, trong đó có các tội phạm về buôn bán phụ nữ, trẻ em.
2. Tăng cường lực lượng cán bộ, Thẩm phán có năng lực, trình độ và kinh nghiệm để xét xử các vụ án buôn bán phụ nữ, trẻ em; thường xuyên phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng để đẩy nhanh tiến độ giải quyết. Không được vi phạm thời hạn xét xử và phải đảm bảo chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án này.
3. Chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn một số vụ án trọng điểm về buôn bán phụ nữ, trẻ em để tập trung điều tra, truy tố và tổ chức xét xử lưu động tại địa phương nơi xảy ra vụ án đồng thời phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng kịp thời tuyên truyền về kết quả xét xử, nhằm nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần cảnh giác trong quần chúng nhân dân.
4. Trong quá trình xét xử các vụ án buôn bán phụ nữ, trẻ em cần chú ý làm rõ những sơ hở, thiếu sót về cơ chế, chính sách pháp luật, công tác quản lý là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, nhất là trong công tác đăng ký tạm trú, tạm vắng, kết hôn với người nước ngoài, nhận nuôi con nuôi, xuất nhập cảnh… để kiến nghị các cơ quan có liên quan sửa chữa, khắc phục.
5. Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra việc xét xử các vụ án về buôn bán phụ nữ, trẻ em; khẩn trương nghiên cứu đề xuất xây dựng, sửa đổi bổ sung các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, nhằm giải đáp các vướng mắc trong thực tiễn xét xử các tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ----- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------
Số: 122/KHXX Hà Nội, ngày 04 tháng 9 năm 2007
CÔNG VĂN
HƯỚNG DẪN VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN ĐỐI VỚI NGƯỜI MẮC NỢ; VIỆC HOÀN TRẢ LẠI TÀI SẢN CHO NHÀ NƯỚC THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 36 LUẬT PHÁ SẢN
1. Về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người mắc nợ
Khi Tòa án giải quyết việc phá sản, nếu chủ nơ, người mắc nợ có khiếu nại, Viện kiểm sát có kháng nghị về danh sách chủ nợ, về danh sách người mắc nợ, về quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản, mà Tòa án đã giải quyết theo đúng quy định của pháp luật về phá sản, thì Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp có người mắc nợ trong danh sách người mắc nợ không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản không phải ra quyết định thi hành án mà ra thông báo bằng văn bản cho những người mắc nợ đó. Thông báo này được hiểu như một quyết định thi hành án. Trong thông báo cần nêu rõ họ tên và địa chỉ những người mắc nợ, số tiền nợ phải trả và thời hạn trả nợ. Hết thời hạn được ấn định trong thông báo mà người mắc nợ không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, thì căn cứ vào Điều 10, Điều 11 của Luật phá sản và Điểm i Khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản (sau đây viết tắt là Nghị định số 67), Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Về việc hoàn trả lại tài sản cho Nhà nước theo quy định tại Điều 36 của Luật phá sản
Để xác định được khi nào doanh nghiệp phải hoàn trả lại giá trị tài sản đã được áp dụng biện pháp đặc biệt cho Nhà nước theo quy định tại Điều 36 của Luật phá sản, cần chú ý như sau:
a. Tòa án giải quyết việc phá sản phải xem xét xem doanh nghiệp đó có thuộc một trong các doanh nghiệp đặc biệt được quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Luật phá sản hay không.
- Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được các tiêu chí quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Luật phá sản, thì doanh nghiệp đó không được áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hồi hoạt động kinh doanh, do đó không thuộc trường hợp phải hoàn trả lại tài sản cho Nhà nước theo quy định tại Điều 36 của Luật phá sản.
- Nếu doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chí quy định tại Điều 3 và Điều 4 của Luật phá sản, thì Tòa án giải quyết việc phá sản cần phải xem xét xem việc doanh nghiệp được Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hồi hoạt động kinh doanh vào thời Điểm nào.
b. Việc xác định “thời điểm” mà doanh nghiệp được Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hồi hoạt động kinh doanh phải căn cứ vào quy định tại Điều 6 của Nghị định số 67. Khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các đối tượng quy định tại Điều 13, 14, 15, 16, 17
và 18 của Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt, Tòa án nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Nghị định số 67.
Sau khi nhận được thông báo của Tòa án, các cơ quan nhà nước có liên quan phải căn cứ vào báo cáo bằng văn bản về việc mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp đặc biệt để quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp cần thiết để phục hồi khả năng thanh toán và hoạt động kinh doanh theo quy định tại Điều 8 của Nghị định số 67.
Việc áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh chỉ được áp dụng sau khi đã có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và có thông báo của Tòa án giải quyết việc phá sản cho các cơ quan nhà nước liên quan. Như vậy, Tòa án chỉ áp dụng việc hoàn trả tài sản cho Nhà nước theo quy định tại Điều 36 của Luật phá sản khi tuân thủ các Điều kiện về doanh nghiệp đặc biệt và thời Điểm áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh nêu trên. Nếu không, thì việc cấp hỗ trợ của cơ quan nhà nước chỉ được coi như một Khoản nợ của doanh nghiệp và được xem xét phân chia theo quy định tại Điều 37 của Luật phá sản.
Ví dụ: Trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận cấp hỗ trợ cho Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Bình Thuận vào thời Điểm doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, chưa có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì không được coi là trường hợp “đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt nhằm phục hồi hoạt động kinh doanh” và không được hoàn trả theo quy định tại Điều 36 của Luật phá sản.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------
Số: 165/KHXX Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2007
CÔNG VĂN
GIẢI THÍCH QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 2 ĐIỀU 30 CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
Để thi hành đúng và thống nhất quy định tại Khoản 2 Điều 313 của Bộ Luật dân sự năm 1995 (sau đây viết tắt là BLDS 1995), tại Điểm 1 Mục III của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19- 6-1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản đã hướng dẫn như sau:
“ … hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu Khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án”.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây viết tắt là BLDS 2005) ban hành và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2006, một số quy định đã có sự sửa đổi, bổ sung so với BLDS 1995. Tại Khoản 2 Điều 305 của BLDS 2005 quy định:
“Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời Điểm thanh toán …”, có nghĩa là việc trả lãi đối với số tiền chậm trả phải theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Hơn nữa, thực tế hiện nay các Ngân hàng đã bỏ mức lãi suất nợ quá hạn. Vì vậy, về vấn đề này được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của BLDS 2005.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------
Hà Nội, ngày 01 tháng 7 năm 2009
Số: 99/TANDTC-KHXX V/v thi hành một số quy định của các văn bản quy phạm pháp luật
Kính gửi: Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp thực hiện đúng và nghiêm túc một số vấn đề sau đây:
thực hiện đúng và nghiêm túc một số vấn đề sau đây:
1. Về Điều 60 Bộ luật hình sự “Án treo”
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ- HĐTP ngày 02-10-2007 “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt”. Tại tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chỉ hướng dẫn việc ấn định thời gian thử thách khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo trong các trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, qua giám đốc, kiểm tra công tác xét xử cho thấy một số Tòa án đã hiểu không đúng hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết này, nên đã áp dụng hướng dẫn này để quyết định hình phạt tù cho hưởng án treo trong trường hợp bị cáo đã bị tạm giam.
Để áp dụng đúng và thống nhất, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp khi quyết định hình phạt phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 45 của Bộ luật hình sự. Nếu xét thấy bị cáo có đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự thì Tòa án cho hưởng án treo. Khi ấn định thời gian thử thách, nếu bị cáo đã bị tạm giam thì mới áp dụng hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-11-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.
Ví dụ:Bị cáo đã bị tạm giam 6 tháng. Tòa án xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù và xét thấy có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự để cho hưởng án treo. Khi ấn định thời gian thử thách thì thực hiện theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQQ-HĐTP; cụ thể trong trường hợp này thời gian thử thách là 03 năm [(02 năm - 6 tháng) x 2]. Khi quyết định, Tòa án phải ghi: “...xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 03 (ba) năm, kể từ ngày...”.
2. Về Điều 231 Bộ luật hình sự “Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”.
Ngày 11-12-2008 Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2008/NĐ-CP “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”; do đó, khi chuẩn bị xét xử và khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự về tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, Tòa án cần chú ý:
a. Phải coi “công trình quan trọng về an ninh quốc gia” là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”.
b. Để được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” thì công trình đó phải thuộc danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia do Chính phủ quy định. Trong trường hợp chưa được quy định trong danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia thì chỉ được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11-12-2008 của Chính Phủ.
Trường hợp trong hồ sơ vụ án chưa điều tra làm rõ công trình đó có phải là công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia hay không (không chỉ rõ thuộc danh mục nào do Chính Phủ quy định; không có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung các chứng cứ chứng minh đó là công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà Viện kiểm sát không bổ sung các chứng cứ, thì Tòa án quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
3. Luật thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14-11-2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2009.
Điều 26 Luật thi hành án dân sự quy định: “Khi ra bản án, quyết định,...Tòa án phải giải thích cho dương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án”. Đây là một quy định mới, cho nên các Tòa án cần phải tổ chức quán triệt và phải thi hành đúng.
Để thi hành đúng quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự, Tòa án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn một số điểm sau đây:
a. Chỉ ghi theo quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự khi trong bản án, quyết định của Tòa án có quyết định được thi hành theo Luật thi hành án dân sự;
b. Thống nhất ghi theo quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự trong bản án, quyết định của Tòa án như sau:
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”;
c. Ghi nội dung được hướng dẫn tại điểm b mục 3 này vào phần cuối cùng của phần quyết định.
d. Sau khi tuyên án xong, Tòa án giải thích cho đương sự (người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự) biết về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án. Việc giải thích phải căn cứ và các quy định của Luật thi hành án dân sự.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC
(để biết và chỉ đạo thực hiện); - Các đơn vị thuộc TANDTC - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC - VKSNDTC (để phối hợp); - Lưu VP, BTK (TANDTC).
Đặng Quang Phương
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------- Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 2009
Số: 105/TANDTC-KHXX V/v thi hành Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Ngày 19-6-2009, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 33/2009/QH12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 33). Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 đã quy định đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự được công bố (ngày 29-6-2009).
Để thi hành đúng các quy định tại Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33; trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành; tham khảo các hướng dẫn tương ứng tại Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 12-6- 2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội và Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-01-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn một số Điểm sau đây:
1. Kể từ ngày 29-6-2009 khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm một trong các tội được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 (không phân biệt hành vi phạm tội được thực hiện trước hay sau ngày 29-6-2009).
2. Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 29-6-2009 đối với người phạm một trong các tội được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình xuống hình phạt tù chung thân đối với người bị kết án.
3. Kể từ ngày 29-6-2009 không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi được quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phỳc thẩm, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để Điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Toà án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Toà án áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định ) rút quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 và Điều 181 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà sơ thẩm) áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều 180 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà và Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án;
đ) Cần chú ý rằng việc đình chỉ vụ án được hướng dẫn tại các Điểm b, c và d Mục 3 này chỉ là đình chỉ đối với các trường hợp được quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 về mặt hình sự, còn các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có), thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 được thực hiện như sau:
a) Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù hoặc cơ quan thi hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội;
b) Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục;
c) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm c-ư trú hoặc quản chế, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm c-ư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại theo đề nghị của chính quyền địa ph-ương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tư-ớc một số quyền công dân, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư- trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn t-ước một số quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện trư-ởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện tr-ưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó c-ư trú hoặc làm việc;
đ) Đối với người bị xử phạt tù, xử phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội đang đ-ược tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang đư-ợc hoãn chấp hành hình phạt hoặc chư-a chấp hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người đó cư- trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trư-ởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người đó c-ư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang đ-ược tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang đ-ược hoãn chấp hành hình phạt hoặc ch-ưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư- trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trư-ởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trư-ởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó c-ư trú hoặc làm việc.
g) Khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), còn đối với các vấn đề khác đối với họ, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng...., thì họ vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án), trong đó có tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm nữa.
Ví dụ 1: Nguyễn Văn T bị Toà án xử phạt 1 năm tù về tội “sử dụng trái phép chất ma tuý” và 2 năm tù về tội “giao cấu với trẻ em”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 3 năm tù; nếu Nguyễn Văn T chưa chấp hành hình phạt tù hoặc đang chấp hành hình phạt tù, nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt tù chưa quá 2 năm, thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt 1 năm tù đối với tội “sử dụng trái phép chất ma tuý”.
- Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Ví dụ 2: Nếu trong ví dụ 1 trên đây, Nguyễn Văn T đã chấp hành hình phạt tù bằng hoặc quá 2 năm, thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.
5. Khi đình chỉ vụ án cũng như miễn chấp hành hình phạt, thì Toà ỏn ra quyết định đình chỉ hoặc quyết định miễn chấp hành hình phạt cần giải thích cho người được đình chỉ vụ án hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”.
6. Đối với các đối tượng được quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 mà đang bị truy nã, thì Toà án đó ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
7. Đối với người bị kết án thuộc trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, nếu họ có yêu cầu, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đối với họ cấp giấy chứng nhận xoá án tích cho họ.
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; các đồng chí Chánh toà các Toà phúc thẩm, Toà hình sự và Thủ trưởng các đơn vị liên quan của Toà án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo đảm cho việc thi hành đúng và thống nhất Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33 của Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn bổ sung thì kịp thời phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có sự giải thích, hướng dẫn bổ sung.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết và chỉ đạo thực hiện); - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Uỷ ban tư pháp của Quốc hội; - Uỷ ban pháp luật của Quốc hội; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------- Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2009
Số: 144/TANDTC-KHXX V/v xác định công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Trong thời gian qua một số Toà án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn việc xác định công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia trong trường hợp khách thể của tội phạm chưa được quy định trong danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tại Mục 2 Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01-7-2009 của Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
“a. Phải coi “công trình quan trọng về an ninh quốc gia” là "công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”.
b. Để được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” thì công trình đó phải thuộc danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia do Chính phủ quy định. Trong trường hợp chưa được quy định trong danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia thì chỉ được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11-12-2008 của Chính phủ”.
Do Nghị định số 126/2008/NĐ-CP mới được ban hành, cho nên nhiều công trình đủ tiêu chí xác định công trình thuộc danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia quy định tại Điều 7 của Nghị định chưa được tiến hành các thủ tục theo quy định tại các Điều 9, 10, 11 và 12 của Nghị định để Thủ tướng Chính phủ quyết định đưa vào danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Tuy nhiên, không phải vì lý do này mà không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự. Vì lý do đó tại Công văn số 99/TANDTC-KHXX đã hướng dẫn: “Trong trường hợp chưa được quy định trong danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia thì chỉ được coi là “công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia” khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 126/2008/NĐ-CP ngày 11-12-2008 của Chính phủ”; cụ thể như sau:
Theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật tố tụng hình sự thì Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Vì vậy, trong trường hợp nêu trên để kết luận Điều tra, để ra bản cáo trạng về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự hay không thì Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát phải yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Nghị định số 126/2008/NĐ- CP hoặc cơ quan thẩm định hồ sơ đề nghị đưa công trình vào danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia quy định tại Điều 10 của Nghị định kết luận là công trình đó có đủ tiêu chí xác định công trình thuộc danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia quy định tại Điều 7 của Nghị định hay không. Nếu kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan thẩm định hồ sơ là công trình đó có đủ tiêu chí của công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia và đủ các yếu tố khác cấu thành tội phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự. Ngược lại kết luận là công trình
đó không đủ tiêu chí của công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, nhưng đủ các yếu tố khác cấu thành tội phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng.
Đối với Toà án cấp sơ thẩm nếu thụ lý vụ án về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự mà trong thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên toà xét thấy công trình đó không có trong danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan thẩm định thì Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung. Đối với Toà án cấp phúc thẩm nếu xét thấy Toà án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự mà công trình đó không có trong danh Mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cơ quan thẩm định thì về nguyên tắc Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điểm c Khoản 2 Điều 248 và Khoản 1 Điều 250 của Bộ luật tố tụng hình sự huỷ bản án sơ thẩm để Điều tra lại.
Trên đây là ý kiến giải thích, hướng dẫn bổ sung của Toà án nhân dân tối cao về việc xác định công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia và việc quyết định của Toà án khi thụ lý xét xử các vụ án về tội phạm quy định tại Điều 231 của Bộ luật hình sự.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết và chỉ đạo thực hiện); - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Uỷ ban tư pháp của Quốc hội; - VKSNDTC; - Bộ Công an; (để phối hợp) - Bộ Quốc phòng; - Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------- Hà Nội, ngày 28 tháng 06 năm 2011
Số: 91/TANDTC-KHXX về việc áp dụng nghị quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27 tháng 7 năm 2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Từ ngày Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH1 ngày 27 tháng 7 năm 2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, có hiệu lực (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 1037), hầu hết Tòa án các cấp đã áp dụng đúng các quy định trong Nghị quyết. Tuy nhiên qua hoạt động giám đốc, kiểm tra của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao, thì thấy còn có Tòa án nhận thức chưa đầy đủ về phạm vi áp dụng của Nghị quyết dẫn đến có trường hợp phải áp dụng Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8 năm 1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 58) thì lại. Áp dụng Nghị quyết số 1037 và có trường hợp Tòa án phải áp dụng Nghị quyết số 1037 để giải quyết thì lại không áp dụng… Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Nghị quyết số 1037 nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Tại Điều 1 Nghị quyết số 1037 đã quy định về phạm vi áp dụng Nghị quyết là:
"1. Nghị quyết này được áp dụng để giải quyết các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, bao gồm:
a) Thuê nhà ở;
b) Mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở;
c) Mua bán nhà ở;
d) Đổi nhà ở,
đ) Tặng cho nhà ở;
e) Thừa kế nhà ở;
g) Ủy quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.
2. Các loại nhà sau đây được coi là đối tượng của các giao dịch thuộc phạm vi áp dụng của Nghị quyết này.
a) Nhà đang được sử dụng vào mục đích không phải để ở nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 là nhà ở;
b) Nhà đang được sử dụng vào mục đích để ở nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 không phải là nhà ở;
c) Nhà đang được sử dụng vào mục đích để ở nhưng tại thời điểm xác lập giao dịch dân sự trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 không xác định được mục đích sử dụng".
Như vậy, chỉ được áp dụng Nghị quyết số 1037 khi giao dịch đó hội tụ đủ 3 yếu tố cơ bản sau đây:
Một là: Giao dịch đó là giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân thuộc một trong 7 loại quan hệ pháp luật được đề cập ở khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết.
Hai là: Các giao dịch đó phải được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.
Ba là: Có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia từ trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.
Trong trường hợp giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991, nhưng từ ngày 1 tháng 7 năm 1991 trở đi mới có người Việt Nam (tham gia vào quan hệ pháp luật đó) định cư ở nước ngoài thì không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 1037 mà phải áp dụng Nghị quyết số 58 để giải quyết.
Ví dụ 1: Năm 1988, ông Nguyễn Văn A mua căn nhà thuộc sở hữu của ông Đăng Ngọc B và bà Nguyễn Thị H ở thành phố Hồ Chí Minh, với giá 2.000.000 đồng. Phía ông A đã thanh toán cho ông B được 1.500.000 đồng phía vợ chồng ông B vẫn chưa giao nhà cho ông A. Năm 1990, ông B xuất cảnh và đang định cư tại Pháp, nhà đất do vợ là bà Nguyễn Thị H quản lý sử dụng. Nay ông A khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông B phải giao nhà cho ông Trong trường hợp này, Tòa án áp dụng Nghị quyết số 1037 nêu trên để giải quyết.
Ví dụ 2: Năm 1990, ông Nguyễn Văn K mua căn nhà thuộc sở hữu của ông Đăng. Ngọc C và bà Nguyễn Thị T ở thành phố Hà Nội, với giá 3.000.000đồng. Phía ông K đã thanh toán cho ông C được 2.500.000 đồng, phía vợ chồng ông C vẫn chưa giao nhà cho ông K Năm 1993, ông C xuất cảnh và đang định cư tại Mỹ, nhà đất do vợ là bà Nguyễn Thị T quản lý, sử dụng. ông K khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông C phải giao .nhà cho ông. Trong trường hợp này, Tòa án không được áp dụng Nghị quyết số 1037 nêu trên mà áp dụng Nghị quyết số 58 để giải quyết.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Tưởng Duy Lượng
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 16 tháng 08 năm 2011 Số: 245/TANDTC-TK V/v thi hành án tử hình
Kính gửi: - Các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; - Các đồng chí Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu.
Theo quy định tại Điều 181 Luật thi hành án hình sự, thì kể từ ngày Luật này có hiệu lực (ngày 01/7/2011) các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự có nội dung khác với Luật này thì áp dụng theo quy định của Luật này.
Khoản 3 Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn”. Nay, Điều 59 Luật thi hành án hình sự quy định: “Thi hành án tử hình được thực hiện bằng hình thức tiêm thuốc độc. Quy trình thực hiện việc tiêm thuốc độc do Chính phủ quy định”. Như vậy, kể từ ngày 01/7/2011 thì thi hành án tử hình được thực hiện bằng tiêm thuốc độc. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có quy định của Chính phủ về quy trình thực hiện việc tiêm thuốc độc.
Để thi hành đúng các quy định của Luật thi hành án hình sự về thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn như sau:
1. Sau khi “thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành” quy định tại Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự đã được thực hiện đầy đủ và bản án tử hình được thi hành, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án tử hình. Quyết định thi hành án tử hình phải làm đúng quy định tại khoản 1 và phải được gửi cho các cơ quan liên quan quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật thi hành án hình sự.
2. Ngay sau khi có quyết định thi hành án tử hình, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án có văn bản yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu cử đại diện tham gia Hội đồng thi hành án tử hình theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật thi hành án hình sự.
3. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án làm Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình. Trong khi chờ hướng dẫn liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan về thành phần Hội đồng thi hành án tử hình, thì Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng thi hành án tử hình phải thực hiện đúng quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật thi hành án hình sự.
4. Trong khi chờ quy định của Chính phủ về quy trình thực hiện việc tiêm thuốc độc cho đến khi bản án tử hình được thi hành, Hội đồng thi hành án tử hình tiến hành thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 56 Luật thi hành án hình sự.
5. Khi quy định của Chính phủ về quy trình thực hiện việc tiêm thuốc độc có hiệu lực, thì Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật thi hành án hình sự; Hội đồng thi hành án tử hình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 56 Luật thi hành án hình sự. Hội đồng thi hành án tử hình và Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình thực hiện các quy định về trình tự thi hành án tử hình quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 59 Luật thi hành án hình sự.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đồng chí Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu tổ chức triển khai thi hành đúng và kịp thời. Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc báo cáo kịp thời cho Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - VP Chủ tịch nước (để biết); - VP Chính phủ (để biết); - VKSNDTC (để biết và phối hợp chỉ đạo thực hiện); - Bộ Công an (để biết và phối hợp chỉ đạo thực hiện); - TAQSTW (để biết và phối hợp chỉ đạo thực hiện); - Các đ/c PCA TANDTC (để biết); - Báo Công lý, Tạp chí TAND, Cổng thông tin điện tử TANDTC (để thông tin); - Lưu: BTK, THS, VKHXX, VP, Vụ TKTH (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 21 tháng 09 năm 2011
Số: 141/TANDTC-KHXX V/v thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản
Kính gửi: - Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; - Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Trong thời gian vừa qua một số Tòa án nhân dân địa phương đề nghị hướng dẫn “Giấy tờ có giá” và các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm giữ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) có phải là các yêu cầu trả lại “Giấy tờ có giá” hay không. Nếu có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án có thụ lý giải quyết không. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
1. Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 thì giấy tờ có giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ có giá bao gồm:
a) Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
b) Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;
c) Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009;
d) Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010);
đ) Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp”…
2. Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005; do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết.
3. Trường hợp người khởi kiện chỉ đòi lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản do người khác đang chiếm giữ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Tòa án áp dụng điểm e khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn kiện cho người khởi kiện. Trong văn bản trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện là yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
b) Trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý; trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự; căn cứ khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự.
c) Khi trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nêu trên, Tòa án phải hướng dẫn cho người khởi kiện có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó. Trong trường hợp giấy tờ bị mất thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ nêu trên có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật (ví dụ: yêu cầu cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở bị mất theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ “về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”). Bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Tòa án quân sự Trung ương (để biết); - Các Tòa chuyên trách, các Tòa phúc thẩm TANDTC (để thực hiện); - Các thẩm phán TANDTC (để thực hiện); - Ban Thanh tra, Ban Thư ký, Trường Cán bộ TANDTC (để thực hiện); - Tạp chí Tòa án nhân dân; Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng);
- Lưu Văn phòng, VKHXX (TANDTC)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 21 tháng 09 năm 2011
Số: 143/TANDTC-KHXX V/v một số vấn đề liên quan đến việc khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan BHXH
Kính gửi: - Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; - Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh.
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định của pháp luật liên quan đến việc khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan Bảo hiểm Xã hội, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án nhân dân các cấp thực hiện đúng và nghiêm túc một số vấn đề sau đây:
1. Về việc khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan Bảo hiểm Xã hội
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 151 Bộ luật lao động (đã được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006) thì: “Tranh chấp giữa người lao động đã nghỉ việc theo chế độ với người sử dụng lao động hoặc với cơ quan bảo hiểm xã hội, giữa người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội do hai bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì do Tòa án nhân dân giải quyết”.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22-8-2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thì “Bảo hiểm Xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp (sau đây gọi chung là bảo hiểm xã hội), bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện (sau đây gọi chung là bảo hiểm y tế) theo quy định của pháp luật”.
Trường hợp cơ quan Bảo hiểm Xã hội khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân, nếu Tòa án thấy rằng vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của mình thì căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 151 Bộ luật Lao động, khoản 3 Điều 162 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS) và văn bản hướng dẫn thi hành để thụ lý đơn khởi kiện, giải quyết vụ án dân sự và xác định cơ quan Bảo hiểm Xã hội là nguyên đơn. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 31 và điểm c khoản 1 Điều 33 của BLTTDS thì cơ quan Bảo hiểm Xã hội có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện. Trong trường hợp người bị khởi kiện ở nước ngoài thì cơ quan Bảo hiểm Xã hội có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS.
2. Về việc cung cấp chứng cứ của cơ quan Bảo hiểm Xã hội khi khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
Theo quy định tại Điều 85, Điều 165 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 5 Phần I Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP thì khi khởi kiện cơ quan Bảo hiểm Xã hội phải gửi kèm theo đơn khởi kiện là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trường hợp vì lý do khách quan mà cơ quan Bảo hiểm Xã hội không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, thì phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu để chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan Bảo hiểm Xã hội phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Tòa án hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng.
3. Về việc nộp tiền tạm ứng án phí, án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án thì cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí. Do vậy, cơ quan Bảo hiểm Xã hội khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước theo lĩnh vực mình phụ trách không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các cấp nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Trần Văn Tú
Nơi nhận: - Như trên; - Đồng chí Trương Hòa Bình, Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC (để biết và chỉ đạo thực hiện); - Các Tòa phúc thẩm, các Tòa chuyên trách, Ban Thanh tra, Ban Thư ký, Vụ Thống kê tổng hợp (để thực hiện); - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC (để thực hiện); - VKSNDTC (để phối hợp); - Lưu VP, VKHXX (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2011
Số: 116/TA-TKTH V/v Luật sư mặc trang phục khi tham gia phiên tòa
Kính gửi: - Các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự các cấp; - Chánh tòa các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Tại Công văn số 277/LĐLSVN ngày 25/10/2011, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thông báo nội dung Nghị quyết số 12/NQ-HĐLSTQ ngày 27/02/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc về trang phục của Luật sư khi tham gia phiên tòa. Theo đó, kể từ ngày 10/10/2011, các Luật sư bắt buộc phải mặc trang phục thống nhất khi tham gia phiên tòa theo mẫu: áo veston và quần âu màu đen, áo sơ mi trắng, cà vạt màu xám lông chuột do Liên đoàn may thống nhất, đeo huy hiệu có hình biểu tượng logo của Liên đoàn Luật sư bên ngực trái áo trang phục. Trang phục nói trên được áp dụng chung cho cả Luật sư nam và Luật sư nữ, riêng mùa hè thì có thể không cần mặc áo veston.
Đồng thời tại Công văn nói trên, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo Tòa án các cấp nhắc nhở, giám sát các Luật sư và chỉ chấp nhận các Luật sư tham gia phiên tòa khi Luật sư mặc đúng trang phục theo quy định hiện hành của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Để phối hợp, giúp cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam quản lý các Luật sư trong việc chấp hành nghiêm quy định về trang phục khi tham gia phiên tòa, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí quán triệt nội dung Công văn này tới toàn thể Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị để các Hội đồng xét xử lưu ý, nhắc nhở các Luật sư mặc đúng trang phục theo quy định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam khi tham gia phiên tòa.
(Kèm theo Công văn này là bản sao Công văn số 277/LĐLSVN ngày 25/10/2011 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam).
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Liên đoàn Luật sư Việt Nam (để biết và phối hợp); - Lưu: VP, Vụ TKTH
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 31 tháng 08 năm 2012
Số: 177/TANDTC-KHXX V/v xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ theo quy định của NĐ số 62/2012/NĐ-CP
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Trong khuôn khổ Kế hoạch triển khai thi hành Luật phòng, chống mua bán người, ngày 13-8- 2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2012/NĐ-CP “Quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua án và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ”, trong đó có các quy định liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án như: thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, trách nhiệm tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo vệ v.v… Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10-10-2012.
Để thi hành đúng các quy định của Nghị định, thực hiện tốt yêu cầu phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ khi giải quyết các vụ án về mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức nghiên cứu kỹ quy định của Nghị định số 62/2012/NĐ-CP “Quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ” để thực hiện đúng. Nếu có vướng mắc trong quá trình áp dụng hoặc có vấn đề gì cần được giải thích, hướng dẫn thì phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao biết (thông qua Viện khoa học xét xử).
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, các đồng chí Chánh án các Tòa phúc thẩm và Thủ trưởng các đơn vị liên quan của Tòa án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo đảm cho việc thi hành đúng các quy định của Nghị định số 62/2012/NĐ-CP nêu trên.
(Kèm theo Công văn này là Nghị định số 62/2012/NĐ-CP ngày 13-8-2012 “Quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ”).
Nơi nhận: - Như trên; KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC
- Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết và chỉ đạo thực hiện); - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VT, VKHXX (TANDTC).
Đặng Quang Phương
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------
Hà Nội, ngày 02 tháng 11 năm 2012
Số: 268/TANDTC-HS V/v áp dụng điều luật đối với hành vi mua bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng
Kính gửi: - Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các Tòa phúc thẩm, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao.
Tại Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng.
Ngày 01-01-2010 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự có hiệu lực, bổ sung Điều 164a "Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước"
Sau khi có ý kiến của Bộ Tài chính tại Công văn số 9136/BTC-PC ngày 09-7-2012;
Trong khi chờ Liên ngành sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004 của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp;
Sau khi thống nhất với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp; Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm về các hành vi liên quan đến hóa đơn giá trị gia tăng như sau:
1. Đối với hành vi mua, bán hóa đơn giá trị gia tăng mà chứng minh được hóa đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hóa quy định tại điểm a tiểu mục 1.4 Mục 1 và điểm a tiểu mục 2.2 Mục 2 của Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA-TANDTC- VKSNDTC-BTP, trước đây hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả” theo Điều 181 Bộ luật hình sự, nay truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo Điều 164a Bộ luật hình sự.
2. Đối với hành vi mua, bán hóa đơn giá trị gia tăng mà không chứng minh được hóa đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hóa (hóa đơn giá trị gia tăng còn nguyên như khi phát hành) quy định tại điểm b tiểu mục 1.4 Mục 1 và điểm b tiểu mục 2.2 Mục 2 của Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP, trước đây hướng dẫn truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước” theo Điều 268 Bộ luật hình sự, nay truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo Điều 164a Bộ luật hình sự.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Chánh tòa các Tòa phúc thẩm, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN THƯỜNG TRỰC Đặng Quang Phương
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết); - BCA, VKSNDTC, BTP (để phối hợp hướng dẫn thực hiện trong ngành); - Các Thẩm phán TANDTC (để thực hiện); - Ban Thanh tra, Ban Thư ký; Trường Cán bộ TANDTC (để thực hiện); - Tạp chí TAND; Cổng Thông tin điện tử TANDTC (để đăng); - Lưu: VKHXX, THS (03 bản), VP.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2012 Số: 244/TANDTC-KHXX V/v: mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam
Kính gửi: - Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; - Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh.
Để áp dụng đúng và thống nhất một số quy định của pháp luật liên quan đến mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án nhân dân các cấp thực hiện quy định sau đây:
Theo quy định tại Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29-11-2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây viết tắt là Quyết định 2868) quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm, có hiệu lực từ ngày 01-12-2010. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước chưa có văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế, hủy bỏ hoặc bãi bỏ Quyết định 2868. Do đó, trong quá trình giải quyết các loại vụ, việc tại Tòa án có liên quan đến vấn đề áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố thì hiện nay vẫn áp dụng mức lãi suất cơ bản quy định tại Quyết định 2868 cho đến khi có văn bản sửa đổi, hủy bỏ Quyết định 2868 nêu trên.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các cấp nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Tống Anh Hào
Nơi nhận: - Như trên; - Đồng chí Trương Hòa Bình, Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC (để biết và chỉ đạo thực hiện); - Tòa án Quân sự Trung ương (để thực hiện); - Các Tòa án phúc thẩm, các Tòa chuyên trách, Ban Thanh tra, Ban Thư ký, Vụ Thống kê tổng hợp (để thực hiện); - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC (để thực hiện); - VKSNDTC (để phối hợp); - Lưu VP, VKHXX (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 17 tháng 02 năm 2014
Số: 27/TANDTC-KHXX V/v: Ấn định thời gian thử thách đối với người bị xử phạt tù được hưởng án treo
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; - Tòa hình sự, Ban thanh tra, Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao; - Tòa án quân sự quân khu và tương đương.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến của một số Tòa án nhân dân đề nghị hướng dẫn về việc khi ấn định thời gian thử thách của án treo thì Tòa án có được trừ thời gian tạm giam, tạm giữ của người bị phạt tù được cho hưởng án treo vào thời gian thử thách hay không. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Bộ luật hình sự không quy định về việc trừ thời gian tạm giam, tạm giữ vào thời gian thử thách của án treo mà chỉ quy định thời gian tạm giam, tạm giữ sẽ được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù. Để bảo đảm việc ấn định thời gian thử thách của án treo phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự, ngày 14-10-2013, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo, trong đó tại Điều 3 của Nghị quyết này đã hướng dẫn: "Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 1 năm và không được quá 5 năm”. Như vậy, đối với trường hợp người bị xử phạt tù được hưởng án treo mà trước đó đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian họ bị tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời gian thử thách.
Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25-12-2013 và thay thế các hướng dẫn trước đây của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về án treo, trong đó có hướng dẫn về việc ấn định thời gian thử thách. Như vậy, kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực pháp luật, việc ấn định thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo phải được thực hiện đúng theo hướng dẫn tại Điều 3 của Nghị quyết nêu trên.
Sau khi nhận được Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chánh tòa Tòa phúc thẩm, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao; Trưởng ban Ban thanh tra, Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương quán triệt các nội dung hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo, trong đó cần lưu ý khi ấn định thời gian thử thách của án treo thì không trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ vào thời gian thử thách đến các đồng chí Thẩm phán, cán bộ, công chức thuộc cơ quan, đơn vị, địa phương mình để bảo đảm các hướng dẫn của Nghị quyết nêu trên được áp dụng đúng và thống nhất.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo) - Các đ/c PCA TANDTC (để biết và phối hợp chỉ đạo) - Lưu: VT (Viện KHXX, VP. TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2014
Số: 74/TANDTC-KHXX V/v xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND
Kính gửi:
- Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Ngày 20-01-2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. Để bảo đảm kịp thời việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, Tòa án nhân dân tối cao tạm thời ban hành một số mẫu văn bản của Tòa án nhân dân trong việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; cụ thể là:
1. Thông báo về việc thụ lý hồ sơ đề nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Mẫu số 01);
2. Quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Mẫu số 02);
3. Quyết định áp dụng (không áp dụng) biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng (Mẫu số 03);
4. Quyết định áp dụng (không áp dụng) biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc (Mẫu số 04);
5. Quyết định áp dụng (không áp dụng) biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Mẫu số 05);
6. Quyết định hoãn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Mẫu số 06);
7. Quyết định miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Mẫu số 07);
8. Quyết định giảm thời hạn chấp hành biện pháp xử lý hành chính (miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại) (Mẫu số 08);
9. Quyết định tạm đình chỉ chấp hành biện pháp xử lý hành chính (Mẫu số 09);
10. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị (Mẫu số 10).
Trong quá trình thi hành Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và sử dụng các mẫu văn bản kèm theo Công văn này, nếu có khó khăn, vướng mắc thì các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (qua Viện khoa học xét xử) để có giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án (để b/c); - Các đ/c PCA TANDTC; - Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC; - Lưu: VT (VP, Viện KHXX TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 08 năm 2014
Số: 138/TANDTC-KHTC V/v hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thực hiện thí điểm Thừa phát lại
Kính gửi: Chánh án Tòa án nhân dân ………………
Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân;
Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội khóa 13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại;
Căn cứ Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội ngày 23/11/2012;
Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, thực hiện đúng các văn bản nêu trên, đồng thời thực hiện một số nội dung sau đây:
I. Một số vấn đề chung
1. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo Chương X của Bộ luật tố tụng dân sự; Chương VII Luật tố tụng hành chính; Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người giám định, người phiên dịch, người làm chứng, cơ quan, tổ chức.... và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Đối với trường hợp văn bản tố tụng trong lần thứ nhất đương sự đã nhận được và có đơn xin vắng mặt (vì lý do khách quan, vì bất khả kháng...) được coi là vắng mặt có lý do chính đáng thì Tòa án ban hành văn bản tố tụng tiếp tục gửi, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng lần thứ hai.
3. Các Tòa án giao văn bản cho Thừa phát lại thực hiện tống đạt phải thực hiện theo đúng thời gian ghi trong hợp đồng để bảo đảm thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc kế hoạch giải quyết vụ án của thẩm phán chậm nhất ba ngày kể từ khi nhận được yêu cầu của Tòa án, Văn phòng Thừa phát lại phải trả kết quả cho Tòa án yêu cầu trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Việc tống đạt hoàn thành khi Văn phòng Thừa phát lại giao kết quả đã tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng cho Tòa án. Trường hợp không thể thực hiện được việc tống đạt thì Văn phòng Thừa phát lại phải thông báo ngay cho Tòa án đã ký hợp đồng để tiến hành xử lý theo quy định.
II. Việc ký hợp đồng dịch vụ
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Giám đốc Sở Tư pháp thống nhất địa hạt để các Văn phòng Thừa phát lại ký kết hợp đồng dịch vụ với Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn (trừ các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao).
III. Thủ tục giao văn bản và nhận kết quả tống đạt văn bản
1. Mỗi Tòa án phải thiết lập các loại sổ sách để quản lý việc giao nhận văn bản tống đạt; các loại sổ bao gồm: Sổ giao, nhận các văn bản trong địa bàn nơi có trụ sở; số giao, nhận các văn bản ngoài địa bàn nơi có trụ sở (phân loại trên địa bàn trong tỉnh, các tỉnh khác); sổ giao nhận văn bản tống đạt là Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của đương sự.
2. Thời điểm giao văn bản tống đạt và nhận kết quả tống đạt từ 16 giờ đến 17 giờ mỗi ngày làm việc.
3. Văn phòng Thừa phát lại sau khi thực hiện xong việc tống đạt, giao kết quả cho Tòa án phải có bảng kê để làm cơ sở thanh toán. Phía dưới của bảng kê cần ghi tên của Thẩm phán đã ký văn bản tố tụng hoặc Thẩm phán-chủ tọa phiên tòa và chữ ký xác nhận của Thẩm phán hoặc lãnh đạo Tòa án.
IV. Chi phí tống đạt văn bản tố tụng
1. Chi phí tống đạt do ngân sách Nhà nước thanh toán theo quy định của Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài Chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao nêu trên, trừ trường hợp tống đạt Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do đương sự yêu cầu theo quy định của pháp luật về tố tụng. Chi phí tống đạt bao gồm cả thuế giá trị gia tăng. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Sở Tài chính, Cục thi hành án dân sự và Sở Tư pháp thống nhất, quyết định cụ thể mức chi phí tống đạt áp dụng với từng quận, huyện trên địa bàn để làm cơ sở xác định chi phí tống đạt.
2. Một số trường hợp cụ thể cần lưu ý khi xác định chi phí tống đạt:
a. Trong phạm vi cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại không quá 65.000đ/việc/văn bản; trường hợp tống đạt từ hai văn bản trở lên cho cùng một người và cùng một thời điểm thì tính tống đạt một văn bản; trường hợp tống đạt cho nhiều người nhưng ở cùng địa chỉ trong phường, xã, thị trấn vào cùng thời điểm thì tính không quá 30.000đ cho người thứ hai trở đi.
b. Ngoài phạm vi cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại (không quá 130.000 đ/việc): trường hợp tống đạt từ hai văn bản trở lên cho cùng một người vào cùng một thời điểm thì tính
tống đạt một văn bản; trường hợp tống đạt cho nhiều người nhưng ở cùng địa chỉ trong phường, xã, thị trấn vào cùng một thời điểm thì tính không quá 30.000 đ cho người thứ hai trở đi.
c. Các trường hợp tống đạt ngoài địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nơi được làm thí điểm thừa phát lại) thì thực hiện theo thỏa thuận nhưng không được vượt quá quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/2/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao.
V. Thanh toán chi phí tống đạt
1. Việc thanh toán được thực hiện theo quy định tại Điều 14 Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/2/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao.
2. Văn phòng Thừa phát lại có trách nhiệm lập bảng kê khối lượng công việc hoàn thành và hóa đơn tài chính giao cho Tòa án vào ngày 20 hàng tháng để đối chiếu với công việc đã giao, nhận. Sau khi kiểm tra, đối chiếu nếu kết quả đối khớp thì Tòa án thực hiện việc thanh toán bằng hình thức chuyển khoản. Việc chuyển khoản thực hiện vào ngày 25 hàng tháng. Trường hợp bảng kê và kết quả đã nhận không đối khớp thì Tòa án và Văn phòng thừa phát lại phải trao đổi để thống nhất.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc thì báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao (Vụ Kế hoạch - Tài chính) để giải quyết.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
Nơi nhận: - Các Tòa án thực hiện thí điểm thừa phát lại; - Văn phòng Ban chỉ đạo thực hiện thí điểm thừa phát lại; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Đ/c Phó chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Tổng cục thi hành án Bộ Tư pháp (để biết); - Lưu VP, Vụ KHTC, Viện KHXX.
Nguyễn Sơn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- Số: 234/TANDTC-HS
Hà Nội, ngày 17 tháng 09 năm 2014
Kính gửi:
- Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; - Tòa án quân sự các cấp;
Để thực hiện đúng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với “Các tội phạm về ma túy” Bộ Công an – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư 17/2007/TTLT-BCA- VKSDNTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 nêu trên thì: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất mà túy, tiền chât.”
Tuy vậy, qua công tác giám đốc việc xét xử, Tòa án nhân dân tối cao thấy còn nhiều trường hợp Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào kết quả giám định về trọng lượng của các chất nghi là chất ma túy để kết tội các bị cáo, mà không yêu cầu xác định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu được đó, như vậy là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự và hướng dẫn của liên ngành dẫn đến hậu quả có thể xát xử oan, sai.
Để khắc phục ngay tình trạng này, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các Đồng chí Chánh án Tòa án quân sự các cấp cần quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 nêu trên về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội về ma túy” của Bộ luật hình sự 1999.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì vướng mắc thì kịp thời phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao để được hướng dẫn, giải thích bổ sung.
KT.CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
Nơi nhận: -Như trên; -Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); -Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết); -Các Tòa chuyên trách, Tòa Phúc thẩm (để thực hiện); -Các Thẩm phán TANDTC (để thực hiện); -Ban Thanh tra, Ban Thư ký (để thực hiện); -Lưu VP.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 01 năm 2015 Số: 07/TANDTC-KHXX V/v thi hành pháp luật trọng tài thương mại
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; - Các Tòa phúc thẩm, Tòa kinh tế và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 17-06-2010, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật Trọng tài thương mại, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2011. Triển khai thi hành Luật Trọng tài thương mại, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại. Để thực hiện đúng các quy định của Luật trọng tài thương mại, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Tòa chuyên trách, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao thực hiện đúng một số vấn đề sau đây:
1. Khi thụ lý, giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động của Trọng tài thương mại về chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc; thay đổi Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài vụ việc; yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ; yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; triệu tập người làm chứng; yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì phải được Tòa án xem xét và quyết định theo đúng các quy định của Luật Trọng tài thương mại, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2. Thực hiện quy định tại khoản 10 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại và Công văn số 810/UBTVQH13-TP ngày 26-12-2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đối với các yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đã được Tòa án thụ lý, giải quyết theo quy định tại các điều 68, 69, 70 và 71 Luật Trọng tài thương mại thì Tòa án có quyền ra quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài. Quyết định của Tòa án hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng, có hiệu lực thi hành và không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Do vậy, khi xem xét, giải quyết loại yêu cầu này các Tòa án cần thận trọng, xem xét khách quan toàn diện các tài liệu, chứng cứ, các vấn đề khác của vụ việc và căn cứ vào pháp luật hiện hành để có quyết định chính xác, từ đó góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
3. Trường Cán bộ Tòa án, Tòa Kinh tế, Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên tổng kết những vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thi hành Luật Trọng tài
thương mại, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại để báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản giải thích hướng dẫn kịp thời hoặc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, cán bộ các Tòa án.
4. Trong quá trình áp dụng các quy định của Luật Trọng tài thương mại, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại nếu có vấn đề vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Viện khoa học xét xử) để Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật giải thích, hướng dẫn.
Sau khi nhận được Công văn này, các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các đồng chí Chánh tòa Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao, các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức quán triệt ngay cho các Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị mình để việc thi hành Luật Trọng tài thương mại được thực hiện đúng và thống nhất.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng thông tin điện tử của TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2015
Số: 315/TANDTC-PC V/v Thực hiện TTLT sửa đổi, bổ sung một số điểm của TTLT số 17
Kính gửi: - Các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 14-11-2015, lãnh đạo liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 08). Để bảo đảm việc áp dụng thống nhất trong xét xử, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; đồng thời, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu tại Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26-6-2015 của Quốc hội khóa XIII về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tổ chức phổ biến, quán triệt các nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 08 trong cơ quan, đơn vị mình, trong đó cần lưu ý:
1. Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08 thì ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy tại các điểm a (chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch); b (chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thế lỏng đã được pha loãng); c (xái thuốc phiện) và điểm d (thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần), nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật.
Để xác định đúng trọng lượng chất ma túy1 làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì đối với vụ án có thu giữ được chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy không thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại điểm a, b, c và d nêu trên mà trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã giám định để xác định loại ma túy, tiền chất nhưng không trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy, tiền chất hoặc có nghi ngờ về kết quả giám định, thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 20142, Điều 159, khoản 5 Điều 215 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 20033 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08 quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại để xác định hàm lượng chất ma túy, tiền chất làm căn cứ xác định đúng trọng lượng chất ma túy, tiền chất nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Những vụ án ma túy mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có mức án từ 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình;
b) Những vụ án mà trong giai đoạn xét xử, Tòa án xét thấy có đủ căn cứ để xác định người thực hiện hành vi phạm tội đã pha trộn các chất không phải là chất ma túy, tiền chất vào chất ma túy, tiền chất.
2. Cũng theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08 thì: “trường hợp không thu giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng”. Do đó, khi thụ lý, giải quyết các vụ án không thu giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất hoặc đối với trường hợp qua đấu tranh, khai thác người phạm tội đã khai nhận về hành vi phạm tội trước đó mà không có vật chứng (án truy xét) thì không đặt ra yêu cầu phải giám định hàm lượng chất ma túy trong những trường hợp này (vì không có tang vật để giám định) mà Tòa án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án (như lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của các đồng phạm khác, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác), kết luận của Cơ quan điều tra, quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để xét xử, kết án các bị cáo theo các tội danh và điều khoản tương ứng.
3. Khi áp dụng Thông tư liên tịch số 08 cần lưu ý hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư này, cụ thể là:
“1. Đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành, nếu các hướng dẫn trong Thông tư liên tịch này làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với các hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì được áp dụng khi điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2. Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng hướng dẫn của Thông tư liên tịch này để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.”
Theo nội dung nêu trên thì nếu việc áp dụng Thông tư liên tịch số 08 làm tăng nặng trách nhiệm hình sự so với hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 17 thì không được áp dụng khi điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Thông tư liên tịch số 08 có hiệu lực pháp luật (ngày 30- 12-2015).
4. Ngày 27 -11 - 2015, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế Bộ luật hình sự hiện hành trong đó có nhiều sửa đổi, bổ sung về các tội phạm về ma túy. Bộ luật hình sự mới có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2016; tuy nhiên, cũng có những nội dung được thi hành kể từ ngày Bộ luật này được công bố theo Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự. Do đó, để việc xét xử các vụ án về ma túy bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, cùng với việc phổ biến, quán triệt Thông tư liên tịch số 08, các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp cần chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai việc nghiên cứu, quán triệt những nội dung mới của Bộ luật hình sự, Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự đến các Thẩm phán,
Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án và các cán bộ, công chức khác trong cơ quan, đơn vị mình.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc để bảo đảm việc xét xử được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời phải bảo đảm không để xảy ra oan, sai trong xét xử.
(Kèm theo Công văn này là Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14-11-2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp).
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
1 Tại Chương XVIII của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định “Các tội phạm về ma túy” thì cụm từ “trọng Iượng” được dùng để chỉ lượng các chất ma túy ở thể rắn. Tuy nhiên, theo quy định tại Chương XX của Bộ luật hình sự (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27-11-2015 và có hiệu lực từ ngày 01-7-2016 thì cụm từ “khối lượng” được dùng thay cho cụm từ “trọng lượng” để chỉ lượng chất ma túy ở thể rắn; cụm từ “thể tích” được dùng để chỉ lượng chất ma túy ở thể lỏng.
2 Điểm c khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;”
3 Khoản 5 Điều 215 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “5. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giảm định bổ sung hoặc giảm định lại.”
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2015
Số: 326/TANDTC-PC V/v thi hành khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội
Kính gửi: - Các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 27-11-2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 109). Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 đã quy định đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố (ngày 18-12-2015). Để thi hành đúng, kịp thời các quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các đồng chí quán triệt và thực hiện một số nội dung sau đây:
1. Kể từ ngày 18-12-2015, khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử (không phân biệt hành vi phạm tội được thực hiện trước hay sau ngày 18-12-2015).
2. Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 18-12-2015 đối với người được nêu tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân đối với người bị kết án.
3. Kể từ ngày 18-12-2015, không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi được quy định tại điểm d và đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-7-2016 thì áp dụng điểm b khoản 1 Điều 277 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án đó áp dụng điểm d hoặc điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 và Điều 181 của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-7-2016 thì áp dụng Điều 285 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên tòa sơ thẩm) áp dụng điểm d hoặc điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109, khoản 2 Điều 107 và Điều 180 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-7-2016 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 282 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử áp dụng điểm d hoặc điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109, khoản 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 1-7-2016 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 359 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án;
đ) Cần chú ý rằng việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp được quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 về mặt hình sự, còn các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có), thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 được thực hiện như sau:
a) Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù hoặc cơ quan thi hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội;
b) Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục;
c) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn tước một số quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
đ) Đối với người bị xử phạt tù, xử phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
g) Khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), còn đối với các vấn đề khác đối với họ, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng thì họ vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án), trong đó có tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm nữa.
- Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
5. Khi đình chỉ vụ án cũng như miễn chấp hành hình phạt, thì Tòa án ra quyết định đình chỉ hoặc quyết định miễn chấp hành hình phạt cần giải thích cho người được đình chỉ vụ án hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự và theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
6. Đối với các đối tượng được quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 mà đang bị truy nã, thì Tòa án đã ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
7. Đối với người bị kết án thuộc trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 109 thì đương nhiên được xóa án tích.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai, quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo đảm cho việc thi hành đúng và thống nhất khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109 của Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn bổ sung thì kịp thời phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao để có sự giải thích, hướng dẫn bổ sung./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo việc thực hiện); - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban pháp luật của Quốc hội; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Lưu: VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 29 tháng 03 năm 2016
Số: 80/TANDTC-PC V/v xử lý hành vi đánh bạc trái phép dưới 5.000.000 đồng
Kính gửi: - Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 27-11-2015, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự; trong đó Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”. Như vậy, để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử tội phạm này theo đúng nguyên tắc áp dụng pháp luật hình sự và tinh thần Nghị quyết số 109/2015/QH13; sau khi xin ý kiến các thành viên Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình giải quyết các vụ án đánh bạc cần lưu ý:
1. Kể từ ngày 09-12-2015 (ngày công bố Bộ luật hình sự năm 2015) đến hết ngày 30-6-2016, đối với người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
2. Kể từ ngày 01-7-2016, nếu hành vi đánh bạc trái phép dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích mới bị phát hiện, Điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
3. Đồng thời với việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, người được miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ
luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp xét thấy hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cùng với việc đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển quyết định đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ án, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử lý vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm áp dụng đúng và thống nhất quy định của Bộ luật hình sự.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án (để báo cáo); - Lưu: VT (VP, Vụ PC & QLKH).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ---------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 12 tháng 04 năm 2016
Số: 99/TANDTC-PC V/v triển khai thực hiện việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên
Kính gửi: - Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Theo quy định tại các Điều 30, 38 và 45 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện có Tòa gia đình và người chưa thành niên. Việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ căn cứ vào yêu cầu công việc và thực tế xét xử của mỗi Tòa án; tùy thuộc vào biên chế đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký của từng Tòa án và do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định.
Để việc tổ chức các Tòa chuyên trách nói chung, Tòa gia đình và người chưa thành niên nói riêng được thực hiện thống nhất trong cả nước, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21-01-2016 quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương1; trong đó, quy định cụ thể về thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên; quy trình đề nghị tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Tòa án mình. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có ý kiến chỉ đạo Tòa án các cấp về công tác nhân sự của Tòa gia đình và người chưa thành niên; yêu cầu về cơ sở vật chất của Tòa gia đình và người chưa thành niên (theo đó, Tòa gia đình và người chưa thành niên phải có phòng tư vấn - hòa giải; phòng trẻ em; phòng trợ giúp y tế và phòng xét xử thân thiện); yêu cầu phải nắm chắc các quy định của pháp luật về tư pháp người chưa thành niên, về hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng chỉ đạo các Tòa án cần chủ động xây dựng quy chế phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phúc lợi xã hội, cơ quan y tế, giáo dục ở trung ương và địa phương để phối hợp với Tòa án giải quyết tốt các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Thực hiện các quy định nêu trên, ngày 04-4-2016, tại thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Lễ ra mắt Tòa gia đình và người chưa thành niên - Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Đây là nỗ lực rất lớn của tập thể lãnh đạo và cán bộ, công chức Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, vì chỉ trong một thời gian rất ngắn nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có sự chuẩn bị tốt về công tác nhân sự, về cơ sở vật chất của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Để đẩy nhanh việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên tại các Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương khẩn trương chuẩn bị các Điều kiện cần thiết, đặc biệt là về công tác nhân sự và cơ sở vật chất để tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên, bảo đảm Tiết kiệm, hiệu quả và đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện cần liên hệ với Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để học tập kinh nghiệm về việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đ/c Phó Chánh án và thành viên HĐTP TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Tòa án nhân dân TP.HCM (để biết); - Lưu: VT (VP, Vụ PC & QLKH). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH AN Nguyễn Văn Thuân
1 Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11-3-2016.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 2016 Số: 105/TANDTC-PC&QLKH V/v thi hành Luật bảo hiểm xã hội
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Luật bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2014 (sau đây gọi là Luật bảo hiểm xã hội) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016, trừ quy định tại Điểm b Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Để áp dụng thống nhất các quy định của Luật bảo hiểm xã hội và pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm xã hội, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình một số nội dung sau đây:
1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa người lao động, tập thể lao động với người sử dụng lao động
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 của Bộ luật lao động năm 2012 thì: Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động. Như vậy, tranh chấp lao động bao gồm 02 loại: (1) Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động, (2) tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động và chủ thể của tranh chấp lao động phải là các bên trong quan hệ lao động.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 200, Điểm d Khoản 1 Điều 201, Điểm c Khoản 1 Điều 203 của Bộ luật lao động năm 2012, Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động là tranh chấp lao động và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 205 của Bộ luật lao động năm 2012 thì:
“1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động.
…
3. “Trong trường hợp các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Như vậy, khi thụ lý, giải quyết các yêu cầu về bảo hiểm xã hội, các Tòa án cần lưu ý:
- Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp mà các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn luật quy định mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp tập thể về quyền. Trường hợp này, Tòa án thụ lý giải quyết và xác định đây là vụ án lao động.
- Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết tranh chấp mà các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và khởi kiện đối với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Tòa án thụ lý giải quyết và xác định đây là vụ án hành chính.
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm xã hội
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 18 và Khoản 2 Điều 20 của Luật bảo hiểm xã hội thì người lao động và người sử dụng lao động có quyền khiếu nại, tố cáo và khởi kiện về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 118 và Điều 119 của Luật bảo hiểm xã hội thì người lao động và người sử dụng lao động có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật này và Luật tố tụng hành chính đối với quyết định, hành vi hành chính của tổ chức bảo hiểm xã hội khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi có người khởi kiện đối với quyết định, hành vi hành chính của cơ quan bảo hiểm xã hội thì Tòa án thụ lý vụ án và xác định là vụ án hành chính.
Việc xác định thẩm quyền của Tòa án đối với vụ án hành chính thực hiện theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật tố tụng hành chính năm 2010; kể từ ngày 01-7-2016 (ngày Luật tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực pháp luật) thực hiện theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
3. Về quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động (trốn đóng bảo hiểm xã hội, chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội)
Theo quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 2 của Luật bảo hiểm xã hội thì người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Các hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp là những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của Luật bảo hiểm xã hội.
Theo quy định tại Khoản 9 Điều 22 của Luật bảo hiểm xã hội thì cơ quan bảo hiểm xã hội có quyền: Xử lý vi phạm pháp luật hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
Như vậy, kể từ ngày Luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2016), Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện của Cơ quan Bảo hiểm xã hội đòi tiền bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động. Đối với những vụ án đã thụ lý trước ngày 01/01/2016 mà chưa giải quyết thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn người khởi kiện thực hiện các quy định của Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội và Luật xử lý vi phạm hành chính.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm thực hiện nghiêm túc và thống nhất.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Đ/c Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các Đ/c Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VT (VP, Vụ PC và QLKH).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 01/GĐ-TANDTC Hà Nội, ngày 25 tháng 07 năm 2016
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH SỰ, TỐ TỤNG HÌNH SỰ, DÂN SỰ, TỐ TỤNG DÂN SỰ
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 12, 13 và 14-5-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị trực tuyến tập huấn cho các Thẩm phán, công chức Tòa án về Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua. Hội nghị đã được nghe giới thiệu những nội dung cơ bản và những điểm mới của các bộ luật, luật; trao đổi, giải đáp một số vướng mắc liên quan đến các quy định của các bộ luật, luật. Tòa án nhân dân tối cao đã bước đầu tổng hợp kết quả giải đáp một số vướng mắc tại Hội nghị tập huấn liên quan đến các quy định mới của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự (dưới đây viết tắt lần lượt là BLHS, BLTTHS, BLDS, BLTTDS), cụ thể như sau:
I. Giải đáp vướng mắc liên quan đến các quy định của BLHS
1. Việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với trường hợp khi phạm tội và bị kết án lần thứ nhất người bị kết án là người chưa thành niên, nhưng khi phạm tội và bị kết án lần thứ hai thì người bị kết án là người đã thành niên được thực hiện như thế nào?
Việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với trường hợp khi phạm tội và bị kết án lần thứ nhất người bị kết án là người chưa thành niên, khi phạm tội và bị kết án lần thứ hai thì người bị kết án là người đã thành niên được thực hiện theo quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015 (Điều 51 BLHS năm 1999) như đối với trường hợp người đã đủ 18 tuổi.
2. Việc giải quyết các vụ án buôn bán, tàng trữ, vận chuyển pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu hiện nay được thực hiện như thế nào?
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 và các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật thương mại năm 2005 thì pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm, còn theo quy định của Luật đầu tư năm 2014 thì “các loại pháo” và “các sản phẩm thuốc lá” thuộc Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Do có sự không thống nhất của các quy định nêu trên nên trong thời gian vừa qua các Tòa án gặp vướng mắc khi giải quyết các vụ án liên quan đến pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu.
Để tháo gỡ vướng mắc này, căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 74 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao đã gửi hồ sơ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích quy định của các văn bản nêu trên, làm cơ sở để giải quyết các vụ án. Trong khi chưa có giải thích của Ủy ban thường vụ Quốc hội, việc giải quyết các vụ án liên quan đến pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu tiếp tục được thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 26-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao. Quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao là các vi phạm về trật tự quản lý kinh tế cần được tăng cường xử lý bằng hình phạt tiền và các chế tài khác về kinh tế để đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý các vi phạm này.
3. Việc xử lý các hành vi mà theo quy định của BLHS năm 1999 là tội phạm nhưng theo quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm do có bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm đó (ví dụ hành vi đánh bạc dưới 05 triệu đồng; hành vi tàng trữ trái phép dưới 0,1 gam hêrôin) được thực hiện như thế nào?
Nội dung này đã được quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6- 2016 của Quốc hội (trong đó có nội dung thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 của BLHS năm 2015 kể từ ngày 01-7-2016) và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
4. Tổ chức đánh bạc cho 10 người nhưng tổng số tiền thu trên chiếu bạc dưới 5 triệu đồng có bị xử lý hình sự không?
Theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999 và hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì phạm tội Tổ chức đánh bạc thuộc trường hợp “với quy mô lớn” nếu:
“a) Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên...;
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 thì:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho từ 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc...;
Như vậy, cấu thành tội phạm của tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại Điều 322 BLHS năm 2015 không thay đổi so với Điều 249 BLHS năm 1999. Do đó, người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc cho 10 người nhưng tổng số tiền thu trên chiếu bạc dưới 05 triệu đồng thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức đánh bạc”.
5. Quy định “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng... đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” tại điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu và áp dụng như thế nào?
Điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng... đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;...”
So với BLHS năm 1999 thì đây là trường hợp điều luật bổ sung theo hướng bất lợi cho người phạm tội. Vì vậy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành BLHS năm 2015 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội thì quy định này không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 có hiệu lực.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành nếu quy định nêu trên được giữ nguyên, việc xác định thế nào là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả sẽ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết bằng Nghị quyết.
II. Giải đáp vướng mắc liên quan đến các quy định của BLTTHS
1. Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì: “khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS”. Vậy, trong vụ án hình sự, Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ trong những trường hợp nào?
Việc Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ được quy định cụ thể tại Điều 252 BLTTHS năm 2015. Theo đó, để xác định sự thật khách quan của vụ án, Tòa án thực hiện một trong các hoạt động xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ quy định tại Điều này; trong đó có quy định trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được, nếu Tòa án xét thấy cần thiết thì có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tiễn, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ có hướng dẫn cụ thể trong thời gian tới đây.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc xác định người đại diện hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS năm 2015 thì cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật đối với con chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi). Do đó, Tòa án có thể xác định cha hoặc mẹ của người chưa đủ 18 tuổi là người đại diện tham gia tố tụng. Tuy nhiên, việc xác định người đại diện tham gia tố tụng cho người chưa đủ 18 tuổi phải bảo đảm nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi’’ quy định tại khoản 1 Điều 414 BLTTHS năm 2015. Do vậy, trường hợp có căn cứ cho rằng việc xác định cha, mẹ của người chưa đủ 18 tuổi là người đại diện tham gia tố tụng không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa đủ 18 tuổi thì Tòa án có thể xác định người thân thích khác của người chưa đủ 18 tuổi (như anh, chị ruột) có đủ điều kiện làm người giám hộ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người chưa đủ 18 tuổi. Việc xác định người đại diện tham gia tố tụng trong trường hợp này phải căn cứ vào quy định tại các điều 48, 49 và 136 BLDS năm 2015.
3. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Viện trưởng Viện kiểm sát có được kháng nghị đối với Quyết định của Tòa án về việc trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố không?
Khoản 1 Điều 274 BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử quy định:
“1. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để giải quyết theo thẩm quyền. Việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thực hiện theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Khi xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do; nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử thực hiện theo Điều 275 của Bộ luật này. Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền”.
Theo quy định nêu trên thì khi xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình, Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố. Nếu Viện kiểm sát thấy việc chuyển vụ án chưa đúng thẩm quyền thì chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Trường hợp xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử được thực hiện theo Điều 275 BLTTHS năm 2015. Trong trường hợp này, Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền mà không được kháng nghị đối với quyết định của Tòa án về việc trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
4. Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh thể hiện: “03 gói nhỏ bên trong có chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn A gửi đến giám định có trọng lượng 0,122 gam là Hêrôin”. Vậy Tòa án có cần phải trưng cầu giám định hàm lượng nữa không hay đưa vụ án ra xét xử?
Trong các vụ án tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, nếu Kết luận giám định đã khẳng định: “03 gói nhỏ bên trong có chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn A gửi đến giám định có trọng lượng 0,122 gam là Hêrôin” thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử, mà không
phải giám định hàm lượng nữa. Việc giám định hàm lượng chỉ đặt ra nếu Kết luận giám định thể hiện chất thu giữ là chế phẩm hoặc có chứa thành phần Hêrôin, bởi giám định hàm lượng trong trường hợp này cũng chỉ nhằm xác định đúng trọng lượng (khối lượng) chất ma túy, làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo đúng quy định của BLHS, bảo đảm đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”.
III. Giải đáp vướng mắc liên quan đến các quy định của BLDS
1. Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Quy định này có áp dụng đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017 (ngày BLDS năm 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành) hay không?
Điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định: đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, kể từ ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản 2 Điều 688 BLDS năm 2015: “Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này có hiệu lực
2. Trường hợp nhiều người thừa kế đang cùng quản lý di sản hoặc mỗi người thừa kế quản lý di sản một giai đoạn khác nhau mà có tranh chấp về quyền sở hữu đối với di sản hết thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế thì Tòa án có được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 để xác định di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản hay không?
Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 quy định: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó...”. Người thừa kế đang quản lý di sản phải được hiểu là người thừa kế đang chiếm hữu và sử dụng di sản hợp pháp theo quy định của BLDS. Nếu có nhiều người thừa kế cùng nhau chiếm hữu và sử dụng di sản thì di sản thuộc sở hữu chung của họ. Nếu mỗi người thừa kế quản lý di sản một giai đoạn khác nhau thì Tòa án phải áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 để công nhận quyền sở hữu cho người thừa kế đang quản lý di sản; quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản trước đó được xem xét, đánh giá trong từng vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật.
3. Quy định về lãi suất tại Điều 468 BLDS năm 2015 có áp dụng đối với hợp đồng vay tài sản được xác lập trước ngày 01-01-2017 hay không?
Điểm a, b, c khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
a) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với Bộ luật này và để áp dụng quy định của Bộ luật này.
Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11;
b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này;
b) Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết”.
Như vậy, hợp đồng vay tài sản được xác lập trước ngày 01-01-2017 chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có thỏa thuận về lãi suất khác với quy định của BLDS năm 2015 thì áp dụng quy định của BLDS năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết BLDS năm 2005, trừ trường hợp hợp đồng chưa được thực hiện mà các bên có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung về lãi suất phù hợp với BLDS năm 2015 và để áp dụng quy định của BLDS năm 2015;
Hợp đồng vay tài sản được xác lập trước ngày 01-01-2017 chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có thỏa thuận về lãi suất phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 thì áp dụng BLDS năm 2015;
Hợp đồng vay tài sản được xác lập trước ngày 01-01-2017 được thực hiện xong trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng BLDS năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết BLDS năm 2005 để giải quyết.
IV. Giải đáp vướng mắc liên quan đến các quy định của BLTTDS
1. Khoản 5 Điều 75 BLTTDS năm 2015 quy định: “Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Vậy trường hợp này Chánh án hay Thẩm phán được phân công sẽ thực hiện việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự?
Điểm k khoản 1 Điều 47 BLTTDS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án: “Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”. Khoản 14 Điều 48 BLTTDS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán: “Tiến hành hoạt động tố
tụng khác khi giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Điểm b khoản 2 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn “Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác”. Như vậy, trường hợp sau khi nhận được đơn khởi kiện mà chưa phân công Thẩm phán thì Chánh án thực hiện việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; trường hợp đã phân công Thẩm phán giải quyết thì Thẩm phán được phân công thực hiện việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Trường hợp người kháng cáo được triệu tập hợp lệ lần thứ hai theo quy định tại khoản 3 Điều 296 BLTTDS năm 2015 nhưng có tin báo là người kháng cáo bị tai nạn giao thông hoặc vợ, chồng, cha, mẹ, con của người kháng cáo chết thì Tòa án có chấp nhận hoãn phiên tòa không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 296 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án phải hoãn phiên tòa khi người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Khi nhận được thông tin người kháng cáo bị tai nạn giao thông hoặc vợ, chồng cha, mẹ, con của người kháng cáo chết thì Hội đồng xét xử cần phải đánh giá mức độ tin cậy của nguồn tin, xác định người cung cấp thông tin. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định việc hoãn phiên tòa, trừ trường hợp có căn cứ rõ ràng người kháng cáo có hành vi lừa dối nhằm cản trở hoạt động tố tụng.
3. Trường hợp Thẩm phán đã đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn nơi có đối tượng được xem xét, thẩm định tại chỗ hỗ trợ do đương sự có hành vi cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn không hỗ trợ thì giải quyết như thế nào?
Khoản 4 Điều 101 BLTTDS năm 2015 đã quy định về vai trò, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn hỗ trợ Tòa án khi có hành vi cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn nơi có đối tượng được xem xét, thẩm định tại chỗ không thực hiện việc hỗ trợ theo yêu cầu của Thẩm phán thì Tòa án trao đổi với Ủy ban nhân dân cấp trên, cơ quan Công an cấp trên để có sự chỉ đạo đối với Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an xã, phường, thị trấn trong việc hỗ trợ xem xét, thẩm định tại chỗ.
Hành vi cản trở người tiến hành tố tụng tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, giám định hoặc xác minh, thu thập chứng cứ khác sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 6 Điều 489 BLTTDS năm 2015.
4. Khoản 1 Điều 196 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đối với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện thì Tòa án phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án”. Vậy như thế nào là “vụ án do người tiêu dùng khởi kiện”?
Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Khoản 2 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: a) Thương nhân theo quy định của Luật thương mại; b) Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh”.
Như vậy, vụ án do người tiêu dùng khởi kiện là vụ án mà người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình khởi kiện tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật có liên quan.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 và khoản 3 Điều 44 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, khoản 1 Điều 196 BLTTDS năm 2015 thì khi thụ lý vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà bên khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Tòa án phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định của BLTTDS.
5. Khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2015 quy định kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Vậy trường hợp khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện không nộp kèm theo bất cứ tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì Tòa án có thụ lý vụ án hay không?
Khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2015 quy định: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”.
Về nguyên tắc, khi nộp đơn khởi kiện thì người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trường hợp người khởi kiện không nộp kèm theo bất cứ tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh thì phải có văn bản tường trình, giải thích lý do không có tài liệu, chứng cứ để nộp cho Tòa án hoặc không thể thu thập được tài liệu, chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ. Trường hợp lý do việc không nộp được tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và thực hiện việc thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015.
6. Trường hợp đương sự ở nước ngoài ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm thì người đó có được đại diện cho đương sự ở nước ngoài kháng cáo không? Trường hợp có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa thì Tòa án có phải ủy thác tư pháp để tống đạt bản án cho đương sự ở nước ngoài không?
Khoản 3 Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Theo quy định này, trường hợp đương sự ở nước ngoài ủy quyền hợp pháp cho người đại diện tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm thì người đại diện đó được quyền
kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nếu trong văn bản ủy quyền có nội dung ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc kháng cáo.
Trường hợp có người đại diện tại phiên tòa sơ thẩm thì theo quy định tại khoản 2 Điều 269, điểm e khoản 1 Điều 474 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho người đại diện của đương sự ở nước ngoài đã tham gia phiên tòa mà không phải tống đạt bản án cho đương sự ở nước ngoài.
7. Khoản 3 Điều 194 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp”. Vậy đương sự vắng mặt lần đầu hay phải triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án mới tiến hành phiên họp?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 194 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp.
Đây là việc Tòa án phải giải quyết nhanh chóng, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Do vậy, đối với trường hợp này nếu đương sự được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị.
8. Trường hợp vụ án dân sự được giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết lại (do bản án, quyết định trước đó bị hủy theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm). Tại thời điểm thụ lý lại vụ án mới có đương sự ở nước ngoài thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hay Tòa án nhân dân cấp huyện?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của BLTTDS năm 2015, vụ án mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, nếu tại thời điểm thụ lý lại vụ án mà có đương sự ở nước ngoài thì về nguyên tắc vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp trong bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đã giao cho Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý, giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải thụ lý, giải quyết.
9. Từ ngày 01-01-2017, việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất được thực hiện như thế nào?
Theo quy định tại Điều 184 và Điều 185 BLTTDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được thực hiện theo quy định của BLDS.
Điều 429 BLDS năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Khoản 3 Điều 155 BLDS năm 2015 quy định “Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai” thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Như vậy, đối với tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất thì áp dụng thời hiệu theo quy định tại Điều 429 BLDS năm 2015. Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất (tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất) thì theo quy định tại khoản 3 Điều 155 BLDS năm 2015 không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thuê quyền sử dụng đất thì áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 BLDS năm 2015; tranh chấp về đòi lại quyền sử dụng đất cho thuê thì không áp dụng thời hiệu.
10. Ông A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và chia tài sản chung với bà B. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, ông A chưa đủ tuổi kết hôn; tại thời điểm xin ly hôn thì ông A đã đủ tuổi đăng ký kết hôn. Bà B yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật. Vậy trong trường hợp này Tòa án thụ lý giải quyết việc dân sự hay thụ lý vụ án dân sự?
Trường hợp có đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và chia tài sản khi ly hôn, có đương sự yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật thì Tòa án thụ lý vụ án ly hôn, vì khi thụ lý thì Tòa án chưa thể khẳng định yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật có căn cứ hay không. Trong quá trình giải quyết, nếu có đủ cơ sở hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án căn cứ khoản 7 Điều 28 BLTTDS năm 2015 xác định lại quan hệ pháp luật có tranh chấp là tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi hủy kết hôn trái pháp luật để hủy kết hôn trái pháp luật và giải quyết tranh chấp về nuôi con, chia tài sản.
Trường hợp trong quá trình giải quyết, nếu hai bên đã đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó; quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn, quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; trường hợp này, Tòa án giải quyết vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình triển khai thi hành và thụ lý, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc thì đề nghị phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Các đồng chí PCA TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VP, Vụ PC và QLKH.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 9 năm 2016
Số: 276/TANDTC-PC V/v hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015
Kính gửi: - Các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây viết tắt là Bộ luật hình sự năm 2015) và Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 (sau đây viết tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Hai Bộ luật này đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Tuy nhiên, tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29 tháng 6 năm 2016, Quốc hội đã quyết định lùi hiệu lực thi hành của hai Bộ luật này từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Đồng thời giao cho Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điểm a và Điểm b Khoản 4 Điều 1 Nghị quyết về các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.
Để áp dụng đúng, thống nhất và kịp thời các quy định nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc một số nội dung sau đây:
1. Kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.
2. Quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 bao gồm các quy định về xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình Tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình Tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có Điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội. Những quy định nêu trên được tập hợp trong Danh Mục ban hành kèm theo Công văn này.
3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 là các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng đối với các trường hợp sau:
a) Chuyển hình phạt tử hình sang hình phạt tù chung thân đối với các trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điểm a, b và Điểm c Khoản 2 Điều
1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội và hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 và Điều 2 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
b) Tha tù trước thời hạn có Điều kiện;
c) Xóa án tích;
d) Xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
4. Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này phải tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm, thống nhất nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài các quy định trong Danh Mục, khi giải quyết các vụ án, vụ việc về hình sự, nếu nhận thấy quy định khác của Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho người phạm tội thì Tòa án các cấp xem xét áp dụng quy định đó, bảo đảm đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc phát hiện quy định có lợi khác ngoài Danh Mục thì tập hợp, báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để chỉ đạo hướng dẫn kịp thời./.
(Danh Mục một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao).
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
Nơi nhận: - Ủy ban Thường vụ Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (để báo cáo); - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để báo cáo); - Ban Chỉ đạo CCTPTW (để báo cáo); - Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo); - Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Bộ Công an (để phối hợp); - Bộ Tư pháp (để phối hợp); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo việc thực hiện); - Các TAND và TAQS; - Các Thẩm phán TANDTC và các đơn vị thuộc TANDTC; - Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
DANH MỤC
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CÓ LỢI CHO NGƯỜI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
(Ban hành kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13 tháng 9 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
Stt Nội dung quy định có lợi Điều, Khoản, Điểm
Đồng phạm
1 Khoản 4 Điều 17 “4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”
Che giấu tội phạm
2 Khoản 2 Điều 18
“2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.”
Không tố giác tội phạm
3 Khoản 3 Điều 19
“3. Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này.”
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Điều 24 4 “1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Điều 25 5
“Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng
đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
6 Điều 26
“Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 421, Khoản 2 Điều 422 và Khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này.”
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
“2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành Điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
7
Các Điểm a, b Khoản 2 và Khoản 3 Điều 29 b) Khi tiến hành Điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;...
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”
Phạt tiền
“1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:
8 Khoản 1 Điều 35 a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.”
Cải tạo không giam giữ
“3... Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
9 Khoản 3 và Khoản 4 Điều 36 Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.”
Tù có thời hạn
10 Khoản 2 Điều 38 “2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.”
Tử hình
“2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với... người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 11
...b) Người đủ 75 tuổi trở lên; Khoản 2 và các Điểm b, c Khoản 3 Điều 40
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, Điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Căn cứ quyết định hình phạt
12 Khoản 2 Điều 50
“2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.”
Các tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
“1...
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; 13 o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; Các Điểm đ, o, p và x Khoản 1 Điều 51
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.”
Các tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1. Chỉ các tình Tiết sau đây mới là tình Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; 14 Khoản 1 Điều 52 g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công
tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
15 Khoản 2 Điều 54
“2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của Điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.”
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
“2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các Điều luật cụ thể 16 Khoản 2 và Khoản 3 Điều 57
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu Điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà Điều luật quy định.”
Thời hiệu thi hành bản án
“2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau: 17 Điểm d Khoản 2 Điều 60
...d) 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.”
Miễn chấp hành hình phạt
18
Điểm c Khoản 2 và Khoản 5 Điều 62 “2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
...c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
...5. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại.”
Giảm mức hình phạt đã tuyên
“...3. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm. 19 Khoản 3 và Khoản 6 Điều 63
...6. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại Điểm b hoặc Điểm c Khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.”
Tha tù trước thời hạn có Điều kiện
“1. Người đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các Điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
c) Đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên; 20 Điều 66
d) Có nơi cư trú rõ ràng;
đ) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự;
e) Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn;
e) Không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại Khoản 2 Điều này.
2. Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy;
b) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này.
3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có Điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
4. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có Điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
5. Người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.”
Xoá án tích 21 Khoản 2 Điều 69
“2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.”
Đương nhiên được xóa án tích
“2. Người bị kết án đương nhiên được xoá án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
...b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
22 d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Các Điểm b, c và d Khoản 2 và Khoản 3 Điều 70
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các Điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xoá án tích sẽ hết vào thời Điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị kết án đương nhiên được xoá án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 2 Điều này.”
Xoá án tích theo quyết định của Tòa án
“2. Người bị kết án được Tòa án quyết định xoá án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
23 a) 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 71
b) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
c) 07 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải
chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại Điểm a khoản này thì thời hạn được xoá án tích sẽ hết vào thời Điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
3. Người bị kết án được Tòa án quyết định xoá án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại các Điểm a, b và c Khoản 2 Điều này.”
Cách tính thời hạn để xóa án tích
24 Khoản 2 Điều 73
“2. Người bị kết án chưa được xoá án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xoá án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.”
Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
“1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm Mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
25
Khoản 1, các Điểm b, c Khoản 2, Khoản 4 và Khoản 6 Điều 91
…b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các Khoản 4, 5 và Khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
...4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
...6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.”
Điều kiện áp dụng (các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự)
26 Điều 92
“Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.”
Khiển trách
“1. Khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng;
b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Điều 93 27
2. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
3. Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
4. Tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và Điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.”
Hoà giải tại cộng đồng
“1. Hoà giải tại cộng đồng được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
28 Điều 94
2. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
3. Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại;
b) Nghĩa vụ quy định tại Khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.”
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
“1. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp sau đây:
Điều 95 29 a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
2. Người được Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các
nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động;
b) Chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn;
c) Không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép;
d) Các nghĩa vụ theo quy định tại Khoản 3 Điều 93 của Bộ luật này.
3. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.”
Cải tạo không giam giữ
30 Khoản 1 Điều 100
“1. Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý.”
Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
“2. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong Điều luật được áp dụng.
31
Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong Điều luật được áp dụng. Khoản 2 và Khoản 3 Điều 102
3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.
Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không quá một phần hai mức phạt quy định tại các điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.”
Tha tù trước hạn có điều kiện
32 Điều 106
“1. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 66 Bộ luật này có thể
được tha tù trước hạn khi có đủ các Điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
c) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;
d) Có nơi cư trú rõ ràng.
2. Việc tha tù trước thời hạn có Điều kiện được thực hiện theo quy định tại các Khoản 3, 4 và 5 Điều 66 của Bộ luật này.”
Xoá án tích
“1. Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi;
33 Điều 107 b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý;
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.
2. Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xoá án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới.”
Tội phản bội Tổ quốc
34 Khoản 3 Điều 108 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
35 Khoản 3 Điều 109 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội gián điệp
36 Khoản 3 Điều 110 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ
37 Khoản 3 Điều 111 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội bạo loạn
38 Khoản 3 Điều 112 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
39 Khoản 5 Điều 113 “5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 40 Khoản 3 Điều 114
“3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội
41 “1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khoản 1 và Khoản 3 Điều 115
…3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội phá hoại chính sách đoàn kết
42 Khoản 3 Điều 116 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 43 Khoản 3 Điều 117
“3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội phá rối an ninh
44 Khoản 3 Điều 118 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội chống phá cơ sở giam giữ 45 Khoản 3 Điều 119 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm.”
Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân 46 Khoản 3 Điều 120
“3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân
47 “2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm Khoản 2 và Khoản 3 Điều 121
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội giết người
48 Khoản 3 Điều 123 “3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội vô ý làm chết người
49 Khoản 1 Điều 128 “1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính 50 Khoản 1 Điều 129
“1. Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 51 Khoản 1 Điều 131
a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;
b) Tạo Điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.”
52 “2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o Khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.” Khoản 2 và Khoản 7 Điều 134
“7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 53 Điều 135
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người.”
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 54
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 136 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.”
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
55 Khoản 1 Điều 138
“1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng
hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
(Bỏ hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”).
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
56 Khoản 1 Điều 139
“1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.”
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: 57 Điểm b Khoản 1 Điều 142
...b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.”
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: 58 Điểm đ, e Khoản 2 Điều 144 ...đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên”
Tội lây truyền HIV cho người khác
59 Khoản 1 Điều 148
“1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”
Tội cố ý truyền HIV cho người khác
“1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. 60
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 149 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với người dưới 18 tuổi;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Lợi dụng nghề nghiệp;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.”
Tội mua bán người
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vì động cơ đê hèn;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; 61 Khoản 2 Điều 150
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều này;
đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
e) Đối với từ 02 đến 05 người;
g) Phạm tội 02 lần trở lên.”
Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi
“1. Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi này với người dưới 01 tuổi khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: 62
a) Có tổ chức; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 152
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc,
nuôi dưỡng;
d) Phạm tội 02 lần trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên; 63
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 153
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
d) Làm nạn nhân chết;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội làm nhục người khác
“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
64 b) Đối với 02 người trở lên; Khoản 1, Khoản 2 Điều 155 c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.”
Tội vu khống
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những Điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
65 b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Khoản 1, Khoản 2 Điều 156
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân
66 Khoản 1 Điều 161
“1. Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
“1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. 67 Khoản 1, Khoản 2 Điều 165
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.”
Tội cướp tài sản
“4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: 68 Khoản 4 Điều 168
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.”
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
69 Khoản 5 Điều 169 “5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
“1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
Khoản 1 và c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 70
Khoản 4 Điều 172
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
…4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này.
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.”
Tội trộm cắp tài sản 71 Khoản 4 Điều 173 “4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.”
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
“3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
72 a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Khoản 3, Khoản 4 Điều 175
b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.”
Tội chiếm giữ trái phép tài sản
73 Khoản 1 Điều 176
“1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội sử dụng trái phép tài sản
74
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 177
“1. Người nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của người khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 220 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm:
a) Tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
b) Tài sản là bảo vật quốc gia;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
“1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, tài sản là di vật, cổ hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá hoặc tài sản trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
75
Khoản 1, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 178 d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
...3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm:
a) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này.”
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
76 “1. Người nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 179
2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ 2.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.”
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
77 “1. Người nào vô ý gây thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá từ100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. Khoản 1 và Khoản 2 Điều 180
2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của người khác trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Bãi bỏ tội tảo hôn 78 (Điều 148 BLHS năm 1999)
Tội tổ chức tảo hôn
79 Điều 183
“Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”
Bãi bỏ tội đăng ký kết hôn trái pháp luật 80 (Điều 149 BLHS năm 1999)
Tội buôn lậu
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Vật phạm pháp là bảo vật quốc gia;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
81 h) Phạm tội 02 lần trở lên;
Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 188 i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:
a) Vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;
c) Lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.”
Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Vật phạm pháp là bảo vật quốc gia; 82
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 189 d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.”
Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
83 c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Khoản 2 Điều 190
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Hàng phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
g) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a,
b, c và d Khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;
h) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Hàng phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
84 e) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 191
g) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Hàng phạm pháp trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.
c) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c, d, đ, e và h Khoản 2 Điều này mà qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại.”
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
85 Khoản 1 Điều 192 1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000
đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
b) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn;
c) Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các Điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
d) Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Bãi bỏ tội kinh doanh trái phép 86 (Điều 159 BLHS năm 1999)
Tội đầu cơ
87
“1. Người nào lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc tình hình khó khăn về kinh tế mua vét hàng hóa thuộc danh Mục mặt hàng bình ổn giá hoặc thuộc danh Mục hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 196
a) Hàng hoá trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
d) Hàng hóa trị giá từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
e) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Hàng hóa trị giá 3.000.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội quảng cáo gian dối
88 Khoản 1 Điều 197
“1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hoá, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội lừa dối khách hàng
89
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 198 “1. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án
về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.”
Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người; 90 Khoản 2 Điều 199
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.”
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
91 Khoản 2 Điều 201
“2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả
92 “1. Người nào làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Khoản 1 và Khoản 2 Điều 202
a) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng từ 15.000 đến dưới 30.000 đơn vị;
b) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
d) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Tem giả, vé giả không có mệnh giá có số lượng 30.000 đơn vị trở lên;
d) Tem giả, vé giả có mệnh giá có tổng trị giá 200.000.000 đồng trở lên;
đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp; 93 Khoản 2 Điều 203 c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi từ 100 số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên;
đ) Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên;
e) Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100.000.000 đồng trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
“1. Người nào có trách nhiệm bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ mà vi phạm quy định của Nhà nước về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước hoặc cho người khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng,thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 94
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 204
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên.”
95
Chuyển hóa Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) thành các tội phạm cụ thể, nên khi áp dụng cần nghiên cứu quy định tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 về việc thi hành Bộ luật hình sự.
Tội lập quỹ trái phép
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn lập quỹ trái quy định của pháp luật và đã sử dụng quỹ đó gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
96 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 205 a) Dùng thủ đoạn xảo quyệt để trốn tránh việc kiểm soát;
b) Để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khác;
c) Gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước từ 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.”
Bãi bỏ Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế 97 (Điều 167 BLHS năm 1999)
Bãi bỏ Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 98
Điều 170 BLHS năm 1999)
Bãi bỏ tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn Điều lệ của tổ chức tín dụng 99
(Điều 178 BLHS năm 1999)
Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
“1. Người nào trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với Điều kiện ưu đãi cho những đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
100 Khoản 1 Điều 206
c) Vi phạm các hạn chế để bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng hoặc cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng;
d) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ tín dụng đối với các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
đ) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
e) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, ký kết hợp đồng cho thuê tài chính hoặc mua bán tài sản;
g) Phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử
dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả; tiến hành hoạt động nghiệp vụ tín dụng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.”
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả
101 Khoản 4 Điều 207 “4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”
Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác
102 “2. Phạm tội trong trường hợp công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác có trị giá tương ứng từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khoản 2 và Khoản 3 Điều 208
3. Phạm tội trong trường hợp công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác có trị giá tương ứng từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.”
Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán
“1. Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
103 b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; Khoản 1 và Khoản 2 Điều 209
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;
c) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức; 104 Khoản 2 Điều 210
b) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;
c) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 1.500.000.000 đồng trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội thao túng thị trường chứng khoán
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức; 105 Khoản 2 Điều 211
b) Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên;
c) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 3.000.000.000 đồng trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
106 b) Phạm tội 02 lần trở lên; Khoản 2 Điều 225
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.”
Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc loại khoáng sản khác 500.000.000 đồng trở lên;
b) Khoáng sản trị giá 1.000.000.000 trở lên; 107 Khoản 2 Điều 227 c) Có tổ chức;
d) Gây sự cố môi trường;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 04 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
e) Làm chết người.”
Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
108 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Khoản 1 và Khoản 2 Điều 231 a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”
Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 109 Khoản 2 Điều 232
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 40 mét khối (m³) đến dưới 80 mét khối (m³) gỗ loài thực vật thông thường; từ 25 mét khối (m³) đến dưới 50 mét khối (m³) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng phòng hộ với khối lượng từ 30 mét khối (m³) đến dưới 60 mét khối (m³) gỗ loài thực vật thông thường; từ 20 mét khối (m³) đến dưới 40 mét khối (m³) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 30 mét khối (m³) đến dưới 60 mét khối (m³)gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m³) đến dưới 20 mét khối (m³)gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 400.000.000 đồng;
đ) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép từ 03 mét khối (m³) đến dưới 06 mét khối (m³) đối với gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh Mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; từ 20 mét khối (m³) đến dưới 40 mét khối (m³) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 40 mét khối (m³) đến dưới 80 mét khối (m³)gỗ của loài thực vật thông thường;
e) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái pháp luật các loài thực vật hoang dã khác trị giátừ 600.000.000 đồng đến dưới 1.200.000.000 đồng;
g) Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại;
h) Phạm tội có tổ chức;
i) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội gây ô nhiễm môi trường 110 Khoản 2 Điều 235
“2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải nguy hại hoặc chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trái quy định của pháp luật 5.000 kilôgam trở lên;
b) Xả thải ra môi trường 10.000 mét khối (m³)/ngày trở lên nước thải có các thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 10 lần trở lên;
c) Xả nước thải ra môi trường có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật 04 lần trở lên;
d) Xả ra môi trường 10.000 mét khối (m³)/ngày nước thải trở lên có độ PH từ 0 đến dưới 2 hoặc từ 12,5 đến 14;
đ) Thải ra môi trường 500.000 mét khối (m³)/giờ trở lên bụi, khí thải vượt quá quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 10 lần trở lên;
e) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn thông thường trái quy định của pháp luật 500.000 kilôgam trở lên;
g) Chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm trên trung bình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép;
h) Phát tán ra môi trường bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật hoặc vượt mức giới hạn theo quy định 04 lần trở lên.”
Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
111
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 236
“1. Người nào có thẩm quyền mà cho phép chôn, lấp, đổ, thải trái quy định của pháp luật chất thải nguy hại thuộc danh Mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép,thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Chất thải nguy hại thuộc danh Mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 5.000 kilôgam đến dưới 10.000 kilôgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ môi trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm trung bình theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép;
b) Có tổ chức;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
112 a) Làm chết người; Khoản 2 và Khoản 4 Điều 237 b) Gây thiệt hại từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng.
...4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
113 a) Có tổ chức;
Khoản 2 và Khoản 4 Điều 239
b) Chất thải nguy hại hoặc chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm có khối lượng từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam;
c) Chất thải khác có khối lượng từ 170.000 kilôgam đến dưới
300.000 kilôgam.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
114
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 240 b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người;
c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế;
b) Làm chết người.”
Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
115 Khoản 2 Điều 241 a) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.”
Tội huỷ hoại rừng
116 Khoản 2 Điều 243 “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc kiểu trạng thái rừng có diện tích từ 50.000 mét vuông (m²) đến dưới 100.000 mét vuông (m²);
đ) Rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m²) đến dưới 50.000 mét vuông (m²);
e) Rừng phòng hộ có diện tích từ 7.000 mét vuông (m²) đến dưới 10.000 mét vuông (m²);
g) Rừng đặc dụng có diện tích từ 3.000 mét vuông (m²) đến dưới 5.000 mét vuông (m²);
h) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 60.000.000 đồng đến dưới 120.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên; từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích rừng bị đốt, bị phá hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng không tập trung mà phân tán, rải rác trong cùng một tiểu khu hoặc nhiều tiểu khu;
i) Thực vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, các loại thực vật khác thuộc Nhóm IA trị giá từ trên 60.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; thực vật thuộc Nhóm IIA trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.”
Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
“1. Người nào vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
117 Khoản 1 Điều 245 a) Gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại đến cảnh quan, hệ sinh thái tự nhiên trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn thiên nhiên có tổng diện tích từ 300 mét vuông (m²) đến dưới 500 mét vuông (m²);
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong những hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.”
Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
118 Khoản 2 Điều 246 b) Nhập khẩu trái phép loài động vật, thực vật ngoại lai xâm hại hoặc loài động vật, thực vật ngoại lai có nguy cơ xâm hại trong trường hợp vật phạm pháp trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
c) Phát tán loài động vật, thực vật ngoại lai xâm hại hoặc loài động vật, thực vật ngoại lai có nguy cơ xâm hại, gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm Mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;
c) Hêrôin, côcain… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; 119
Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 249 d) Lá,…, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;
h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm b đến Điểm h Khoản này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;
e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;
g) Hêrôin, côcain,… có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;
h) Lá,…, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;
k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;
m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm e đến Điểm m Khoản này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;
b) Hêrôin, côcain,… có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;
c) Lá,…, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm a đến Điểm g Khoản này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;
b) Hêrôin, côcain,… có khối lượng 100 gam trở lên;
c) Lá,… hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng 75 kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm a đến Điểm g Khoản này.”
Tội chiếm đoạt chất ma túy
“1. Người nào chiếm đoạt chất ma túy dưới bất cứ hình thức nào thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;
c) Hêrôin, côcain,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
d) Lá,…, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
120 e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 252 g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;
h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm b đến Điểm h Khoản này.
2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;
e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;
g) Hêrôin, côcain,… có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;
h) Lá, …, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;
k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;
m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;
n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm e đến Điểm m Khoản này;
o) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 đến 15 năm:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;
b) Hêrôin, côcain,… có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;
c) Lá, …, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150
kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm a đến Điểm g Khoản này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 15 đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;
b) Hêrôin, côcain,… có khối lượng 100 gam trở lên;
c) Lá, …, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng 75 kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các Điểm từ Điểm a đến Điểm g Khoản này.”
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
121 Điểm b Khoản 1 Điều 254 “1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Có số lượng từ 06 đơn vị đến 19 đơn vị dụng cụ, phương tiện cùng loại hoặc khác loại.”
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
“4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân: 122 Khoản 4 Điều 255
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
b) Làm chết 02 người trở lên.”
Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy
“1. Người nào rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Vì động cơ đê hèn hoặc vì tư lợi;
d) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;
123 đ) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 258 e) Đối với 02 người trở lên;
g) Đối với người đang cai nghiện;
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
k) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể 61% trở lên hoặc gây chết người;
b) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 13 tuổi.
4. Phạm tội trong trường hợp gây chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: 124 Khoản 2 Điều 259 a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
125 Khoản 4 và “4. Người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Khoản 5 Điều 260
5. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.”
Tội cản trở giao thông đường bộ
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 126 a) Tại các đèo, dốc, đường cao tốc hoặc đoạn đường nguy hiểm; Khoản 2, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 261 b) Làm chết 02 người;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
…4. Người đào, khoan, xẻ, san lấp trái phép các công trình giao thông đường bộ; đặt, để trái phép vật liệu, phế thải, rác thải, đổ chất gây trơn, vật sắc nhọn hoặc các chướng ngại vật khác gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá huỷ biển báo hiệu, đèn tín hiệu, cọc tiêu, gương cầu, dải phân cách hoặc các thiết bị an toàn giao thông đường bộ khác; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có dải phân cách; sử dụng trái phép lề đường, hè phố, phần đường xe chạy; sử dụng trái phép hành lang an toàn đường bộ hoặc vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
...5. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.”
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật tham gia giao thông
127
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 262 “1. Người nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc Điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật tham gia giao thông thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
…4. Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc Điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật tham gia giao thông gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội Điều động người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ
128 Khoản 4 Điều 263
“4. Người có thẩm quyền mà biết rõ người không có giấy phép lái xe, không đủ sức khỏe, độ tuổi để Điều khiển phương tiện, người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà vẫn Điều động người đó Điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội giao cho người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: 129
a) Làm chết 03 người trở lên; Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 264
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người có thẩm quyền mà biết rõ người không có giấy phép lái xe, không đủ sức khỏe, độ tuổi để Điều khiển phương tiện, người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà vẫn Điều động người đó Điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội tổ chức đua xe trái phép
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Tổ chức đua xe trái phép cho từ 10 xe tham gia trở lên hoặc cùng một lúc tổ chức 02 cuộc đua xe trở lên;
b) Tổ chức cá cược;
c) Tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép;
d) Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cư;
đ) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua;
130 e) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Khoản 2 và Khoản 5 Điều 265
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
h) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
i) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
k) Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép.
…5. Người tổ chức trái phép việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm.”
Tội đua xe trái phép 131 Khoản 1, Khoản 2,
“1. Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: Khoản 3 và Khoản 4 Điều 266
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%;
c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
e) Tham gia cá cược;
g) Chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép;
h) Đua xe nơi tập trung đông dân cư;
i) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua;
k) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.”
Tội vi phạm quy định về Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt
“4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả thực tế gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác, nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 132
Khoản 4 và Khoản 5 Điều 267
5. Người chỉ huy, Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội cản trở giao thông đường sắt
“1. Người nào đặt chướng ngại vật trên đường sắt; làm xê dịch ray, tà vẹt; tự ý khoan, đào, xẻ trái phép nền đường sắt, mở đường ngang, xây cống hoặc các công trình khác trái phép qua đường sắt; làm hỏng, thay đổi, chuyển dịch, che khuất tín hiệu, biển hiệu, mốc hiệu của công trình giao thông đường sắt; để súc vật đi qua đường sắt không theo đúng quy định hoặc để súc vật kéo xe qua đường sắt mà không có người Điều khiển; đưa trái phép phương tiện tự tạo, phương tiện không được phép chạy trên đường sắt hoặc phá hoại phương tiện giao thông vận tải đường sắt hoặc lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt, phạm vi bảo vệ công trình giao thông đường sắt cản trở giao thông đường sắt, gây thiệt hại thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
133
Khoản 1 và Khoản 4 Điều 268 c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
…4. Người đặt chướng ngại vật trên đường sắt; làm xê dịch ray, tà vẹt; tự ý khoan, đào, xẻ trái phép nền đường sắt, mở đường ngang, xây cống hoặc các công trình khác trái phép qua đường sắt; làm hỏng, thay đổi, chuyển dịch, che khuất tín hiệu, biển hiệu, mốc hiệu của công trình giao thông đường sắt; để súc vật đi qua đường sắt không theo đúng quy định hoặc để súc vật kéo xe qua đường sắt mà không có người Điều khiển; đưa trái phép phương tiện tự tạo, phương tiện không được phép chạy trên đường sắt hoặc phá hoại phương tiện giao thông vận tải đường sắt hoặc lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt, phạm vi bảo vệ công trình giao thông đường sắt cản trở giao thông đường sắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện, thiết bị giao thông đường sắt không bảo đảm an toàn
134 Khoản 4 Điều 269
4. Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc Điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường sắt mà cho phép đưa vào sử dụng các phương tiện, thiết bị không có giấy chứng nhận đăng ký, đăng kiểm hoặc có nhưng biết là các phương tiện, thiết bị đó không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội Điều động người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt
135 Khoản 4 Điều 270
4. Người Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép lái tàu hoặc người không đủ sức khỏe; người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội giao cho người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện giao thông đường sắt
136
Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 271
“1. Người nào giao cho người không có giấy phép lái tàu hoặc người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại thuộc một trong các trường hợp sau đây hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người giao cho người không có giấy phép lái tàu hoặc người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi
thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật Điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội vi phạm quy định về Điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ
137 Khoản 5 Điều 272
5. Người Điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường thuỷ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội cản trở giao thông đường thuỷ
138 Khoản 4 Điều 273
4. Người khoan, đào trái phép làm hư hại kết cấu của các công trình giao thông đường thuỷ; tạo ra chướng ngại vật gây cản trở giao thông đường thuỷ mà không đặt và duy trì báo hiệu; di chuyển làm giảm hiệu lực, tác dụng của báo hiệu; tháo dỡ báo hiệu hoặc phá hoại công trình giao thông đường thuỷ; lấn chiếm luồng hoặc hành lang bảo vệ luồng giao thông đường thuỷ hoặc hành vi khác cản trở giao thông đường thủy gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường thuỷ không bảo đảm an toàn
139 Khoản 4 Điều 274
4. Người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc Điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của phương tiện giao thông đường thuỷ mà cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường thuỷ rõ ràng không bảo đảm an toàn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người
trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội Điều động người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện giao thông đường thuỷ
140 Khoản 4 Điều 275
4. Người Điều động người không có giấy phép, giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ chuyên môn theo quy định hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật giao thông đường thuỷ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Tội giao cho người không đủ Điều kiện Điều khiển các phương tiện giao thông đường thuỷ
“1. Người nào giao cho người không có giấy phép, giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ chuyên môn theo quy định hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật Điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ gây thiệt hại thuộc một trong các trường hợp sau đây hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 141 Khoản 1 Điều 276
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
…4. Người giao cho người không có giấy phép, giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ chuyên môn theo quy định hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật Điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Tội cản trở giao thông đường không
142 Khoản 4 Điều 278
4. Người đặt các chướng ngại vật cản trở giao thông đường không; di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất, hoặc phá huỷ các biển hiệu, tín hiệu an toàn giao thông đường không; sử dụng sai hoặc làm nhiễu các tần số thông tin liên lạc; cố ý cung cấp thông tin sai đến mức gây uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay hoặc trên mặt đất; an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc người tại cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng; làm hư hỏng trang thiết bị của sân bay hoặc trang thiết bị phụ trợ khác phục vụ cho an toàn bay hoặc hành vi khác cản trở giao thông đường không cản trở giao thông đường không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn
143 Khoản 5 Điều 279
5. Người có trách nhiệm trực tiếp về việc Điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
144 Tội Điều động hoặc giao cho người không đủ Điều kiện Điều Khoản 5
khiển các phương tiện giao thông đường không Điều 280
5. Người Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép người lái tàu bay hoặc không đủ các Điều kiện khác theo quy định của pháp luật Điều khiển phương tiện giao thông đường không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông
“1. Người nào có trách nhiệm trong việc duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không mà có một trong các hành vi sau đây, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về duy tu, bảo dưỡng, quản lý để công trình giao thông không bảo đảm trạng thái an toàn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình liên quan đến bảo đảm an toàn giao thông;
145 Khoản 1 Điều 281 b) Không khắc phục kịp thời đối với các công trình giao thông bị hư hỏng, đe dọa an toàn giao thông;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các biện pháp hướng dẫn, Điều khiển giao thông, đặt biển hiệu, cọc tiêu, rào chắn ngăn ngừa tai nạn khi công trình giao thông đã bị hư hại chưa kịp hoặc đang tiến hành duy tu, sửa chữa;
d) Không thường xuyên kiểm tra và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông trên đoạn đường đèo dốc nguy hiểm, đoạn đường có đá lở, đất sụt, nước ngập hoặc trên các đoạn đường có nguy cơ không bảo đảm an toàn giao thông;
đ) Không có biện pháp xử lý kịp thời và biện pháp ngăn ngừa tai nạn khi phát hiện hoặc được tin báo công trình giao thông thuộc thẩm quyền quản lý của mình bị hư hỏng;
e) Không đặt hoặc đặt không đủ các tín hiệu phòng vệ theo quy định
thi công, sửa chữa công trình giao thông;
g) Không thu dọn, thanh thải các biển phòng vệ, rào chắn, phương tiện, các vật liệu khi thi công xong;
h) Vi phạm khác về duy tu, bảo dưỡng, quản lý công trình giao thông.”
Tội Điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
“1. Người nào Điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 và Điều 111 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
146
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 5 Điều 283
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
5. Người Điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 và Điều 111 của Bộ luật này gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Tội Điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
“1. Người Điều khiển tàu thuỷ hay phương tiện hàng hải khác vào hoặc ra khỏi Việt Nam hoặc đi qua lãnh hải Việt Nam mà thực hiện một trong các hành vi sau đây, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 và Điều 111 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chạy quá tốc độ cho phép trong vùng nư-ớc cảng biển; 147 Khoản 1 Điều 284 b) Chạy không đúng vùng được phép hoạt động theo quy định;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các thủ tục vào cảng, rời cảng, chế độ hoa tiêu, thủ tục neo, đậu, cập cầu, cập mạn, trật tự - vệ sinh, an toàn cháy nổ, phòng ngừa ô nhiễm môi trường do phương tiện hàng hải gây ra;
d) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về đi, tránh nhau, vượt nhau, nhường đường trong hoạt động giao thông hàng hải hoặc phương tiện giao thông hàng hải không có, không bảo đảm về còi, chuông, kẻng theo âm lượng quy định;
đ) Không bảo đảm về đèn hành trình, đèn hiệu theo tiêu chuẩn quy định; không thực hiện hoặc thực hiện không đúng về phát tín hiệu về âm hiệu, tín hiệu ánh sáng.”
Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của 148 Khoản 1 và Khoản
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 2 Điều 286
“1. Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
c) Làm lây nhiễm từ 50 phương tiện điện tử đến dưới 200 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 50 người sử dụng đến dưới 200 người sử dụng;
d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
d) Làm lây nhiễm từ 200 phương tiện điện tử đến dưới 500 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 200 người sử dụng đến dưới 500 người sử dụng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
149
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 287
”1. Người nào tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 và Điều 289 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 30 phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong thời gian 24 giờ;
d) Làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72 giờ;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
e) Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 24 giờ đến dưới 168 giờ hoặc từ 10 lần đến dưới 50 lần trong thời gian 24 giờ;
g) Làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 72 giờ đến dưới 168 giờ.”
Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông
150 Khoản 2 Điều 288 ”2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông;
c) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Xâm phạm bí mật cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm tự sát;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc quan hệ đối ngoại của Việt Nam;
g) Dẫn đến biểu tình.”
Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác
”2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 151 Khoản 2 Điều 289
c) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Đối với trạm trung chuyển internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền và hệ thống máy chủ tên miền quốc gia;
e) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
152 “1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 290
a) Sử dụng thông tin về tài Khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài Khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài Khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài Khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên;
c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.”
Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người
153
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 295 “1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
đ) Là người có trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người.
…4. Người vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
154 Khoản 4 Điều 298 4. Người vi phạm quy định về xây dựng trong các lĩnh vực khảo sát, thiết kế, thi công, sử dụng nguyên liệu, vật liệu, máy móc, giám
sát, nghiệm thu công trình hay các lĩnh vực khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 225 hoặc Điều 281 của Bộ luật này, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Tội khủng bố
155 Khoản 4 Điều 299 4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Tội tài trợ khủng bố
156 Khoản 2 Điều 300 2. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Làm công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia hư hỏng, ngưng hoạt động;
c) Làm chết 03 người trở lên;
157 d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 303
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 200% trở lên;
e) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế- xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng
“1. Người nào được giao vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thể thao, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà thiếu trách nhiệm để người khác sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
158 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 308 a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Người được giao vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thể thao, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ mà thiếu trách nhiệm để người khác sử dụng gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân
159 Khoản 5 Điều 309
“5. Người sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc
160 Khoản 4 Điều 312
“4. Người vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển hoặc mua bán chất cháy, chất độc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31 % đến 60 %, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy
161 Khoản 5 Điều 313
“5. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác, nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.”
Tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện
162
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 314 “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Cho phép xây nhà, công trình hoặc tự ý xây nhà, công trình trong phạm vi hành lang bảo vệ an toàn công trình điện;
b) Gây nổ, gây cháy, đốt rừng làm nương rẫy, làm đổ cây ảnh hưởng
đến an toàn vận hành công trình điện;
c) Đào hố, đóng cọc, xây nhà lên hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm;
d) Thả neo tàu, thuyền trong hành lang bảo vệ đường cáp điện ngầm đặt ở lòng sông, lòng biển đã có thông báo hoặc biển báo;
đ) Lắp các thiết bị điện hoặc thi công đường điện không bảo đảm an toàn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác
163 Khoản 4 Điều 315
“4. Người vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 259 của Bộ luật này, gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội phá thai trái phép 164 Khoản 1 và Khoản
2 Điều 316 “1. Người nào thực hiện việc phá thai trái phép cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây,thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%.”
Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm;
165
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 317
b) Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm;
c) Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh Mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt
ngưỡng cho phép trong sản phẩm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tại Điểm này hoặc Điểm a Khoản này mà còn vi phạm;
d) Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh Mụcđược phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm:gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Làm chết 01 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
d) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%.
đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội đánh bạc
166 Khoản 1 Điều 321
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
167 b) Rủ rê, dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động, xúi giục, đe dọa, uy hiếp, ép buộc, chứa chấp nhiều người; Khoản 2 Điều 325
c) Đối với người dưới 13 tuổi;
d) Rủ rê, dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc, kích động, xúi giục, đe dọa, uy hiếp, ép buộc, chứa chấp người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội chứa mại dâm
“1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Cưỡng bức mại dâm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
168 d) Chứa mại dâm 04 người trở lên;
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 327 đ) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm từ 11% đến 45%;
g) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm 46% trở lên.”
Tội môi giới mại dâm
“1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Có tổ chức; 169
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 328 c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội mua dâm người dưới 18 tuổi
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Mua dâm 02 lần trở lên;
b) Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; 170
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 329 c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.”
Tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
171 a) Có tổ chức; Khoản 2 Điều 340
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Sử dụng giấy tờ, tài liệu đã bị sửa chữa hoặc làm sai lệch thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
“1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
172
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Khoản 1 và Khoản 3 Điều 341
a) Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên;
b) Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
c) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.”
Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép
173
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 349 “1. Người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với từ 05 người đến 10 người;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Đối với 11 người trở lên;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
c) Làm chết người.”
Tội nhận hối lộ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
174 a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm;
Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 354 b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
g) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và 175
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Khoản 4 Điều 355
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;
e) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào Mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Tội tham ô tài sản
176 “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 353
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này,
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào Mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;
g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.”
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
177 b) Phạm tội 02 lần trở lên; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 357
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.”
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
178 Khoản 4 Điều 360
“4. Người có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, trừ trường hợp quy định tại các Điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội đưa hối lộ
“1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
179
a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 364 b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồngtrở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm.”
Tội môi giới hối lộ
“1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 180
a) Có tổ chức; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 365 b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
3. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.”
Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi
“1. Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận bất kỳ lợi ích nào dưới mọi hình thức thuộc một trong các trường hợp sau đây hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm của họ hoặc làm một việc không được phép làm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; 181
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 366 b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Tái phạm nguy hiểm.”
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật
182
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khoản 1 và Khoản 2 Điều 372
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật;
c) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”
Tội không chấp hành án
183 Khoản 1 Điều 380
“1. Người nào có Điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài Khoản
“1. Người nào được giao giữ, quản lý tài sản bị kê biên, bị niêm phong hoặc vật chứng bị niêm phong, tài Khoản bị phong tỏa mà thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: 184 Khoản 1 Điều 385
a) Phá huỷ niêm phong, giải tỏa việc phong tỏa tài Khoản mà không có quyết định của người có thẩm quyền;
b) Tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc huỷ hoại tài sản bị kê biên.”
Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử 185 Khoản 1 Điều 386
“1. Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Tội chống mệnh lệnh
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: 186
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan; Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 394
b) Lôi kéo người khác phạm tội;
c) Dùng vũ lực;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.”
Tội cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Lôi kéo người khác phạm tội;
c) Dùng vũ lực;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Khoản 2 và 187
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: Khoản 3 Điều 396
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội làm nhục đồng đội
“1. Người nào trong quan hệ công tác mà xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự đồng đội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sỹ quan;
b) Đối với chỉ huy hoặc cấp trên; 188
c) Vì lý do công vụ của nạn nhân; Khoản 1 và Khoản 2 Điều 397
d) Trong khu vực có chiến sự;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;
h) Làm nạn nhân tự sát.”
Tội đầu hàng địch
“1. Người nào đầu hàng địch, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Giao nộp cho địch vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; 189
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 399 c) Giao nộp tài liệu quan trọng hoặc khai báo bí mật công tác quân sự;
d) Lôi kéo người khác phạm tội;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Đối xử tàn ác với tù binh khác;
190 c) Lôi kéo người khác khai báo, làm việc cho địch;
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 400 d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Giao nộp cho địch vật, tài liệu bí mật nhà nước hoặc khai báo bí mật nhà nước;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu
“1. Người nào tự ý rời bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan; 191
Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 401 b) Bỏ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc tài liệu bí mật công tác quân sự;
c) Lôi kéo người khác phạm tội;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”
Tội đào ngũ
“1. Người nào rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Lôi kéo người khác phạm tội;
c) Mang theo, vứt bỏ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hoặc tài liệu bí mật quân sự; 192
d) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.” Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 402
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội trốn tránh nhiệm vụ
193 Khoản 1 Điều 403
“1. Người nào tự gây thương tích, gây tổn hại cho sức khoẻ của mình hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để trốn tránh nhiệm vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Tội vi phạm quy định về bảo vệ
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: 194 Khoản 2 Điều 410
a) Làm người được bảo vệ, hộ tống chết;
b) Làm mất phương tiện kỹ thuật, thiết bị quân sự;
c) Trong chiến đấu;
d) Trong khu vực có chiến sự;
đ) Lôi kéo người khác phạm tội;
e) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
Tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại chiến lợi phẩm
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Chiến lợi phẩm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến uy tín quân đội;
195 d) Chiến lợi phẩm có giá trị trong quân sự; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 419 đ) Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chiến lợi phẩm trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiến lợi phẩm có giá trị đặc biệt trong quân sự;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.”
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 02/GĐ-TANDTC Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 2016
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH, TỐ TỤNG DÂN SỰ
Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến về một số vấn đề vướng mắc như sau:
I. Vướng mắc liên quan đến quy định của Luật tố tụng hành chính
1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là quyết định hành chính không? Có được coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau:
“1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Căn cứ vào các quy định nêu trên thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
2. Trường hợp Tòa án ấn định thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ nhưng đương sự không giao nộp thì Tòa án giải quyết như thế nào? Đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tài liệu, chứng cứ đó có được sử dụng để giải quyết vụ án không?
Căn cứ vào khoản 1 và khoản 4 Điều 83 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ và ấn định thời gian giao nộp nhưng đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết vụ án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp trước đó thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Nếu lý do chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ là chính đáng thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Nếu đương sự nêu lý do nhưng lý do không chính đáng thì Tòa án không chấp nhận việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó, nhưng phải lập luận việc không chấp nhận tài liệu, chứng cứ đó trong bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp tài liệu, chứng cứ đã giao nộp chưa đảm bảo đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án.
3. Đương sự chứng minh được việc chậm giao nộp chứng cứ là có lý do chính đáng thì Tòa án có phải hoãn phiên tòa để đương sự khác tiếp cận chứng cứ hay không?
Trường hợp đương sự chứng minh được việc chậm giao nộp chứng cứ là có lý do chính đáng không thuộc trường hợp hoãn phiên tòa quy định tại Điều 162 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định quyền tiếp cận chứng cứ để bảo đảm tranh tụng; do đó, trường hợp đương sự chứng minh được việc chậm giao nộp chứng cứ là có lý do chính đáng mà thuộc trường hợp quy định tại các điểm c, d, đ và e khoản 1 Điều 187 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa.
4. Theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ. Vậy nếu đương sự không thông báo cho đương sự khác biết thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Trường hợp này, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự là họ có nghĩa vụ thông báo cho các đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và yêu cầu đương sự đó thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo để đương sự khác liên hệ với Tòa án thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ.
Trường hợp có tài liệu, chứng cứ chưa được thông báo cho đương sự thì Tòa án thực hiện việc thông báo cho họ biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ đó.
5. Trường hợp Ủy ban nhân dân ra quyết định thu hồi đất và tài sản gắn liền với đất mà có người cho rằng đất và tài sản gắn liền với đất không phải là tài sản của người có tên trong quyết định đó mà là tài sản của họ thì họ có được khởi kiện quyết định đó hay không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn
chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, nêu quyết định đó ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì họ có quyền khởi kiện quyết định hành chính đó.
6. Theo khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì trường hợp người bị kiện là Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân chỉ được ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân đại diện. Vậy Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân có được ủy quyền lại hay không?
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015, trường hợp người bị kiện là Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân chỉ được ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân đại diện, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân không được ủy quyền lại cho người thứ ba tham gia tố tụng.
7. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhận được đơn khiếu nại đối với quyết định hành chính nhưng không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì hành vi hành chính này của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không? Trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có giải quyết khiếu nại nhưng ban hành văn bản dưới hình thức thông báo, kết luận, công văn,... thì văn bản đó có phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không?
Theo quy định tại Điều 5 Luật khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm phải giải quyết khiếu nại đúng thời hạn pháp luật quy định; trường hợp hết thời hạn giải quyết mà không giải quyết là không thực hiện đúng nhiệm vụ, công vụ. Hành vi không giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của công dân; bởi vậy, theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì hành vi không giải quyết khiếu nại nêu trên là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Trường hợp một người khởi kiện quyết định hành chính tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án xem xét hành vi không giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính đó của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án cần giải thích cho họ biết họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án hoặc khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; việc lựa chọn phải được thực hiện theo quy định tại Điều 33 Luật tố tụng hành chính năm 2015; nếu họ lựa chọn khởi kiện tại Tòa án thì cần xác định đối tượng khởi kiện trong vụ án là quyết định hành chính và khi xét xử, thẩm quyền của Hội đồng xét xử được thực hiện theo quy định tại Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã giải quyết khiếu nại nhưng không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại mà dưới hình thức khác (như thông báo, kết luận, công văn v.v...) và văn bản đó đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì văn bản đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
8. Đối với những vụ án hành chính được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử (theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm) nhưng kể từ ngày 01-7-2016 Tòa án mới mở phiên tòa thì có phải yêu cầu người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng
đầu cơ quan, tổ chức thực hiện việc ủy quyền theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 hay không?
Căn cứ khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015; khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì đối với các vụ án hành chính được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng kể từ ngày 01-7-2016 Tòa án mới mở phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì phải áp dụng khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 về người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính.
Đối với trường hợp trước ngày 01-7-2016, người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác không phải là cấp phó của mình đại diện thì kể từ ngày 01-7-2016 Tòa án cần yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó chấm dứt ủy quyền trong tố tụng hành chính đối với người được ủy quyền trước đó và có văn bản ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
9. Khoản 2 Điều 187 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định về tạm ngừng phiên tòa. Vậy trong thời gian tạm ngừng phiên tòa đó thì Thẩm phán có được xét xử các vụ án khác hay không? Có mâu thuẫn với nguyên tắc xét xử liên tục hay không?
Về nguyên tắc thì trong thời gian tạm ngừng phiên tòa, Thẩm phán có thể tham gia giải quyết các vụ việc khác. Luật tố tụng hành chính năm 2015 đã bỏ quy định về nguyên tắc xét xử liên tục.
10. Trường hợp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện thì Chánh án phân công cho Thẩm phán khác không phải là Thẩm phán đã trả lại đơn khởi kiện để giải quyết khiếu nại hay vẫn phân công cho Thẩm phán đã trả lại đơn khởi kiện?
Khoản 2 Điều 124 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Luật tố tụng hành chính năm 2015 không quy định Thẩm phán đã trả lại đơn khởi kiện thì không được giải quyết khiếu nại; tuy nhiên, để bảo đảm tính khách quan thì nên phân công cho Thẩm phán khác xem xét, giải quyết.
11. Trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra quyết định giải quyết khiếu nại khi đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại thì quyết định giải quyết khiếu nại đó có phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Về nguyên tắc, quyết định giải quyết khiếu nại nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì được coi là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
12. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện thì giải quyết như thế nào? Nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì giải quyết như thế nào?
Trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện thì căn cứ vào khoản 12 Điều 38, khoản 3 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán, Hội đồng xét xử báo cáo, đề nghị Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án đó có văn bản yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính đó.
Trương hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì căn cứ vào khoản 13 Điều 38, khoản 4 Điều 112 Luật tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán, Hội đồng xét xử báo cáo, đề nghị Chánh án kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật này.
13. Trường hợp đương sự khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng khu dân cư thương mại cho rằng Ủy ban nhân dân tỉnh giá bồi thường quá thấp so với thị trường và yêu cầu định giá đất theo giá thị trường thì Tòa án có được ra quyết định định giá giá trị quyền sử dụng đất không?
Trường hợp khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mà có yêu cầu Tòa án xem xét về giá bồi thường thì Tòa án căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, mục đích thu hồi đất, giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất để giải quyết vụ án mà không được tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất.
II. Vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Có phải mọi vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định hành chính thì Tòa án đều phải đưa cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
3. Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
4. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.”
Theo quy định nêu trên thì chỉ có những văn bản là quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết mới bị Tòa án xem xét hủy (những văn bản không phải là quyết định hành chính cá biệt thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều này).
Khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó.
Trường hợp quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà việc hủy quyết định đó không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Trường hợp việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý giải quyết vụ việc dân sự phải chuyển vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.
Ví dụ 1: Ông A khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện X tỉnh Y yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B phải trả lại quyền sử dụng đất mà trước đó ông A cho ông B mượn. Khi giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện X nhận thấy trong thời gian mượn đất, ông B đã có hành vi gian dối làm thủ tục để được Ủy ban nhân dân huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; để giải quyết yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của ông A thì phải xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông B và phải đưa Ủy ban nhân dân huyện X tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp này, thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự có xem xét việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác định theo khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện X phải chuyển vụ án dân sự nêu trên cho Tòa án nhân dân tỉnh Y giải quyết và xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp khi giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt nhưng không cần thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết.
Ví dụ 2: Ông A, bà B là các con của cụ D, cụ E khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện X tỉnh Y yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất của cụ D, cụ E. Khi còn sống, cụ D và cụ E đã được Ủy ban nhân dân huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này, khi giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản không cần thiết phải xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử đất đã cấp cho cụ D, cụ E nên Tòa án nhân dân huyện X tiếp tục giải quyết vụ án.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về Luật tố tụng hành chính, Bộ luật tố tụng dân sự đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ hợp thứ 10 thông qua để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình triển khai thi hành và thụ lý, giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc thì đề nghị phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao để có hướng dẫn kịp thời.
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
Nơi nhận: - Các TAND và TAQS; - Các đơn vị thuộc TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Các đồng chí PCA TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VP, Vụ PC và QLKH.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 07 tháng 10 năm 2016
Số: 301/TANDTC-PC V/v áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015
Kính gửi: - Các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Thực hiện Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015 và 03 đạo luật khác có liên quan (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 144), ngày 13-9-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 276/TANDTC-PC kèm theo Danh mục một số quy định có nội dung có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015.
Để việc áp dụng các nội dung có lợi cho người phạm tội bảo đảm đúng quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 109), Nghị quyết số 144 của Quốc hội và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01), Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí lưu ý một số nội dung sau đây:
1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109 thì có 06 trường hợp[1] được áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 09-12-2015 (ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố).
2. Ngày 30-6-2016, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01 hướng dẫn bổ sung thêm 02 trường hợp áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 09-12-2015, đó là: (1) Người thực hiện hành vi mà theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 là tội phạm nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm do có bổ sung, thay đổi các yếu tố định tội và cấu thành tội phạm đó (nhưng không thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109); và (2) Người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội trừ các tội quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015.
3. Tại điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144 quy định:
“4. Kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2016:
a) Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13”.
Như vậy, theo các quy định và hướng dẫn nêu trên thì chỉ có 08 trường hợp được áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 09-12-2015; các quy định khác có lợi cho người phạm tội theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và được thống kê tại Danh mục kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao áp dụng kể từ ngày 01-7-2016. Tuy nhiên, cần lưu ý việc
áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể phải bảo đảm quy định mới của Bộ luật hình sự năm 2015 là có lợi cho người phạm tội.
4. Đối với hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của Bộ luật hình sự năm 1999, theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109 thì nếu các hành vi này xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2016 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý; nếu sau thời điểm 0 giờ 00 ngày 01-7-2016 (thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành) mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của Bộ luật hình sự năm 1999 mà áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo tội danh tương ứng. Tuy nhiên, tại điểm c khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144 quy định: “Các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự... có ghi thời điểm “ngày 01 tháng 7 năm 2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành””. Do đó, đối với các hành vi hoạt động phỉ, đăng ký kết hôn trái pháp luật, kinh doanh trái phép, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để xử lý cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị các đồng chí báo cáo về Toà án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để kịp thời hướng dẫn bổ sung./.
Nơi nhận: - Như kính gửi (để thực hiện); - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c PCA TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT (VP; Vụ PC&QLKH).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
[1] “1. Kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình, đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với người được nêu tại điểm a khoản này nhưng chưa thi hành án, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
c) Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
d) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Nếu vụ án đã được khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm không được quy định tại khoản 2 Điều 12 và các điểm b, c khoản 2 Điều 14 của Bộ luật hình sự năm 2015; nếu vụ án đã được khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
e) Những người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản này, thì đương nhiên được xóa án tích.”
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2016
Số: 306/TANDTC-PC V/v áp dụng tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” khi giải quyết vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Kính gửi: Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp
Trong thời gian vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của một số Tòa án nhân dân về việc áp dụng tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” khi giải quyết vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 thì “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” là một trong những yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định cụ thể “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm này; tuy nhiên, có thể hiểu “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” cũng là một dạng hành vi khách quan phản ánh ý thức chủ quan của người phạm tội là “gian dối để chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175. Bên cạnh đó, quá trình rà soát, sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2015, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã thống nhất bổ sung lại dấu hiệu này vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 để làm rõ hơn cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, việc khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định cụ thể dấu hiệu “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” không phải là quy định có lợi cho người phạm tội để áp dụng từ ngày 01-7-2016.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo khi giải quyết các vụ án cụ thể. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c PCA TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Vụ Giám đốc kiểm tra I TANDTC (để biết); - Ban thanh tra TANDTC (để biết); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Công an; - Lưu: VT (VP; Vụ PC&QLKH).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 07 tháng 11 năm 2016
Số: 327/TANDTC-PC V/v viện dẫn các điều khoản có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015 trong bản án
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân cấp cao;
- Tòa án quân sự trung ương; - Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến trao đổi của một số Tòa án nhân dân về vướng mắc trong việc viện dẫn các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 trong bản án. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 2 và điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144 ngày 29-6-2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015 và 03 đạo luật có liên quan (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 144) thì:
“2. Lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, trừ quy định tại điểm a … khoản 4 Điều này.
…4. Kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2016:
a) Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13”.
Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
“3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Theo các quy định và hướng dẫn nêu trên thì kể từ ngày 01-7-2016, khi xét xử các trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 1999, nếu có đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội nhưng thuộc trường hợp được áp dụng quy định có lợi của Bộ luật hình sự năm 2015 thì
trong phần “Xét thấy” của bản án Tòa án phải phân tích, so sánh, làm rõ các điều khoản tương ứng của hai Bộ luật (Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015); trong phần “Quyết định” của bản án, Tòa án viện dẫn điều khoản của Bộ luật hình sự năm 1999, Nghị quyết số 144 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và điều khoản có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 làm căn cứ để quyết định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Để việc viện dẫn các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 trong các bản án bảo đảm thống nhất, đúng pháp luật và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương và Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quán triệt Công văn này đến Tòa án mình và các Tòa án trực thuộc theo phạm vi thẩm quyền xét xử.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị các đồng chí báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để kịp thời hướng dẫn bổ sung.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
Nơi nhận: - Như kính gửi (để thực hiện); - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; (để báo cáo) - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; (để báo cáo) - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (để phối hợp) - Bộ Công an (để phối hợp); - Bộ Tư pháp (để phối hợp); - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo việc thực hiện); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 330/TANDTC-V1 Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2016
HƯỚNG DẪN
VỀ VIỆC XÉT, ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ TRONG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC HOÃN, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ NHÂN DỊP QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (02/9/2016)
Để thực hiện đúng và thống nhất khoản 2 Điều 5 Quyết định số 2230/2016/QĐ-CTN ngày 17/10/2016 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2016; điểm a tiểu mục 1 Mục III, điểm b tiểu mục 2 Mục III và điểm đ tiểu mục 1 Mục IV Hướng dẫn số 325/HĐTVĐX ngày 25/10/2016 của Hội đồng tư vấn đặc xá;
Sau khi có ý kiến của các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về đối tượng, điều kiện, trình tự thủ tục tiến hành xét, đề nghị đặc xá trong trường hợp đặc biệt cho người đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù nhân dịp Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/2016) như sau:
I. ĐỐI TƯỢNG XÉT ĐẶC XÁ TRONG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT:
Đối tượng được đề nghị đặc xá trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Quyết định số 2230/2016/QĐ-CTN ngày 17/10/2016 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2016 bao gồm:
1.1. Người Việt Nam, người nước ngoài phạm tội bị Tòa án Việt Nam kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; được phía nước ngoài (Chính phủ, Đại sứ quán, Cơ quan đại diện Lãnh sự, các tổ chức quốc tế,...) hoặc được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam (các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các Ban của Đảng) đề nghị xem xét đặc xá và xét thấy việc đặc xá cho họ là cần thiết, đảm bảo yêu cầu về công tác đối ngoại của Nhà nước.
1.2. Người bị kết án là nhân sĩ, trí thức, nghệ sỹ,...; người có chức sắc tôn giáo; người có chức vụ trong các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp...bị kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, được cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của Việt Nam (các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các Ban của Đảng) đề nghị xem xét đặc xá và xét thấy việc đặc xá cho họ là cần thiết, đảm bảo yêu cầu về công tác đối nội của Nhà nước.
1.3. Người bị kết án phạt tù, đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù theo quyết định vẫn đang có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã lập công lớn trong thời gian đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù: Là trường hợp người bị kết án đã có hành động giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (như: cơ quan Thanh tra, Hải quan, Kiểm lâm, Quản lý thị trường, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát,...) phát
hiện, truy bắt, điều tra và xử lý tội phạm; cứu được tính mạng của người khác hoặc tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng kiến có giá trị lớn hoặc có thành tích đặc biệt xuất sắc khác được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
b) Là thương binh, bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân, Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; được tặng thưởng một trong các loại Huân chương hoặc được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Người có một trong các thân nhân (như: Bố đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con đẻ, anh, chị, em ruột hoặc bố nuôi, mẹ nuôi, con nuôi hợp pháp) là liệt sỹ. Người là con đẻ, con nuôi hợp pháp của “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; con của gia đình được Chủ tịch nước, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng bằng “Gia đình có công với nước”.
c) Khi phạm tội là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi);
d) Là người từ 70 tuổi trở lên;
đ) Là người đang bị mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng.
e) Là người từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau, không tự phục vụ bản thân được.
Người từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau là người phải nằm điều trị tại bệnh viện liên tục trong thời gian dài (từ ba tháng trở lên) hoặc không liên tục nhưng nhiều lần phải nằm điều trị tại bệnh viện (mỗi lần không dưới một tháng), không lao động, không tự phục vụ bản thân được và không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản sao bệnh án, xác nhận bằng văn bản của Bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật.
g) Người bị kết án có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình: Là trường hợp người bị kết án có gia đình đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, không còn tài sản gì đáng kể hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con ốm đau nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà người bị kết án là lao động duy nhất trong gia đình, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận là đúng.
h) Người bị kết án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý là nữ giới mà đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù lần đầu vì lý do đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi (tính đến ngày 30/11/2016), nếu xét thấy việc đặc xá cho họ không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
II. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ
2.1. Người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có nơi cư trú rõ ràng (có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội nơi quản lý người bị kết án).
2.2. Trong thời gian đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người bị kết án luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan, đơn vị nơi quản lý (có nhận xét của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội nơi quản lý người bị kết án); khi được đặc xá sẽ không làm phương hại đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; không gây ảnh hưởng tiêu cực tới công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà nước và địa phương.
2.3. Người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, tiền bồi thường thiệt hại, tiền truy thu, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác, trừ những trường hợp không bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia đình không còn khả năng thực hiện.
- Người bị kết án là người chưa thành niên phạm tội mà trong bản án, quyết định của Tòa án giao trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác cho bố mẹ hoặc người đại diện hợp pháp thì phải có đầy đủ tài liệu chứng minh bố, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự mới được xem xét, đề nghị đặc xá.
- Những trường hợp sau đây được coi là đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, tiền truy thu, án phí và các nghĩa vụ dân sự khác hoặc chưa thực hiện xong nhưng vẫn được xem xét, đề nghị đặc xá nếu có đầy đủ các điều kiện khác:
+ Người bị kết án được Tòa án miễn thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, tiền truy thu, án phí.
+ Người bị kết án được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại có văn bản đồng ý xóa nợ, không yêu cầu thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự nữa và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận.
+ Người bị kết án phải chấp hành nghĩa vụ dân sự (như về cấp dưỡng) cho bên bị hại theo định kỳ hàng tháng mà tính đến ngày 30/11/2016, bản thân người bị kết án hoặc thân nhân của họ đã chấp hành đầy đủ, đúng hạn các khoản nghĩa vụ dân sự theo định kỳ mà bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận.
+ Người bị kết án được Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra Quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2.4. Tính đến ngày 30/11/2016, Quyết định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù (không tính số lần ban hành quyết định) của Tòa án có thẩm quyền vẫn đang có hiệu lực thi hành đối với người bị kết án.
III. CÁC TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ
Không được đề nghị đặc xá cho người bị kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ trong các trường hợp sau đây:
3.1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
3.2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác.
3.3. Trước đó đã được đặc xá.
3.4. Có từ hai tiền án trở lên (mà chưa được xóa án tích).
3.5. Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia.
3.6. Bị kết án phạt tù về một trong các tội: Khủng bố; phá hoại hòa bình; chống loài người; tội phạm chiến tranh; chống người thi hành công vụ có tổ chức (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc phạm tội nhiều lần (quy định tại điểm b khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội (quy định tại điểm c khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc gây hậu quả nghiêm trọng (quy định tại điểm d khoản 2 Điều 257 Bộ luật hình sự năm 1999).
3.7. Bị kết án phạt tù từ 10 năm trở lên đối với tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người do cố ý.
3.8. Bị kết án phạt tù từ 07 năm trở lên đối với tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, sản xuất trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy, chiếm đoạt chất ma túy.
3.9. Bị kết án phạt tù (theo bản án) thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Giết người có tổ chức (quy định tại điểm o khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Giết người có tính chất côn đồ (quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Cố ý gây thương tích có tổ chức (quy định tại điểm e khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc có tính chất côn đồ (quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người (quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Hiếp dâm có tính chất loạn luân (quy định tại điểm e khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Hiếp dâm trẻ em có tính chất loạn luân (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Cướp tài sản có sử dụng vũ khí (quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, các loại vũ khí được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH ngày 30/6/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ); cướp tài sản có tổ chức (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999); cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (quy định tại điểm g khoản 2, điểm c khoản 3, điểm c khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Cướp giật tài sản có tổ chức (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999); cướp giật tài sản gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (quy định tại điểm h khoản 2, điểm c khoản 3, điểm c khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Trộm cắp tài sản có tổ chức (quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999); trộm cắp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (quy định tại điểm g khoản 2, điểm b khoản 3, điểm b khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Cướp tài sản nhiều lần, cướp giật tài sản nhiều lần, trộm cắp tài sản nhiều lần (từ hai lần trở lên): Căn cứ để xác định phạm tội nhiều lần là số lần phạm tội được thể hiện trong Bản án hoặc phần quyết định của Bản án có áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Những trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tổng hợp của nhiều bản án về cùng một tội mà trong mỗi bản án chỉ thể hiện phạm tội một lần thì vẫn là phạm tội nhiều lần.
3.10. Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc người dùng thủ đoạn xảo quyệt, người ngoan cố chống đói trong vụ án phạm tội có tổ chức (căn cứ xác định theo bản án).
3.11. Có căn cứ khẳng định đã sử dụng trái phép các chất ma túy.
Việc khẳng định đã sử dụng trái phép các chất ma túy là căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ của người bị kết án như: Bản án; Cáo trạng; các tài liệu của Cơ quan điều tra; kết quả xét nghiệm của cơ quan y tế cấp huyện trở lên; bản tự khai của người bị kết án có ghi rõ thời gian, số lần sử dụng trái phép chất ma túy...hoặc phiếu khám sức khỏe của Trại giam, Trại tạm giam, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của người bị kết án thừa nhận là đã sử dụng trái phép các chất ma túy.
3.12. Đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù do phạm từ ba tội trở lên hoặc phạm hai tội do cố ý, kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt.
3.13. Đã có một tiền án mà lại bị kết án phạt tù về tội do cố ý.
3.14. Đã từng bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, kể cả cơ sở giáo dục trước đây hoặc trường giáo dưỡng mà bị kết án phạt tù về một trong các tội sau đây: Về ma túy; giết người; hiếp dâm
trẻ em; cướp tài sản; cướp giật tài sản; cưỡng đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; chống người thi hành công vụ; mua bán phụ nữ hoặc mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; gây rối trật tự công cộng; tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
3.15. Người bị kết án phạt tù phạm các tội về ma túy bị phạt tù dưới 07 năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên 01 năm; đối với trường hợp phạm các tội về ma túy nhưng không thuộc trường hợp quy định tại tiểu mục 3.8 Mục này nếu bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên 02 năm hoặc bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên 03 năm, trừ trường hợp người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù vì lý do quy định tại điểm đ, e tiểu mục 1.3 Mục I Hướng dẫn này.
IV. HỒ SƠ, TRÌNH TỰ VÀ THỦ TỤC XÉT ĐẶC XÁ
4.1. Hồ sơ đề nghị đặc xá:
Hồ sơ đề nghị đặc xá của mỗi trường hợp người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù bao gồm các tài liệu được sắp xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới như sau:
a) Phiếu đề nghị xét đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù (Mẫu số 06, 07).
Phiếu này do Tòa án có thẩm quyền đề nghị đặc xá lập theo đúng các thông tin có trong bản án, tài liệu, hồ sơ của người bị kết án.
b) Đơn xin đặc xá và cam kết của người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù (Mẫu số 08, 09).
Người bị kết án được đề nghị đặc xá phải viết, trực tiếp ký hoặc điểm chỉ vào “Đơn xin đặc xá và cam kết”, phần sơ lược lý lịch và các thông tin khác phải viết đúng theo bản án đã tuyên (nếu nơi về cư trú mà địa danh hành chính đã thay đổi thì ghi theo địa danh hành chính mới).
Trong Đơn xin đặc xá và cam kết, người bị kết án phải có cam kết thi hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi được đặc xá và có nhận xét của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội nơi quản lý người bị kết án về thái độ ăn năn, hối cải và việc chấp hành chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước tại địa phương trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội nơi quản lý chỉ xác nhận tình trạng cư trú của người bị kết án là nhận xét không đầy đủ.
c) Bản sao Quyết định thi hành án của người bị kết án.
d) Bản sao bản án đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
đ) Bản sao Quyết định hoãn hoặc Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với người bị kết án đang còn hiệu lực. Trường hợp người bị kết án được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù nhiều lần thì trong hồ sơ phải có đầy đủ các quyết định hoãn, tạm đình chỉ trước đó.
e) Các giấy tờ chứng minh đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, tiền truy thu sung quỹ Nhà nước, án phí hoặc Quyết định miễn hình phạt tiền, miễn nộp án phí của Tòa án; Giấy đồng ý xóa nợ của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại được Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận; văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó xác nhận về việc người bị kết án hoặc thân nhân của người bị kết án đã chấp hành nghĩa vụ dân sự về cấp dưỡng cho bên bị hại theo định kỳ hàng tháng; Quyết định đình chỉ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
g) Tài liệu chứng minh đã được xóa án tích là giấy chứng nhận hoặc Quyết định xóa án tích của cơ quan có thẩm quyền cấp cho người bị kết án hoặc trong bản án có xác định là người bị kết án đã được xóa án tích.
h) Đối với người bị kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù quy định tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 Mục I Hướng dẫn này, nếu là người nước ngoài thì phải có văn bản đề nghị của phía nước ngoài (Chính phủ, Đại sứ quán, Cơ quan đại diện Lãnh sự, các tổ chức quốc tế...), bản sao hộ chiếu hoặc thị thực nhập cảnh (nếu có); nếu là người Việt Nam thì phải có đơn hoặc văn bản của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của Việt Nam (các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các Ban của Đảng) đề nghị xem xét đặc xá; có văn bản của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận danh hiệu, học hàm, học vị...; phẩm hàm, người có chức sắc tôn giáo, chức vụ trong các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp....
i) Đối với các trường hợp người bị kết án lập công lớn trong thời gian được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù quy định tại điểm a tiểu mục 1.3 Mục I Hướng dẫn này thì phải có đầy đủ các giấy tờ sau: Bản tường trình về lập công của người bị kết án; văn bản xác nhận, đề nghị hoặc quyết định khen thưởng về việc người bị kết án lập công lớn của Cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện, cấp khu vực trở lên hoặc Cơ quan điều tra sử dụng người bị kết án để phục vụ công tác điều tra hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội được giao quản lý người đó.
k) Bản sao (có chứng thực theo quy định của pháp luật) các giấy tờ: Giấy chứng nhận là thương binh, bệnh binh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; có thân nhân là liệt sỹ (bao gồm bố đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con đẻ, anh, chị, em ruột hoặc bố nuôi, mẹ nuôi, con nuôi hợp pháp); con đẻ, con nuôi hợp pháp của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của gia đình được Chủ tịch nước, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng bằng “Gia đình có công với nước”.
l) Kết luận của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên hoặc bản sao bệnh án, kết luận bằng văn bản của Bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên đối với trường hợp người bị
kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù bị mắc một trong các loại bệnh hiểm nghèo được quy định tại điểm đ tiểu mục 1.3 Mục I Hướng dẫn này.
Các tài liệu chứng minh người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đang bị bệnh hiểm nghèo chỉ có giá trị trong thời gian 06 (sáu) tháng, tính đến ngày Tòa án có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị đặc xá.
m) Kết luận bằng văn bản về bệnh tật của Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên hoặc bản sao bệnh án, kết luận bằng văn bản của Bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên đối với trường hợp người từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau phải nằm điều trị tại bệnh viện liên tục trong thời gian dài (từ ba tháng trở lên) hoặc không liên tục nhưng nhiều lần phải nằm điều trị tại bệnh viện (mỗi lần không dưới một tháng), không lao động, không tự phục vụ bản thân và không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
Các tài liệu chứng minh trên đây chỉ có giá trị trong thời gian 06 (sáu) tháng, tính đến ngày Tòa án có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị đặc xá.
n) Xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc đó về hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn của người bị kết án không còn tiền, tài sản để thực hiện hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, nộp án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.
Xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị kết án cư trú về thực tế hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân người bị kết án là lao động duy nhất phải ghi rõ nghề nghiệp đang làm, thu nhập thực tế của người bị kết án được đề nghị xét đặc xá; tuổi, thực trạng sức khỏe, khả năng làm việc của bố mẹ, vợ (chồng), các con của người đó... để chứng minh người bị kết án thuộc trường hợp hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú chỉ xác nhận người bị kết án có đăng ký hộ khẩu tại địa phương là không đầy đủ.
o) Phiếu xét nghiệm HIV và bản sao bệnh án, kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên về việc đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao.
p) Bản sao (có chứng thực theo quy định của pháp luật) đối với các giấy tờ (như Chứng minh nhân dân, Giấy khai sinh, sổ hộ khẩu...) để chứng minh người bị kết án khi phạm tội là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi); là người 70 tuổi trở lên.
q) Kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên về việc người bị kết án là phụ nữ có thai; bản sao giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh của con người bị kết án dưới 36 tháng tuổi.
4.2. Phương pháp lập danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá:
a) Đối với mỗi trường hợp người bị kết án được Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phối hợp với Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp thống nhất đồng ý lập danh sách đề nghị đặc xá thì phải lập thành 11 bộ hồ sơ (mỗi một hồ sơ gồm có các tài liệu
như hướng dẫn tại tiểu mục 4.1 Mục này). Trong đó, có 02 bộ đóng dấu đỏ, trong 02 bộ dấu đỏ có 01 bộ gốc (các tài liệu trong 02 bộ hồ sơ có dấu đỏ phải được Tòa án ký, đóng dấu “sao y bản chính” từ hồ sơ thi hành án) và 09 bộ hồ sơ photocoppy.
b) Sau khi thống nhất với Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp xét duyệt danh sách đề nghị đặc xá của địa phương, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu tổng hợp, lập danh sách và hồ sơ các trường hợp đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn chấp hành án phạt tù riêng; các trường hợp được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù riêng sắp xếp theo vần thứ tự a, b, c, d,...rồi đóng gộp mỗi loại (hoãn hoặc tạm đình chỉ) thành từng tập riêng biệt theo thứ tự trong danh sách, ngoài bìa có các thông tin về Tòa án lập hồ sơ, trường hợp hoãn hay tạm đình chỉ, số lượng người được đề nghị đặc xá, để thuận tiện cho các cơ quan thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá năm 2016 thẩm định.
Ví dụ:
Tòa án nhân dân tỉnh H có 08 trường hợp đề nghị đặc xá, trong đó có 05 trường hợp hoãn chấp hành án phạt tù, 03 trường hợp tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, thì sẽ làm như sau:
- Đóng gộp 05 trường hợp hoãn thành một tập theo thứ tự vần a, b, c...từ 1 đến 5 và tổng cộng có 11 tập hồ sơ hoãn của 05 trường hợp này; trong 11 tập hồ sơ hoãn này thì có 02 tập có dấu đỏ, trong đó có 01 bộ có chữ ký gốc. Bìa ngoài ghi: Tòa án nhân dân tỉnh H, hồ sơ đề nghị đặc xá năm 2016 cho người bị kết án đang được hoãn chấp hành án phạt tù, số lượng 05 người. Ngoài bìa của tập có dấu đỏ thì ghi “tập có dấu đỏ” để dễ phân biệt.
- Đóng gộp 03 trường hợp tạm đình chỉ thành một tập theo thứ tự vần a, b, c...từ 1 đến 3 và tổng cộng có 11 tập hồ sơ tạm đình chỉ của 03 trường hợp này; trong 11 tập hồ sơ hoãn này thì có 02 tập có dấu đỏ, trong đó có 01 bộ gốc. Bìa ngoài ghi: Tòa án nhân dân tỉnh H, hồ sơ đề nghị đặc xá năm 2016 cho người bị kết án đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, số lượng 03 người. Ngoài bìa của tập có dấu đỏ thì ghi “tập có dấu đỏ” để dễ phân biệt.
c) Hồ sơ, tài liệu đặc xá chuyển về Tòa án nhân dân tối cao bao gồm:
- Danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu lập.
- Biên bản họp xét đề nghị đặc xá năm 2016 cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh, cấp quân khu.
- 11 tập hồ sơ đề nghị đặc xá được đóng như hướng dẫn tại điểm b tiểu mục này.
- Lưu ý: Đối với hồ sơ đề nghị xét đặc xá do Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực lập thì cũng phải kèm theo Biên bản họp xét đề nghị đặc xá.
4.3. Trình tự, thủ tục lập danh sách, đề nghị đặc xá
a) Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp có trách nhiệm lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn chấp hành án phạt tù theo nguyên tắc: Tòa án nào đã ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ thì Tòa án đó có trách nhiệm hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án nếu họ cư trú trên cùng địa bàn với Tòa án ra quyết định. Đối với trường hợp người đang được tạm đình chỉ cư trú khác địa bàn với Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ thì Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ có trách nhiệm thông báo cho Tòa án cấp huyện nơi người bị kết án cư trú biết, Tòa án nơi người bị kết án đang cư trú có trách nhiệm hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án (Tòa án đã ra quyết định hoãn, tạm đình chỉ có trách nhiệm cung cấp các tài liệu liên quan đến việc đề nghị đặc xá của người bị kết án khi có yêu cầu).
Ví dụ:
- Nguyễn Văn A được Tòa án nhân dân huyện X tỉnh H cho hoãn chấp hành án phạt tù vì bị bệnh hiểm nghèo và giao cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện X, tỉnh H (nơi Nguyên Văn A cư trú) quản lý. Nguyên Văn A đủ điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá năm 2016. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh H có trách nhiệm hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho Nguyễn Văn A.
- Lê Văn B (cư trú ở huyện Y tỉnh H) được Tòa án nhân dân tỉnh H cho tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù vì bị bệnh hiểm nghèo. Lê Văn B đủ điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá năm 2016. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh H có trách nhiệm hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho Lê Văn B.
- Trần Văn C được Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù và giao cho Ủy ban nhân dân phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (nơi Trần Văn C cư trú) quản lý. Trần Văn C đủ điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá năm 2016. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa có trách nhiệm thông báo cho Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội biết, Tòa án nhân dân quận Ba Đình có trách nhiệm hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho Trần Văn C.
b) Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự cấp khu vực chủ trì mời đại diện lãnh đạo của Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp tổ chức phiên họp xét hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá.
- Phiên họp xét đề nghị đặc xá phải được lập thành biên bản, có đại diện lãnh đạo của 03 cơ quan tham dự phiên họp ký tên, đóng dấu. Biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham dự phiên họp; nội dung diễn biến phiên họp và ý kiến của các cơ quan về việc chấp nhận hay không chấp nhận (nêu rõ lý do) đề nghị xét đặc xá cho người bị kết án (Mẫu số 05).
- Sau đó, Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực phải gửi danh sách, biên bản phiên họp xét đề nghị đặc xá và hồ sơ đề nghị đặc xá lên Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu để họp xét.
c) Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu hướng dẫn, lập hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá cho các trường hợp người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt
tù có đủ điều kiện đặc xá năm 2016 do Tòa án mình ra quyết định và người bị kết án cư trú tại địa phương. Đồng thời tập hợp hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực để họp xét đề nghị đặc xá.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu chủ trì mời đại diện lãnh đạo Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp họp xét đề nghị đặc xá.
- Phiên họp xét đề nghị đặc xá phải được lập thành biên bản, có đại diện lãnh đạo của 03 cơ quan tham dự phiên họp ký tên, đóng dấu. Biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham dự phiên họp; nội dung, diễn biến phiên họp và ý kiến của các cơ quan về việc chấp nhận hay không chấp nhận (nêu rõ lý do) đề nghị xét đặc xá cho người bị kết án (Mẫu số 05).
- Tại phiên họp xét đề nghị đặc xá cấp tỉnh, cấp quân khu, người bị kết án được 03 cơ quan tham dự phiên họp thống nhất đồng ý đề nghị xét đặc xá thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu đưa họ vào danh sách đề nghị đặc xá, có chữ ký của đại diện 03 cơ quan tham dự họp (Mẫu số 03, Mẫu số 04) và gửi lên Tòa án nhân dân tối cao, qua Vụ Giám đốc kiểm tra về hình sự, hành chính (Vụ Giám đốc kiểm tra I), số 262 Đội cấn, Ba Đình, Hà Nội) kèm theo hồ sơ đề nghị đặc xá để trình Hội đồng tư vấn đặc xá xem xét, quyết định.
d) Thẩm định danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá:
- Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập Tổ chuyên viên tư vấn đặc xá để kiểm tra, tiếp nhận, phân loại, thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù do các Tòa án chuyển đến và thực hiện các công việc khác liên quan đến công tác đặc xá, giúp việc cho Phó Chánh án kiêm Ủy viên Hội đồng tư vấn đặc xá năm 2016.
- Tòa án nhân dân tối cao chuyển danh sách, hồ sơ người bị kết án được đề nghị đặc xá của các Tòa án cho các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá nghiên cứu cho ý kiến.
Sau khi tổng hợp ý kiến của các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá, Tòa án nhân dân tối cao lập danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù kèm theo hồ sơ đề nghị đặc xá để trình các cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 5 Quyết định số 2230/2016/QĐ-CTN ngày 17/10/2016 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2016 xét duyệt và trình Chủ tịch nước quyết định.
4.4. Quản lý tài liệu, hồ sơ, danh sách và số liệu người được đề nghị xét đặc xá:
a) Tòa án nhân dân tối cao ban hành các biểu mẫu về đặc xá năm 2016 kèm theo Hướng dẫn này (từ Mẫu số 01 đến Mẫu số 10).
b) Tài liệu, hồ sơ, danh sách, số liệu liên quan đến công tác đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù năm 2016 được quản lý, sử dụng theo chế độ “MẬT” đến khi Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp tổ chức công bố Quyết định đặc xá năm 2016 của Chủ tịch nước.
c) Cán bộ, công chức Tòa án; cán bộ, chiến sỹ, chuyên viên, nhân viên của các Bộ, Ban, ngành tham gia công tác đặc xá phải chấp hành nghiêm chỉnh việc quản lý, sử dụng tài liệu, danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá theo chế độ “MẬT”. Những người vi phạm phải xử lý theo pháp luật.
d) Hồ sơ xét đề nghị đặc xá của người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù phải đầy đủ tài liệu, nội dung ghi trong hồ sơ phải thống nhất, rõ ràng và đúng thủ tục quy định về đặc xá. Nếu để sai lệch các dữ liệu ghi trong hồ sơ đề nghị đặc xá so với hồ sơ gốc hoặc do lỗi kỹ thuật, sau khi thẩm định để lại không đề nghị đặc xá cho người bị kết án có đủ điều kiện hoặc do làm sai lệch hồ sơ và đề nghị đặc xá cho người không có đủ điều kiện, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu lập danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá phải chịu trách nhiệm.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
5.1. Trách nhiệm của các Tòa án:
a) Chánh án Tòa án quân sự Trung ương tổ chức quán triệt sâu rộng mục đích, ý nghĩa của công tác đặc xá trong trường hợp đặc biệt đối với người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho Tòa án quân sự các cấp. Chỉ đạo, hướng dẫn Tòa án quân sự các cấp thực hiện công tác đặc xá theo đúng hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
b) Trách nhiệm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu:
- Chỉ đạo, hướng dẫn Tòa án cấp dưới thực hiện tốt công tác đặc xá năm 2016 theo đúng hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
- Chủ động, phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan Thi hành án hình sự cùng cấp thực hiện tốt công tác đặc xá năm 2016 theo đúng hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Đảm bảo những trường hợp đủ điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá 2016 phải được lập hồ sơ đề nghị xét đặc xá theo quy định. Cá nhân, đơn vị nào để sót, lọt không lập hồ sơ đề nghị xét đặc xá cho những người thuộc diện xét đặc xá hoặc lập hồ sơ đề nghị đặc xá cho người không đủ điều kiện thì cá nhân và Thủ trưởng đơn vị đó phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tư vấn đặc xá.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu phải chịu trách nhiệm trước Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tư vấn đặc xá về toàn bộ các công việc liên quan đến công tác đặc xá của địa phương mình. Có trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ các hồ sơ, tài liệu liên quan đến công tác đặc xá để kịp thời cung cấp cho Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tư vấn đặc xá khi có yêu cầu.
- Trong suốt quá trình, thời gian đề nghị đặc xá, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu phải theo dõi chặt chẽ các thông tin về người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá năm 2016. Nếu đối tượng được đề nghị đặc xá chết, thực hiện hành vi phạm tội mới, có khiếu nại, tố cáo hoặc các vấn đề khác có liên quan đến việc đặc xá thì phải báo cáo ngay cho lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao (qua Vụ Giám đốc kiểm tra I) để giải quyết.
- Sau khi Tòa án nhân dân tối cao thông báo danh sách người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ đã được đặc xá thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu tổ chức triển khai công bố Quyết định đặc xá năm 2016 của Chủ tịch nước tại địa phương mình theo đúng thời gian và thủ tục quy định, đảm bảo ý nghĩa của công tác đặc xá.
- Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu không có trường hợp người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá năm 2016 cũng phải gửi báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao bằng văn bản theo thời gian quy định tại điểm a tiểu mục 5.2 Mục này.
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp quân khu lập danh sách người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá bằng phông chữ Time New Roman, cỡ chữ 14, lập thành thư mục theo dõi riêng và gửi file gốc về Tòa án nhân dân tối cao, qua địa chỉ hòm thư điện tử (email): tatc.gdktl@toaan.gov.vn ngay sau khi Tòa án gửi danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá về Tòa án nhân dân tối cao.
c) Trách nhiệm của Vụ Giám đốc kiểm tra I:
- Là đầu mối thực hiện công tác đặc xá của Tòa án nhân dân tối cao, có trách nhiệm tiếp nhận danh sách, hồ sơ đề nghị xét đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được lập theo đúng quy định (theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao) do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu chuyển đến.
- Tiến hành kiểm tra, phân loại và báo cáo kết quả thẩm định về nội dung, hình thức đối với danh sách, hồ sơ đề nghị xét đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu chuyển đến.
- Chuyển tất cả danh sách, hồ sơ người đề nghị đặc xá của các Tòa án cho các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá nghiên cứu cho ý kiến. Tham mưu giúp lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù của Tòa án nhân dân tối cao.
- Sau khi có kết quả xét duyệt của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về danh sách đề nghị đặc xá, tham mưu giúp việc Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiêm Ủy viên Hội đồng tư vấn đặc xá phối hợp với các cơ quan hữu quan tổng hợp, rà soát và hoàn chỉnh danh sách đề nghị đặc xá chính thức để trình Chủ tịch nước quyết định.
- Tham mưu, giúp lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác đặc xá của Tòa án các cấp khi cần thiết; tiếp nhận, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, các tổ chức trong và ngoài nước có liên quan đến đặc xá cho người bị kết án phạt tù đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
- Tham mưu, giúp lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao tiến hành tổng kết công tác đặc xá năm 2016.
5.2. Thời gian thực hiện:
a) Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu có trách nhiệm gửi toàn bộ danh sách, biên bản, hồ sơ đề nghị đặc xá, văn bản liên quan đến công tác đặc xá được gửi về Tòa án nhân dân tối cao, qua Vụ giám đốc kiểm tra I, địa chỉ: số 262 Đội cấn, Ba Đình, Hà Nội, trong thời gian từ ngày 08/11/2016 đến trước ngày 14/11/2016.
Lưu ý: Nếu các Tòa án gửi hồ sơ qua đường bưu điện thì phải gửi chuyển phát nhanh để đảm bảo hồ sơ đến Vụ Giám đốc kiểm tra I trước ngày 14/11/2016.
b) Vụ giám đốc kiểm tra I nhận trực tiếp tại trụ sở tài liệu, danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá của các Tòa án chuyển đến từ 08 giờ 00 phút đến 18 giờ 00 phút hàng ngày (kể cả thứ Bảy, Chủ nhật) từ ngày 08/11/2016 đến ngày 13/11/2016.
c) Từ ngày 08/11/2016 đến ngày 15/11/2016, Tòa án nhân dân tối cao tiến hành việc thẩm định hồ sơ, danh sách đề nghị đặc xá; chuyển hồ sơ, danh sách đến các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá nghiên cứu, thẩm định.
d) Từ ngày 10/11/2016 đến ngày 19/11/2016, Tòa án nhân dân tối cao tổng hợp ý kiến của các thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá và chuẩn bị hồ sơ, danh sách người đủ điều kiện đề nghị đặc xá để trình các cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 5 Quyết định số 2230/2016/QĐ-CTN ngày 17/10/2016 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2016 xét duyệt.
đ) Từ ngày 29/11/2016 đến ngày 30/11/2016, sau khi Tòa án nhân dân tối cao thông báo về danh sách người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đặc xá, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu tiến hành tổ chức công bố Quyết định đặc xá năm 2016 của Chủ tịch nước đảm bảo tính nghiêm trang, ý nghĩa của công tác đặc xá.
5.3. Khen thưởng, kỷ luật:
a) Công tác đặc xá phải được tổng kết rút kinh nghiệm và khen thưởng kịp thời cho những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích theo quy định hiện hành về khen thưởng.
b) Cần phát hiện, ngăn chặn kịp thời những sai sót, lệch lạc trong công tác đặc xá để chấn chỉnh ngay; xử lý nghiêm minh những tập thể và cá nhân có hành vi vi phạm Điều 7 Luật đặc xá. Cơ quan, đơn vị để xảy ra sai sót, tiêu cực, gây phiền hà trong công tác đặc xá thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó chịu trách nhiệm trước Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng tư vấn đặc xá.
Căn cứ vào Hướng dẫn này, các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; Tòa án nhân dân tối cao trân trọng đề nghị các Bộ, Ban, ngành ở trung ương là thành viên Hội đồng tư vấn đặc xá quan tâm, chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền phối hợp với Tòa án nhân dân các địa phương trong việc lập, thẩm định danh sách, hồ sơ đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
Hướng dẫn này và các biểu mẫu gửi kèm theo được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao và gửi vào hòm thư điện tử của các Tòa án từ ngày 02/11/2016 để triển khai thực hiện.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có vấn đề vướng mắc, yêu cầu các Tòa án phải kịp thời báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao, qua Vụ Giám đốc kiểm tra I (đồng chí Lương Hồng Minh, Vụ trưởng, số điện thoại 0912.850.257; đồng chí Nguyễn Xuân Tĩnh, Phó Vụ trưởng, số điện thoại 0912.364.761; đồng chí Võ Hồng Sơn, số điện thoại 0912.915.832) để tổng hợp, báo cáo lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
Nơi nhận: - Chủ tịch nước; (để báo cáo) - PTTg Trương Hòa Bình, Chủ tịch HĐTVĐX; (để báo cáo) - Chánh án TANDTC; (để báo cáo) - Ban Nội chính TW; (để báo cáo) - VP Chủ tịch nước; (để phối hợp thực hiện). - VP Chính phủ; (để phối hợp thực hiện). - VKSNDTC; (để phối hợp thực hiện). - Các Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngoại giao, Tư pháp; (để phối hợp thực hiện). - Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam; (để phối hợp thực hiện). - Tòa án quân sự TW; (để thực hiện). - Các TAND cấp cao; (để thực hiện). - TAND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (để thực hiện). - Các TAQS quân khu; (để thực hiện). - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: TK PCA, Vụ GĐKT 103b.CM, VP.
Mẫu số 01. Bìa tập hồ sơ đề nghị đặc xá dùng trong trường hợp hoãn. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH……………….. -------------------
HỒ SƠ
ĐỀ NGHỊ XÉT ĐẶC XÁ NĂM 2016
HOÃN
TỔNG SỐ... TRƯỜNG HỢP
Hồ sơ gồm:
1- Danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn chấp hành án phạt tù do Tòa án nhân dân tỉnh.. ..lập (sắp xếp theo thứ tự a,b,c…);
2- Biên bản phiên họp xét đề nghị đặc xá của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh;
3- Hồ sơ đề nghị xét đặc xá của người bị kết án (sắp xếp theo thứ tự trong danh sách).
(BỘ DẤU ĐỎ)
hoặc: (BỘ PHOTOCOPPY)
Mẫu số 02. Bìa tập hồ sơ đề nghị đặc xá dùng trong trường hợp tạm đình chỉ. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH……………….. -------------------
HỒ SƠ
ĐỀ NGHỊ XÉT ĐẶC XÁ NĂM 2016
TẠM ĐÌNH CHỈ
TỔNG SỐ... TRƯỜNG HỢP
Hồ sơ gồm:
1- Danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù do Tòa án nhân dân tỉnh.. ..lập (sắp xếp theo thứ tự a,b,c…);
2- Biên bản phiên họp xét đề nghị đặc xá của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh;
3- Hồ sơ đề nghị xét đặc xá của người bị kết án (sắp xếp theo thứ tự trong danh sách).
(BỘ DẤU ĐỎ)
hoặc: (BỘ PHOTOCOPPY)
Mẫu số 03. Danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được hoãn. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÒA ÁN, VIỆN KIỂM SÁT, CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CÔNG AN…… --------------------
DANH SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC HOÃN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ (Danh sách này đã được Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh ……… thống nhất đề nghị xét đặc xá đợt 02/9/2016 theo Biên bản họp xét đặc xá ngày..../..../…..)
Tổng số: …………………….. người
Tội danh
Tình tiết đặc biệt
Ghi chú
TT Họ và tên, năm sinh, giới tính
Nơi đăng ký NKTT
Án phạt
Quyết định hoãn T.H.A, số, ngày
Tòa án ra quyết định hoãn
1
Chứa mại dâm
03 năm
15/ …… 06/12/2014
Bệnh hiểm nghèo: Ung thư gan
TAND tp Cần Thơ
NGUYỄN VĂN A 1950 Nam
Số 141 Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
Lao phổi nặng
2
05 năm
54/QĐ-CA 13-6-2015
Trần Thị B 1949 Nữ
thôn 4, xã Đông Thạnh, huyện Châu Thành, tp
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
TAND tp Hồ Chí Minh
Cần Thơ
3
ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu) ……., ngày tháng năm 2016 ĐẠI DIỆN TÒA ÁN NHÂN DÂN... (Ký tên, ghi rõ chức danh, đóng dấu) ĐẠI DIỆN CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CÔNG AN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu)
Mẫu số 04. Danh sách đề nghị đặc xá cho người bị kết án đang được tạm đình chỉ. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÒA ÁN, VIỆN KIỂM SÁT, CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CÔNG AN…… --------------------
DANH SÁCH ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ (Danh sách này đã được Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh ……… thống nhất đề nghị xét đặc xá đợt 02/9/2016 theo Biên bản họp xét đặc xá ngày..../..../…..)
Tổng số: ……………….. người
Ngày bắt TT Tội danh Ghi chú Án còn lại Tình tiết đặc biệt Họ và tên, năm sinh, giới tính Nơi đăng ký NKTT Đã chấp hành án Quyết định tạm đình chỉ số, ngày Án phạt Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ
1 15/ 06/12/2014 Chứa mại dâm TAND tp Cần Thơ NGUYỄN VĂN A 1950 Nam 27-4- 2011 03 năm 01 năm 07 tháng 01 năm 05 tháng Bệnh hiểm nghèo: Ung thư gan Số 141 Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Phước,
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
2 54/T.H.A 13-6-2015 Trần Thị B 1949 Nữ Có Huân chương 03-7- 2013 08 năm TAND tp Hồ Chí Minh 03 năm 11 tháng 04 năm 01 tháng Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
thôn 4, xã Đông Thạnh, huyện Châu Thành, tp Cần Thơ
3
ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu) ……., ngày tháng năm 2016 ĐẠI DIỆN TÒA ÁN NHÂN DÂN... (Ký tên, ghi rõ chức danh, đóng dấu) ĐẠI DIỆN CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CÔNG AN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu)
Mẫu số 05. Biên bản họp xét đề nghị đặc xá (dùng chung cho cuộc họp của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện, cấp tỉnh). (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ …………………. -------
……………….., ngày ……. tháng …… năm 2016
BIÊN BẢN
HỌP XÉT ĐỀ NGHỊ ĐẶC XÁ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ……………………… ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC HOÃN, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ
I. Thời gian, thành phần cuộc họp:
1. Thời gian:
Hôm nay, vào hồi ….. giờ ….. phút, ngày ….. tháng …… năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân ……………………………………….
2. Thành phần cuộc họp gồm:
1. Đ/c: ……………………………………….., đại diện Tòa án nhân dân …………………..;
2. Đ/c: ………………………………………., đại diện Viện kiểm sát nhân dân ……………;
3. Đ/c: ………………………., đại diện Cơ quan Thi hành án hình sự Công an …………..;
4. Đ/c ……………………….., cán bộ Tòa án nhân dân …………., ghi biên bản cuộc họp.
II. Nội dung cuộc họp:
Tiến hành họp xét đề nghị đặc xá trong trường hợp đặc biệt (đợt 02/9/2016) của Tòa án nhân dân ...đối với người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Cụ thể như sau:
1. Tổng số hồ sơ đưa ra xét đề nghị đặc xá là người bị kết án.
Trong đó, có....trường hợp hoãn và có....trường hợp tạm đình chỉ.
2. Sau khi nghe đ/c…………………… , đại diện Tòa án nhân dân... báo cáo danh sách, hồ sơ đề nghị xét đặc xá đối với các trường hợp người bị kết án đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đợt 02/9/2016. Các thành viên tham gia cuộc họp xem xét từng trường hợp người bị kết án cụ thể theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao.
3. Sau khi xem xét, Tòa án nhân dân..., Viện kiểm sát nhân dân...., Cơ quan Thi hành án hình sự Công an...thống nhất (03 cơ quan đều đồng ý) đề nghị Tòa án nhân dân tối cao trình cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 5 Quyết định số 2230/2016/QĐ-CTN ngày 17/10/2016 của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2016 xét duyệt đối với trường hợp người bị kết án. Trong đó, có......trường hợp người bị kết án đang được hoãn; có....trường hợp người bị kết án đang tạm đình chỉ. Cụ thể như sau:
1). Họ tên người bị kết án: …………………………………………………………………………….. (nêu rõ họ và tên của người bị kết án, năm sinh, nơi cư trú, mức án, tội danh, Tòa án xét xử, được Tòa án nào cho
hoãn (hoặc tạm đình chỉ) mấy lần, thời gian đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ, lý do đề nghị xét đặc xá)....
2). Họ tên người bị kết án: ………………………………………………………………………..
Căn cứ vào Biên bản phiên họp này, các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự .... lập danh sách đề nghị đặc xá chuyển lên Tòa án nhân dân... (Tòa án nhân dân cấp tỉnh để họp xét nếu là phiên họp của 03 cơ quan cấp huyện; chuyển lên Tòa án nhân dân tối cao nếu là phiên họp của 03 cơ quan cấp tỉnh).
Cuộc họp kết thúc vào hồi ….. giờ ….. ngày …./ …./…… và được các cơ quan tham dự cuộc họp nhất trí thông qua biên bản. Biên bản cuộc họp được lập thành 05 bản, mỗi cơ quan giữ 01 bản, 02 bản gửi kèm hồ sơ đề nghị xét đặc xá./.
TÒA ÁN NHÂN DÂN... (Ký tên, ghi rõ chức danh, đóng dấu) VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu) CƠ QUAN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CÔNG AN... (Ký ghi rõ họ tên, chức danh, đóng dấu)
Mẫu số 06. Phiếu đề nghị xét đặc xá dùng trong trường hợp hoãn. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
TAND……………… ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: ……../2016/ĐX ………….., ngày ……. tháng …… năm 2016
PHIẾU ĐỀ NGHỊ XÉT ĐẶC XÁ CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC HOÃN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ Đợt 01 tháng 12 năm 2016
1. Sơ yếu lý lịch người bị kết án:
Họ và tên: …………………………….; ngày, tháng, năm sinh: ………… Giới tính: ………;
Họ tên khác: ………………………………………………………………………………………
Nguyên quán: …………………………………………………………………………………….
Nơi cư trú: …………………………………………………………………………………………
Nơi được tha về: …………………………………………………………………………………
Dân tộc: ……………; Quốc tịch: …………; Tôn giáo: ……………; Trình độ học vấn:…….
Nghề nghiệp trước khi bị bắt: ……………………………………………………………………
Tội danh: ……………………………………………………………………………………………
Ngày bắt: …../ ……/ …….; Án phạt: ……..; Được trừ tạm giam: ……………………………
Theo Bản án số ……. ngày ……/ ……/ ………; của TA ………………………………………
Quyết định T.H.A số ……. ngày ……/ ……/ ……..; của TA ………………………………….
Quyết định hoãn T.H.A số ……. ngày …../ …../ …….; của TA ………………………………
(Ghi đầy đủ các Quyết định hoãn nếu có)
Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại: …….. năm ……… tháng ………. ngày;
* Tiền án: (ghi rõ thời gian, Tòa án nào xử phạt? Tội danh? Mức án?)
* Tiền sự: ………………………………………………………………………………………………
* Hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu:
Hình thức Số tiền Đã thực hiện Chưa thực hiện Ghi chú
Hình phạt bổ sung khác: …………………………………………………………
* Tóm tắt hành vi phạm tội: (Theo bản án)
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………
2. Tình trạng sức khỏe hiện nay: …………………………………………………………….
3. Tình tiết ưu tiên: ………………………………………………………………………………
4. Quan hệ gia đình (Họ tên, năm sinh, nghề nghiệp, chỗ ở của bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con):
- Họ tên bố: …………………………………; Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………….
Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………………………
- Họ tên mẹ: ………………………………… Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………….
Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………………………
- Họ tên vợ hoặc chồng: …………………… Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: …………
Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………………………
- Họ tên con: ………………………………… Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………….
Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………………………
5. Ý kiến của Tòa án đề nghị xét đặc xá: Nêu rõ ý kiến của Tòa án (có thẩm quyền lập hồ sơ) có đủ điều kiện đề nghị xét đặc xá không.
CHÁNH ÁN (Ký tên, đóng dấu)
Mẫu số 07. Phiếu đề nghị xét đặc xá dùng trong trường hợp tạm đình chỉ. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
TAND………………… ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: ……../2016/ĐX ………….., ngày ……. tháng …… năm 2016
PHIẾU ĐỀ NGHỊ XÉT ĐẶC XÁ CHO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐANG ĐƯỢC TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ Đợt 02 tháng 9 năm 2016
1. Sơ yếu lý lịch người bị kết án
Họ và tên: ………………..…………. ; ngày tháng năm sinh:………….. Giới tính: …………
Họ tên khác: ………………………………………………………………………………………..
Nguyên quán: ………………………………………………………………………………………
Nơi cư trú: ………………………………………………………………………………………….
Nơi được tha về: …………………………………………………………………………………..
Dân tộc: ………..; Quốc tịch: ……………; Tôn giáo: …………….; Trình độ học vấn: ……..
Nghề nghiệp trước khi bị bắt: …………………………………………………………………….
Tội danh: ……………………………………………………………………………………………
Ngày bắt: …../ …../ ……; Án phạt: ……..; Được trừ tạm giam: ………………………………
Theo Bản án số …….. ngày …../ …../ …..; của TA ……………………………………………
Quyết định T.H.A số …… ngày …../ ……./ …….; của TA …………………………………….
Đến Trại giam (trại tạm giam) …………… chấp hành án ngày ……../ ……./ ……………….
Quyết định Tạm đình chỉ T.H.A số …….. ngày …../ ……/ …… của TA ……………………..
Thời gian trốn khỏi nơi giam: ………… năm ……….. tháng ……………….. ngày;
Đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù: ....lần = ……. năm …… tháng....... ngày;
Thời gian đã được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù: …… năm …… tháng ….. ngày;
Thời gian đã thực sự chấp hành án phạt tù: ……. năm …… tháng …… ngày;
Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại: ………. năm …….. tháng ………. ngày;
* Tiền án: ……………………….. (ghi rõ thời gian, Tòa án nào xử phạt? Tội danh? Mức án?)
* Tiền sự: ……………………………………………………………………………………………
* Hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu: ……………………………………………………………………
Hình thức Số tiền Đã thực hiện Chưa thực hiện Ghi chú
Hình phạt bổ sung khác: ……………………………………………………………………………
* Tóm tắt hành vi phạm tội: (Theo bản án)
……………………………………………………………………………………………………… …
……………………………………………………………………………………………………… …
……………………………………………………………………………………………………… …
2. Tình trạng sức khỏe hiện nay: ……………………………………………………………….
3. Tình tiết ưu tiên: …………………………………………………………………………………
4. Quan hệ gia đình (Họ tên, năm sinh, nghề nghiệp, chỗ ở của bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con):
- Họ tên bố: ………………………………………; Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………
Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………………………………………………..
- Họ tên mẹ: ………………………………………; Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………
Chỗ ở hiện nay: ………………………………………………………………………………………
- Họ tên vợ hoặc chồng: ………………………; Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………..
Chỗ ở hiện nay: ………………………………………………………………………………………
- Họ tên con: ………………………………………; Năm sinh: ………….; Nghề nghiệp: ………
Chỗ ở hiện nay: ………………………………………………………………………………………
5. Ý kiến của Tòa án đề nghị xét đặc xá: Nêu rõ ý kiến của Tòa án (có thẩm quyền lập hồ sơ) có đủ điều kiện đề nghị xét đặc xá không.
CHÁNH ÁN (Ký tên, đóng dấu)
Mẫu số 08. Đơn xin đặc xá và cam kết dùng trong trường hợp hoãn. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
ĐƠN XIN ĐẶC XÁ VÀ CAM KẾT (Dành cho người bị kết án đang được hoãn chấp hành án phạt tù)
Kính gửi: - Tòa án nhân dân
…………………………………………. - Ủy ban nhân dân phường, xã …………………………
Họ và tên: ……………..…………………..; Năm sinh: ………………… Giới tính: …………
Nơi ĐKNKTT trước khi bị bắt: ………………………………………………………………….
Nơi cư trú hiện nay: ……………………………………………………………………………..
Tội danh: ………………………………………………………………………………………….
Ngày bắt: ……../ ……../ …………………; Mức hình phạt tù: ……………………………….
Đang được hoãn chấp hành án phạt tù theo QĐ số: ……… ngày….. tháng ….. năm …..
của Tòa án nhân dân ……………………………………………………………………………
Thời gian được hoãn chấp hành án phạt tù …………………………………………………..
Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu:
Hình thức Số tiền Đã thực hiện Chưa thực hiện Ghi chú
Hình phạt bổ sung khác: ………………………………………………………………..
Căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn theo Hướng dẫn của Hội đồng tư vấn đặc xá, đề nghị Tòa án nhân dân …………………….. cho tôi được hưởng đặc xá.
Sau khi được đặc xá, tôi xin cam kết:
1. Tiếp tục thực hiện đầy đủ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền (hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu) với số tiền: ……………………..; hình phạt bổ sung khác (nếu có) …………………………………………………………………..
2. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước và các quy định của chính quyền địa phương, tích cực tìm việc làm, ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, không vi phạm pháp luật.
Tôi xin hứa thực hiện đúng nội dung đã cam kết, nếu có gì sai trái, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
Nhận xét của UBND ………….. Ký tên, đóng dấu) Ngày …….. tháng …… năm 2016 Người được hoãn CHAPT (Ký, ghi rõ họ tên)
Mẫu số 09. Đơn xin đặc xá và cam kết dùng trong trường hợp tạm đình chỉ. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
ĐƠN XIN ĐẶC XÁ VÀ CAM KẾT (Dành cho người bị kết án đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù)
Kính gửi: - Tòa án nhân dân
…………………………………………. - Ủy ban nhân dân phường, xã …………………………
Họ và tên: ……………..…………………..; Năm sinh: ………………… Giới tính: …………..
Nơi ĐKNKTT trước khi bị bắt: ……………………………………………………………………
Nơi cư trú hiện nay: ……………………………………………………………………………….
Tội danh: ……………………………………………………………………………………………
Ngày bắt: ……../ ……../ …………………; Mức hình phạt tù: ……………………………….
Đã chấp hành án phạt tù tại Trại giam (Trại tạm giam) …………………………………….
Đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù theo QĐ số: ……… ngày….. tháng ….. năm …..
của Tòa án nhân dân ……………………………………………………………………………
Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu: …………………………………………………………………………………
Hình thức Số tiền Đã thực hiện Chưa thực hiện Ghi chú
Hình phạt bổ sung khác: ………………………………………………………………..
Căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn theo Hướng dẫn của Hội đồng tư vấn đặc xá, đề nghị Tòa án nhân dân …………………….. cho tôi được hưởng đặc xá.
Sau khi được đặc xá, tôi xin cam kết:
1. Tiếp tục thực hiện đầy đủ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền (hoặc bồi thường dân sự, án phí hình sự, án phí dân sự, tiền truy thu) với số tiền: ……………………..;
Hình phạt bổ sung khác (nếu có) ………………………………………………………………
2. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước và các quy định của chính quyền địa phương, tích cực tìm việc làm, ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, không vi phạm pháp luật.
Tôi xin hứa thực hiện đúng nội dung đã cam kết, nếu có gì sai trái, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
Nhận xét của UBND ………….. Ký tên, đóng dấu) Ngày …….. tháng …… năm 2016 Người được tạm đình chỉ CHAPT (Ký, ghi rõ họ tên)
Mẫu số 10. Giấy chứng nhận đặc xá dùng cho Tòa án cấp tỉnh. (Ban hành kèm theo Hướng dẫn số 330/TANDTC-V1 ngày 01/11/2016 của Tòa án nhân dân tối cao).
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA ÁN ……………(2) -------
Số: ……../2016/GCNĐX
SỐ HSTHA
GIẤY CHỨNG NHẬN ĐẶC XÁ ---------------
Tòa án nhân dân …………………………………………………;
Căn cứ Điều 18 Luật Đặc xá năm 2007;
Căn cứ Quyết định Đặc xá số ……………… ngày ……./ ………/ ………………………..
của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
CHỨNG NHẬN:
Họ tên: ……………………………………………… sinh năm ……………..; Giới tính ………
Họ tên khác: ………………………………………………………………………………………..
Nguyên quán: ………………………………………………………………………………………
Nơi ĐKHKTT: ………………………………………………………………………………………
Họ tên bố: ……………………………………………; Họ tên mẹ ………………………………
Dân tộc: ……………………………………………..; Quốc tịch: ……………………………….
Tội danh: ……………………………………………………………………………………………
Ngày bắt: ……/ ……./ ………..; Án phạt: ………………………………………………………
Theo Bản án số ……. ngày ……/ ……/ ……. của TAND …………………………….
Quyết định thi hành án số ……. ngày ……/ ……/ ………. của TAND ………………………
Quyết định hoãn, tạm đình chỉ số ……… ngày …../ …../ ………. của TAND ………………
Được đặc xá kể từ ngày ……./ ……./ ……………………………………………………………
Về cư trú tại …………………………………………………………………………………………
Hình phạt bổ sung phải tiếp tục chấp hành: ……………………………………………………
Người được đặc xá phải trình diện tại UBND xã/phường nơi về cư trú trước ngày ……./…../………………………………………………………………………………………… …..
Lăn tay của người được cấp giấy (Ngón trỏ phải) ….., ngày... tháng... năm.... CHÁNH ÁN (Ký tên, đóng dấu) NGƯỜI ĐƯỢC CẤP GIẤY (Ký, ghi rõ họ tên)
Nơi nhận: - Người được cấp giấy; - TANDTC (để báo cáo); - TA nơi ra QĐ T.H.A (để biết); - VKS cấp huyện/tỉnh; - Công an cấp huyện/tỉnh; - UBND xã/phường (để biết) - Lưu: HSTHA.VP.
- Lập tại: ……. ngày …/…./…
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 19 tháng 01 năm 2017
Số: 06/TANDTC-PC V/v Xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 22-11-2016, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư số 67/2014/QH13, trong đó có bổ sung quy định: “Kinh doanh pháo nổ” vào ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6). Quy định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2017. Như vậy, kể từ ngày 01-01- 2017, theo quy định của pháp luật hiện hành thì pháo nổ được xác định là hàng cấm và hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 thì: “Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”... đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”.
Theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 26-6-2016 thì: “Các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự... có ghi thời điểm “ngày 01 tháng 7 năm 2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành””.
Do đó, đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ được thực hiện kể từ ngày 01-01- 2017[1] đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, thì áp dụng quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 (bao gồm cả quy định về “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”...) và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25-12-2008 để xử lý.
Đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ được thực hiện trước ngày 01-01- 2017, thì hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 26-01-2016 của Tòa án nhân dân tối cao cho đến khi có hướng dẫn mới.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay sau khi nhận được Công văn này cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc để bảo đảm việc xét xử các vụ án tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ đúng quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là trong dịp Tết nguyên đán./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Bộ Công an (để phối hợp); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Bộ Tư pháp (để biết); - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Vụ Tổng hợp (để gửi cho các TA qua email); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
[1] Ngày Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư số 67/2014/QH13 có hiệu lực thi hành.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 21 tháng 02 năm 2017
Số: 33/TANDTC-HTQT V/v tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính
Kính gửi: - Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố
Hồ Chí Minh; - Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Trong đó, quy định tại Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 303 của Luật tố tụng hành chính năm 2015 cho phép Tòa án tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo nhiều phương thức khác nhau, bao gồm: phương thức quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phương thức bưu chính; phương thức thông qua người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc chi nhánh, văn phòng đại diện của đương sự tại Việt Nam; phương thức thông qua cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và phương thức ngoại giao.
Ngày 01/10/2016, Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (sau đây viết tắt là Công ước tống đạt giấy tờ) có hiệu lực với Việt Nam. Công ước này quy định việc tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án và giấy tờ của cơ quan, tổ chức khác từ một nước thành viên Công ước này cho đương sự ở nước thành viên khác của Công ước theo kênh tống đạt chính thức và các kênh tống đạt thay thế khác.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tống đạt văn bản tố tụng theo phương thức quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước tống đạt giấy tờ và phương thức ngoại giao, ngày 19/10/2016, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC “Quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự” (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 12/2016). Thông tư liên tịch này có hiệu lực từ ngày 06/12/2016 và thay thế Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp”.
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các cấp tổ chức phổ biến, quán triệt các nội dung của Thông tư liên tịch số 12/2016 và một số nội dung quan trọng nêu tại Phần I của Công văn này tới toàn thể cán bộ, Thẩm phán thuộc quyền quản lý.
Đồng thời, khi tổ chức phổ biến, quán triệt các nội dung của Thông tư liên tịch số 12/2016, Tòa án nhân dân các cấp cần lưu ý các quy định về tống đạt văn bản tố tụng của Thông tư liên tịch này không thay thế quy định về các phương thức tống đạt tại điểm c, điểm d khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c, điểm d khoản 1 Điều 303 của Luật tố tụng hành chính năm 2015. Do đó, Tòa án nhân dân các cấp cần tham khảo thông tin tại Phần II của Công văn này để thực hiện các quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015. Cụ thể như sau:
I. Đối với Thông tư liên tịch số 12/2016
1. Thông tư liên tịch số 12/2016 được áp dụng đối với việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là người nước ngoài ở nước ngoài; cơ quan, tổ chức nước ngoài ở nước ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo phương thức quy định tại 17 điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, Công ước tống đạt giấy tờ mà Việt Nam là thành viên và phương thức ngoại giao. Cụ thể:
1.1. Tòa án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng theo kênh chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 khi đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ Sở tại 70 nước thành viên của Công ước này.
Danh sách các nước thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ được liệt kê tại Bảng số 1 gửi kèm theo Công văn này.
1.2. Tòa án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng theo kênh chính thức của điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 khi đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ sở tại 18 nước, vùng lãnh thổ sau đây: Liên bang Nga, U-crai- na, Bê-la-rút, Ca-dắc-xtan, Mông Cổ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cu Ba, An-giê-ri, Pháp, Ba Lan, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Séc, Trung Quốc, Xlô-va-ki-a, Lào, Cam-pu-chia và Đài Loan (Trung Quốc).
Tòa án cần lưu ý, hiện nay các nước Liên bang Nga, U-crai-na, Trung Quốc, Séc, Xlô-va-ki-a, Ba Lan, Bê-la-rút, Bun-ga-ri, Pháp, Hung-ga-ri và Ca-dắc-xtan cũng là thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ. Do đó, Tòa án có thể lựa chọn tống đạt cho đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ sở ở các nước này theo kênh chính thức của điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp giữa nước đó với Việt Nam hoặc theo kênh chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016.
1.3. Tòa án thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo phương thức ngoại giao quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 nếu đương sự có nơi cư trú hoặc có trụ sở tại các nước chưa cùng với Việt Nam là thành viên của điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp và Công ước tống đạt giấy tờ.
2. Trường hợp Tòa án có thể áp dụng phương thức tống đạt văn bản tố tụng theo kênh tống đạt chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 và phương thức tống đạt theo đường bưu chính đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hoặc điểm c khoản 1 Điều 303 Luật tố tụng hành chính năm 2015:
2.1. Tòa án nên thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho cho đương sự là người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài theo kênh chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 nếu đương sự cư trú hoặc có trụ sở tại nước thành viên Công ước tống đạt giấy tờ mà nước đó không thu chi phí tống đạt. Tuy nhiên, khi lập văn bản để tống đạt văn bản tố tụng theo kênh chính thức của Công ước tống đạt giấy tờ, Tòa án cần lưu ý, ô số (5) của văn bản lập theo Mẫu số 02 B ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này là yêu cầu tống đạt văn bản theo một phương thức cụ thể mà Tòa án đề nghị nước thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ thực hiện. Do đó, khi Tòa án điền vào ô số (5) của văn bản lập theo Mẫu số 02 B nêu trên, thì các nước thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ mà Tòa án yêu cầu tống đạt sẽ thu chi phí thực hiện. Vì vậy, trong mọi trường hợp, Tòa án chỉ nên điền vào ô số (4) của văn bản lập theo Mẫu số 02 B để được các nước thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ (không thu chi phí tống đạt) thực hiện miễn phí việc tống đạt.
2.2. Đối với các nước thành viên Công ước tống đạt giấy tờ có thu chi phí thực hiện tống đạt, nếu xét thấy mức chi phí tống đạt mà nước đó thu là cao hơn nhiều so với chi phí tống đạt theo đường bưu chính và nước đó không phản đối việc nước thành viên Công ước khác tống đạt theo đường bưu chính, thì Tòa án có thể lựa chọn cách thức tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c khoản 1 Điều 303 Luật tố tụng hành chính năm 2015 để giảm bớt chi phí tống đạt cho đương sự có nghĩa vụ nộp chi phí tống đạt.
Danh sách các nước thành viên của Công ước tống đạt giấy tờ không thu chi phí và có thu chi phí tống đạt, mức thu chi phí tống đạt được liệt kê tại Bảng số 2 và Bảng số 3 gửi kèm theo Công văn này.
3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng để thực hiện yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng và giấy tờ khác của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài do Bộ Tư pháp chuyển đến theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong mọi trường hợp, Tòa án cần phải thực hiện nhanh chóng, có chất lượng, hiệu quả loại yêu cầu này để hạn chế cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam với lý do yêu cầu tống đạt văn bản của nước đó không được Việt Nam thực hiện trong thời hạn hợp lý.
II. Đối với việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015
Ngoài những nội dung cơ bản của Thông tư liên tịch số 12/2016 nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao cung cấp thêm một số thông tin để Tòa án nhân dân các cấp tham khảo khi thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 303 của Luật tố tụng hành chính năm 2015 như sau:
1. Tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho người nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài và cơ quan, tổ chức nước ngoài ở nước ngoài
a) Tòa án nhân dân các cấp được thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c khoản
1 Điều 303 Luật tố tụng hành chính năm 2015 nếu đương sự là người nước ngoài, công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức nước ngoài cư trú hoặc có trụ sở tại các nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính.
b) Người nước ngoài cư trú tại nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính bao gồm: công dân của nước không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính, người không quốc tịch và công dân nước khác cư trú tại nước đó.
Danh sách các nước phản đối và không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính được liệt kê tại Bảng số 4 và Bảng số 5 gửi kèm theo Công văn này.
2. Đối với việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài thông qua Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao soạn thảo Thông tư liên tịch quy định về việc phối hợp giữa Tòa án nhân dân và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc tống đạt, thông báo, niêm yết công khai văn bản tố tụng cho đương sự theo quy định tại Điều 474, Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 303 của Luật tố tụng hành chính năm 2015. Trong khi Thông tư liên tịch này chưa được ban hành, Tòa án nhân dân các cấp thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài theo đường bưu chính đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hoặc điểm c khoản 1 Điều 303 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Trong trường hợp Tòa án không thể thực hiện được việc tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính, thì các Tòa án phải báo cáo ngay bằng văn bản với Tòa án nhân dân tối cao để Tòa án nhân dân tối cao thống nhất phương án giải quyết với Bộ Ngoại giao.
3. Chi phí tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho đương sự là người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài
3.1. Người có nghĩa vụ chịu chi phí tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho người nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài; cơ quan tổ chức nước ngoài ở nước ngoài là đương sự được quy định tại Điều 152, Điều 153 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 354, Điều 355 của Luật tố tụng hành chính năm 2015.
3.2. Chi phí tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính bao gồm:
a) Chi phí trả cho tổ chức bưu chính trong nước để Tòa án gửi văn bản tố tụng ra nước ngoài bằng dịch vụ bưu phẩm bảo đảm quốc tế có ký nhận của người nhận;
b) Chi phí dịch, công chứng bản dịch văn bản tố tụng và văn bản khác (nếu có) ra ngôn ngữ chính thức của nước nơi đương sự là người nước ngoài cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở hoặc ngôn ngữ khác được nước này chấp nhận.
4. Hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài
4.1. Hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài bao gồm:
a) Văn bản tố tụng cần được tống đạt cho đương sự;
b) Văn bản thông báo cho đương sự cung cấp lời khai, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án (nếu có);
c) Văn bản mà đương sự ở trong nước đề nghị Tòa án hỗ trợ gửi cho đương sự ở nước ngoài (nếu có).
4.2. Số lượng hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng là 02 bộ, trong đó Tòa án lưu 01 bộ vào hồ sơ vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Khi lập hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài, Tòa án phải ghi đầy đủ, chính xác họ, tên, địa chỉ của đương sự là cá nhân, tên gọi, địa chỉ trụ sở của đương sự là cơ quan, tổ chức theo giấy tờ, tài liệu xác thực thông tin nêu trên do người khởi kiện, người yêu cầu cung cấp cho Tòa án. Trong mọi trường hợp, Tòa án không được phiên âm ra tiếng Việt đối với họ, tên, địa chỉ ghi bằng tiếng nước ngoài của đương sự. Các văn bản nêu tại điểm a và điểm b Tiểu mục 4.1 Mục 4 Phần II của Công văn này do người có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính ký.
5. Dịch hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài ở nước ngoài
Số lượng hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cần được dịch là 02 bộ, trong đó Tòa án lưu 01 bộ vào hồ sơ vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Tòa án có trách nhiệm dịch hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng tại tổ chức dịch thuật theo đúng ngôn ngữ được liệt kê tại Bảng số 6 gửi kèm theo Công văn này. Chi phí dịch, công chứng bản dịch do người có nghĩa vụ chịu chi phí tống đạt trả trực tiếp cho tổ chức dịch thuật hoặc do Tòa án trả từ khoản tiền tạm ứng mà người có nghĩa vụ chịu chi phí tống đạt nộp cho Tòa án.
6. Gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính
Tòa án có trách nhiệm gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo dịch vụ bưu phẩm bảo đảm quốc tế có ký nhận của người nhận. Chi phí gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng do người có nghĩa vụ chịu chi phí tống đạt nêu tại Mục 3 Phần II của Công văn này thanh toán trực tiếp với tổ chức bưu chính trong nước hoặc do Tòa án trả từ khoản tiền tạm ứng mà người có nghĩa vụ chịu chi phí tống đạt nộp cho Tòa án.
Khi nhận được Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân các cấp tổ chức quán triệt Thông tư liên tịch số 12/2016 trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm thực hiện nghiêm túc và thống nhất.
Trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch này, nếu có vướng mắc, Tòa án nhân dân các cấp phản ánh bằng văn bản về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế, 262 Đội Cấn, Hà Nội) để Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời.
Đối với thông tin tại Phần II của Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao cung cấp thêm để Tòa án nhân dân các cấp nghiên cứu, tham khảo khi thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm c khoản 1 Điều 303 của Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Trường hợp cần thêm thông tin chi tiết, Tòa án nhân dân các cấp có thể liên hệ với Phòng nghiên cứu pháp luật quốc tế của Vụ Hợp tác quốc tế, Tòa án nhân dân tối cao thông qua hộp thư điện tử: vkhxx.quocte@toaan.gov.vn hoặc điện thoại: 04.37623036; 0976437814 (đồng chí Lê Mạnh Hùng)./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Thúy Hiền Nơi nhận - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c PCA TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Các Vụ Giám đốc, Kiểm tra I, II, III, Vụ PC và QLKH, TANDTC (để biết); - Cổng thông tin điện tử của TANDTC (để đăng); - Tạp chí Tòa án nhân dân (để đăng); - Lưu: VT, VHTQT (TANDTC).
BẢNG SỐ 1
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1. An-ba-ni (Albania) 37. Lúc-xăm-bua (Luxembourg)
2. 38. Lít-va (Lithuania) An-ti-goa và Bác-bu-đa (Antigua and Barbuda)
39. Liên bang Nga (Russian Federation) 3. Ác-mê-ni-a (Armenia)
4. Ai-xơ-len (Iceland) 40. Ma-la-uy (Malawi)
5. Ai-len (Ireland) 41. Ma-rốc (Morocco)
6. Ác-hen-ti-na (Argentina) 42. Môn-đô-va (Moldova)
7. Ả Rập Ai Cập (Egypt) 43. Ma-xê-đô-ni-a (Macedonia)
8. Ấn Độ (India) 44. Man-ta (Malta)
9. Bun-ga-ri (Bulgaria) 45. Mê-hi-cô (Mexico)
10. Ba Lan (Poland) 46. Mô-na-cô (Monaco)
11. Bồ Đào Nha (Portugal) 47. Môn-tê-nê-grô (Montenegro)
12. Ba-ha-mát (Bahamas) 48. Na Uy (Norway)
13. Bác-ba-đốt (Barbados) 49. Nhật Bản (Japan)
14. Bê-la-rút (Belarus) 50. Ốt-xtrây-li-a (Australia)
15. Bỉ (Belgium) 51. Pa-ki-xtan (Pakistan)
16. Bê-li-xê (Belize) 52. Pháp (France)
17. 53. Ru-ma-ni (Romania) Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina)
54. Síp (Cyprus) 18. Bốt-xoa-na (Botswana)
19. Ca-na-đa (Canada) 55. Séc (Czech Republic)
20. Cô-lôm-bi-a (Colombia) 56. Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
21. Cốt-xta-ri-ca (Costa Rica) 57. Tây Ban Nha (Spain)
22. Ca-dắc-xtan (Kazakhstan) 58. Thụy Điển (Sweden)
23. Cô-oét (Kuwait) 59. Trung Quốc (China)
24. Cờ-roát-ti-a (Croatia) 60. Thụy sỹ (Switzerland)
25. Đức (Germany) 61. U-crai-na (Ukraine)
26. Đan Mạch (Denmark) 62. Vương quốc Anh (United Kingdom)
27. Ex-tô-ni-a (Estonia) 63. Việt Nam
28. Hà Lan (Netherlands) 64. Vê-nê-du-ê-la (Venezuela)
29. Hàn Quốc (Korea) 65. Xây-sen (Seychelles)
30. Phần Lan (Finland) 66. Xlô-ve-ni-a (Slovenia)
31. Hy Lạp (Greece) 67. Xlô-va-ki-a (Slovakia)
32. Hung-ga-ri (Hungary) 68. Xéc-bi-a (Serbia)
33. Hoa Kỳ (United States of America) 69 Xanh-vin-xen và Grê-na-din (Saint Vincent and the Grenadines)
34. I-xra-en (Israel) 70. Xan-ma-ri-nô (San Marino)
35. I-ta-li-a (Italy) 71. Xri-lan-ca (Sri Lanka)
36. Lát-vi-a (Latvia)
(Danh sách này được dịch từ tài liệu chính thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế (https://www.hcch.net/en/instruments).
BẢNG SỐ 2
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ KHÔNG THU CHI PHÍ TỐNG ĐẠT
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1 Ác-hen-ti-na (Argentina) 16 Cô-oét (Kuwait)
17 Lát-vi-a (Latvia) 2 Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina)
18 Liên bang Nga (Russian Federation) 3 Bun-ga-ri (Bulgaria)
4 Trung Quốc (China) 19 Xlô-ve-ni-a (Slovenia)
5 Trung Quốc (Ma Cao) 20 Tây Ban Nha (Spain)
6 Cờ-roát-ti-a (Croatia) 21 Xri-lan-ca (Sri Lanka)
7 Séc (Czech Republic) 22 Thụy Điển (Sweden)
8 Đan Mạch (Denmark) 23 Thụy sỹ (Switzerland)
9 Phần Lan (Finland) 24 Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
10 Đức (Germany) 25 U-crai-na (Ukraine)
11 Hung-ga-ri (Hungary) 26 Vương quốc Anh (United Kingdom)
12 Ấn Độ (India) 27 Vê-nê-du-ê-la (Venezuela)
13 Ai-len (Ireland) 28 Ba Lan (Poland)
14 I-xra-en (Israel) 29 Na Uy (Norway)
15 I-ta-li-a (Italy) 30 Xlô-va-ki-a (Slovakia)
Ghi chú: Các nước nêu trên không thu chi phí tống đạt nếu thực hiện việc tống đạt theo phương thức thông thường được quy định trong pháp luật của các nước này.
Các nước: Lát-vi-a, Xlô-va-ki-a, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Vương Quốc Anh không thu chi phí thực hiện việc tống đạt, trừ trường hợp Việt Nam yêu cầu tống đạt theo một phương thức cụ thể khác với quy định của pháp luật các nước này.
(Danh sách này được dịch từ tài liệu chính thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế (https://www.hcch.net/en/instruments).
BẢNG SỐ 3
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ CÓ THU CHI PHÍ TỐNG ĐẠT
TT GHI CHÚ TÊN NƯỚC MỨC THU CÁCH THANH TOÁN
1 Xan-ma-ri-nô (San 50 Euro Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt Marino)
Trả trước vào tài khoản ngân hàng Ufficio Registro e Ipoteche della Repubblica di San Marino Via 28 Luglio n. 196 47893 Borgo Maggiore Repubblica di San Marino SWIFT CODE: ICSMSMSMXXX IBAN SM44 A032 2509 8000 0001 0005 403
2 Hoa Kỳ (United 95 Đô la Mỹ Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt States)
Ghi chú: tên cá nhân hoặc tên doanh nghiệp cần được tống đạt
Trả trước vào tài khoản của Công ty ABC Tên ngân hàng: Wells Fargo Bank Số tài khoản: 2007107119 Swift/IBAN Code: WFBIUS6S
3 Ba-ha-mát (Bahamas)
80 Đô la Ba- ha-mát; nếu địa chỉ sai phải tìm kiếm: 160 Đô la Ba-ha-mát.
4 Ca-na-đa (Canada) 100 Đô la Ca- Trả trước bằng tiền mặt hoặc séc na-đa
5 Lít-va (Lithuania) 110 Euro
Số tài khoản: LT92 4010 0424 0031 5815, AB “DnB bankas”, bank code 40100
Trả trước vào tài khoản ngân hàng của Chamber of Judicial Officers of Lithuania Địa chỉ: Konstitucijos Ave. 15, LT-09319 Vilnius, Republic of Lithuania
6 Síp (Cyprus) 21 Euro Số tài khoản: 6001017; IBAN: Trả trước vào tài khoản ngân hàng của
Bộ Tư pháp và Trật tự công:
CY21 0010 0001 0000 0000 0600 1017 Swift Code: CBCYCY2N
7 Hy Lạp (Greece) 50 Euro Trả trước vào tài khoản ngân hàng
8 Ốt-xtrây-li-a (Australia)
65 Đô la Úc Tiểu bang New South Wales Trả sau cho Tòa án tối cao tiểu bang New South Wales
Trả sau Tiểu bang Victoria 32 đô la Úc
120 Đô la Úc Trả sau Tiểu bang miền Tây (Western Australia)
289 Đô la Úc Trả sau Vùng lãnh thổ Thủ đô
Trả sau
4 tiểu bang và vùng lãnh thổ còn lại của Ốt-xtrây-li-a
9 E-xtô-ni-a 30 - 60 Euro Trả sau
Chỉ thu chi phí này trong trường hợp việc tống đạt do Thừa phát lại thực hiện
10 Pháp (France) 50 Euro Trả trước
Chỉ thu chi phí này trong trường hợp việc tống đạt do Thừa phát lại thực hiện
11 Nhật Bản (Japan) Trả sau
1800 Yên Nhật đến 4200 Yên Nhật
Chỉ thu chi phí này trong trường hợp việc tống đạt do nhân viên được Tòa án ủy quyền thực hiện
12 Lúc-xăm-bua (Luxembourg)
Chỉ thu chi phí này trong trường hợp việc tống đạt do Thừa phát lại thực hiện 50 Euro Chưa kể chi phí đi lại và tiền thuế VAT 12%.
Trả sau 13 Xlô-va-ki-a (Slovakia)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp việc tống đạt bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu
của nước đề nghị tống đạt văn bản.
14 Thụy Điển (Sweden)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp tống đạt bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu của nước đề nghị tống đạt văn bản
15 Bỉ (Belgium) Trả sau
Chỉ thu chi phí trong trường hợp việc tống đạt phải thuê nhân công tống đạt.
16 Trung Quốc
Thu chi phí theo nguyên tắc có đi có lại.
17 Hàn Quốc (Korea)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp phải thuê nhân công hoặc thực hiện bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu của nước đề nghị tống đạt văn bản
18 Lát-vi-a (Latvia) Trả sau
Chỉ thu chi phí trong trường hợp thực hiện bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu của nước đề nghị tống đạt văn bản.
19 Mê-hi-cô (Mexico)
20 Thụy sỹ (Switzerland)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp thực hiện bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu của nước đề nghị tống đạt văn bản.
21 Vương quốc Anh (United Kingdom)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp thực hiện bằng phương thức cụ thể theo yêu cầu của nước đề nghị tống đạt văn bản.
22 Mô-na-cô (Monaco) Chỉ thu chi phí trong
trường hợp việc tống đạt do Thừa phát lại thực hiện
23 Hà Lan (Netherlands)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp việc tống đạt do Thừa phát lại thực hiện
24 Bồ Đào Nha (Portugal)
Chỉ thu chi phí trong trường hợp việc tống đạt do người đại diện hoặc luật sư thực hiện
(Danh sách này được dịch từ tài liệu chính thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế (https://www.hcch.net/en/instruments).
BẢNG SỐ 4
DANH SÁCH CÁC NƯỚC PHẢN ĐỐI VIỆC TỐNG ĐẠT THEO ĐƯỜNG BƯU CHÍNH CHO ĐƯƠNG SỰ CƯ TRÚ HOẶC CÓ TRỤ SỞ TẠI NƯỚC ĐÓ
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1. Bun-ga-ri (Bulgaria) 16. Cô-oét (Kuwait)
2. Hung-ga-ri (Hungary) 17. Lít-va (Lithuania)
3. Trung Quốc (China) 18. Man-ta (Malta)
4. Séc (Czech Republic) 19. Mê-hi-cô (Mexico)
5. Xlô-va-ki-a (Slovakia) 20. Mô-na-cô (Monaco)
6. Ba Lan (Poland) 21. Môn-tê-nê-grô (Montenegro)
7. Liên bang Nga (Russian Federation) 22. Na Uy (Norway)
8. U-crai-na (Ukraine) 23. Môn-đô-va (Moldova)
9. Ác-hen-ti-na (Argentina) 24. Xan-ma-ri-nô (San Marino)
10. Cờ-roát-ti-a (Croatia) 25. Xéc-bi-a (Serbia)
11. Ả Rập Ai Cập (Egypt) 26. Xri-lan-ca (Sri Lanka)
12. Đức (Germany) 27. Thụy sỹ (Switzerland)
13 Hy Lạp (Greece) 28. Ma-xê-đô-ni-a (Macedonia)
14. Ấn Độ (India) 29. Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
15. Hàn Quốc (Korea) 30. Vê-nê-du-ê-la (Venezuela).
(Danh sách này được dịch từ tài liệu chính thức đăng tải trên trang thông tin điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế (https://www.hcch.net/en/instruments).
BẢNG SỐ 5
DANH SÁCH CÁC NƯỚC KHÔNG PHẢN ĐỐI VIỆC TỐNG ĐẠT THEO ĐƯỜNG BƯU CHÍNH CHO ĐƯƠNG SỰ CƯ TRÚ HOẶC CÓ TRỤ SỞ TẠI NƯỚC ĐÓ
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1. An-ba-ni (Albania) 23. I-xra-en (Israel)
2. 24. I-ta-li-a (Italy) An-ti-goa và Bác-bu-đa (Antigua and Barbuda)
25. Nhật Bản (Japan) 3. Ác-mê-ni-a (Armenia)
4. Ốt-xtrây-li-a (Australia) 26. Ca-dắc-xtan (Kazakhstan)
5. Ba-ha-mát (Bahamas) 27 Lát-vi-a (Latvia)
6. Bác-ba-đốt (Barbados) 28 Lúc-xăm-bua (Luxembourg)
7. Bê-la-rút (Belarus) 29. Ma-la-uy (Malawi)
8. Bỉ (Belgium) 30. Ma-rốc (Morocco)
9. Bê-li-xê (Belize) 31. Hà Lan (Netherlands)
10. 32. Pa-ki-xtan (Pakistan) Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina)
33. Bồ Đào Nha (Portugal) 11. Bốt-xoa-na (Botswana)
12. Ca-na-đa (Canada) 34. Ru-ma-ni (Romania)
13. Cô-lôm-bi-a (Colombia) 35. Xanh-vin-xen và Grê-na-din (Saint Vincent and the Grenadines)
14. Hồng Kông (Trung Quốc) 36. Xây-sen (Seychelles)
15. Ma Cao (Trung Quốc) 37. Xlô-ve-ni-a (Slovenia)
16. Síp (Cyprus) 38. Tây Ban Nha (Spain)
17. Đan Mạch (Denmark) 39. Thụy Điển (Sweden)
18. Ex-tô-ni-a (Estonia) 40. Vương quốc Anh (United Kingdom)
19. Phần Lan (Finland) 41. Hoa Kỳ (United States of America).
20. Pháp (France)
21. Ai-xơ-len (Iceland)
22. Ai-len (Ireland)
BẢNG SỐ 6
DANH SÁCH NGÔN NGỮ CÁC NƯỚC KHÔNG PHẢN ĐỐI VIỆC TỐNG ĐẠT THEO ĐƯỜNG BƯU CHÍNH (DÙNG ĐỂ DỊCH HỒ SƠ TỐNG ĐẠT)
TÊN NƯỚC GHI CHÚ TT NGÔN NGỮ CHÍNH THỨC
NGÔN NGỮ ĐƯỢC CHẤP NHẬN
1. An-ba-ni (Albania) Tiếng An-ba-ni
2. Tiếng Anh An-ti-goa và Bác-bu-đa (Antigua and Barbuda)
Tiếng Ác-mê-ni-a 3. Ác-mê-ni-a (Armenia)
4. Ốt-xtrây-li-a (Australia) Tiếng Anh
5. Ba-ha-mát (Bahamas) Tiếng Anh
6. Bác-ba-đốt (Barbados) Tiếng Anh
7. Bê-la-rút (Belarus) Tiếng Bê-la-rút và tiếng Nga
8. Bỉ (Belgium) Tiếng Hà Lan, Pháp và Đức
9. Bê-li-xê (Belize) Tiếng Anh và Tây Ban Nha
10. Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina) Tiếng Croatia, Xéc-bi, Bô- xni-a
Tiếng Anh 11. Bốt-xoa-na (Botswana)
12. Ca-na-đa (Canada) Tiếng Anh, tiếng Pháp
Tỉnh Quê- bếch (Quebec): tiếng Pháp
13. Cô-lôm-bi-a (Colombia) Tiếng Tây Ban Nha
14. Hồng Kông (Trung Quốc ) Tiếng Trung Quốc (Quảng Đông và Quan Thoại), tiếng Anh
15. Ma Cao (Trung Quốc ) Tiếng Trung Quốc (Quảng Đông) Tiếng Bồ Đào Nha, Tiếng Anh
Tiếng Anh 16. Síp (Cyprus) Tiếng Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ
Tiếng Đan Mạch 17. Đan Mạch (Denmark)
18. Ex-tô-ni-a (Estonia) Tiếng E-xtô-ni-a
19. Phần Lan (Finland) Tiếng Phần Lan
20. Pháp (France) Tiếng Pháp
21. Ai-xơ-len (Iceland) Tiếng Ai-xơ-len Tiếng Anh và Đức
Tiếng Anh và tiếng Ai-len 22. Ai-len (Ireland)
23. I-xra-en (Israel) Tiếng Anh Tiếng Do Thái, tiếng Ả- rập
Tiếng I-ta-li-a 24. I-ta-li-a (Italy)
25. Nhật Bản (Japan) Tiếng Nhật
26. Ca-dắc-xtan (Kazakhstan) Tiếng Ca-dắc Tiếng Nga
27 Lát-vi-a (Latvia) Tiếng Lát-vi-a
28 Lúc-xăm-bua (Luxembourg) Tiếng Anh Tiếng Lúc-xăm-bua, Pháp, Đức
Tiếng Anh và Chichewa 29. Ma-la-uy (Malawi)
30. Ma-rốc (Morocco) Tiếng A-rập Tiếng Béc- be và tiếng Pháp
Tiếng Anh Tiếng Hà Lan 31. Hà Lan (Netherlands)
Tiếng Anh 32. Pa-ki-xtan (Pakistan) Tiếng U-đu
33. Bồ Đào Nha (Portugal) Tiếng Bồ Đào Nha
34. Ru-ma-ni (Romania) Tiếng Ru-ma-ni
Tiếng Anh 35. Tiếng Pháp Xanh-vin-xen và Grê-na-đin (Saint Vincent and the Grenadines)
Tiếng Anh, tiếng Pháp 36. Xây-sen (Seychelles)
37. Xlô-ve-ni-a (Slovenia) Tiếng Xlô-ven
38. Tây Ban Nha (Spain) Tiếng Tây Ban Nha
39. Thụy Điển (Sweden) Tiếng Thụy Điển Tiếng Anh
Tiếng Anh 40. Vương quốc Anh (United Kingdom)
Tiếng Anh 41. Hoa Kỳ (United States of America).
Danh sách này được lập từ thông tin chính thức tại Cổng thông tin điện tử của Chính phủ (www.chinhphu.vn) và Bộ Ngoại giao (www.mofa.gov.vn).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 01/2017/GĐ-TANDTC Hà Nội, ngày 07 tháng 4 năm 2017
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi:- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời gian chuẩn bị và tại Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2017 (từ ngày 12 đến ngày 14-01-2017) các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp đề nghị Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề vướng mắc về nghiệp vụ. Sau đây là giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao:
I. VỀ HÌNH SỰ
1. Trường hợp 01 người bị kết án về tội đánh bạc với số tiền là 4.500.000 đồng. Sau đó, tuy chưa được xóa án tích nhưng người này lại tiếp tục đánh bạc với số tiền 262.000 đồng nên bị kết án 04 tháng tù về tội đánh bạc (cả hai lần bị kết án đều trước ngày 09-12-2015). Nếu người này chưa chấp hành hình phạt thì có được miễn chấp hành hình phạt hay không?
Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: người có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị xử lý hình sự. Như vậy, cấu thành tội phạm của tội đánh bạc trong trường hợp này theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 không thay đổi so với Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999. Thời điểm bị xét xử lần hai về tội đánh bạc (trước ngày 09-12-2015), người phạm tội bị xác định là có tiền án về tội đánh bạc là đúng. Do đó, trong trường hợp này họ không được miễn chấp hành hình phạt.
2. Người bị kết án thuộc trường hợp được miễn chấp hành hình phạt nhưng sau ngày 01-8- 2016 (ngày Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hiệu lực thi hành) họ đã chấp hành xong hình phạt chính nhưng chưa chấp hành hoặc đã chấp hành được một phần hình phạt bổ sung là phạt tiền thì có được ra quyết định miễn chấp hành riêng về phần hình phạt bổ sung là phạt tiền hay không?
Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 5 Điều 6 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số nội dung sau:
“a) Chỉ miễn chấp hành hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) đối với các trường hợp quy định tại điểm d, điểm đ khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị quyết này; đối với các vấn đề khác, như: trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng, án phí hình sự; án phí dân sự... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thi hành”,
Như vậy, nếu trường hợp chưa chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Nếu đã chấp hành xong hình phạt chính nhưng chưa chấp hành hình phạt bổ sung thì Tòa án ra quyết định miễn chấp hành hình phạt bổ sung. Lưu ý là các nghĩa vụ khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng, án phí hình sự, án phí dân sự... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thi hành.
3. Đối với tội “Buôn lậu”, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định số lượng vật phạm pháp làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng Bộ luật hình sự năm 2015 lại quy định giá trị bằng tiền. Vậy, đối với vụ án Viện kiểm sát đã truy tố theo điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 và chuyển hồ sơ cho Tòa án giải quyết (trước thời điểm có Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015) thì có phải định giá tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự không? Cơ quan nào yêu cầu định giá? Trong trường hợp không định giá được thì đường lối giải quyết vụ án như thế nào?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2016 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự, các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “quy mô lớn’' đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29-6-2016 của Quốc hội thì: lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015 từ ngày 01-7-2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành; các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 có ghi thời điểm “ngày 01-7-2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành”.
Như vậy, đối với vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố theo điểm đ khoản 2 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 1999 (hàng cấm có số lượng rất lớn) và hồ sơ vụ án đã chuyển cho Tòa án giải quyết trước ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì không định giá tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự mà phải xác định hàng cấm có số lượng rất lớn theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để xét xử.
4. Tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu như thế nào?
Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
- Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Tòa án chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 khi có đủ 02 yếu tố “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc ngược lại phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng lần phạm tội này không phải là phạm tội lần đầu thì không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015) để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
5. Khi quyết định miễn chấp hành hình phạt chính (không phải là hình phạt tiền), Tòa án có được quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền chưa chấp hành hoặc phần hình phạt bổ sung là hình phạt tiền còn lại chưa chấp hành hay không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật hình sự năm 1999 (khoản 5 Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015) thì: “Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ẩm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại”. Như vậy, mỗi loại hình phạt pháp luật đều có quy định các điều kiện miễn chấp hành hình phạt khác nhau. Do đó, đối với người bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng chưa chấp hành hoặc chưa chấp hành xong thì Tòa án phải căn cứ vào điều kiện miễn chấp hành hình phạt tiền để quyết định có cho miễn chấp hành hình phạt hay không chứ không căn cứ vào việc miễn chấp hành hình phạt chính.
6. Theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì số tiền của người chơi để, cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ) hoặc là tổng số tiền mà họ đã bõ ra để mua số đề, cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ), Tuy nhiên, thực tế các chủ đề thường thu hút con bạc bằng cách trừ tiền hoa hồng cho những người chơi đề khi họ ghi đề. Vì vậy, dẫn đến tình
trạng số tiền ghi trên tờ phơi sẽ cao hơn số tiền mà người chơi đề phải bỏ ra để mua số đề; số tiền mà chủ đề nhận được từ người chơi sẽ thấp hơn số tiền ghi trên tờ phơi. Trong trường hợp này, xác định số tiền dùng để đánh bạc là số tiền ghi trên tờ phơi hay là số tiền mà người chơi đề thực tế đã bỏ ra?
Hiện nay, việc xác định số tiền dùng để đánh bạc (đánh đề hoặc cá độ) vẫn được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm a, b mục 5.1 khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22- 10-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, số tiền của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ) hoặc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ (trong trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ). Như vậy, số tiền mà họ đã bỏ ra không chỉ là số tiền thực tế họ đưa cho người ghi đề, ghi cá độ mà phải là số tiền ghi trên tờ phơi hoặc giấy tờ khác chứng minh việc đánh bạc trái phép.
7. Trong vụ án có đồng phạm, sau khi chiếm đoạt được tài sản, các bị cáo đã bán để chia nhau. Trong quá trình điều tra, một bị cáo bồi thường toàn bộ cho người bị hại nhưng không yêu cầu các bị cáo khác hoàn trả thì Tòa án có tịch thu của các bị cáo khác số tiền đã chiếm đoạt để sung vào ngân sách nhà nước hay không? Trường hợp bị cáo đã bồi thường chưa yêu cầu giải quyết trách nhiệm liên đới bồi thường đối với các bị cáo khác trong cùng vụ án thì xử lý thế nào?
Theo quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015) thì những người gây thiệt hại trong vụ án có đồng phạm phải liên đới bồi thường. Một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.
Trong trường hợp nêu trên, nếu một bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra nhưng sau đó không yêu cầu các đồng phạm khác hoàn trả số tiền mà mình đã bồi thường thay thì khi xét xử Tòa án phải giải thích cho bị cáo biết quyền yêu cầu các bị cáo khác hoàn trả phần tài sản mà bị cáo đã bồi thường thay. Nếu bị cáo vẫn không thực hiện quyền yêu cầu thì Tòa án ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, không buộc các bị cáo khác phải hoàn trả, đồng thời cũng không tịch thu sung vào ngân sách nhà nước khoản tiền thuộc trách nhiệm bồi thường của các bị cáo khác.
Trường hợp bị cáo đã bồi thường chưa yêu cầu giải quyết trong cùng vụ án thì sau này nếu có yêu cầu sẽ giải quyết thành vụ án dân sự khác.
8. Dấu hiệu “hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân” quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 được hiểu như thế nào?
Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015) được tách ra từ khoản 3 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội “Giết người”, trong đó nội dung quy định không có nhiều thay đổi.
Tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29-11-1986, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
“Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó. Đây là khung hình phạt giảm nhẹ (khoản 3).
- Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là tội phạm. Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết người có thể được xem xét là trường hợp phòng vệ chính đáng (theo Điều 13) hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đảng (theo Điều 102).
Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh và được xử lý theo khoản 3 Điều 101. Thí dụ: hai anh em đồng hao ở chung nhà bố mẹ vợ, người anh thường xuyên làm nhục thô bạo và trắng trợn vu khống người em, đến thời điểm nào đó lại lăng nhục người em nên người anh bị em giết”.
Mặc dù Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP nêu trên là văn bản hướng dẫn Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào khác có nội dung hướng dẫn mới về quy định này. Do đó, các Tòa án vẫn có thể vận dụng hướng dẫn này để giải quyết cho đến khi có hướng dẫn mới của Tòa án nhân dân tối cao.
9. Theo nội dung tại mục 1 Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao thì kể từ ngày 01-7-2016 mới được áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội thì những quy định có lợi cho người phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015 là kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố (ngày 09-12-2015). Như vậy, thời điểm áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội theo nội dung tại mục 1 Công văn số 276/TANDTC-PC nêu trên có mâu thuẫn với quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 không?
Nội dung này đã được Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại Công văn số 301/TANDTC-PC ngày 07-10-2016. Theo đó, chỉ có 08 trường hợp được áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội kể từ ngày 09-12-2015 (trong đó có 06 trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27-11-2015 của Quốc hội và 02 trường hợp hướng dẫn tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao); các quy định khác có lợi cho người phạm tội theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 và được thống kê tại Danh mục kèm theo Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao được áp dụng kể từ ngày 01-7-2016.
10. Hiện nay, việc áp dụng quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 về đương nhiên được xóa án tích có hai quan điểm khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính mà không phạm tội trong thời gian quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015, còn các hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án họ có thể thực hiện bất kỳ lúc nào, chỉ cần trước ngày phạm tội mới.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu kể từ ngày chấp hành xong toàn bộ bản án mà không phạm tội mới trong thời gian quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong hai quan điểm trên thì quan điểm nào đúng?
Khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn...”. Từ khi chấp hành xong bản án ở đây được hiểu là chấp hành xong tất cả hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Tuy nhiên, quy định này đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015, theo đó thời điểm để tính đương nhiên được xóa án tích là kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án.
So với quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1999, quy định tại khoản 1 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 là quy định mới có lợi cho người phạm tội, được áp dụng kể từ ngày 01-7- 2016. Như vậy, trong hai quan điểm trên, quan điểm thứ nhất là đúng, người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, cần lưu ý điều kiện để người bị kết án đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự năm 2015 không thay đổi so với Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1999.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ, THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhưng thời hạn tạm giam bị cáo theo Lệnh tạm giam ở giai đoạn chuẩn bị xét xử đã hết,
trong khi hồ sơ vụ án rất dày, có nhiều tài liệu, cần phải có thời gian kiểm đếm mới có thể bàn giao cho Viện kiểm sát. Vậy trong trường hợp này, Hội đồng xét xử có được ra Lệnh tạm giam mới đối với bị cáo không? Nếu được thì thời hạn tạm giam là bao nhiêu ngày?
Theo quy định tại Điều 177 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết; nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”
“Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này”.
Như vậy, Hội đồng xét xử chỉ được ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa hoặc ra quyết định bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để bảo đảm việc thi hành án. Đối với trường hợp Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung là đã kết thúc phiên tòa nên Hội đồng xét xử không có quyền tạm giam bị cáo để hoàn thành việc xét xử. Hội đồng xét xử cũng không có quyền bắt tạm giam bị cáo để phục vụ cho việc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Sau khi Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì quyết định này (kèm hồ sơ vụ án) phải được gửi cho Viện kiểm sát có thẩm quyền. Cho nên, việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn sau khi Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung là thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Để tránh bị động trong việc kiểm đếm hồ sơ trả cho Viện kiểm sát, khi xây dựng kế hoạch xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải dự kiến được những công việc cần phải làm và chủ động phối hợp với Viện kiểm sát để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
2. Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về giới hạn của việc xét xử có quy định Tòa án có quyền xét xử khoản khác nặng hơn với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật Vậy trong quyết định đưa vụ án ra xét xử có phải ghi rõ khoản nặng hơn mà Tòa án sẽ xét xử không? Nếu không ghi rõ thì có bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo không?
Trường hợp nêu trên, Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về khoản nặng hơn. Trong trường hợp này, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố và điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nếu Quyết định đưa vụ án ra xét xử không ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố và điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Cần lưu ý thêm, theo quy định tại Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì “Trường hợp thấy cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Do đó, khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án phải ghi rõ tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố và tội danh, điều, khoản của Bộ luật hình sự mà Tòa án sẽ xét xử.
3. Trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì thủ tục đề nghị xem xét lại quyết định này được thực hiện như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (khoản 1 Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015) thì: “Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên”. Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định về việc kháng cáo đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự. Do đó, trường hợp cá nhân, tổ chức cho rằng quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể đề nghị Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp trên.
4. Đối với người bị kết án là phụ nữ mà sau khi bị kết án họ liên tục có thai và sinh con để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù thì Tòa án có cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù không?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 61 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015) thì người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong trường hợp “Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi”.
Như vậy, nếu người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không.
5. Sau khi ra quyết định thi hành án hình sự mới nhận được thông báo sửa chữa bản án liên quan đến thi hành án. Vậy, trong công tác thi hành án hình sự có quyền đính chính quyết định thi hành án hình sự không?
Trường hợp sau khi ra quyết định thi hành án hình sự mới nhận được thông báo sửa chữa bản án thì Tòa án phải đính chính quyết định thi hành án hình sự cho phù hợp. Khi thực hiện việc đính chính, Tòa án căn cứ vào quy định về sửa chữa, bổ sung bản án; quy định về việc ra quyết định thi hành án và thông báo sửa chữa bản án để đính chính quyết định thi hành án.
6. Người phải thi hành án phạt tù đang tại ngoại có đơn xin hoãn thi hành án do bị bệnh nặng. Kết quả giám định sức khỏe kết luận tỷ lệ tổn thương do bệnh là 25%. Vậy, Tòa án có căn cứ vào tỷ lệ tổn thương sức khỏe do bệnh để quyết định cho người phải thi hành án hoãn thi hành án không?
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 61 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm a khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự năm 2015), người bị xử phạt tù bị bệnh nặng có thể được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi sức khỏe được hồi phục. Việc xác định người bị bệnh nặng được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 7.1 mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, cụ thể: “người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu... Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ”.
Như vậy, việc xác định bệnh nặng phải trên cơ sở hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 7.1 mục 7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP nêu trên. Khi xem xét cho người phải thi hành án phạt tù đang tại ngoại được hoãn chấp hành hình phạt tù do bị bệnh nặng, Tòa án phải căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên là bị bệnh nặng mà không căn cứ vào tỷ lệ tổn thương sức khỏe.
III. VỀ DÂN SỰ
1. Trường hợp Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp dân sự mà các bên viện dẫn các tập quán khác nhau thì giải quyết như thế nào?
Khi xem xét, quyết định áp dụng tập quán thì Tòa án căn cứ Điều 3, Điều 5 và các quy định khác của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tùy từng trường hợp cụ thể giải quyết như sau:
Tập quán có giá trị áp dụng là tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp có nhiều tập quán thì áp dụng tập quán do các bên thỏa thuận; nếu các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.
2. Tòa án giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Trường hợp này, Tòa án có phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu không?
Khi giải quyết vụ án dân sự có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án phải giải thích cho các đương sự về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản và lưu
vào hồ sơ vụ án. Trường hợp Tòa án đã giải thích nhưng tất cả đương sự vẫn không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà không phải giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; trừ trường hợp đương sự không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.
3. Trường hợp lãi suất cho vay trong hợp đồng tín dụng cao hơn 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố thì Tòa án căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 hay khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng... thì áp dụng theo quy định của Luật này”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.
Do vậy, đối với hợp đồng vay mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của hợp đồng vay được thực hiện theo thỏa thuận mà không theo quy định tại khoản 1 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005.
4. Khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất mà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó được cấp cho hộ gia đình và tại thời điểm giải quyết tranh chấp, thành viên hộ gia đình đã có sự thay đổi so với thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này những thành viên nào của hộ gia đình có quyền sử dụng đất đó? Những thành viên nào của hộ gia đình có quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng?
Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Như vậy, khi giải quyết vụ án dân sự mà cần xác định thành viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất cần lưu ý:
- Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
- Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của hộ gia đình, người có công sức
đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ, THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại ở nơi khác thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết?
Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà có tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; cụ thể là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết.
2. Trường hợp vụ việc dân sự do Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý trước ngày 01-7-2016 chưa phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện, nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt thì Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó?
Trường hợp vụ việc dân sự do Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý trước ngày 01-7-2016 nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện mà quyết định đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì căn cứ khoản 4 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11- 2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Nếu Tòa án nhân dân cấp huyện đã chuyển hồ sơ vụ việc cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiếp tục giải quyết.
3. Trường hợp khi giải quyết vụ án dân sự mà Tòa án có xem xét hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định cá biệt đó tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có bắt buộc phải là cấp phó của họ theo quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 hay không?
Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện”. Như vậy, quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 chỉ áp dụng đối với trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong vụ án hành chính.
Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Mọi hoạt động tố tụng dân sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này”. Do vậy, khi giải quyết
vụ án dân sự mà Tòa án có xem xét hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định cá biệt đó tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì việc xác định người đại diện theo ủy quyền của họ được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự”. Tuy nhiên, vì liên quan đến việc xem xét hủy hay không hủy quyết định hành chính cá biệt nên Tòa án cần có ý kiến để cơ quan đã ban hành quyết định cá biệt đó ủy quyền cho người có đủ năng lực và chuyên môn tham gia tố tụng.
4. Tòa án nhận được đơn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại, trong đó có liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất; đồng thời nhận được đơn khởi kiện hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thế chấp. Tòa án thụ lý một hay hai vụ án để giải quyết?
Việc giải quyết các yêu cầu của đương sự trong một vụ án hay các vụ án khác nhau phải tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhằm bảo đảm giải quyết vụ án nhanh gọn, đúng pháp luật. Đối với trường hợp này, Tòa án thụ lý và giải quyết các yêu cầu trong một vụ án, xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp kinh doanh, thương mại và thời hạn xét xử theo điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
5. Trường hợp bị đơn đã ủy quyền hợp lệ cho người đại diện tham gia tố tụng thì Tòa án tống đạt văn bản tố tụng cho bị đơn hay người đại diện tham gia tố tụng? Trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm nhưng người đại diện theo ủy quyền của đương sự có mặt thì Tòa án có phải hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không?
Khoản 4 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự”.
Khoản 2 Điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005), phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác định theo nội dung ủy quyền.
Như vậy, trường hợp bị đơn đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng thì Tòa án chỉ tống đạt cho người đại diện của bị đơn mà không phải tống đạt cho bị đơn. Việc tống đạt cho người đại diện của bị đơn được thực hiện theo quy định tại Chương X của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án chỉ tống đạt cho bị đơn khi việc ủy quyền tham gia tố tụng giữa bị đơn và người đại diện của họ chấm dứt hoặc việc tống đạt liên quan đến những nội dung không thuộc phạm vi ủy quyền.
Việc đương sự vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm nhưng người đại diện theo ủy quyền của đương sự có mặt mà theo văn bản ủy quyền, người đại diện được thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
của đương sự tại phiên tòa thì Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa phúc thẩm mà không hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
6. Trong vụ án dân sự, đương sự có dấu hiệu tâm thần nhưng chưa có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Như vậy, khi có chủ thể cho rằng một người là đương sự trong vụ án mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án phải giải thích, hướng dẫn để họ thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự theo quy định nêu trên; trường hợp họ có yêu cầu và Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu này thì Tòa án áp dụng điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; trường hợp họ không yêu cầu thì Tòa án giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung.
7. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố?
Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì:
- Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
- Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và trong quyết định đó phải thể hiện rõ việc thay đổi địa vị tố tụng: bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn. Trường hợp nguyên đơn rút một phần yêu cầu thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ riêng mà phải nhận xét trong phần Nhận định của Tòa án trong bản án và quyết định đình chỉ một phần yêu cầu trong phần Quyết định của bản án.
8. Theo quy định tại khoản 9 Điều 70, khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì đương sự có nghĩa vụ gửi cho các đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao tài liệu, chứng cứ. Vậy đương sự phải gửi tài liệu, chứng cứ vào thời điểm nào? Cách
thức gửi như thế nào? Đương sự có phải chứng minh với Tòa án về việc đã sao gửi tài liệu, chứng cứ không? Trường hợp đương sự không thực hiện việc sao gửi thì giải quyết thế nào?
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về thời điểm đương sự phải gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, việc quy định đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác bản sao tài liệu, chứng cứ tại khoản 9 Điều 70, khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là nhằm đảm bảo việc tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền tranh tụng của đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Do vậy, nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ cho đương sự khác trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định phương thức đương sự sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác nên đương sự có quyền lựa chọn phương thức sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác (gửi trực tiếp, gửi qua đường bưu điện...) và đương sự phải chứng minh với Tòa án đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.
Quy định tại khoản 9 Điều 70, khoản 5 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là những quy định mới, nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Do vậy, trong quá trình tố tụng, Tòa án phải giải thích, hướng dẫn cho đương sự để họ thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác. Trường hợp đương sự không thực hiện việc sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì Tòa án yêu cầu đương sự phải thực hiện. Trường hợp vì lý do chính đáng, không thể sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ theo quy định tại khoản 3 Điều 196, điểm b khoản 2 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
9. Trường hợp xin ly hôn với người mất tích, Tòa án đã ra thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với người vợ/chồng thì bao lâu sau khi có thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với người vợ/chồng thì Tòa án có thể giải quyết yêu cầu ly hôn của người chồng/vợ?
Khoản 1, 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Theo khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Như vậy, đối với trường hợp nêu trên, phải sau khi quyết định của Tòa án tuyên bố người vợ/chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì Tòa án mới xem xét, giải quyết cho người chồng/vợ ly hôn.
10. Khi giải quyết tranh chấp dân sự mà một bên là hợp tác xã nhưng thực tế đương sự không xác định được tình hình hoạt động của hợp tác xã, không tìm được người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thì xử lý như thế nào?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án có thể tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tình hình hoạt động và người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã tham gia tố tụng, tùy từng trường hợp xử lý như sau:
- Trường hợp hợp tác xã chưa bị giải thể, chưa bị tuyên bố phá sản; hợp tác xã không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 42 Luật Hợp tác xã năm 2003 và khoản 2 Điều 54 Luật hợp tác xã năm 2012 thì căn cứ vào quyết định thành lập hợp tác xã, điều lệ hoạt động của hợp tác xã (nếu có) để xác định người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Nếu người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã chết thì những xã viên còn sống (theo Luật hợp tác xã năm 2003) hoặc những thành viên hợp tác xã (theo Luật hợp tác xã năm 2012) còn sống có quyền bầu hoặc cử người đại diện tham gia tố tụng. Trường hợp không thể bầu hoặc cử người đại diện tham gia tố tụng thì Tòa án yêu cầu thành viên hợp tác xã còn sống tham gia tố tụng.
- Trường hợp hợp tác xã đã bị chia, tách: Theo quy định tại khoản 4 Điều 52 Luật Hợp tác xã năm 2012 thì các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mới phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của hợp tác xã bị chia, tách và là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã bị chia, tách. Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mới sẽ tham gia tố tụng tại Tòa án.
- Trường hợp hợp tác xã bị hợp nhất, sáp nhập với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khác thì người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sau khi hợp nhất, sáp nhập sẽ tham gia tố tụng.
- Trường hợp hợp tác xã chưa bị giải thể, chưa bị tuyên bố phá sản nhưng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật hợp tác xã năm 2012 thì Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã phải ra quyết định giải thể hợp tác xã đó. Tòa án yêu cầu Ủy ban nhân dân giải quyết theo thẩm quyền và căn cứ điểm d khoản 1 Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
- Trường hợp hợp tác xã đã có quyết định giải thể mà việc xử lý tài sản chung và vốn (Luật hợp tác xã năm 2012 gọi là tài sản không chia) của hợp tác xã được giải quyết theo Điều 36 Luật hợp tác xã năm 2003, khoản 2 Điều 48 Luật hợp tác xã năm 2012, Điều 21 Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21-11-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã năm 2012. Theo đó, khi giải thể hợp tác xã, một phần tài sản chung không chia được giao cho chính quyền địa phương quản lý thì người đại diện cho chính quyền địa phương (nơi quản lý tài sản của hợp tác xã) sẽ là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã và tham gia tố tụng tại Tòa án.
- Trường hợp hợp tác xã đã có quyết định tuyên bố phá sản thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quy định của Luật phá sản.
11. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng có được giải quyết trong vụ án dân sự mà Tòa án đang giải quyết không?
Khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng được tiến hành trong cùng vụ án dân sự. Trường hợp đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại này mà chưa có điều kiện chứng minh thì yêu cầu bồi thường đó có thể tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
12. Trường hợp khi giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án quy định tại khoản 12 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, có đương sự cho rằng việc ra quyết định cưỡng chế thi hành án không đúng thì Tòa án có thẩm quyền hủy quyết định cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không?
Theo khoản 12 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 75 Luật thi hành án dân sự thì Tòa án chỉ xem xét giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án; Tòa án không giải quyết việc cưỡng chế thi hành án đúng hay sai.
Trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến quyết định cưỡng chế thi hành án cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì theo quy định tại khoản 1 Điều 140, khoản 1 Điều 160 Luật thi hành án dân sự, họ có quyền khiếu nại quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Khi giải quyết tranh chấp quyền sở hữu liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án, Tòa án không có quyền hủy quyết định cưỡng chế thi hành án như một quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức.
13. Vụ án dân sự được thụ lý trước ngày 01-7-2016 mà Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án có phải mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các điều từ 208 đến 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay không?
Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đối với những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, nhưng kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 mới giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng các quy định của Bộ luật này để giải quyết”.
Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính quy định: “Kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành (ngày 01-7- 2016), Tòa án áp dụng các quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 517 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 thì được áp dụng từ ngày 01- 01-2017”.
Căn cứ các quy định và hướng dẫn nêu trên, trường hợp Tòa án đã thụ lý, hòa giải trước ngày 01- 7-2016 và đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử ấn định ngày mở phiên tòa là ngày mà Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành thì Tòa án áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về phiên tòa sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án mà không phải trở lại thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các điều 208, 209, 210 và 211 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
14. Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần thì mỗi lần hòa giải Tòa án có bắt buộc phải tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ không? Tòa án có được hòa giải mà không tiến hành lại thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ không?
Kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là hai vấn đề khác nhau. Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là nhằm bảo đảm mọi chứng cứ đều được công khai (trừ trường hợp không được phép công khai) trong quá trình tố tụng; hòa giải là để các bên thương lượng, thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp.
Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần thì lần hòa giải đầu tiên Tòa án phải tiến hành theo đúng trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định tại Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với lần hòa giải tiếp theo, Tòa án chỉ tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ khi có tài liệu, chứng cứ mới và ghi vào biên bản hòa giải.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.
15. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ thì Tòa án có tiến hành hòa giải vắng mặt họ không?
Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, trong đó có trường hợp: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. Do vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt và việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ thì căn cứ khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.
16. Việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người tham gia tố tụng để tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 phải căn cứ theo giấy khám sức khỏe của cơ quan chuyên môn hay do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình hình sức khỏe của người tham gia tố tụng tại phiên tòa để từ đó quyết định tạm ngừng phiên tòa?
Khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định các căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Theo đó, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạp ngừng phiên tòa khi có căn cứ: “Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt”.
Việc tạm ngừng phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định trong quá trình xét xử. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người tham gia tố tụng có thể tiếp tục tham gia phiên tòa hay không do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình trạng sức khỏe thực tế của người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Khi xét thấy cần thiết thì phải có xác nhận của cơ quan chuyên môn về tình trạng sức khỏe của người tham gia tố tụng để Tòa án quyết định tạm ngừng phiên tòa.
17. Trường hợp vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà vẫn vắng mặt thì Tòa án giải quyết thế nào?
Khoản 4 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà phải giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
- Trường hợp bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì về việc nguyên đơn rút đơn thì được coi là đồng ý với việc rút đơn của nguyên đơn và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có).
18. Trong vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người có quyền và nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài nhưng nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác ra nước ngoài theo quy định. Tòa án căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trường hợp này, Tòa án có phải ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 152 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc đương sự khác phải nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài khi yêu cầu của họ làm phát sinh việc ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Đối với trường hợp nêu trên, nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác ra nước ngoài và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài không biết có việc Tòa án ở Việt Nam đang thụ lý vụ án. Do đó, Tòa án không phải ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài.
19. Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định về sửa chữa, bổ sung bản án. Trường hợp Quyết định công nhận thỏa thuận, Quyết định đình chỉ (kể cả Quyết định của Hội đồng xét xử ban hành) có sai sót về chính tả mà không được đính chính, sẽ dẫn đến Cơ quan thi hành án không thi hành được và thuộc trường hợp bản án, quyết định tuyên không rõ, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Đối với trường hợp này, Tòa án có được sửa chữa, bổ sung những quyết định này theo quy định Điều 486 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hay không?
Điều 268 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định việc sửa chữa, bổ sung bản án mà không quy định sửa chữa, bổ sung các quyết định như: quyết đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Tuy nhiên, Điều 486 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về giải thích, sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án; không phân biệt bản án hay quyết định; không phân biệt bản án, quyết định do Thẩm phán hay do Hội đồng xét xử ban hành. Do vậy, trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì Thẩm phán ký ban hành quyết định hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa/phiên họp ra quyết định sửa chữa, bổ sung quyết định.
20. Điểm b khoản 1 Điều 478 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Vậy, giấy tờ, tài liệu được miễn hợp pháp hóa lãnh sự là những loại giấy tờ nào? Đề nghị nêu ví dụ cụ thể?
Điều 9 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05-12-2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự quy định các giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự, bao gồm:
“1. Giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
2. Giấy tờ, tài liệu được chuyển giao trực tiếp hoặc qua đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
3. Giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
4. Giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài”.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 478 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 7 Luật tương trợ tư pháp năm 2007, khoản 2 Điều 2 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP nếu trên thì Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền lập, cấp, xác nhận trong trường hợp giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; giấy tờ, tài liệu được giao trực tiếp hoặc qua con đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; giấy tờ, tài liệu khác được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Danh sách các nước và loại giấy tờ, tài liệu được miễn hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự được đăng tại địa chỉ trang thông tin điện tử https://lanhsuvietnam.gov.vn/default.aspx
Ví dụ: Các loại giấy tờ sử dụng để đăng ký khai sinh, giải quyết các việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định tại khu vực biên giới do Cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước láng giềng (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Cam-pu-chia) lập, cấp hoặc xác nhận thì được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28-3-2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
21. Điểm b khoản 1 Điều 472 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 của Bộ luật này và vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài có liên quan”. Vậy làm thế nào để xác định được vụ việc đó thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài?
Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam và có đủ hai điều kiện:
(1) Không thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam quy định tại Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
(2) Vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài có liên quan.
Để xác định vụ việc thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án nước ngoài phải tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án căn cứ:
- Các quy định của điều ước quốc tế, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, pháp luật liên quan;
- Tài liệu, chứng cứ do người khởi kiện, người bị kiện, người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, xuất trình về pháp luật nước ngoài (Các đương sự chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước ngoài đã cung cấp);
- Trường hợp các đương sự không thống nhất với nhau về pháp luật nước ngoài hoặc trong trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu Bộ Tư pháp, Bộ ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc thông qua Bộ ngoại giao đề nghị cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài;
Trường hợp trước khi thụ lý, xác định được vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án nước ngoài thì Tòa án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu sau khi thụ lý mới xác định được vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án nước ngoài thì Tòa án Việt Nam đình chỉ giải quyết vụ việc, trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo và giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
22. Đối với những vụ án có khiếu nại, tố cáo, đương sự có đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc xem xét việc thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán đang bị khiếu nại có được tiến hành các thủ tục tố tụng khác của vụ án đó không?
Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm vụ án được giải quyết đúng thời hạn luật định, tránh việc đương sự lạm dụng quyền khiếu nại, tố cáo làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, các điều 500, 501 và 511 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại; quyền, nghĩa vụ của người bị khiếu nại và quyền, nghĩa vụ của người bị tố cáo, theo đó:
- Người khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng mà mình đang khiếu nại trong thời gian khiếu nại và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.;
- Người bị tố cáo có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Như vậy, đối với những vụ án có khiếu nại, tố cáo, đương sự có đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc xem xét việc thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán đó vẫn được tiến hành tố tụng cho đến khi quyết định thay đổi Thẩm phán có hiệu lực pháp luật.
23. Khi Tòa án đang giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, người khiếu nại rút đơn khiếu nại trước khi Tòa án mở phiên họp giải quyết việc khiếu nại. Trường hợp này, Tòa án có phải mở phiên họp để giải quyết việc khiếu nại hay không?
Việc giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công giải quyết khiếu nại, Thẩm phán phải mở phiên họp giải quyết có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và người khiếu nại. Để bảo đảm nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, đối với trường hợp này, nếu đã có đủ căn cứ để xác định người khiếu nại rút khiếu nại thì Tòa án dừng việc xem xét, giải quyết khiếu nại và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp mà không phải mở phiên họp.
24. Trong vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến con chưa thành niên mà đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án có phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án không?
Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án”. Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc.
25. Đối với các vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp tại cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em? Vậy, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em là cơ quan nào? Cơ quan ở nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hay nơi thường xuyên sinh sống? Nếu có đương sự cư trú khác tỉnh thì giải quyết như thế nào?
Khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03-01-2013 của Chính phủ về công tác gia đình quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương”.
Các khoản 11, khoản 12 Điều 8 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04-4-2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương1 và các khoản 5, khoản 6 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05-5-2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh2 thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Phòng Lao động - Thương binh và xã hội, Phòng Văn hóa và Thông tin tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về gia đình, về bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Như vậy, khi giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, Thẩm phán, Thẩm tra viên có thể thu thập tài liệu, chứng cứ và tham khảo ý kiến cơ quan quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương theo quy định tại các Nghị định nêu trên. Ngoài ra, để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án có thể tham khảo ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi vợ, chồng chung sống, nơi con chưa thành niên cư trú.
26. Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên... Như vậy, có được hiểu rằng chỉ những vụ án có tranh chấp về nuôi con mới lấy ý kiến của con? Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: "...con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Vậy áp dụng quy định nào mới đúng?
- Đoạn thứ 2 khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên”.
- Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về thuận tình ly hôn quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đảng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
- Khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Theo các quy định nêu trên, để bảo đảm quyền lợi của người con, Tòa án phải lấy ý kiến của người con, xem xét nguyện vọng của người con từ đủ 07 tuổi trở lên; phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân thiện với trẻ em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng.
V. VỀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1. Trong vụ án hành chính, Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không?
Điểm c khoản 2 Điều 61 Luật tố tụng hành chính quy định:
“2. Những người sau đây được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
...c) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có kiến thức pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an”.
Theo quy định nêu trên thì Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp được tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
2. Tại khoản 5 Điều 84 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình”, Tại khoản 3 Điều 98 Luật tố tụng hành chính quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền, tiếp cận tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều này”. Vậy, hai thời hạn trên có mâu thuẫn với nhau không? Khi giải quyết vụ án hành chính, Tòa án áp dụng thời hạn nào?
Điều 84 Luật tố tụng hành chính về xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ quy định: “...5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình”. Theo quy định này thì: trong 03 ngày làm việc, kể từ ngày mà Tòa án đã thu thập được tài liệu, chứng cứ do đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 55, 56, 57, 58 và khoản 2 Điều 118 Luật tố tụng hành chính, Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết về việc có đơn khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến mình để họ thu thập chứng cứ và thực hiện quyền, nghĩa vụ giao nộp chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 83, khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành chính.
(Cần lưu ý: Trường hợp người khởi kiện đã nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và khẳng định không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ, thì nội dung thông báo về các tài liệu, chứng cứ liên quan đến quyết định, hành vi hành chính bị khởi kiện có thể được Tòa án thông báo cùng với nội dung thông báo về việc thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 126 Luật tố tụng hành chính).
Điều 98 Luật tố tụng hành chính về quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ quy định: “...3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền, tiếp cận tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 98”. Đây là giai đoạn Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính và quy định thời hạn để Tòa án phải thông báo cho các bên đương sự biết về việc các bên đương sự đã giao nộp tài liệu,
chứng cứ cho Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 83 và khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành chính đến Tòa án chỉ nhằm mục đích cho các bên biết tài liệu, chứng cứ mà họ đưa ra để thực hiện quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ. (Ví dụ: sau khi Tòa án đã nhận được các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự giao nộp cho Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 83 Luật tố tụng hành chính thì sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án nhận được hoặc hết thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành chính, Tòa án phải thông báo cho các bên đương sự biết để các bên đương sự thực hiện quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ như: sao chụp, đọc... các tài liệu đó).
Theo các quy định nêu trên thì hai thời hạn này được áp dụng đối với hai nội dung khác nhau nên không mâu thuẫn với nhau.
3. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính tịch thu tài sản, nhưng người bị tịch thu tài sản không giao nộp tài sản cho cơ quan có thẩm quyền mà bán cho người khác, nên cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi tài sản đó, đồng thời tổ chức cưỡng chế đối với người đang quản lý (người mua tài sản). Không đồng ý với việc cưỡng chế, người mua tài sản khởi kiện hành vi cưỡng chế tài sản (không khởi kiện quyết định hành chính tịch thu tài sản, quyết định cưỡng chế thu hồi tài sản). Vậy trong trường hợp này, đối tượng khởi kiện được xác định là quyết định hành chính hay là hành vi cưỡng chế?
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật tố tụng hành chính thì hành vi cưỡng chế thu hồi tài sản có thể là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính; nếu đương sự cho rằng hành vi cưỡng chế đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể khởi kiện ra Tòa án.
4. Tại Điều 35 Luật tố tụng hành chính quy định khi nhập hoặc tách vụ án, Tòa án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp, nhưng lại không có điều luật nào quy định thẩm quyền ra quyết định nhập, tách vụ án. Vậy thẩm quyền này thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hay Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật tố tụng hành chính thì Chánh án Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn: “Tổ chức công tác giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án”, “Ra quyết định và tiến hành hoạt động tố tụng hành chính”.
Theo quy định tại Điều 38 Luật tố tụng hành chính thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền ra quyết định nhập hoặc tách vụ án.
Như vậy, Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định nhập hoặc tách vụ án.
5. Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 bị khiếu kiện còn thời hiệu khởi kiện nhưng các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, quyết định hành chính bị khiếu nại đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án có được xem xét hay không?
Theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính thì:
“1. Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính... quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2. Hội đồng xét xử có quyển quyết định:
...b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)...”.
Như vậy, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp đối với tất cả các quyết định hành chính khác có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý nên Hội đồng xét xử đã quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật tố tụng hành chính. Trường hợp này, người khởi kiện có phải chịu án phí hành chính sơ thẩm không?
Quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật tố tụng hành chính hiện hành là quy định mới được bổ sung (Luật tố tụng hành chính năm 2011 không có quy định này) nên nội dung này cũng chưa được Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án quy định. Tuy nhiên, khi xem xét trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm có thể áp dụng các quy định về xử lý tiền án phí trong thủ tục xét xử sơ thẩm đối với trường hợp người bị kiện đồng ý hủy bỏ quyết định hành chính bị kiện tại phiên tòa sơ thẩm; cụ thể như sau:
- Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người khởi kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm quyết định sửa án sơ thẩm, buộc người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm và trả lại tiền án phí sơ thẩm cho người khởi kiện;
- Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm tuyên giữ nguyên về phần án phí sơ thẩm theo bản án sơ thẩm.
7. Trường hợp khởi kiện đối với việc trả lại hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất của Phòng Tài nguyên và Môi trường với lý do vị trí đất nằm trong khu quy hoạch thì xác định người bị kiện là Phòng Tài nguyên và Môi trường hay Ủy ban nhân dân cấp huyện?
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 59 Luật đất đai thì Ủy ban nhân dân huyện có thẩm quyền: “Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định”.
Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-7-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2011 thì để xác định quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện là đối tượng khởi kiện thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền.
Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc ủy quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó.
Theo hướng dẫn tại Điều 4 và khoản 4 Điều 5 Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT- BNV ngày 28-8-2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước như thẩm định hồ sơ về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho các đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Theo quy định và hướng dẫn nêu trên, Phòng Tài nguyên và Môi trường là đơn vị thực hiện thẩm tra hồ sơ theo chức năng, nhiệm vụ được giao giúp Ủy ban nhân dân huyện xem xét, quyết định việc công dân xin chuyển mục đích sử dụng đất. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án xác định người bị kiện là Ủy ban nhân dân cấp huyện.
8. Trường hợp đương sự có tham gia phiên tòa nhưng lại vắng mặt khi Tòa án tuyên án thì việc đương sự vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng được ghi vào biên bản phiên tòa hay ghi vào bản án?
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 166 Luật tố tụng hành chính thì trong biên bản phiên tòa phải ghi đầy đủ mọi diễn biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Khoản 7 Điều 153 Luật tố tụng hành chính quy định: “Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được Chủ tọa phiên tòa đồng ý cho rời khỏi phòng xử án nếu có lý do chính đáng”.
Như vậy, trường hợp đương sự vắng mặt khi Hội đồng xét xử tuyên án, thì việc vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng đều phải được ghi vào bản án và biên bản phiên tòa.
9. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận đơn kháng cáo, thực hiện các thủ tục kháng cáo và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm. Khi nhận hồ sơ, Tòa án cấp phúc thẩm xác định người có đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo thì giải quyết như thế nào?
Trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải căn cứ vào quy định tại Điều 217 Luật tố tụng hành chính để thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 229, điểm a khoản 4 Điều 207 Luật tố tụng hành chính trả lại đơn kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Trong quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải quyết định trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho người đã gửi đơn kháng cáo.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về hình sự; tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; dân sự; tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
1 Khoản 11 và khoản 12 Điều 8 của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định:
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Công an; - Bộ Tư pháp; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Lưu: Thư ký Chánh án, VP, Vụ PC&QLKH.
"11. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Lao động; việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.
12. Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (không bao gồm nội dung quảng cáo quy định tại khoản 10 Điều này); việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật”. 2 Khoản 5 và khoản 6 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định:
“5. Phòng Lao động - Thương binh và xã hội:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Việc làm; dạy nghề; lao động, tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn xã hội.
6. Phòng Văn hóa và Thông tin:
Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Văn hóa; gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chính; viễn thông; công nghệ thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuất bản; thông tin cơ sở; thông tin đối ngoại; hạ tầng thông tin”.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 04 năm 2017
Số: 72/TANDTC-PC V/v: thống nhất áp dụng quy định về án phí trong vụ án ly hôn
Kính gửi:
- Các Tòa án nhân dân cấp cao; - Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 30-12-2016, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Trong quá trình triển khai thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh vướng mắc về việc xác định án phí trong trường hợp các đương sự thuận tình ly hôn khi giải quyết vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Để bảo đảm áp dụng thống nhất, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì “Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm”.
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí”.
Quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 là kế thừa, giữ nguyên quy định tại khoản 4 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Do không có sự thay đổi về nội dung của luật, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa có hướng dẫn khác nên đối với vụ án ly hôn mà các bên đương sự thuận tình ly hôn thì áp dụng tương tự hướng dẫn tại khoản 2 Điều 16 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13-6-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án, cụ thể trong vụ án ly hôn mà các bên đương sự thuận tình ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì được xem là các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa và các bên đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định).
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thủ trưởng các đơn vị Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận
được Công văn này cần tổ chức quán triệt tới các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình và Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ để áp dụng thống nhất. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc có đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu VT (VP, Vụ PC&QLKH).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 27 tháng 04 năm 2017
Số: 90/TANDTC-PC V/v hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên.
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của nhiều Tòa án nhân dân về vướng mắc trong việc thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Điều 110 Luật thi hành án hình sự thì:
“1. Quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bao gồm:
...b) Bản án, quyết định của Tòa án về áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên.
2. Quyết định áp dụng biện pháp tư pháp phải ghi rõ tên cơ quan và họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người chấp hành biện pháp tư pháp; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan ra quyết định phải gửi quyết định đó cho cá nhân, cơ quan sau đây:
a) Người chấp hành biện pháp tư pháp hoặc đại diện hợp pháp của người đó;
b) Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp Tòa án ra quyết định;
c) Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành biện pháp tư pháp cư trú;
d) Bệnh viện tâm thần trong trường hợp bắt buộc chữa bệnh;
đ) Cơ quan đề nghị Tòa án, Viện kiểm sát áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh”.
Về thủ tục thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên, Điều 124 Luật thi hành án hình sự quy định:
“1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra bản án, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên, Tòa án phải gửi bản án, quyết định cho người đó và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú.
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú phải báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an để ra quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng và gửi cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.
4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải lập hồ sơ và bàn giao người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng. Hồ sơ gồm có:
a) Bản sao bản án, quyết định của Tòa án;
b) Quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng;
c) Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã;
d) Danh bản;
đ) Tài liệu khác có liên quan”.
Như vậy, theo quy định của Luật thi hành án hình sự thì Tòa án không phải ra quyết định thi hành biện pháp tư pháp đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng, mà trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra bản án, quyết định áp dụng biện pháp tư pháp đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng, Tòa án phải gửi bản án, quyết định cho người đó và cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú để Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện báo cáo Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an ra quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc để bảo đảm việc thi hành biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Cơ quan QLTHAHS Bộ Công an (để phối hợp); - Các Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2017
Số: 91/TANDTC-PC V/v xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa.
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của nhiều Tòa án nhân dân về vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa. Về vấn đề này, sau khi xin ý kiến Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12-06-2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07-5-2009) thì “các loại pháo” thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh. Tuy nhiên, theo quy định của Luật đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật đầu tư năm 2014) thì “kinh doanh các loại pháo” thuộc Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Phụ lục 4 Luật đầu tư năm 2014). Luật này có hiệu lực thi hành ngày 01-7-2015.
Ngày 22-11-2016, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư năm 2014 (Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2014), trong đó có bổ sung quy định “kinh doanh pháo nổ” vào ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6). Quy định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01- 01-2017.
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của pháp luật trong việc xử lý các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao khi giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển buôn bán pháo nổ trong nội địa cần lưu ý:
Kể từ ngày 01-7-2015 (ngày Luật đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành) đến ngày 01-01-2017 (ngày Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành), không xác định pháo nổ là hàng cấm và không xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 (Bộ luật hình sự năm 1999):
1. Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi
miễn trách nhiệm hình sự, Tòa án phải ghi rõ trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự; người được miễn trách nhiệm hình sự không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình phạt là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người được miễn chấp hành hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Những người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc hình phạt còn lại thì đương nhiên được xóa án tích.
2. Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa xảy ra từ 0 giờ 00 ngày 01-7-2015 đến 0 giờ 00 ngày 01-01-2017, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và các quy định pháp luật có liên quan để tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm rà soát, báo cáo ngay người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án theo quy định của pháp luật.
3. Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa được thực hiện kể từ 0 giờ 00 ngày 01-01-2017 thì tiếp tục thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 19-01-2017 của Tòa án nhân dân tối cao.
4. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định về việc miễn trách nhiệm hình sự, tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 Luật xử lý vi phạm hành chính.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc đế bảo đảm việc xét xử được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời phải bảo đảm không để xảy ra oan, sai trong xét xử. Đối với những vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Chánh án Tòa án nơi điều tra, truy tố chủ động phối hợp với Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật./.
Nơi nhận: KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
- Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Ủy ban thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an (để phối hợp); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Các Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
Nguyễn Sơn
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 04 tháng 7 năm 2017 Số: 144/TANDTC-PC V/v thi hành NQ số 03/2017/NQ-HĐTP
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17-02-2017; có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2017 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết). Để bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất Nghị quyết, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số vấn đề sau đây:
1. Về bản án, quyết định được công bố hoặc không công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án
Việc xác định bản án, quyết định thuộc trường hợp được công bố hay không được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án phải căn cứ vào các điều 2, 3 và 4 của Nghị quyết, trong đó cần lưu ý:
a) Về bản án, quyết định có chứa đựng nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước
Để xác định bản án, quyết định có chứa đựng nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước không được công bố theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 4 Nghị quyết thì phải căn cứ vào Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2002; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28-3-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước; Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20-7-2015 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP; các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương; các Quyết định, Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương và các quy định khác của pháp luật về bí mật nhà nước; trong đó, theo quy định tại Quyết định số 01/2004/QĐ-TTg ngày 05-01-2004 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của Tòa án nhân dân thì không công bố những bản án, quyết định liên quan đến việc xét xử các vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
b) Về bản án, quyết định có nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình
Các bản án, quyết định của Tòa án đã được mã hóa theo hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết và mục 2 của Công văn này thì các thông tin liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình đã được bảo đảm và việc công bố bản án, quyết định đó trên Cổng thông tin điện tử không vi phạm quy định về bảo đảm bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
c) Về bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được công bố
- Theo hướng dẫn tại Điều 3 của Nghị quyết thì bản án, quyết định được công bố phải là bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; những bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị (bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ hoặc một phần) thì không được công bố.
- Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2017; do đó, Chủ tọa phiên tòa, phiên họp phải công bố bản án, quyết định thuộc trường hợp được công bố về những vụ việc mà Tòa án xét xử, giải quyết kể từ ngày 01-7-2017 trở đi. Tòa án có thể lựa chọn, công bố những bản án, quyết định có tính mẫu mực được ban hành trước ngày 01-7-2017 nhưng việc công bố phải bảo đảm thực hiện đúng hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán.
2. Về mã hóa thông tin trong bản án, quyết định của Tòa án
- Việc mã hóa thông tin trong bản án, quyết định của Tòa án phải sử dụng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt (A, B, C ...), có thể kết hợp với số tự nhiên (1, 2, 3 ...) trong những trường hợp cần thiết và thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết. Các thông tin được mã hóa phải bảo đảm không trùng lặp, không gây nhầm lẫn cho người đọc, không làm thay đổi nội dung của bản án, quyết định.
- Đối với những người tham gia tố tụng có vai trò quan trọng trong vụ án (như: bị cáo, bị hại trong vụ án hình sự; nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự; người khởi kiện, người bị kiện trong vụ án hành chính) thì việc mã hóa tên của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức nên sử dụng ký tự đầu tiên trong tên của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức đó.
Ví dụ:
+ Bị cáo Nguyễn Văn An được mã hóa thành “Nguyễn Văn A”; bị cáo Phạm Đức Hùng được mã hóa thành “Phạm Đức H”;
+ Bị hại Nguyễn Văn Tâm được mã hóa thành “Nguyễn Văn T”; bị hại Nguyễn Đức Minh được mã hóa thành “Nguyễn Đức M”.
+ Nguyên đơn Nguyễn Văn Bảo được mã hóa thành “Nguyễn Văn B”; nguyên đơn Phạm Đức Lộc được mã hóa thành “Phạm Đức L”;
+ Bị đơn Trần Thế Bách được mã hóa thành “Trần Thế B”; bị đơn Nguyễn Văn Yêm được mã hóa thành “Nguyễn Văn Y”;
+ Người bị kiện trong vụ án hành chính là Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội được mã hóa thành “UBND quận H, Thành phố Hà Nội”.
- Trường hợp có từ 2 người tham gia tố tụng trở lên trùng tên hoặc chữ cái đầu tiên của tên nhưng khác họ thì có thể mã hóa bằng cách giữ nguyên họ, tên đệm (nếu có) và lấy chữ cái đầu tiên trong tên của họ; nếu trùng cả họ, tên đệm (nếu có) và chữ cái đầu tiên của tên thì có thể mã hóa bằng cách giữ nguyên họ, tên đệm (nếu có) và sử dụng chữ cái đầu tiên của tên kết hợp với số tự nhiên.
Ví dụ:
+ Trong vụ án có 2 nguyên đơn là Nguyễn Văn Tâm và Trần Văn Tâm thì có thể mã hóa thành “Nguyễn Văn T” và “Trần Văn T”;
+ Trong vụ án có 3 bị cáo là Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Hà và Nguyễn Văn Hưng thì có thể mã hóa thành “Nguyễn Văn H1”, "Nguyễn Văn H2 ” và “Nguyễn Văn H3”.
- Đối với những người tham gia tố tụng khác có cùng địa vị pháp lý (như: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng...) thì có thể chia thành các nhóm có cùng địa vị pháp lý và sử dụng các chữ cái viết tắt địa vị pháp lý của họ, kết hợp với số tự nhiên để mã hóa.
Ví dụ:
+ Trường hợp có nhiều người là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính thì có thể mã hóa thành NLQ1, NLQ2, NLQ3...;
+ Trường hợp có nhiều người là người làm chứng thì có thể mã hóa thành NLC1, NLC2, NLC3...
3. Về phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
- Việc phổ biến và giải quyết quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) và hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP. Khi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tòa phải thông báo cho họ biết bản án, quyết định giải quyết vụ việc mà họ là người tham gia tố tụng thuộc diện được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và quyền của họ được yêu cầu giữ bí mật một số thông tin theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu về giữ bí mật của người tham gia tố tụng có thể được thực hiện trước khi mở phiên tòa, phiên họp hoặc tại phiên tòa, phiên họp;
- Yêu cầu về giữ bí mật của người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa, phiên họp phải được làm bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do để Tòa án xem xét.
- Trường hợp người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, phiên họp và Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật mà người vắng mặt không có văn bản yêu cầu Tòa án giữ bí mật thông tin thì được xác định là họ không yêu cầu giữ bí mật thông tin.
- Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; yêu cầu của người tham gia tố tụng về công bố hoặc không công bố bản án, quyết định phải được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp.
4. Về trách nhiệm gỡ bỏ bản án, quyết định đã công bố
Trường hợp bản án, quyết định đã công bố nhưng thuộc trường hợp không được công bố hoặc được công bố không chính xác thì Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ việc có trách nhiệm xem xét, quyết định việc gỡ bỏ bản án, quyết định đó.
5. Về giải quyết khiếu nại trong việc công bố bản án, quyết định
Khiếu nại trong việc công bố bản án, quyết định giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân là khiếu nại tư pháp và được thực hiện theo quy định tương ứng về giải quyết khiếu nại trong tố tụng quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Chương XXXV Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), Chương XXI Luật Tố tụng hành chính và Chương XLI Bộ luật Tố tụng dân sự hoặc áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết. Theo đó, khiếu nại về việc công bố bản án, quyết định của Chủ tọa phiên tòa, phiên họp do Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ việc xem xét; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án đó thì có quyền khiếu nại lên Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án cấp trên một cấp là quyết định cuối cùng.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai ngay tới các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c thành viên HĐTP TANDTC; - Thư ký Chánh án TANDTC; - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 7 năm 2017 Số: 146/TANDTC-PC V/v: Viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tại Hội nghị tập huấn từ ngày 25 đến ngày 28-5-2017, Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được phản ánh của một số Tòa án đề nghị hướng dẫn việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các đạo luật tố tụng thì khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự; bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự phải được giải quyết như nhau.
Việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng án lệ khi xét xử, giải quyết những vụ việc cụ thể phải được thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28-10- 2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, khi xét xử, giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để quyết định việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng. Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn nguyên văn những nội dung hạt nhân của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc tương tự.
Ví dụ: Theo Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991 được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà. Trường hợp này, hợp đồng có giá trị xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận”. Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại ...
(nêu rõ các điều luật có liên quan) và theo Án lệ số 07/2016/AL, có đủ cơ sở để công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa ông A và ông B.
Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm thấy rằng án lệ và vụ việc mà Tòa án đang giải quyết không có tính chất tương tự hoặc do pháp luật đã thay đổi, do chuyển biến tình hình mà án lệ không còn phù hợp nhưng một trong các bên đương sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ ... đề nghị áp dụng án lệ thì việc không áp dụng án lệ cũng phải được nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai tới các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Thư ký Chánh án TANDTC; - Lưu VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 12 tháng 07 năm 2017
Số: 148/TANDTC-PC V/v triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 20-6-2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14) và Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau đây gọi là Nghị quyết số 41). Nghị quyết số 41 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05-7-2017. Để triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) và Nghị quyết số 41, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình tổ chức thực hiện các công việc sau đây:
1. Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, Vụ Giám đốc kiểm tra I và các đơn vị khác có liên quan thuộc Tòa án nhân dân tối cao:
a) Rà soát các vụ án hình sự mà Tòa án, đơn vị mình đang thụ lý, giải quyết, nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 thì tiếp tục thực hiện việc chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân, miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt, đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41.
b) Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân, các cơ sở giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự rà soát các đối tượng người bị kết án mà thuộc diện được chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân hoặc được miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết số 41 để làm thủ tục chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân hoặc miễn chấp hành hình phạt cho họ.
c) Xây dựng Kế hoạch tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41 trong phạm vi cơ quan, đơn vị mình.
d) Thông qua thực tiễn xét xử, phản ánh vướng mắc, kiến nghị về Tòa án nhân dân tối cao để có giải thích, hướng dẫn kịp thời.
2. Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao:
a) Dự thảo Công văn quán triệt thi hành quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41 và Công văn hướng dẫn xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa trình Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký ban hành.
b) Xây dựng Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41 trình Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký ban hành.
c) Tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn” và các điều, khoản, điểm khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
d) Là đầu mối phối hợp tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; tham mưu, đề xuất việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015;
đ) Tiếp nhận phản ánh của Tòa án các cấp về các vướng mắc liên quan đến triển khai, thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41; tham mưu, đề xuất với Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao hướng giải quyết.
c) Chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức các Hội nghị triển khai, tập huấn chuyên sâu và các hoạt động khác có liên quan đến việc tổ chức, thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41.
3. Cục Kế hoạch - Tài chính Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm kinh phí cho việc thực hiện Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 trong Tòa án nhân dân.
4. Học viện Tòa án biên soạn, chỉnh lý hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015; tổ chức giảng dạy, tập huấn về các quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41. Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ, cần phản ánh kịp thời những ý kiến, vướng mắc liên quan đến triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41.
5. Văn phòng Tòa án nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Vụ Tổng hợp, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học và các đơn vị có liên quan tổ chức Hội nghị tập huấn trực tuyến toàn quốc về Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41.
6. Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao đăng tải Kế hoạch triển khai thi hành, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, các văn bản quy phạm pháp luật, công văn hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41; tuyên truyền, phổ biến Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41.
7. Báo Công lý, Tạp chí Tòa án nhân dân tuyên truyền, phổ biến Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41 và đăng tải Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức, quán triệt đến các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình thực hiện nghiêm túc. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc cần giải thích, hướng dẫn thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT, PC, Khánh.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 11 tháng 7 năm 2017 Số: 146/TANDTC-PC V/v: Viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tại Hội nghị tập huấn từ ngày 25 đến ngày 28-5-2017, Tòa án nhân dân tối cao đã nhận được phản ánh của một số Tòa án đề nghị hướng dẫn việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các đạo luật tố tụng thì khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự; bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự phải được giải quyết như nhau.
Việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng án lệ khi xét xử, giải quyết những vụ việc cụ thể phải được thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28-10- 2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, khi xét xử, giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để quyết định việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng. Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn nguyên văn những nội dung hạt nhân của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc tương tự.
Ví dụ: Theo Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991 được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà. Trường hợp này, hợp đồng có giá trị xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận”. Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, các tình tiết, sự kiện pháp lý trong vụ án này tương tự như các tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Vì vậy, theo quy định tại ...
(nêu rõ các điều luật có liên quan) và theo Án lệ số 07/2016/AL, có đủ cơ sở để công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa ông A và ông B.
Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm thấy rằng án lệ và vụ việc mà Tòa án đang giải quyết không có tính chất tương tự hoặc do pháp luật đã thay đổi, do chuyển biến tình hình mà án lệ không còn phù hợp nhưng một trong các bên đương sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ ... đề nghị áp dụng án lệ thì việc không áp dụng án lệ cũng phải được nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai tới các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Thư ký Chánh án TANDTC; - Lưu VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2017
Số: 152/TANDTC-PC V/v giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân cấp cao;
- Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của một số Tòa án, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một số tổ chức tín dụng và Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam về vướng mắc khi giải quyết tranh chấp nhằm xử lý tài sản bảo đảm của các hợp đồng tín dụng.
Liên quan vấn đề nêu trên, ngày 19-6-2014, Quốc hội thông qua Luật Phá sản số 51/2014/QH13, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2015; ngày 24-11-2015, Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật Dân sự năm 2015) và Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2017; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2016 trừ một số quy định có liên quan đến quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2017; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành các Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của các đạo luật này. Đặc biệt, ngày 21-6-2017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, trong đó giao cho Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu quy định tại Nghị quyết này.
Để bảo đảm giải quyết các tranh chấp hiệu quả, góp phần xử lý nợ xấu, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, các Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục triển khai thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành; trong đó, lưu ý một số nội dung sau đây:
1. Về xác định chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất
Việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 và hướng dẫn tại điểm 4 phần III Giải đáp số 01/2017 ngày 07-4-2017 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ. Theo đó, hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
2. Về đại diện
Thứ nhất, về chủ thể đại diện theo ủy quyền: cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự (Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ hai, về phạm vi đại diện (Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015):
- Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo các căn cứ: (i) Quyết định của Cơ quan có thẩm quyền; (ii) điều lệ của pháp nhân; (iii) nội dung ủy quyền; (iv) quy định khác của pháp luật.
- Trường hợp không xác định được phạm vi đại diện theo các căn cứ nêu trên thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Thứ nhất, về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm: Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 293 Bộ luật Dân sự năm 2015); các bên có quyền thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó (Điều 294 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ hai, về phạm vi bảo lãnh: Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại (Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ ba, về quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ (Điều 339 Bộ luật Dân sự năm 2015).
4. Về chuyển giao quyền yêu cầu
Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp
bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này (Điều 365 Bộ luật Dân sự năm 2015).
5. Về giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực (Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015)
- Giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật Dân sự năm 2005, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015 và để áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết.
6. Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
Trường hợp thay đổi chủ sở hữu của tổ chức và có việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới thì chủ sở hữu mới kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Trường hợp tổ chức được chuyển giao quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về dân sự thì tổ chức đó kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
7. Về thời hiệu khởi kiện
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ (Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ hai, thời điểm phát sinh tranh chấp dân sự quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 là ngày khởi kiện. Việc xác định ngày khởi kiện được thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Quy định về thời hiệu khởi kiện tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31- 12-2016 để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự.
Từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự (Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính).
8. Về khởi kiện và thụ lý vụ án
Thứ nhất, về quyền khởi kiện vụ án: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Thứ hai, về hình thức, nội dung đơn khởi kiện: Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của Cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật Doanh nghiệp (Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Thứ ba, về trả lại đơn khởi kiện: Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện (Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Thứ tư; về nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Áp dụng quy định tại Điều 40 Bộ luật Dân sự năm 2015 về địa chỉ nơi cư trú. Theo đó, trường hợp một bên trong quan hệ dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới.
- Áp dụng hướng dẫn của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Theo đó, Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết này đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết về xác định địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và việc xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
9. Về vấn đề xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản đối với các chủ nợ có bảo đảm (Điều 41 và Điều 53 Luật Phá sản năm 2013)
Thứ nhất, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý vụ việc phá sản, các Tòa án nhân dân phải:
- Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Tách và tạm đình chỉ giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, hành chính liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là một bên đương sự. Thủ tục tách và tạm đình chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng hành chính.
- Tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đối với các chủ nợ có bảo đảm.
Thứ hai, trường hợp sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật Phá sản năm 2013, Thẩm phán xem xét và xử lý cụ thể như sau:
- Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ;
- Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm.
Thứ ba, trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều 53 Luật Phá sản năm 2013.
Thứ tư, việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 53 Luật Phá sản năm 2013 được thực hiện như sau:
- Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó;
- Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trong quá trình thực hiện các quy định nêu trên, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn kịp thời.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình và Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ để áp dụng thống nhất.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các Thẩm phán TANDTC; - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (để biết); - Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (để biết); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2017
Số: 154/TANDTC-PC V/v xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 20-6-2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14), trong đó có bổ sung quy định “thuốc lá điếu nhập lậu” là hàng cấm tại khoản 40 và khoản 41 Điều 1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2018.
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của pháp luật trong việc xử lý các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao khi giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa cần lưu ý:
1. Kể từ ngày 01-7-2015 (ngày Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành) đến ngày 01-01-2018 (ngày Luật số 12/2017/QH14 có hiệu lực thi hành), không xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm và không xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 1999):
Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-7-2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 của Bộ luật Hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi miễn trách nhiệm hình sự, Tòa án phải ghi rõ trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự; người được miễn trách nhiệm hình sự không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình phạt là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người được miễn chấp hành hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Những người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc hình phạt còn lại thì đương nhiên được xóa án tích.
2. Kể từ 0 giờ 00 phút ngày 01-7-2015 đến trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, không xử lý về hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được thực hiện như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng điểm b khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và các quy định của pháp luật có liên quan để ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên tòa sơ thẩm) căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và các quy định của pháp luật có liên quan để ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, các quy định của pháp luật có liên quan và áp dụng khoản 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157, Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm rà soát, báo cáo ngay người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án theo quy định của pháp luật.
đ) Trường hợp đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm hoặc xét xử tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, các quy định của pháp luật có liên quan, khoản 2 Điều 107 và Điều 286 hoặc khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 392 hoặc khoản 3 Điều 402 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
e) Việc đình chỉ vụ án đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa kể từ 0 giờ 00 phút ngày 01-7-2015 đến trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 là đình chỉ về mặt trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc đình chỉ là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được đình chỉ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
g) Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 của Luật xử lý vi phạm hành chính.
3. Kể từ 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, việc xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa được thực hiện theo quy định của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc để bảo đảm việc xét xử được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời phải bảo đảm không để xảy ra oan, sai trong xét xử. Đối với những vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố thì Chánh án Tòa án nơi điều tra, truy tố chủ động phối hợp với Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như trên; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an (để phối hợp); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Các Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC, Khánh.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 28 tháng 7 năm 2017
Số: 155/TANDTC-PC V/v áp dụng thống nhất về thể thức và kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng
Kính gửi:
- Các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 13-01-2017, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2017/NQ- HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính.
Ngày 14-3-2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Để bảo đảm áp dụng thống nhất về thể thức và kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các Tòa án nghiên cứu, vận dụng các quy định của Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14 quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước khi ban hành các văn bản tố tụng của Tòa án.
Trên cơ sở các quy định của Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14, Tòa án nhân dân tối cao đã thể hiện cụ thể về thể thức, kỹ thuật trình bày các mẫu bản án sơ thẩm, phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm về hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP, Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP (08 mẫu được gửi kèm theo Công văn này) để các Tòa án áp dụng khi ban hành các văn bản tố tụng này.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai ngay tới các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình để bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Thư ký Chánh án TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
Bieu mau
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2017
Số: 256/TANDTC-PC V/v thi hành khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội.
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 20-6-2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14) và Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau đây gọi là Nghị quyết số 41). Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 đã quy định đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 được công bố (ngày 03-7-2017). Để thi hành đúng, kịp thời các quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao quán triệt và thực hiện một số nội dung sau đây:
1. Kể từ ngày 03-7-2017, khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, tiếp tục thực hiện việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội mà Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) đã bỏ hình phạt tử hình, hoặc đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử (không phân biệt hành vi phạm tội được thực hiện trước hay sau thời điểm ngày 03-7-2017).
Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 03-7-2017 đối với người được nêu tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân đối với người bị kết án.
2. Kể từ ngày 03-7-2017, tiếp tục thực hiện việc không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi được quy định tại các điểm d, e và không xử lý hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì thực hiện như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng điểm b
khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án đó áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 và Điều 181 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng Điều 285 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà sơ thẩm) áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, khoản 2 Điều 107 và Điều 180 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, khoản 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án;
đ) Trường hợp đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm hoặc xét xử tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, khoản 2 Điều 107 và Điều 286 hoặc khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và Điều 392 hoặc khoản 3 Điều 402 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên người bị kết án không có tội và đình chỉ vụ án.
e) Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp được quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 là đình chỉ về trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc đình chỉ là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được đình chỉ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
g) Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
3. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 được thực hiện như sau:
a) Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù;
b) Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục;
c) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn tước một số quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
đ) Đối với người bị xử phạt tù đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
g) Khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), đối với các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng.... thì người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án), trong đó có tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm nữa.
- Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
h) Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình phạt là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được miễn chấp hành hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
4. Đối với các đối tượng được quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 mà đang bị truy nã, thì Tòa án đã ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định (lệnh) truy nã biết để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
5. Người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 thì đương nhiên được xóa án tích.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như trên; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2017
Số: 297/TANDTC-HTQT V/v lưu ý khi yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự đối với Hồng Kông, Trung Quốc
Kính gửi: - Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh;
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trong nhiều năm trở lại đây, Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy khi yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự ra nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có đương sự ở nước ngoài, các Tòa án cơ bản đã áp dụng đúng các quy định của Luật tương trợ tư pháp, văn bản hướng dẫn thi hành Luật này, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời gian gần đây, do chưa có đầy đủ thông tin nên một số Tòa án đã gặp sai sót khi lập hồ sơ yêu cầu ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của Công ước tống đạt giấy tờ, phổ biến là hồ sơ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc thực hiện. Các sai sót của Tòa án bao gồm: văn bản dịch của hồ sơ không đúng ngôn ngữ hoặc sai họ tên của đương sự; tên của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc trong văn bản ủy thác tư pháp, văn bản tố tụng bị ghi thiếu; yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng không đúng quy định...
Bên cạnh đó, một số Tòa án khác khi tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự có địa chỉ ở Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc theo đường bưu chính cũng gặp các sai sót tương tự khi lập hồ sơ hoặc dịch văn bản.
Để bảo đảm yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự của Tòa án được cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc thực hiện theo quy định của Công ước tống đạt giấy tờ, pháp luật của Hồng Kông, Trung Quốc và Tòa án nhận được kết quả khi tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự có địa chỉ ở Đặc khu này theo đường bưu chính, Tòa án nhân dân tối cao lưu ý các Tòa án một số nội dung sau đây:
I. Đối với yêu cầu ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc
1. Đối với yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng
Khi lập hồ sơ yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (Thông tư liên tịch số 12/2016) cho đương sự có địa chỉ ở Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, thì Tòa án cần chú ý:
1.1. Theo quy định của Công ước tống đạt giấy tờ, thì Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp (lập theo Mẫu số 02 B ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 12/2016) chỉ được dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Hiện nay, để thuận tiện cho việc xem xét hồ sơ, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã thống nhất về việc Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp nêu trên chỉ dịch ra tiếng Anh. Do đó, khi gửi cho cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, thì văn bản này chỉ dịch ra tiếng Anh mà không dịch ra tiếng Trung Quốc.
1.2. Theo quy định của pháp luật Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, thì văn bản cần được tống đạt cho đương sự phải được dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Trung Quốc.
Do đó, văn bản tố tụng của Tòa án và văn bản khác gửi kèm (nếu có) phải được dịch ra một trong hai thứ tiếng nêu trên, thì mới được cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc chấp nhận.
1.3. Một số nội dung cần lưu ý khi dịch Văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Anh:
a) Những tiêu đề tiếng Anh trong Mẫu số 02 B phải được giữ nguyên trong bản dịch Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp;
b) Tại Mục số 02 “Địa chỉ của người có thẩm quyền nhận” trong bản dịch Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp, thì ghi như sau:
“Chief Secretary for Administration Hong Kong Special Administrative Region Government, Room 321, 3/F, East Wing Central Government Offices, 2 Tim Mei Avenue Admiralty Hong Kong, China”;
c) Tại Mục số 03 “Thông tin địa chỉ của người được tống đạt” trong bản dịch Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp lập theo Mẫu số 02 B, thì thông tin về địa chỉ của đương sự phải có tên của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc là: “Hong Kong SAR, China”. Trường hợp đương sự mang hộ chiếu của Đặc Khu Hồng Kông, Trung Quốc thì ghi là: “Hong Kong SAR (HKSAR)”;
d) Việc dịch họ tên của đương sự cư trú ở Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc từ tiếng Trung Quốc ra tiếng Anh và ngược lại có thể không chính xác. Do đó, Tòa án cần yêu cầu tổ chức dịch thuật ghi họ tên của đương sự theo đúng tài liệu xác thực nhân thân của đương sự, bao gồm: hộ chiếu, thẻ căn cước, thẻ thường trú hoặc giấy phép lái xe, giấy tờ phục vụ việc đăng ký kết hôn...hoặc các giấy tờ, tài liệu khác như: hợp đồng, văn bản ủy quyền, thư từ...mà đương sự cung cấp cho Tòa án dưới hình thức bản chính (nếu có) hoặc bản sao, bản chụp các tài liệu nêu trên.
đ) Tại Mục số 09 và 10 trong bản dịch Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp lập theo Mẫu số 02 B, thì giữ nguyên cụm từ “Done at” và “Signature and/or stamp” và để trống; phần này sẽ do Bộ Tư pháp điền, đóng dấu;
1.4. Một số nội dung cần lưu ý khi lập và dịch văn bản tố tụng:
a) Tại phần địa chỉ của đương sự ở trong Văn bản tố tụng, thì phải ghi tên đầy đủ bằng tiếng Việt của Đặc Khu Hồng Kông, Trung Quốc là: “Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” hoặc có thể viết tắt là: “Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc”;
b) Họ tên đương sự cần được tống đạt trong bản dịch văn bản tố tụng phải giống với họ tên của đương sự này ghi trong bản dịch Văn bản ủy thác tư pháp.
2. Đối với yêu cầu thu thập chứng cứ
2.1. Trường hợp Tòa án cần thu thập chứng cứ (lấy lời khai, yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ...), thì Tòa án lập hồ sơ ủy thác tư pháp để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc thực hiện theo phương thức ngoại giao quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Đồng thời, Tòa án thông báo yêu cầu đương sự đóng tạm ứng 03 triệu đồng chi phí ủy thác tư pháp.
2.2. Văn bản ủy thác tư pháp để thu thập chứng cứ được lập theo Mẫu số 02 A ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 12/2016.
2.3. Văn bản ủy thác tư pháp phải được dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Trung Quốc. Khi dịch văn bản này ra tiếng Anh, thì Tòa án cần chú ý:
a) Tại Mục 01 (Tên cơ quan được ủy thác tư pháp) của bản dịch Văn bản ủy thác tư pháp, thì ghi: “Cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc - Authority of Hong Kong SAR, China”;
b) Tại Mục 04 (Người có liên quan trực tiếp đến ủy thác tư pháp) của bản dịch Văn bản ủy thác tư pháp, thì phải dịch họ tên của đương sự, tên Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc là “Hong Kong SAR, China” hoặc “Hong Kong SAR (HKSAR)” như đã hướng dẫn tại các điểm c và d tiểu mục 1.3 Mục 1 Phần I của Công văn này.
c) Tại Mục 06 (Tóm tắt nội dung vụ việc) của bản dịch Văn bản ủy thác tư pháp, thì chỉ cần ghi ngắn gọn về nội dung vụ việc.
3. Về việc nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp
3.1. Hiện nay, theo thông tin chính thức đăng tải trên trang điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế, thì cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc không thu chi phí khi thực hiện tống đạt theo quy định của Công ước tống đạt giấy tờ, trừ trường hợp chấp nhận thực hiện yêu cầu đặc biệt, như thông báo văn bản tố tụng trên báo chí, thì nước yêu cầu tống đạt phải trả chi phí.[1]
Do đó, khi phát sinh yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự có địa chỉ ở Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, thì Tòa án không yêu cầu đương sự nộp 03 triệu tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016.
3.2. Tòa án chỉ nên đánh dấu vào ô số (4) có tiêu đề: “phù hợp với các quy định tại điểm a đoạn 1 Điều 5 Công ước này” của bản dịch Văn bản ủy thác tư pháp lập theo Mẫu số 02 B để được cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc thực hiện miễn phí việc tống đạt.
II. Tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự có địa chỉ tại Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc theo đường bưu chính
1. Hiện nay, theo thông tin chính thức đăng tải trên trang điện tử của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế, thì cơ quan có thẩm quyền của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc không phản đối nước khác tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho đương sự có địa chỉ tại Đặc khu này. Do đó, Tòa án được áp dụng phương thức tống đạt theo đường bưu chính quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự đối với đương sự là công dân Việt Nam, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức, cá nhân mang hộ chiếu Đặc Khu Hồng Kông, Trung Quốc có địa chỉ tại Đặc khu này.[2]
2. Khi Tòa án thực hiện việc tống đạt theo đường bưu chính cho đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân mang hộ chiếu Đặc Khu Hồng Kông, Trung Quốc có địa chỉ tại Đặc khu này, thì văn bản tố tụng cần được tống đạt cho đương sự phải được dịch ra tiếng Anh hoặc tiếng Trung Quốc. Khi dịch văn bản tố tụng, Tòa án cần chú ý thực hiện các nội dung về tên của Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, họ tên của đương sự đã nêu tại Mục 1 Phần I của Công văn này.
3. Khi gửi văn bản tố tụng bằng đường bưu chính cho đương sự có địa chỉ tại Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc, thì Tòa án cần phải sử dụng dịch vụ bưu chính bảo đảm bảo phát (là dịch vụ mà người gửi yêu cầu được cung cấp bằng chứng phát bưu gửi có chữ ký người nhận) hoặc dịch vụ bưu chính tương tự.
4. Khi nhận được bằng chứng phát bưu gửi có chữ ký người nhận, thì Tòa án không phải đòi hỏi chữ ký đó là chữ ký trực tiếp (chữ ký “tươi”) của người nhận vì hầu hết các tổ chức bưu chính ở nước ngoài thực hiện việc ký nhận bưu gửi trên thiết bị điện tử. Tòa án không cần yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự bằng chứng phát bưu gửi có chữ ký người nhận vì văn bản này không thuộc trường hợp phải hợp pháp hóa lãnh sự.
Trên đây, là một số nội dung mà các Tòa án cần lưu ý khi thực hiện yêu cầu ủy thác tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016 và tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự cho đương sự có địa chỉ tại Đặc khu Hồng Kông, Trung Quốc.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án cấp tỉnh và Chánh án Tòa án cấp cao, ngay sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt đến các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án để bảo đảm áp dụng thống nhất quy định của Luật tương trợ tư pháp, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Thông tư liên tịch số 12/2016 và Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp cần thêm thông tin chi tiết, Tòa án nhân dân các cấp có thể liên hệ với Phòng nghiên cứu pháp luật quốc tế, Vụ Hợp tác quốc tế, Tòa án nhân dân tối cao, 262 Đội Cấn, Hà Nội thông qua hộp thư điện tử: hunglm@toaan.gov.vn hoặc điện thoại: 024.37623036; 0976437814 (đồng chí Lê Mạnh Hùng).
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Các đ/c PCA TANDTC (để phối hợp); - Vụ I, II, III TANDTC (để biết); - Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng); - Lưu: VT, PLQT, HTQT (TANDTC). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Thúy Hiền
[1] China (Hong Kong) - Other Authority (Art 18) & practical information, https://www.hcch.net/en/states/authorities/details3/7aicH393.
[2] China (Hong Kong) - Other Authority (Art 18) & practical information, https://www.hcch.net/en/stattes/authorities/details3/7aicK393.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2017
Số: 340/TANDTC-PC V/v xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán “pháo hoa nổ” trong nội địa
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời gian vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của một số Tòa án nhân dân về vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để xử lý đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán “pháo hoa nổ” trong nội địa. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 2 Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15-04-2009 của Chính phủ về quản lý sử dụng pháo thì:
“3. Pháo nổ là loại sản phẩm có chứa thuốc pháo được chế tạo bằng các công nghệ khác nhau không phân biệt xuất xứ và nơi sản xuất, khi có tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hóa, điện gây nên tiếng nổ.
4. Pháo hoa là sản phẩm có chứa thuốc pháo hoa, khi có các tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hóa, điện sẽ gây phản ứng hóa học tạo hiệu ứng ánh sáng có màu sắc, gây tiếng nổ hoặc không gây tiếng nổ.”
Theo hướng dẫn tại điểm a mục 1 Phần I Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC ngày 25-12-2008 của Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo thì: “Pháo nổ” (không phân biệt xuất xứ hoặc nơi sản xuất) là loại sản phẩm bên trong có chứa thuốc pháo và khi có yếu tố ngoại lực tác động thì gây tiếng nổ”.
Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ có quy định về “pháo nổ” và “pháo hoa”, không có quy định về “pháo hoa nổ”. Do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định cơ quan chuyên môn để xác định vật chứng thu giữ là pháo nổ hay pháo hoa.
Trường hợp kết luận giám định của cơ quan chuyên môn xác định vật chứng thu giữ là pháo nổ hoặc có đầy đủ các đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và gây tiếng nổ) thì xem xét, xử lý về hình sự, không phụ thuộc vào việc loại pháo này có các đặc tính khác (như tạo hiệu ứng ánh sáng có màu sắc...); việc xử lý đối với trường hợp này được thực hiện như hướng dẫn tại Công văn số 91/TANDTC-PC ngày 28-4-2017 của Tòa án nhân dân tối cao về xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa.
Trường hợp kết luận giám định của cơ quan chuyên môn xác định vật chứng thu giữ là pháo hoa, không có các đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và gây tiếng nổ) thì không xác định là hàng cấm và không xử lý về tội “tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay sau khi nhận được Công văn này cần triển khai thực hiện nghiêm túc để bảo đảm việc xét xử được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời phải bảo đảm không để xảy ra oan, sai trong xét xử; góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là trong dịp tết nguyên đán 2018.
CHÁNH ÁN Nguyễn Hòa Bình
Nơi nhận: - Như trên; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo); - Chính phủ; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an (để phối hợp); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp); - Các Phó Chánh án TANDTC (để biết); - Các Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT, PC.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 01/GĐ-TANDTC Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2018
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Qua thực tiễn công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc về nghiệp vụ. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
I. VỀ DÂN SỰ
Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được xác định như thế nào?
Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6- 2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01-7- 1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01-7-1996 đến ngày 01-9-2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
II. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Trường hợp vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản là nhà, đất mà các bên không thỏa thuận được giá trị di sản, mặc dù đã được Tòa án giải thích nhưng nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định không yêu cầu đo đạc, định giá tài sản thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Căn cứ vào khoản 1 Điều 101 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ với sự có mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết, chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó. Trường hợp này, nguyên đơn, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy định tại khoản 2 Điều 156 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp các đương sự không thỏa thuận được giá tài sản thì Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá. Trường hợp này, nguyên đơn, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết luận giám định, kết quả định giá tài sản thì chi phí giám định, chi phí định giá tài sản cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện thì Tòa án có căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án không?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án chỉ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này".
Như vậy, trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết luận giám định, kết quả định giá tài sản thì chi phí giám định, chi phí định giá tài sản cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện thì không phải là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Việc xử lý tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản được thực hiện theo quy định tại Điều 162 và Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; cụ thể là:
Trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định không phải chịu chi phí giám định, người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản không phải nộp chi phí định giá tài sản thì người phải chịu chi phí giám định, chi phí định giá tài sản theo quyết định của Tòa án phải hoàn trả cho người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định, chi phí định giá tài sản.
Trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng chi phí giám định phải chịu chi phí giám định, người đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản phải chịu chi phí định giá tài sản nếu số tiền tạm ứng đã nộp chưa đủ cho chi phí giám định, chi phí định giá tài sản thực tế thì họ phải nộp thêm phần tiền
còn thiếu; nếu số tiền tạm ứng đã nộp nhiều hơn chi phí giám định, chi phí định giá tài sản thực tế thì họ được trả lại phần tiền còn thừa theo quyết định của Tòa án.
Tòa án căn cứ vào Điều 161 và Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự để xác định người phải chịu chi phí giám định, chi phí định giá tài sản.
3. Khoản 1 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”. Vậy đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng do chậm ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không?
Khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: "Trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây: a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; c) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; d) Đưa vụ án ra xét xử”.
Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải được ban hành trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để đảm bảo nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Thẩm phán phải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ngay sau khi kết thúc thời hạn 07 kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 147 và khoản 5 Điều 148 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định; khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.
Như vậy, nếu đến ngày thứ 09, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là có vi phạm thời hạn ra quyết định nhưng không coi đó là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
4. Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, sau khi hòa giải vợ chồng thống nhất đoàn tụ nhưng không rút đơn khởi kiện thì Tòa án ra quyết định hòa giải thành hay ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án?
Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, nếu sau khi hòa giải, vợ chồng thống nhất đoàn tụ thì cần xác định đây là trường hợp nguyên đơn rút lại yêu cầu khởi kiện. Tòa án căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
5. Trong vụ án có nhiều đương sự, nếu có một đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị không tiến hành hòa giải thì có thuộc trường hợp vụ án dân sự không hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không?
Khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định một trong các trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được là: “Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải”. Như vậy, trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đề nghị không tiến hành hòa giải là trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc tiến hành hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên hòa giải và việc mở lại phiên hòa giải cho đương sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.
6. Vụ án dân sự đang tạm đình chỉ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án để đình chỉ đối với yêu cầu đã rút hay chờ đến khi lý do tạm đình chỉ vụ án không còn, mới giải quyết trong cùng vụ án và ghi rõ trong phần nhận định của bản án về việc rút yêu cầu đó?
Điều 216 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự”.
Theo quy định nêu trên thì việc rút yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập sẽ được Tòa án xem xét giải quyết khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án vì lý do tạm đình chỉ vụ án không còn. Việc xem xét giải quyết rút yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải được ghi rõ trong bản án, quyết định giải quyết vụ án.
7. Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu thì trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu đó như thế nào? Đương sự có phải làm lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và có phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó không?
Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 235, khoản 1 Điều 236, khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi được Chủ tọa hỏi có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không thì đương sự có quyền trình bày về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu mà không phải làm lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập và không phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự thì phải ghi rõ trong bản án.
8. Trong vụ án ly hôn, vợ, chồng có con từ đủ 07 tuổi trở lên nhưng không biết địa chỉ cư trú của con ở đâu nên Tòa án không lấy được lời khai của con. Trường hợp vợ, chồng đều muốn nuôi con thì phải giải quyết như thế nào? Tòa án có quyền giao con cho một bên đương sự nuôi mà không cần hỏi ý kiến của con được không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con".
Theo quy định nêu trên thì nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là một trong những yếu tố Tòa án phải xem xét trong quá trình giải quyết vụ án, việc quyết định giao con cho bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Mặt khác, theo quy định tại Điều 214, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì việc không lấy được lời khai của các con không phải là căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Do vậy, Tòa án giải quyết theo thủ tục chung và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để xem xét, quyết định người trực tiếp nuôi dưỡng con.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về dân sự, tố tụng dân sự để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c);
- Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Thư ký Chánh án; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2018
Số: 04/TANDTC-PC V/v áp dụng BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Để triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) và Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau đây gọi là Nghị quyết số 41), Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp và các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và thi hành án hình sự cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 (ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành), khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và thi hành án hình sự cần áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018;
b) Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
c) Tội phạm mới quy định tại các Điều 147, 154, 167, 187, 212, 213, 214, 215, 216, 217, 217a, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230, 234, 238, 285, 291, 293, 294, 297, 301, 302, 336, 348, 388, 391, 393 và 418 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các điều luật bổ sung hành vi phạm tội mới, các điều luật quy định một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; các điều luật quy định hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
d) Các điều luật mới quy định tội được tách ra từ các tội ghép trong Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12 (sau đây gọi Bộ luật Hình sự năm 1999), nếu có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết; nếu không có lợi cho người phạm tội thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết;
đ) Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”, “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”, “quy mô lớn” của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41;
e) Đối với hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử lý; trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án, quyết định của Tòa án thì không được căn cứ vào việc Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định tội danh hoạt động phỉ, tội danh đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội danh kinh doanh trái phép, tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng để kháng cáo, kháng nghị theo hướng không phạm tội. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành án về tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội kinh doanh trái phép, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết; nếu sau thời điểm 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 mà áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội danh tương ứng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
g) Đối với những hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41;
h) Các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại Bộ luật Hình sự năm 2015 không áp dụng đối với những hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018.
2. Theo quy định tại điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 377 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trong mọi trường hợp người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện việc không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc không thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các đồng chí Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử các cấp phải hết sức lưu ý, không để xảy ra tình trạng do sơ suất dẫn đến việc giam, giữ không có Quyết định tạm giữ, tạm giam.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH. KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 12 tháng 03 năm 2018
Số: 44/TANDTC-PC V/v quán triệt thi hành một số văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Triển khai, thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số Điều theo Luật số 12/2017/QH14, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan Điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành 01 Nghị định; Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành 05 Thông tư liên tịch, cụ thể như sau:
1. Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02-02-2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể chất ma túy tại một số Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02-02-2018;
2. Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng “Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để Điều tra bổ sung”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 06-02- 2018;
3. Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23-01-2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12-3-2018;
4. Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01-02-2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng “Quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18-3-2018;
5. Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01-02-2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng “Hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình Điều tra, truy tố, xét xử”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 18-3-2018;
6. Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 09-02-2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Quy định phối hợp thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tha tù trước thời hạn có Điều kiện”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28-3-2018.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt, triển khai thi hành nghiêm túc các văn bản nêu trên. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học hoặc qua hòm thư điện tử phapchetoaan2016@gmail.com) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 20 tháng 03 năm 2018
Số: 55/TANDTC-PC V/v tiêu chí xác định vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành
Kính gửi: - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao; - Các Tòa án nhân dân cấp cao; - Tòa án quân sự Trung ương; - Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Ngày 03-10-2017, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04/2017/CT-TA về việc tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân, với Mục tiêu nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác hòa giải trong tố tụng dân sự. Đến ngày 22-01-2018, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch số 11/KH-TANDTC triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính tại Hải Phòng; tiến tới xây dựng Đề án tổng thể về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính.
Để thống nhất các tiêu chí xác định hòa giải thành, đối thoại thành trong giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
1. Nguyên tắc chung về xác định hòa giải thành, đối thoại thành trong giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính
1.1. Sau khi thụ lý vụ án dân sự, vụ án hành chính, Thẩm phán tiến hành hòa giải, đối thoại mà sau khi hòa giải, đối thoại, người khởi kiện rút đơn khởi kiện hoặc các đương sự thống nhất được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án không phải đưa vụ án ra xét xử thì được xác định là hòa giải thành, đối thoại thành.
1.2. Sau khi thụ lý việc dân sự về yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, Thẩm phán tiến hành hòa giải mà sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ thì được xác định là hòa giải thành.
1.3. Các trường hợp cụ thể để tính vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành như hướng dẫn tại Mục 2 dưới đây.
2. Cách tính vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành
2.1. Vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây được tính là vụ việc hòa giải thành
a) Các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án; Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 và Điều 213 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
b) Sau khi hòa giải, nguyên đơn rút đơn khởi kiện; Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; dân sự với lý do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ chồng thống nhất đoàn tụ cũng được xác định là trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện (theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần II Giải đáp số 01/2018/TANDTC-GĐ ngày 05-01-2018 của Tòa án nhân dân tối cao).
c) Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được Thẩm phán tiến hành hòa giải mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản chung; Tòa án quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại các Điều 212, 213 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
d) Việc dân sự về yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng đoàn tụ; Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu theo quy định tại Khoản 3 Điều 397 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2.2. Vụ án hành chính thuộc một trong các trường hợp sau đây được xác định là vụ việc đối thoại thành
a) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện; Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Khoản 2 Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
b) Trường hợp sau khi đối thoại, người bị kiện ban hành quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện rút đơn khởi kiện như đã cam kết tại phiên họp đối thoại; Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại Khoản 3 Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Trên đây là hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về tiêu chí xác định hòa giải thành, đối thoại thành trong giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung kịp thời.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c PCA TANDTC (để biết);
- Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2018
Số: 170/TANDTC-PC V/v thực hiện quy định của BLHS năm 2015 và NQ số 01/2018 về tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Kính gửi: - Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương; - Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là chế định mới, tiến bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015 thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người đang chấp hành án phạt tù. Triển khai thi hành quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện của Bộ luật Hình sự năm 2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-4- 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện (Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09-6-2018). Để bảo đảm việc xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí thực hiện một số nội dung sau:
1. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 01/2018 và Công văn số 160/TANDTC-PC ngày 23-7-2018 của Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu về tha tù trước thời hạn có điều kiện;
2. Việc ban hành Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện và Quyết định hủy bỏ Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện theo đúng biểu mẫu được ban hành kèm theo Công văn số 160/TANDTC-PC ngày 23-7-2018 của Tòa án nhân dân tối cao, trong đó ghi rõ thời điểm có hiệu lực pháp luật của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là sau 15 ngày kể từ ngày ký, ban hành và thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách kể từ ngày Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt, triển khai thi hành nghiêm túc. Sau khi thực hiện tha tù trước thời hạn, các địa phương báo cáo những khó khăn vướng mắc và số lượng người bị kết án được tha tù trước thời hạn có điều kiện đợt đầu tiên do các Tòa án thực hiện về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học hoặc thư điện tử phapchetoaan2016@gmail.com) để tổng hợp, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao./.
Nơi nhận: - Như trên; KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
- Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH.
Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 04 tháng 9 năm 2018
Số: 196/TANDTC-PC V/v áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của BLHS.
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của một số Tòa án về vướng mắc trong việc áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật việc áp dụng tình tiết nêu trên, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
“Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc).
Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa...) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để các tòa án nghiên cứu, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử./.
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH. KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018
Số: 232/TANDTC-PC V/v quán triệt thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân cấp cao;
- Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của một số Tòa án địa phương và tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu về vướng mắc khi cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao quán triệt thực hiện một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, chủ động, thường xuyên cập nhật hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng đúng các quy định, hướng dẫn của văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu người được cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng có ủy quyền hợp pháp cho cá nhân, pháp nhân khác đại diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì Tòa án thực hiện đúng theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo đó, trường hợp này, Tòa án phải cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho người đại diện của người được cấp, tống đạt, thông báo.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần thông báo cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình và Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ để biết và thực hiện.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Các Thẩm phán TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018
Số: 253/TANDTC-PC V/v: giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Qua thực tiễn công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về vướng mắc trong việc giải quyết một số vụ án ly hôn giữa nguyên đơn là người Việt Nam ở trong nước với bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng nguyên đơn chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài là một trường hợp đặc thù; quyền ly hôn là một trong các quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Do vậy, trường hợp người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử, Tòa án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án nhân dân nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nơi nhận: - Như kính gửi; - Các đ/c thành viên HĐTP TANDTC (để biết); - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Liên đoàn Luật sư Việt Nam; - Hội Luật gia Việt Nam; - Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018
Số: 254/TANDTC-PC V/v người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 của BLTTHS
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của một số Tòa án về trường hợp vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người đã yêu cầu khởi tố rút lại yêu cầu theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vấn đề này, sau khi xin ý kiến các thành viên Hội đồng Thẩm phán và trao đổi với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Khác với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 20031, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã không giới hạn về thời điểm mà người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mà các Tòa án giải quyết như sau:
Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Tòa án phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để Tòa án cấp phúc phẩm xem xét giải quyết việc rút yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm, Tòa án phải nhận định rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án nghiên cứu, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh ngay cho Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn bổ sung kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC (để p/h chỉ đạo); - Các Thẩm phán TANDTC; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (để p/h chỉ đạo); - Bộ Công an; - Vụ Giám đốc kiểm tra I (để thực hiện); - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, PC&QLKH.
1 Khoản 2 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định “2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2018
Số: 263/TANDTC-PC V/v xác định quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tranh chấp về di sản thừa kế
Kính gửi: - Tòa án nhân dân các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh vướng mắc của các Tòa án nhân dân trong việc xác định quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án tranh chấp về di sản thừa kế, cụ thể như sau:
Trong vụ án tranh chấp thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017 đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trong đó Tòa án quyết định tạm giao cho người thừa kế quản lý di sản do hết thời hiệu 10 năm yêu cầu chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 20151 thì thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với tài sản đó vẫn còn. Vậy trong trường hợp này, người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đó hay không?
Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án chỉ quyết định tạm giao cho người thừa kế quản lý di sản và không quyết định việc phân chia di sản vì lý do thời hiệu yêu cầu chia di sản đã hết. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu để yêu cầu chia di sản thừa kế đó vẫn còn thì phải xác định đây là trường hợp Tòa án chưa giải quyết việc phân chia di sản thừa kế. Do đó, Tòa án không áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xác định người khởi kiện không có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án và trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp này, người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688, khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai ngay tới các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nơi nhận: - Như kính gửi;
- Các thành viên HĐTP TANDTC (để biết); - Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
Nguyễn Thúy Hiền
1 Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2018
Số: 276/TANDTC-PC V/v thi hành án đối với người bị kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày 01-01- 2018 vi phạm nghĩa vụ
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được ý kiến phản ánh của một số Tòa án vướng mắc trong việc thi hành án đối với người bị kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày 01-01-2018 vi phạm nghĩa vụ, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội thì “tội phạm mới… và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 để giải quyết”.
Người bị kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày 01-01-2018 bỏ đi khỏi nơi cư trú không khai báo mặc dù là vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, nhưng theo các quy định nêu trên và hướng dẫn tại khoản 4 Điều 12 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không áp dụng quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để buộc người này phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo với lý do vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên. Trong trường hợp này, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án căn cứ khoản 3 Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 làm văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù hưởng án treo tại ngoại ra quyết định truy nã.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án nhân dân nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Thành viên HĐTP TANDTC (để biết); - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu VT (TANDTC, Vụ PC&QLKH). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2019
Số: 59/TANDTC-PC V/v hướng dẫn bổ sung về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân
Kính gửi: Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Thái Bình và các Tòa án nhân dân cấp huyện được lựa chọn thí điểm
Trong thời gian vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của một số Tòa án nhân dân thực hiện thí điểm về những vướng mắc trong quá trình thực hiện thí điểm, Tòa án nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn bổ sung một số trường hợp sau đây:
1. Trường hợp người khởi kiện nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kèm theo đơn khởi kiện; hoặc đơn khởi kiện đã được Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án thụ lý và lên lịch hòa giải, đối thoại mà người khởi kiện có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì xử lý như thế nào?
Trường hợp người khởi kiện nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện, để đảm bảo thực hiện các quyền của đương sự về bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng tài sản hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án thì Tòa án phải xem xét thụ lý vụ án và giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự mà không chuyển vụ việc cho Trung tâm hoà giải, đối thoại tại Tòa án.
Trường hợp đơn khởi kiện đã được Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án thụ lý và lên lịch hòa giải, đối thoại mà người khởi kiện có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải chuyển ngay vụ việc cho Tòa án để xem xét thụ lý vụ án và giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự.
2. Trường hợp lập biên bản hòa giải thành và các bên cùng ký đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành nhưng trong quá trình Tòa án mở phiên họp xét đơn yêu cầu, một bên không đến thì Tòa án có thể ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án không?
Khoản 2 Điều 367 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án.
Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục do Bộ luật này quy định vẫn được bảo đảm.”
Căn cứ quy định nêu trên, nếu người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự.
Trường hợp người khác (người không yêu cầu) vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, vắng mặt lần thứ hai thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
3. Tại mẫu số 09-VDS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09-8-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) về thông báo thụ lý việc dân sự hướng dẫn: “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Thông báo này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án nhân dân………………… văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).... Hết thời hạn 15 ngày nêu trên mà người được thông báo không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người yêu cầu thì Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự để giải quyết theo quy định của pháp luật.”
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 của Tòa án nhân dân tối cao thì hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp này, thời hạn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp văn bản ghi ý kiến và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) được thực hiện như thế nào?
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì người đó phải tham gia phiên hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất với thỏa thuận của vợ chồng liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người đó thì thỏa thuận này phải được ghi nhận trong Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Trường hợp này, trong biên bản cần thể hiện rõ có đầy đủ các bên tranh chấp và người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan tham gia thỏa thuận, ký tên và cam kết sự thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện thì Thông báo thụ lý việc dân sự không cần yêu cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp văn bản ghi ý kiến và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
4. Theo Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 của Tòa án nhân dân tối cao thì hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành. Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trường hợp vì lý do khách quan, Tòa án không thụ lý ngay việc dân sự trong cùng ngày Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án lập biên bản về việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì thời hạn 07 ngày được tính từ ngày lập biên bản hay ngày thụ lý việc dân sự?
Để đảm bảo hiệu quả của công tác triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính, các Tòa án tham gia thí điểm có trách nhiệm thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Công văn số 310/TANDTC-PC, bao gồm hướng dẫn về thời hạn ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Trường hợp vì lý do khách quan mà Tòa án không thụ lý ngay việc dân sự trong cùng ngày Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án lập Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì phải thụ lý trong ngày liền kề tiếp theo ngày lập các biên bản. Thời hạn 07 ngày được tính kể từ ngày lập các biên bản.
5. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trước khi thụ lý vụ việc, Tòa án phải thông báo cho đương sự nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định. Trường hợp Tòa án thông báo về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng đương sự không thực hiện ngay mà sau một tuần họ mới nộp biên lai thu tiền cho Tòa án thì thời hạn 07 ngày để Thẩm phán ra quyết định quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo hướng dẫn tại điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC được tính như thế nào?
Điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC hướng dẫn: “...Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án. Tòa án xem xét, nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên
bản) thụ lý ngay việc dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán kiểm tra hồ sơ nếu xét thấy việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập các biên bản mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại)”.
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận thì Hòa giải viên giải thích cho họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hòa giải thành đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; hướng dẫn họ về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự. Đồng thời, Hòa giải viên báo cáo Giám đốc Trung tâm phân công Thẩm phán tham gia chứng kiến việc lập biên bản và ký tên vào Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do Hòa giải viên lập. Thẩm phán được phân công thông báo cho người yêu cầu nộp ngay lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.
Trường hợp người yêu cầu không thể nộp ngay lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự thì phải nộp vào ngày liền kề tiếp theo ngày lập các biên bản. Tòa án xem xét, nếu người yêu cầu đã nộp lệ phí và hồ sơ vụ việc do Hòa giải viên chuyển đến đã đầy đủ theo quy định tại Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên bản) thụ lý ngay việc dân sự, không để kéo dài thời gian thụ lý. Thời hạn 07 ngày được tính kể từ ngày lập các biên bản. Trường hợp hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải mà người yêu cầu không nộp lệ phí, trừ trường hợp được miễn nộp lệ phí theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán không xem xét công nhận kết quả hòa giải thành. Việc hòa giải được xem là hòa giải không thành.
6. Trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì đối với thỏa thuận liên quan đến tài sản có giá trị lớn có tính án phí có giá ngạch hay không? Trường hợp Tòa án công nhận kết quả đối thoại thành thì có thu lệ phí không?
Điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC hướng dẫn: “b) Trường hợp qua hòa giải, các bên thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết thì tại Biên bản hòa giải thành ghi rõ những nội dung các bên thống nhất. Nếu các bên hoặc một bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành thì Hòa giải viên hướng dẫn người đó làm đơn về yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành và chuyển hồ sơ, đơn yêu cầu và biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự....”
Theo hướng dẫn nêu trên thì khi hòa giải thành, các bên hoặc một trong các bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành thì đây là yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là việc dân sự. Lệ phí giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được thực hiện theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mức thu lệ phí này là 300.000 đồng (không phân biệt thỏa thuận liên quan đến tài sản có giá trị lớn hay nhỏ).
Điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC hướng dẫn: “...Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới thì Trung tâm phải thông báo cho bên còn lại biết. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Trung tâm, nếu bên còn lại không có ý kiến phản đối thì Đối thoại viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển hồ sơ vụ việc, Biên bản đối thoại, quyết định hành chính mới cho Tòa án. Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành.” Hiện nay, chưa có quy định về công nhận kết quả đối thoại thành ngoài Tòa án, do vậy Tòa án không thu lệ phí khi ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành.
7. Thời gian giải quyết một vụ việc tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án bị rút ngắn xuống còn 20 ngày làm việc so với quy định trước đây là 02 tháng dẫn đến Hòa giải viên, Đối thoại viên không có nhiều thời gian nghiên cứu đối với những vụ việc phức tạp. Hơn nữa, đối với những vụ việc phải tiến hành hòa giải nhiều lần thì thời gian 20 ngày không đảm bảo để tiến hành hòa giải.
Tại mục 2.3 phần 2 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 hướng dẫn về thời hạn hòa giải, đối thoại:
“Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày được phân công, Hòa giải viên, Đối thoại viên phải tiến hành hòa giải, đối thoại. Trường hợp vụ việc phức tạp mà các bên tham gia hòa giải, đối thoại cần bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ hoặc theo yêu cầu chính đáng của họ thì thời hạn này có thể được kéo dài nhưng không quá 10 ngày.
Thời hạn hòa giải, đối thoại là 30 ngày; trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn nhưng không quá 02 tháng”
Căn cứ theo hướng dẫn nêu trên thì đối với vụ việc phức tạp, cần phải hòa giải nhiều lần thì thời hạn hòa giải, đối thoại có thể được gia hạn đến 02 tháng.
8. Theo Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 thì sau khi nhận được đơn khởi kiện, Giám đốc Trung tâm hòa giải phân đơn để Hòa giải viên tiến hành hòa giải. Như vậy, Thẩm phán không được tiếp cận đơn khởi kiện đến thời điểm hòa giải thành (chứng kiến việc hòa giải thành) hoặc đến thời điểm Trung tâm hòa giải chuyển đơn khởi kiện về Tòa án (hòa giải không thành), trong khi, Thẩm phán là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về các quyết định ban hành liên quan đến nội dung Hòa giải viên đã tiến hành hòa giải. Do đó, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của Hòa giải viên đối với nội dung biên bản hòa giải.
Theo hướng dẫn tại điểm c mục 2.2 phần 2 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11/10/2018 hướng dẫn về việc lập Biên bản hòa giải, Biên bản đối thoại:
“…
+ Các bên tham gia hòa giải, đối thoại chịu trách nhiệm về nội dung thỏa thuận, thống nhất. Kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia hòa giải theo quy định của pháp luật dân sự, kết quả đối thoại thành có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia đối thoại theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
…”
Căn cứ theo hướng dẫn nêu trên thì Hòa giải viên, Đối thoại viên chỉ là người chứng kiến những vấn đề các bên thỏa thuận, thống nhất mà không phải chịu trách nhiệm về nội dung các bên thỏa thuận, thống nhất. Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi có đủ điều kiện công nhận quy định tại Điều 417 BLTTDS.
9. Đối với vụ án ly hôn, sau khi hòa giải tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, các bên đương sự không đoàn tụ nhưng thống nhất thuận tình ly hôn thì Tòa án thụ lý việc dân sự. Tuy nhiên, Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09-8-2018 ban hành các biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự trong đó, mẫu số 09 - thông báo thụ lý việc dân sự, ở phần cuối của thông báo có ghi “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Thông báo này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình....”. Quy định này mâu thuẫn với Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018, vì theo Công văn này, Tòa án ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn sau 07 ngày, kể từ ngày lập Biên bản hòa giải thành. Do đó, đề nghị hướng dẫn thống nhất về mẫu Thông báo thụ lý việc dân sự và Quyết định công nhận thỏa thuận ly hôn trong trường hợp này để áp dụng thống nhất chung cho toàn ngành.
Theo hướng dẫn tại điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 thì:
“…
Trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ, nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận thì Hòa giải viên giải thích cho họ sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hòa giải thành đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Đồng thời, Hòa giải viên báo cáo Giám đốc Trung tâm phân công Thẩm phán tham gia chứng kiến việc lập biên bản và ký tên vào Biên bản hòa giải đoàn tụ
không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do Hòa giải viên lập. Biên bản này được gửi ngay cho các bên tham gia hòa giải.
Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án. Tòa án xem xét, nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên bản) thụ lý ngay việc dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán kiểm tra hồ sơ nếu xét thấy việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập các biên bản mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại).”
Công văn 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 hướng dẫn thời hạn để Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là 07 ngày, nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng vụ việc trong trường hợp đã được Hòa giải viên hòa giải; mặt khác việc hòa giải cũng bảo đảm được quyền lợi của các bên, vì khi hòa giải đã có sự chứng kiến của Thẩm phán. Do đó, đối với trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ, nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn khi hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày Hòa giải viên lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà các bên không có ý kiến gì.
Đây là thí điểm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, cho nên việc thực hiện không phải hoàn toàn như quy định của BLTTDS mà có sự vận dụng và đổi mới trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự định đoạt, tự do thỏa thuận của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, trừ sự thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
10. Theo Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 về hướng dẫn nghiệp vụ, tại đoạn 1 điểm b Điều 3 quy định sau khi hòa giải thành, đương sự làm đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành và chuyển hồ sơ, đơn yêu cầu và biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự; Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải mở phiên họp giải quyết việc dân sự và có Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Tuy nhiên Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án lại có mẫu biên bản hòa giải, đối thoại thành để trên cơ sở đó Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và Quyết định của Tòa án sẽ được thi hành theo quy định của pháp luật. Qua đó, dẫn đến có hai quan điểm giải quyết khác nhau về việc ban hành văn bản: Quan điểm thứ nhất, Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà không phải mở phiên họp có đại diện Viện kiểm sát tham gia; quan điểm thứ hai, Tòa án phải mở phiên họp có đại diện Viện kiểm sát tham gia và ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo mẫu số 32 Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09-8-2018 ban hành một số biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự.
Tại đoạn 1 điểm b phần 3 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10- 2018 hướng dẫn như sau:
"…
b) Trường hợp qua hòa giải, các bên thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết thì tại Biên bản hòa giải thành ghi rõ những nội dung các bên thống nhất. Nếu các bên hoặc một bên tranh chấp có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành thì Hòa giải viên hướng dẫn người đó làm đơn về yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành và chuyển hồ sơ, đơn yêu cầu và biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự."
Căn cứ vào hướng dẫn nêu trên thì khi có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành và Biên bản hòa giải có xác nhận của Hòa giải viên thì Tòa án sẽ xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, trình tự thủ tục giải quyết sẽ căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân, tức là Tòa án phải mở phiên họp có đại diện Viện kiểm sát tham
gia và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án theo mẫu số 32 Nghị quyết số 04/2018/NQ- HĐTP ngày 09-8-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong giải quyết việc dân sự.
11. Trường hợp đơn khởi kiện chuyển đến Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án không có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính; không có tài liệu, chứng cứ cần thiết kèm theo thì xử lý như thế nào?
Trường hợp đơn khởi kiện chuyển đến Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án không có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính thì Hòa giải viên, Đối thoại viên đề nghị người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Trường hợp người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đề nghị của Hòa giải viên, Đối thoại viên thì Hòa giải viên, Đối thoại viên báo cáo với Giám đốc Trung tâm và chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án.
Trường hợp đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính nhưng không có tài liệu, chứng cứ cần thiết kèm theo thì Hòa giải viên, Đối thoại viên vẫn xem xét, tiến hành hòa giải, đối thoại. Trong quá trình hòa giải, đối thoại, tùy từng vụ việc mà Hòa giải viên, Đối thoại viên đề nghị người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết; tiến hành hòa giải, đối thoại theo hướng dẫn tại Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 của Tòa án nhân dân tối cao và hướng dẫn tại Công văn này.
12. Trường hợp vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn có liên quan đến con là người chưa thành niên thì trước khi tiến hành hòa giải, Hòa giải viên có phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp không? Có phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên không?
Việc hòa giải vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án hướng đến mục đích để vợ chồng đoàn tụ hoặc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành. Do vậy, Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải cần tìm hiểu nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng để từ đó thuyết phục vợ chồng hòa giải. Việc hòa giải ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án không nhất thiết phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên.
13. Tại điểm b mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Nếu các bên tranh chấp không yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển ngay hồ sơ vụ việc, Biên bản hòa giải thành cho Tòa án để trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, trong trường hợp nhận hồ sơ từ Tòa án”. Tuy nhiên, trường hợp người khởi kiện là pháp nhân ủy quyền cho người khác tham gia hòa giải mà người được ủy quyền không có thẩm quyền ký đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành: sau buổi hòa giải, người khởi kiện cũng không có đơn yêu cầu thì thời hạn để Tòa án trả lại đơn khởi kiện là bao nhiêu ngày?
Trường hợp một trong các bên tranh chấp là pháp nhân, người tham gia hòa giải là người đại diện theo ủy quyền thì nội dung của ủy quyền phải bảo đảm người đại diện đó có đầy đủ quyền tham gia giải quyết tranh chấp; khi hòa giải thành tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án mà các bên tranh chấp không có yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành thì Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm và chuyển ngay hồ sơ vụ việc, Biên bản hòa giải thành cho Tòa án. Trường hợp này được coi là người khởi kiện rút đơn khởi kiện. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ vụ việc, Biên bản hòa giải thành do Trung tâm chuyển đến, Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.
14. Trường hợp tranh chấp về tài sản được Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án tiến hành hòa giải thành; trong quá trình hòa giải, Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã lập biên bản xem xét tại chỗ, tiến hành xác minh tại thực địa cùng chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện. Sau đó, các bên có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành và được Tòa án thụ lý giải quyết. Vậy,
biên bản xem xét tại chỗ của Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án lập có được coi là chứng cứ khi Tòa án tiến hành giải quyết việc dân sự không?
Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có chức năng hòa giải, đối thoại các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính trên tinh thần tự nguyện và tự định đoạt của các đương sự mà không căn cứ vào chứng cứ để phân xử đúng sai. Do đó, việc Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án lập biên bản xem xét tại chỗ, tiến hành xác minh tại thực địa trong quá trình hòa giải là để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự đạt được thỏa thuận, không phải là chứng cứ để Tòa án căn cứ giải quyết việc dân sự. Trong quá trình công nhận kết quả hòa giải thành, Tòa án xác định chứng cứ theo quy định tại Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự.
15. Các tranh chấp được Tòa án nhận đơn chuyển qua Trung tâm hòa giải, đối thoại là theo thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm s khoản 2 Điều 39 BLTTDS về thẩm quyền giải quyết việc dân sự thì Tòa án nơi người yêu cầu cư trú, làm việc là Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án.
Vụ việc được hòa giải và đương sự có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, người yêu cầu (trường hợp chỉ có một người yêu cầu là nguyên đơn) cư trú ở địa bàn khác với địa bàn được hòa giải thành. Trường hợp này Tòa án đã tiến hành hòa giải có thẩm quyền công nhận kết quả hòa giải thành hay phải chuyển đến Tòa án đúng thẩm quyền nơi người yêu cầu cư trú theo quy định tại điểm s khoản 2 Điều 39 BLTTDS?
Đối với trường hợp nêu trên, việc công nhận kết quả hòa giải thành do Tòa án nơi có Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã tiến hành hòa giải thành thực hiện nhằm đảm bảo sự thuận tiện, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao nhất.
16. Đối với một số vụ án dân sự, trong biên bản hòa giải thành thể hiện các bên thống nhất thỏa thuận việc giải quyết vụ án, nhưng khi yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì thỏa thuận này đã được thực hiện một phần. Vậy, Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành tại buổi hòa giải như thế nào? Công nhận kết quả hòa giải thành hay công nhận phần thỏa thuận chưa thực hiện?
Trường hợp hòa giải thành, các bên đã thực hiện một phần hoặc không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn mà các bên thỏa thuận (nhưng vẫn trong thời hạn 6 tháng theo Điều 418 BLTTDS), người khởi kiện yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì Tòa án có thụ lý việc dân sự để công nhận kết quả hòa giải không hay hướng dẫn người khởi kiện làm thủ tục khởi kiện lại tại Tòa án?
Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được quy định tại Chương XXXIII của BLTTDS năm 2015. Theo đó, Tòa án không xem xét yêu cầu công nhận việc các bên đã thực hiện một phần thỏa thuận hay thực hiện toàn bộ thỏa thuận mà căn cứ vào việc có căn cứ và hợp pháp của các thỏa thuận để công nhận theo yêu cầu của các đương sự.
Trường hợp hòa giải thành (các bên đã thực hiện một phần hoặc không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn mà các bên thỏa thuận nhưng vẫn trong thời hạn 6 tháng theo Điều 418 BLTTDS), người khởi kiện yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì Tòa án thụ lý việc dân sự để xem xét yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành.
17. Trong vụ án ly hôn, quá trình Hòa giải viên tiến hành hòa giải thì người khởi kiện rút đơn nhưng không đồng ý lập biên bản hòa giải thành vì người khởi kiện không về đoàn tụ. Theo Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 thì Hòa giải viên tiến hành lập biên bản hòa giải. Vậy, biên bản hòa giải trong trường hợp này có được tính là hòa giải thành không?
Đối với vụ án ly hôn, nếu sau khi Hòa giải viên tiến hành hòa giải mà người khởi kiện rút đơn thì được coi là hòa giải đoàn tụ thành và biên bản hòa giải trong trường hợp này được tính là hòa giải thành.
18. Các đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và có yêu cầu Tòa án công nhận thì Trung tâm hướng dẫn đương sự và chuyển
hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án để xem xét công nhận kết quả hòa giải thành. Vậy, khi chuyển sang giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì Tòa án có phải Thông báo thụ lý việc hôn nhân gia đình cho đương sự, Viện kiểm sát không?
Tòa án thông báo thụ lý việc hôn nhân gia đình cho đương sự, Viện kiểm sát theo quy định tại Chương XXIII quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật Tố tụng dân sự.
19. Đối với các tranh chấp dân sự cần phải xác minh trên thực tế như xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, thẩm định giá tài sản mới có đủ căn cứ để công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì ai có thẩm quyền ra quyết định thẩm định, định giá tài sản? Trung tâm Hòa giải, đối thoại có thu chi phí thẩm định, định giá hay không?
Trong quá trình tiến hành hòa giải, Hòa giải viên có quyền đề nghị người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ, bao gồm việc đề nghị xem xét thẩm định, định giá tài sản làm căn cứ để công nhận kết quả hòa giải thành. Tuy nhiên, việc hòa giải được tiến hành trên tinh thần tự nguyện và tự quyết định của các đương sự nên việc xem xét thẩm định, định giá tài sản chỉ được tiến hành khi các đương sự đồng ý và tự nguyện chi trả chi phí thẩm định, định giá tài sản.
20. Trường hợp Hòa giải viên đưa thiếu người tham gia tố tụng trong quá trình hòa giải mà người này không đồng ý với kết quả hòa giải; hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình xét đơn yêu cầu công nhận việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn làm thay đổi bản chất của vụ việc đã hòa giải mặc dù đã hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành thì giải quyết như thế nào?
Tòa án xem xét ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXVIII của Bộ luật Tố tụng dân sự; trong đó, khoản 3 Điều 396 quy định: “Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ chứng minh thỏa thuận về thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là có căn cứ và hợp pháp”.
Do đó, nếu Hòa giải viên đưa thiếu người tham gia tố tụng trong quá trình hòa giải mà ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của họ và họ không đồng ý với kết quả hòa giải; hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình xét đơn yêu cầu công nhận việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn làm thay đổi bản chất của vụ việc đã hòa giải, ảnh hưởng đến tính có căn cứ và hợp pháp của các thỏa thuận thì Thẩm phán không ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành.
21. Thế nào là một vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành, tiêu chí thống kê và phương pháp tính tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành?
21.1. Vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành
a) Qua hòa giải, đối thoại các bên đạt được thỏa thuận, thống nhất với nhau về toàn bộ các vấn đề phải giải quyết;
b) Qua hòa giải, đối thoại, các bên đạt được thỏa thuận thống nhất về một hoặc một số vấn đề cần giải quyết; những vấn đề còn lại đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết;
c) Hòa giải ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ;
d) Hòa giải ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ chồng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
đ) Qua hòa giải, đối thoại người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
Trường hợp qua hoà giải, đối thoại, các bên đạt được thỏa thuận thống nhất về một hoặc một số vấn đề cần giải quyết; những vấn đề không thỏa thuận được, đương sự tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp này được tính bằng 1/2 vụ việc hoà giải thành, đối thoại thành.
21.2. Việc thống kê kết quả công tác hòa giải, đối thoại tại các Trung tâm hòa giải, đối thoại
a) Các chỉ tiêu thống kê công tác hòa giải, đối thoại:
(1) Số đơn Trung tâm tiếp nhận giải quyết
(2) Số vụ việc Trung tâm đã giải quyết
(3) Số vụ việc Trung tâm hòa giải thành, đối thoại thành
(4) Số vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành sau khi hòa giải, đối thoại tại Trung tâm
b) Phương pháp tính tỷ lệ các chỉ tiêu thống kê về kết quả hòa giải, đối thoại các Trung tâm hòa giải, đối thoại
(1) Tỷ lệ đơn Trung tâm tiếp nhận giải quyết = (Số đơn Tòa án chuyển Trung tâm + Số đơn đương sự gửi trực tiếp đến Trung tâm đủ điều kiện giải quyết) / (Số đơn Tòa án nhận được + Số đơn đương sự gửi trực tiếp đến Trung tâm đủ điều kiện giải quyết) * 100%.
Trong đó:
Số đơn đương sự gửi trực tiếp đến Trung tâm đủ điều kiện giải quyết = Số đơn đương sự gửi trực tiếp đến Trung tâm - (Số đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án + Số đơn thuộc trường hợp luật quy định không được hoà giải, đối thoại).
(2) Tỷ lệ vụ việc Trung tâm đã giải quyết = Số vụ việc Trung tâm đã giải quyết / Tổng số vụ việc Trung tâm tiếp nhận đủ điều kiện giải quyết * 100%.
Trong đó:
* Số vụ việc Trung tâm đã giải quyết = Số vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành + Số vụ việc hòa giải, đối thoại không thành.
- Số vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành = Số vụ việc các bên thỏa thuận thống nhất với nhau về tất cả các vấn đề phải giải quyết + 1/2 Số vụ việc các bên thỏa thuận thống nhất được một hoặc một số vấn đề phải giải quyết, các vấn đề còn lại đương sự yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết + Số vụ việc đoàn tụ thành + Số vụ việc thuận tình ly hôn + Số vụ việc đương sự rút đơn.
- Số vụ việc hòa giải, đối thoại không thành = Số vụ việc các bên không thỏa thuận được toàn bộ các vấn đề + Số vụ việc đương sự yêu cầu không hòa giải, đối thoại sau khi đã hòa giải, đối thoại một lần trở lên.
(3) Tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành = Số vụ việc Trung tâm hòa giải thành, đối thoại thành/ Tổng số vụ việc Trung tâm đã giải quyết * 100%.
(4) Tỷ lệ các vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành = Số vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành /Tổng số vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành tại Trung tâm * 100%.
21.3. Việc thống kê được thực hiện theo Biểu mẫu và Hướng dẫn biểu mẫu kèm theo Công văn này.
Số đơn đủ điều kiện giải quyết là đơn khởi kiện và đơn yêu cầu hòa giải, đối thoại đương sự nộp trực tiếp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Đương sự không đồng ý hòa giải, đối thoại là trường hợp đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án hoặc Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án triệu tập mà đương sự vắng mặt.
(Kèm theo Công văn này là một số mẫu văn bản sử dụng trong quá trình triển khai thí điểm)
Trên đây là hướng dẫn bổ sung của Tòa án nhân dân tối cao về nghiệp vụ thực hiện thí điểm đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án các Tòa án nhân dân thực hiện thí điểm sau khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt và triển khai ngay để bảo đảm việc thực hiện thí điểm được thống nhất./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Thúy Hiền
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Phó Chánh án TANDTC (để phối hợp chỉ đạo); - Ban Nội chính TW; - Ban Dân vận TW; - Ban Chỉ đạo CCTPTW; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Các Thẩm phán TANDTC; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC; - Cổng TTĐT TANDTC; - Lưu: VT, Vụ PC&QLKH.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN …(1) TRUNG TÂM HÒA GIẢI - ĐỐI THOẠI --------
BIÊN BẢN THOẢ THUẬN VỀ LY HÔN, NUÔI CON VÀ CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Hôm nay, vào hồi .... giờ .... phút, ngày .... tháng .... năm 201 .
(2)
Tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại Tòa án nhân dân
………………………………………
Tiến hành phiên hòa giải để các bên tham gia thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp, yêu cầu ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn theo Giấy xác nhận nhận đơn số ……….. ngày....tháng... năm ……
I. Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại:
- Hòa giải viên: …………………………………………………………………………………….
- Thư ký phiên hòa giải: …………………………………………………………………………..
- Thẩm phán (4) …………………………………………………………………………………….
(5)
- Người khởi kiện
: ………………………………………………………………………………
Địa chỉ(6): ……………………………………………………………………………………………
(7)
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện
: …………………………………………
Địa chỉ(8): ……………………………………………………………………………………………
(9)
- Người bị kiện
: ………………………………………………………………………………….
Địa chỉ(10): ………………………………………………………………………………………….
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện(11)
: ………………………………………….
Địa chỉ(12): ………………………………………………………………………………………….
(13)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
: …………………………………………………..
Địa chỉ(14): ………………………………………………………………………………………….
(15)
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
: ……………
Địa chỉ(16): ………………………………………………………………………………………….
II. Kết quả hòa giải:
Phiên hòa giải đã được tiến hành trên tinh thần chủ động và tự nguyện, các bên thống nhất giải quyết các vấn đề tranh chấp như sau:
1 ………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
2 ………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
Thỏa thuận này được lưu trong hồ sơ của Tòa án, các bên có quyền yêu cầu Tòa án ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự và Quyết định của Tòa án sẽ được thi hành theo quy định của pháp luật.
Biên bản kết thúc vào hồi .... giờ .... phút năm 2018 và được lập thành .... bản, mỗi bên giữ 01 bản, Trung tâm Hòa giải, đối thoại Tòa án nhân dân …………. lưu 01 bản.
Thư ký ghi biên bản
Hòa giải viên
Thẩm phán
(17)
Các đương sự tham gia hòa giải
(1) (2) Ghi tên Tòa án nhân dân nơi đặt trụ sở Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án
(3) Ghi số, ngày, tháng, năm nhận đơn.
(4) (17) Chỉ ghi Thẩm phán trong trường hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hoà giải, vợ, chồng không đồng ý đoàn tụ, nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
(5) (9)(13) Nếu là cá nhân thì ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh và số chứng minh thư nhân dân/căn cước công dân/hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác của người đó; nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi tên cơ quan, tổ chức và họ tên của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp có nhiều người thì đánh số thứ tự 1, 2, 3,... và ghi đầy đủ các thông tin của từng người. Nếu có mặt tại phiên hoà giải thì ghi “có mặt”, nếu vắng mặt tại phiên hoà giải thì ghi “vắng mặt”.
(6) (10) (14) Nếu người là cá nhân thì ghi đầy đủ địa chỉ nơi cư trú, nơi làm việc (nếu có) của người đó tại thời điểm làm đơn yêu cầu (ví dụ: thôn Bình An, xã Phú Cường, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội); nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi địa chỉ trụ sở của cơ quan, tổ chức đó tại thời điểm làm đơn yêu cầu (ví dụ: trụ sở tại số 20 phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội).
(7) (8)( (11) (12) (15) (16) Ghi họ tên và địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, nếu là Luật sư thì ghi Luật sư của Văn phòng luật sư nào và thuộc Đoàn Luật sư nào. Nếu có nhiều người thì phải ghi cụ thể đại diện cho người nào.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN …(1) TRUNG TÂM HÒA GIẢI - ĐỐI THOẠI --------
BIÊN BẢN KHÔNG HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI ĐƯỢC
Hôm nay, vào hồi .... giờ .... phút, ngày .... tháng .... năm 2019.
Tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại Tòa án nhân dân(2) ……………………………..
Tiến hành phiên hòa giải, đối thoại để các bên thỏa thuận thống nhất với nhau về việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện theo Giấy xác nhận nhận đơn số...ngày... tháng …năm......
I. Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại:
- Hòa giải viên, Đối thoại viên: ……………………………………………………………………
- Thư ký phiên hòa giải, đối thoại: ……………………………………………………………….
(4)
- Người khởi kiện
: ……………………………………………………………………………….
Địa chỉ(5): …………………………………………………………………………………………….
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện(6): …………………………………………
Địa chỉ(7): …………………………………………………………………………………………….
- Người bị kiện(8): ……………………………………………………………………………………
Địa chỉ(9): …………………………………………………………………………………………….
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện(10)
: ……………………………………………
Địa chỉ(11): …………………………………………………………………………………………….
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan(12)
: …………………………………………………….
Địa chỉ(13): …………………………………………………………………………………………….
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan(14): ………………
Địa chỉ(15): …………………………………………………………………………………………….
Xét thấy(16)
……………………………………………………………………………………………
Vì vậy, vụ việc này sẽ được chuyển lại Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc tố tụng hành chính1.
Biên bản kết thúc vào hồi .... giờ .... phút cùng ngày.
Thư ký ghi biên bản
Hòa giải viên, Đối thoại viên
Các bên tham gia hòa giải/ đối thoại
1
Chỉ chuyển lại Tòa án để giải quyết trong trường hợp nhận đơn từ Tòa án chuyển sang.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN …(1) TRUNG TÂM HÒA GIẢI - ĐỐI THOẠI --------
BIÊN BẢN HÒA GIẢI THÀNH, ĐỐI THOẠI THÀNH
Hôm nay, vào hồi .... giờ .... phút, ngày .... tháng .... năm ……
Tại Trung tâm Hòa giải, đối thoại Tòa án nhân dân(2) ………………………………………
Tiến hành phiên hòa giải, đối thoại để các bên tham gia hòa giải/đối thoại vụ việc theo Giấy xác nhận nhận đơn số... ngày... tháng... năm....
I. Thành phần tham gia phiên hòa giải, đối thoại:
- Hòa giải viên: ………………………………………………………………………....
- Thư ký phiên hòa giải: …………………………………………………………………….
(4)
- Người khởi kiện
: ……………………………………………………………………………….
Địa chỉ(5): ……………………………………………………………………………………………
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện(6): …………………………………………
Địa chỉ(7): ……………………………………………………………………………………………
- Người bị kiện(8): ………………………………………………………………………………….
Địa chỉ(9): ……………………………………………………………………………………………
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện(10)
: ………………………………………….
Địa chỉ(11): …………………………………………………………………………………………..
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan(12)
: ……………………………………………………
Địa chỉ(13): ……………………………………………………………………………………………
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan(14): ……………..
Địa chỉ(15): ……………………………………………………………………………………………
II. Kết quả hòa giải/đối thoại:
Phiên hòa giải/đối thoại đã được tiến hành phù hợp và theo đúng quy định, trên tinh thần chủ động và tự nguyện, các bên thống nhất giải quyết các vấn đề như sau:
1 ………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………
tại thời điểm làm đơn yêu cầu (ví dụ: trụ sở tại số 20 phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội).
(6)(10)(14) Ghi họ tên và địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, nếu là Luật sư thì ghi Luật sư của Văn phòng luật sư thuộc Đoàn Luật sư nào. Nếu có nhiều người thì phải ghi cụ thể đại diện cho người nào.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
………., ngày ……. tháng ……. năm ……..
TÒA ÁN NHÂN DÂN …(1) TRUNG TÂM HÒA GIẢI - ĐỐI THOẠI -------- Số: ……/TB
THÔNG BÁO
CHUYỂN ĐƠN KHỞI KIỆN
(2)
Kính gửi:
………………………………………………………………………………
(3)
………………………………… đã nhận được đơn khởi kiện đề ngày
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án (4)
………….. nộp trực tiếp (hoặc do bưu điện chuyển đến hoặc gửi trực tuyến
…….. tháng ……. năm ……… của bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án) hoặc do Tòa án(5) ………………… chuyển đến ngày...... tháng …… năm ………
Về việc yêu cầu Tòa án giải quyết (ghi tóm tắt các yêu cầu trong đơn khởi kiện) …………
……………………………………………………………………………………………………….
(6)
………………………………….. nhận thấy vụ việc nêu trên thuộc
Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (hoặc nhận thấy vụ
(7)
việc không thuộc thẩm quyền giải quyết
……………….. ).
(9)
…………………… và các tài liệu kèm theo (nếu có) đến Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án(8) …………………………. đã chuyển đơn khởi kiện của 1 .
GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM (Ký tên, ghi rõ họ tên, đóng dấu)
Nơi nhận: - Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; - Lưu tại Tòa án.
(1)(3)(6)(7) Ghi tên Trung tâm hòa giải, đối thoại theo tên Tòa án nơi đặt trụ sở;
(5) Ghi tên Tòa án nơi Trung tâm Hòa giải đối thoại đặt trụ sở
____________________
1
Riêng đối với trường hợp người yêu cầu nộp trực tiếp tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án mà vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân nơi đặt trụ sở của Trung tâm hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì không chuyển đơn cho Tòa án.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN KẾT QUẢ HÒA GIẢI/ĐỐI THOẠI THÀNH
Kính gửi: Tòa án nhân dân ………………………………….
(1)
Người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải/đối thoại thành: (2) ………………………………
(3)
Địa chỉ:
…………………………………………………………………………………………..
Số điện thoại (nếu có): ………………………………….. ;
Fax (nếu có): ……………………………………………….
Địa chỉ thư điện tử (nếu có): ……………………………………………………………………..
(4)
Tôi (chúng tôi) xin trình bày với Tòa án nhân dân
……………………………………………… việc như sau: Tại
(5)
……………… chúng tôi đã thống nhất hòa giải/đối thoại theo biên bản
Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án hòa giải/đối thoại thành ngày ...tháng ...năm ....
(6)
Nay, tôi/chúng tôi yêu cầu Tòa án công nhận:
…………………………………………………..
- Tên và địa chỉ của những người có liên quan đến những vấn đề yêu cầu Tòa án công nhận:(7) …………………………………………………………………………………….
(8)
- Các thông tin khác (nếu có):
………………………………………………………………….
Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn yêu cầu:(9)
1 ………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………...
2 ………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………...
3 ………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
Tôi (chúng tôi) cam kết những thông tin trong đơn là đúng sự thật.
……………, ngày.... tháng.... năm ………(9) NGƯỜI YÊU CẦU(10)
TÒA ÁN NHÂN DÂN ………(1) --------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ------------
…………, ngày …. tháng …. năm ………
Số: ……../TB-TA
THÔNG BÁO
CHUYỂN ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi:(2) ………………………………………………………………………………
Tòa án nhân dân (3) ……………………………………. đã nhận được đơn khởi kiện đề ngày …… tháng …… năm
(4)
……………………………………………….. nộp trực tiếp (hoặc do bưu điện chuyển đến hoặc gửi
………. của trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án) ngày.... tháng …… năm ……… về việc yêu cầu Tòa án giải quyết (ghi tóm tắt các yêu cầu trong đơn khởi kiện) .................................................................................
...................................................................................................................................
(5)
Xét thấy vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
………..
(7)
……………………. và các tài liệu
Tòa án nhân dân(6) …………………………….. đã chuyển đơn khởi kiện của kèm theo (nếu có) đến Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án để giải quyết.
CHÁNH ÁN (Ký tên, ghi rõ họ tên, đóng dấu)
Nơi nhận: - Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; - Lưu tại Tòa án.
(1)(3)(5)(6) Ghi tên Tòa án nơi đặt trụ sở Trung tâm hòa giải, đối thoại;
(2) Ghi tên Trung tâm Hòa giải, đối thoại theo tên Tòa án nơi đặt trụ sở;
(4) và (7) Nếu người khởi kiện là cá nhân thì ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh và số chứng minh thư nhân dân/căn cước công dân/hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác của người đó; nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi tên cơ quan, tổ chức và họ tên của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Nếu là người đại diện theo pháp luật thì sau họ tên ghi "- là người đại diện theo pháp luật của người có quyền khởi kiện" và ghi rõ họ tên của người có quyền khởi kiện; nếu là người đại diện theo ủy quyền thì ghi "- là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền khởi kiện theo văn bản ủy quyền được xác lập ngày …………." và ghi rõ họ tên của người có quyền khởi kiện. Trường hợp có nhiều người cùng làm đơn khởi kiện thì đánh số thứ tự 1, 2, 3,... và ghi đầy đủ các thông tin của từng người.
TÒA ÁN NHÂN DÂN ………………………………………..
TRUNG TÂM HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI
THỐNG KÊ THỤ LÝ, GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC TẠI TRUNG TÂM HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI
Từ ngày ……… đến ngày …………..
KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC TẠI TRUNG TÂM HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI
SỐ ĐƠN ĐỦ ĐIỀU KIỆN TRUNG TÂM TIẾP NHẬN GIẢI QUYẾT
phân tích một số đặc điểm các vụ việc đã hòa giải, đối thoại
Loại vụ việc
Tên đơn vị
Hòa giải thành, đối thoại thành
Tòa án chuyển
Tổng số
Còn lại
Hòa giải, đối thoại không thành
Tổng số vụ việc giải quyết tại Trung tâm
Đương sự nộp trực tiếp
Tổng số đơn khởi kiện Tòa án nhận được
Tổng số vụ việc đã giải quyết
Số vụ việc tổ chức hòa giải, đối thoại nhiều lần
Số vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành
Tỷ lệ các vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành
Tỷ lệ các vụ việc giải quyết/ Tổng số vụ việc đủ
Đương sự không đồng ý hòa giải, đối thoại tại
Tỷ lệ đơn đủ điều kiện giải quyết tại Trung tâm /
/ Tổng số vụ việc đã giải quyết
điều kiện giải quyết tại Trung tâm
Trung tâm hoặc được triệu tập nhưng không đến Trung tâm để hoà giải, đối thoại
(Tổng số đơn khởi kiện Tòa án nhận được + Số đơn đương sự nộp trực tiếp đủ điều kiện giải quyết tại Trung tâm)
Cộng
Cộng
Tổng cộng
2 lần
Mới thụ lý
Thuận tình ly hôn
Đoàn tụ thành
Đương sự rút đơn
Cũ còn lại
Không thành toàn bộ vụ việc
Từ 3 lần trở lên
Đương sự thống nhất được toàn bộ các vấn để cần giải quyết
Đương sự yêu cầu không hòa giải, đối thoại sau khi đã hòa giải, đối thoại một lần trở lên
Số vụ việc đương sự thỏa thuận được với nhau một hoặc một số vấn đề, các vấn đề còn lại đương sự tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết
1
2 Dân Sự HNGĐ KDTM
3
8
12
4
13
Tỷ lệ các vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành/ Tổng số vụ việc Trung tâm hòa giải, đối thoại thành 26 27 28
Cấp tỉnh
5
14
6
9 10 11
15
16
7
17
18
19
20
21
22
23
24 25
Lao động
Hành chính Cộng Dân sự HNGĐ KDTM
Cấp huyện
Lao động
Tổng số
Hành chính Cộng Tổng cộng Hướng dẫn Biểu mẫu
Cột 3: ghi số đơn khởi kiện Tòa án nhận được
Từ Cột 4 đến Cột 8: thống kê số đơn đủ điều kiện Trung tâm tiếp nhận giải quyết (là đơn yêu cầu hòa giải, đối thoại các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính); cụ thể:
Cột 4: ghi số đơn đủ điều kiện giải quyết do Tòa án chuyển đến Trung tâm
Cột 5: ghi số đơn đủ điều kiện giải quyết do đương sự nộp trực tiếp tại Trung tâm
Cột 6: ghi số đơn đương sự không đồng ý hòa giải, đối thoại (bao gồm cả đơn do Tòa án và do đương sự nộp trực tiếp tại Trung tâm)
Cột 7: tổng số đơn đủ điều kiện Trung tâm tiếp nhận giải quyết. Cột 7 = (Cột 4 + Cột 5) - Cột 6
Cột 8: tỷ lệ đơn đủ điều kiện giải quyết tại Trung tâm. Cột 8 = Cột 7 / {Cột 3 + (Cột 5 - Cột 6)} *100%
Từ Cột 9 đến Cột 11: thống kê số vụ việc hòa giải, đối thoại Trung tâm phải giải quyết, cụ thể:
Cột 9: số vụ việc cũ còn lại chưa giải quyết từ kỳ thống kê trước chuyển sang. Cột 9 = Cột 24 kỳ thống kê trước chuyến sang
Cột 10: số vụ việc mới thụ lý trong kỳ thống kê. Cột 10 = Cột 7 chuyển sang.
Cột 11: tổng số vụ việc phải giải quyết trong kỳ thống kê. Cột 11 = Cột 9 + Cột 10
Từ Cột 12 đến Cột 17: thống kê số vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành tại Trung tâm, cụ thể:
Cột 12: số vụ việc đương sự thống nhất được tất cả các vấn đề cần giải quyết, (bao gồm cả các vụ việc đương sự thỏa thuận được với nhau một hoặc một số vấn đề, những vấn đề còn lại đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết)
Cột 13: số vụ việc đương sự đồng ý Đoàn tụ (trong vụ việc hôn nhân và gia đình)
Cột 14: số vụ việc đương sự đồng ý Thuận tình ly hôn (trong vụ việc hôn nhân gia đình)
Cột 15: số vụ việc đương sự đồng ý rút đơn khởi kiện.
Cột 16: Số vụ việc đương sự thỏa thuận được với nhau một hoặc một số vấn đề, các vấn đề còn lại đương sự tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết.
Cột 17: Tổng số các vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành. Cột 17 = Cột 12 + Cột 13 + Cột 14 + Cột 15 + (Cột 16 x 1/2)
Từ Cột 18 đến Cột 20: thống kê các vụ việc hòa giải, đối thoại không thành, cụ thể:
Cột 18: số vụ việc đương sự không thỏa thuận thống nhất được tất cả các vấn đề cần giải quyết
Cột 19: số vụ việc Trung tâm đã hòa giải, đối thoại một lần hoặc nhiều lần nhưng đương sự chưa thống nhất, sau đó đương sự yêu cầu không tiếp tục hòa giải, đối thoại.
Cột 20: tổng số vụ việc hòa giải, đối thoại không thành. Cột 20 = Cột 18 + Cột 19
Cột 21: tổng số vụ việc Trung tâm đã giải quyết. Cột 21 = Cột 17 + Cột 20
Cột 22: tỷ lệ giải quyết các vụ việc hòa giải, đối thoại của Trung tâm. Cột 22 = (Cột 21 / Cột 7) * 100%
Cột 23: tỷ lệ các vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành tại Trung tâm. Cột 23 = (Cột 17 / Cột 21) *100%
Cột 24: số vụ việc còn lại Trung tâm chưa giải quyết trong kỳ thống kê
Từ Cột 25 đến Cột 28: phân tích một số đặc điểm của các vụ việc đã hòa giải thành, đối thoại thành tại Trung tâm, cụ thể:
Cột 25: tổng số vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành sau khi hòa giải, đối thoại tại Trung tâm
Cột 26: tỷ lệ các vụ việc đương sự yêu cầu Tòa án ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Cột 26 = (Cột 25 / Cột 17) * 100%
Cột 27 và Cột 28: số vụ việc Trung tâm tổ chức hòa giải, đối thoại nhiều lần, trong đó:
+ Cột 27: số vụ việc Trung tâm tổ chức hòa giải, đối thoại 2 lần
+ Cột 28: số vụ việc Trung tâm tổ chức hòa giải, đối thoại từ 3 lần trở lên
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 03 tháng 4 năm 2019
Số: 64/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính.
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 09-01-2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức buổi giải đáp trực tuyến toàn quốc về một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như sau:
I. Về hình sự
1. Tình tiết “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được hiểu như thế nào?
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự thì không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ nếu sau khi bị kết án đã nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Tuy nhiên, đối với trường hợp bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn hoặc tù chung thân là loại hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt tử hình, nên “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 63 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp, người bị kết án bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của phía bị hại (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”.
2. Tình tiết “chứa mại dâm 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 và “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự được hiếu như thế nào (người bán dâm hay bao gồm cả người mua dâm)?
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “mại” là “bán”, “mãi” là “mua” và “chứa mại dâm” là “chứa bán dâm”. Như vậy, tình tiết định khung tăng nặng “chứa mại dâm 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 và “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự được hiểu là đối với người bán dâm. Cách hiểu này là phù hợp với các tình tiết định khung tăng nặng khác quy định tại tại Điều 327 và Điều 328 của Bộ luật Hình sự, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn xử lý đối với hành vi chứa mại dâm mà có 01 người bán dâm với
03 người mua dâm trong cùng một khoảng thời gian thì bị xử lý theo quy định tại khoản 1 của điều luật này nếu không có tình tiết định khung tăng nặng.
3. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự thì có xử lý về hình sự hay không?
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định kế thừa quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về việc lấy trị giá tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự. Trước đây, nội dung này đã được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP ngày 25-12-2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Hiện nay, chưa có Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quy định này của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, vận dụng Thông tư liên tịch số 02 này thì trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần trị giá tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng trị giá tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
4. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu, mà trị giá tài sản của các lần phạm tội đã được cộng lại để xử lý trách nhiệm hình sự theo khung tăng nặng, thì họ có bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” hay không?
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu (ví dụ: nhiều lần phạm tội trộm cắp tài sản), mà tổng trị giá tài sản của các lần phạm tội thỏa mãn dấu hiệu định khung tăng nặng, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Việc áp dụng khung hình phạt tăng nặng trong trường hợp này là căn cứ vào trị giá tài sản chiếm đoạt, còn việc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” là căn cứ vào nhân thân và thái độ chấp hành pháp luật của người phạm tội, nên hoàn toàn không trái với quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự (các tình tiết đã được Bộ luật Hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng). Hơn
nữa, việc áp dụng pháp luật như trên còn bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều 3 của Bộ luật Hình sự), bảo đảm sự phân hóa tội phạm, cá thể hóa trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm sự công bằng trong việc xem xét cho hưởng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện cũng như các chế định nhân đạo khác đối với người phạm tội.
Ví dụ: Một người trộm cắp 02 lần mỗi lần 2.000.000 đồng. Do thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự nên theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP thì họ không được hưởng án treo. Tuy nhiên, giả sử hai lần trộm cắp đó có tổng trị giá tài sản là 50.000.000 đồng, nếu Tòa án chỉ căn cứ vào trị giá tài sản để áp dụng tình tiết định khung “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, mà không căn cứ vào nhân thân và thái độ chấp hành pháp luật của người phạm tội để áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” thì họ vẫn có thể được hưởng án treo. Việc áp dụng như vậy sẽ không bảo đảm nguyên tắc công bằng và phù hợp trong việc xử lý.
5. Khi xem xét, áp dụng tình tiết định khung “sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự ngoài việc chứng minh, làm rõ các bị cáo sử dụng trang mạng đánh bạc trực tuyến không được phép hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội Việt Nam để đánh bạc thì có phải chứng minh các bị cáo nhận, trả tiền thắng, thua bạc qua tài khoản mạng hay không?
Khi xem xét, áp dụng tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự thì chỉ cần chứng minh các bị cáo sử dụng trang mạng đánh bạc trực tuyến không được phép hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội Việt Nam để đánh bạc là đã đủ điều kiện để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Việc chứng minh các bị cáo nhận, trả tiền thắng, thua bạc bằng phương thức nào chỉ nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khác của vụ án.
6. Trường hợp người vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích vay vốn, tức là dùng vốn vay với mục đích ban đầu là đầu tư, kinh doanh, sản xuất nhưng sau đó tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiện đi lại dẫn đến không trả được nợ thì có được coi là “sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” và có bị xử lý trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù cỏ điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. So với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự năm 1999, điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm tình tiết “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Như vậy, người vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích xin vay vốn nhưng không sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp (buôn lậu, rửa tiền, sản xuất, buôn bán ma túy...) mà dùng vốn vay để tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiện đi lại...) dẫn đến khi đến hạn họ không có điều kiện, khả năng trả nợ thì không coi là sử dụng tài sản vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản để xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trường hợp đến thời hạn trả lại tài sản mà họ có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả (có nhà, đất đai, tài sản nhưng chây ì, tẩu tán hoặc có hành vi chống đối lại việc kê biên, thu hồi tài sản...) thì bị xử lí trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
7. Người chấp hành án đã chấp hành xong hình phạt tù, đã đủ thời gian được xem là đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự nhưng chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án do không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp này có được đương nhiên xóa án tích không?
Điều 70 của Bộ luật Hình sự quy định về các điều kiện đương nhiên được xóa án tích, trong đó có điều kiện: người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, Bộ luật Hình sự không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp xong hành hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Hơn nữa, pháp luật thi hành án dân sự quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành án có quyền lựa chọn như: tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ thân nhân nộp thay.
Do vậy, trường hợp người bị kết án (sau này là bị can, bị cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự.
8. Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì “người tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có” có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hay không?
Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có ” là có cần cứ chứng minh biết được tài sản có được trực
tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa. Do vậy, trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội trước không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng có đủ chứng cứ chứng minh được ý thức chủ quan của người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ biết rõ các tài sản mà họ chứa chấp, tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
9. Trường hợp xác định được ngày, giờ, phút sinh của người bị buộc tội thì tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội là theo ngày sinh hay theo ngày, giờ, phút sinh?
Theo quy định tại Điều 417 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì tuổi của người bị buộc tội được xác định theo ngày sinh mà không tính theo giờ, phút sinh. Mặt khác, theo nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội nên mặc dù xác định được ngày, giờ, phút sinh của người bị buộc tội nhưng việc tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội là theo ngày sinh.
II. Về dân sự
1. Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật. Vậy giao dịch thế chấp đó có bị vô hiệu không?
Tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự quy định:
“...2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. …”
Theo Bản thuyết minh Dự án Bộ luật Dân sự năm 2015 của Ban soạn thảo thì quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự là nhằm: “...Bảo đảm công bằng, hợp lý đối với người thiện chí, ngay tình và bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự (các Bộ luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự)...”. Cho nên, cụm từ “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự phải
được áp dụng theo nghĩa rộng. Có nghĩa là: Không chỉ có những giao dịch nhằm chuyển giao quyền sở hữu như: Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn nhà ở; chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn bằng quyền sử dụng đất... mà cả những giao dịch nhằm chuyển giao những quyền về sở hữu đối với tài sản hoặc quyền về sử dụng đối với thửa đất.
Đồng thời, thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm, theo quy định tại Điều 317 của Bộ luật Dân sự thì nội hàm của thế chấp tài sản là việc người thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp mà không giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 320 của Bộ luật Dân sự quy định nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản là: “Giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm quy định tại Điều 299 của Bộ luật này...”; khoản 7 Điều 323 của Bộ luật Dân sự quy định quyền của bên nhận thế chấp: “Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này”. Như vậy, mục đích của thế chấp là người có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp, trong trường hợp nghĩa vụ đó không được bên thế chấp thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải giao tài sản đã thế chấp cho bên nhận thế chấp xử lý nhằm bảo đảm quyền lợi của bên nhận thế chấp. Vì vậy, phải xem thế chấp tài sản là một giao dịch chuyển giao tài sản có điều kiện; để bảo đảm quyền lợi cho bên nhận thế chấp ngay tình thì phải hiểu quy định “chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự được áp dụng cả trong trường hợp giao dịch về thế chấp tài sản.
Cho nên, trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu.
2. Trường hợp, trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đó cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho quyền sử dụng đất. Sau đó, các bên tranh chấp và Tòa án xét thấy hợp đồng nói trên bị vô hiệu hoặc chấp nhận yêu cầu hủy bỏ, như vậy khi giải quyết Tòa án có phải áp dụng Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự đưa những cơ quan đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho quyền sử dụng đất không?
Nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng dân sự là giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân... Trên cơ sở đó, Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khi giải quyết các vụ việc dân sự, mà trong vụ việc đó có quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và nội dung của quyết định đó liên quan đến vụ việc Tòa án giải quyết thì Tòa án phải hủy quyết định đó để khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
“Quy định này tạo cơ sở cho Tòa án chủ động trong việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật có ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự, nhằm giải quyết vụ việc dân sự một cách chính xác, toàn diện ”. (Mục 3 Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 10-4-2015 của Tòa án nhân dân tối cao).
Tại mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao về Giải đáp nghiệp vụ đã hướng dẫn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính...” cá biệt. Như vậy, theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất mà trong đó có việc cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đang tranh chấp không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự thì Tòa án phải đưa cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
Tuy nhiên, tại điểm d khoản 2 của Điều 106 của Luật Đất đai quy định cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp “...người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai...”. Theo Điều 195 của Luật Đất đai thì trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung biến động do chuyển quyền sử dụng đất do Chính phủ quy định. Điều 79 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ quy định việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chuyển quyền dựa trên cơ sở hồ sơ hợp đồng, Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ thì việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
3. Tại phiên tòa sơ thẩm, nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn có phải chịu án phí không? Đến ngày mở phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn mới nộp đơn xin rút yêu cầu khởi kiện thì thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Thẩm phán hay Hội đồng xét xử?
a) Về việc chịu án phí
Khoản 3 Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ.”
Khoản 3 Điều 18 của Nghị quyết số 326/2016/LHBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án cũng quy định: Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp.
Điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.”
Quy định tại khoản 3 Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 3 Điều 18 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 không chỉ rõ là áp dụng cho giai đoạn chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa thì phải được hiểu bao gồm cả giai đoạn tại phiên tòa. Không thể áp dụng tương tự quy định của giai đoạn xét xử phúc thẩm cho phiên tòa sơ thẩm vì sẽ là việc đặt ra một quy định mới về trách nhiệm pháp lý nặng hơn của đương sự. Do đó, trường hợp đình chỉ xét xử sơ thẩm do nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, dù là trước khi mở phiên tòa hay tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên đơn vẫn được trả lại tiền tạm ứng án phí; các đương sự không phải chịu án phí sơ thẩm.
b) Về thẩm quyền ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
Điều 219 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về Thẩm quyền ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là:
“1. Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định...
2. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra quyết định...”
Vậy đến ngày mở phiên tòa đã được coi là “tại phiên tòa” hay chưa? Mục 2 Chương XIV Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa. Theo quy định tại Mục này thì phiên tòa bắt đầu bằng thủ tục “Khai mạc phiên tòa” (Điều 239). Do đó, đến ngày mở phiên tòa (được triệu tập) nhưng chưa khai mạc phiên tòa thì chưa coi là “bắt đầu phiên tòa”, chưa coi là “tại phiên tòa”. Nếu nguyên đơn nộp đơn xin rút yêu cầu khởi kiện trước khi khai mạc phiên tòa thì Thẩm phán vẫn có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án chứ không phải là Hội đồng xét xử.
4. Trường hợp con của người để lại di sản vi phạm các quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật Dân sự là những trường hợp không được quyền hưởng di sản nhưng người con này lại
chết trước hoặc cùng người để lại di sản thì con của người này có được hưởng thừa kế thế vị đối với di sản do ông bà để lại hay không?
Điều 652 của Bộ luật Dân sự quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống...”.
Theo quy định tại Điều 652 nêu trên thì: Không phải cứ con chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng di sản. Thừa kế thế vị là hưởng thay và đối tượng hưởng thay đã được quy định rõ là “phần di sản của cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”. Trường hợp một người đã không được quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật Dân sự, như bị kết án về hành vi ngược đãi nghiêm trọng người cha thì họ sẽ không được hưởng di sản của người cha. Do vậy, nếu họ còn sống khi cha chết thì họ cũng không được hưởng di sản thừa kế nên không có “phần được hưởng nếu còn sống” để cho người khác hưởng thế vị.
5. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án để thi hành án, nếu người phải thi hành án không đồng ý với kết quả bán đấu giá thì có quyền khởi kiện “tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản” không?
Theo quy định tại khoản 13 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 102 của Luật Thi hành án dân sự thì chỉ có hai đối tượng, cụ thể là người mua được tài sản bán đấu giá và chấp hành viên, mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá.
Như vậy, Luật Thi hành án dân sự không quy định người phải thi hành có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. Do vậy, người phải thi hành án nếu không đồng ý với kết quả bán đấu giá tài sản thì họ không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết loại tranh chấp này.
Vấn đề đặt ra là tại sao Luật lại quy định như vậy? Vấn đề này có thể giải thích như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của Luật Đấu giá tài sản thì đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49 của Luật này. Theo quy định tại khoản 5 thì người có tài sản đấu giá là cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; theo quy định tại khoản 6 thì người mua được tài sản đấu giá là người trúng đấu giá và ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu giá tài sản; theo quy định tại khoản 8 thì người trúng đấu giá là người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm hoặc bằng giá khởi điểm nếu không có người trả giá cao hơn theo phương thức trả giá lên; hoặc là người chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá đã giảm trong trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống. Thực chất, đây là một giao
dịch dân sự mà chủ thể tham gia là người có tài sản hoặc có quyền đưa tài sản ra đấu giá và người tham gia đấu giá và người trúng đấu giá theo quy định của pháp luật. Chỉ giữa những người này mới phát sinh quyền, nghĩa vụ có khả năng tranh chấp với nhau có liên quan đến kết quả đấu giá và chỉ người này mới có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả đấu giá nếu họ cho rằng có vi phạm pháp luật trong quá trình đấu giá làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Xem xét trường hợp cơ quan thi hành án bán đấu giá tài sản thì Cơ quan thi hành mà cụ thể là Chấp hành viên là bên có quyền đưa tài sản của người phải thi hành án ra bán đấu, mà không phải là người phải thi hành án có tài sản bị cơ quan thi hành án kê biên và đưa ra bán đấu giá để thi hành án, bên trúng đấu giá tài sản là người tham gia đấu giá trả giá cao nhất theo phương thức trả giá lên hoặc chấp nhận mức giá đã giảm theo phương thức đấu giá xuống. Vì vậy, chỉ có Chấp hành viên và người trúng đấu giá đã ký hợp đồng mua tài sản đấu giá mới có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch bán đấu giá và có thể trở thành các bên tranh chấp với nhau về kết quả bán đấu giá tài sản. Người phải thi hành án không phải là người đưa tài sản ra bán đấu giá, tức là không tham gia, không phải là một bên trong giao dịch này nên không có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch và do đó họ không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. Chỉ trong trường hợp duy nhất là họ tham gia và trúng đấu giá thì lúc này với tư cách là người mua được tài sản đấu giá thì họ mới có quyền khởi kiện.
Thứ hai, nếu người phải thi hành án có căn cứ cho rằng cơ quan thi hành án có hành vi, quyết định kê biên, định giá và bán đấu giá đối với tài sản của họ để thi hành án trái pháp luật thì họ có quyền khiếu nại theo quy định tại khoản 1 Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự. Việc giải quyết khiếu nại của họ được thực hiện theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục quy định tại Mục 1 Chương VI của Luật Thi hành án dân sự.
6. Theo khoản 4 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì khi quyết định đình chỉ vụ án “Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có)”, trường hợp nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án có giải quyết việc thi hành án trong quyết định đình chỉ hay không?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Theo quy định nêu trên thì trong trường hợp vụ án đã có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm hủy án để xét xử lại, quá trình giải quyết lại sơ thẩm, nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nhưng họ không đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải được sự đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do vậy, trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nhưng họ không đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan, Tòa án phải hỏi ý kiến của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc có đồng ý đình chỉ giải
quyết vụ án hay không, có yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan không và tùy từng trường hợp xử lý như sau:
- Trường hợp bị đơn không đồng ý đình chỉ giải quyết vụ án, yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan thì Tòa án ra quyết định đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn, xác định lại tư cách bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn.
- Trường hợp bị đơn đồng ý đình chỉ giải quyết vụ án nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý đình chỉ giải quyết vụ án, yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan, yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn, đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn (nếu có); người có quyền, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan yêu cầu Tòa án giải quyết thì trở thành bị đơn. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
- Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng ý đình chỉ giải quyết vụ án, không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án và giải quyết vấn đề án phí, không giải quyết vấn đề hậu quả của việc thi hành án.
- Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để hỏi ý kiến về việc có đồng ý đình chỉ giải quyết vụ án hay không, có yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có liên quan không nhưng vẫn vắng mặt nhưng không vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì coi như đồng ý đình chỉ việc giải quyết vụ án.
III. Về tố tụng hành chính
1. Trong vụ án hành chính, một thành viên hộ gia đình khởi kiện quyết định hành chính thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hộ gia đình thì Tòa án có phải đưa các thành viên khác của hộ gia đình tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”;
Theo quy định tại khoản 29 Điều 3 của Luật Đất đai thì: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
Do đó, khi xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì Tòa án phải đưa các thành viên còn lại của hộ gia đình tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển quyền sử dụng
đất tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
2. Để ban hành quyết định hành chính thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã căn cứ trên cơ sở ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện (tại một số công văn, báo cáo...). Trường hợp quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bị khởi kiện thì Tòa án có phải đưa Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”;
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Luật Khiếu nại thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 203 của Luật Đất đai thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính thì:
“1. Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính... quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan.
2. Hội đồng xét xử có quyền quyết định:
...b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)... ”
Theo các quy định nêu trên thì khi xem xét yêu cầu khởi kiện mà Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành, thì phải đưa Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Đối với trường hợp này, các văn bản hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành (công văn, báo cáo...) không phải là quyết định hành chính có liên quan nên Tòa án không đưa Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
3. Tại phiên tòa sơ thẩm, nếu người bị kiện sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính bị khiếu kiện nhưng người khởi kiện không rút đơn khởi kiện thì Tòa án xử bác đơn khởi kiện do đối tượng khởi kiện không còn có đúng không?
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính theo quy định tại khoản 4 Điều 57 của Luật Tố tụng hành chính.
Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm, người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính để tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa mà người bị kiện ban hành quyết định hành chính mới, người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm, người bị kiện xuất trình quyết định hành chính mới sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện mà người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu người khởi kiện không rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải tiếp tục xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện và quyết định hành chính mới. Trong trường hợp này, Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính để tùy vào từng trường hợp cụ thể mà bác yêu cầu khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật hoặc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện nếu quyết định hành chính bị khởi kiện, quyết định hành chính mới trái pháp luật. Trường hợp quyết định hành chính mới có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì phải tạm ngừng phiên tòa để đưa cơ quan, tổ chức, cá nhân đó tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4. Trong vụ án hành chính đã có quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, nhưng người khởi kiện chỉ khởi kiện đối với quyết định hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Vậy xác định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là của Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh?
Theo quy định của Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính thì khi giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Trong trường hợp này, Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã và quyết định giải quyết khiếu nại Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Trong điều kiện hiện nay, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đang bị áp lực lớn về công việc, để tránh việc chuyên quá nhiều vụ án hành chính lên Tòa án nhân dân cấp tỉnh và phù hợp với các quy định của pháp luật thì trong trường hợp này Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn thụ lý, xem xét giải quyết vụ án hành chính. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trái pháp luật và phải hủy quyết định hành chính này mới bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý, giải quyết vụ án đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đúng pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự và không phải hủy quyết định hành chính này thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý, xem xét tiếp tục giải quyết vụ án.
5. Việc chỉnh lý bản đồ địa chính cấp xã có là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không? Nếu thuộc đối tượng khởi kiện thì xác định người bị kiện trong trường hợp này là ai?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 22 và khoản 3 Điều 31 của Luật Đất đai thì việc khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính thuộc nội dung quản lý nhà nước về đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 22 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT quy định về bản đồ địa chính ngày 19-05-2014 và điểm e khoản 5 Điều 2 của Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT- BTNMT-BNV ngày 28-8-2014 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trong việc lập, chỉnh lý và ký duyệt nghiệm thu bản đồ địa chính.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên thì bản đồ địa chính cấp xã được xác định là quyết định hành chính, nếu việc chỉnh lý bản đồ địa chính cấp xã thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Việc lập, chỉnh lý, ký duyệt bản đồ địa chính do Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc do cơ quan, tổ chức khác thực hiện thì người bị kiện được xác định là cơ quan, tổ chức đã thực hiện việc lập, chỉnh lý, ký duyệt bản đồ địa chính mà người khởi kiện cho rằng việc chỉnh lý đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại khoản 9 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 08 tháng 4 năm 2019
Số: 68/TANDTC-PC V/v xét xử tội phạm xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em
Kính gửi: - Chánh án Tòa án nhân dân các cấp;
- Chánh án Tòa án quân sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Trong thời gian qua, tình trạng tội phạm xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc nghiêm trọng xảy ra gây bức xúc trong dư luận xã hội. Bên cạnh đó, việc triển khai các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các đạo luật có liên quan và các hướng dẫn thi hành trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng phát sinh một số khó khăn, vướng mắc.
Để kịp thời phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, người chưa thành niên, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình quán triệt và thực hiện các nội dung sau đây:
1. Trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc các đạo luật mới được Quốc hội thông qua (như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các đạo luật có liên quan) và các văn bản hướng dẫn thi hành của Tòa án nhân dân tối cao, liên ngành trung ương; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các hình phạt và biện pháp tư pháp được áp dụng bảo đảm nghiêm khắc.
2. Ngay khi tiếp nhận hồ sơ vụ án cần thụ lý, giải quyết theo đúng quy định tại Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21-09-2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Trong quá trình xét xử, cần bảo đảm các quyền của trẻ em, người chưa thành niên trên cơ sở nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi”.
3. Chủ động phối hợp với cơ quan Công an và Viện kiểm sát cùng cấp ngay từ giai đoạn điều tra để kịp thời nắm bắt diễn biến của vụ án, từ đó lên kế hoạch đưa vụ án ra xét xử, bảo đảm kịp thời và đúng thời hạn luật định.
4. Báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các quy định mới của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan, cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em để Tòa án nhân dân tối cao kịp thời phối hợp với liên ngành trung ương hướng dẫn, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao về việc xét xử tội phạm xâm hại tình dục và bạo hành trẻ em. Ngay khi nhận được Công văn này yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tổ chức triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c Phó Chánh án TANDTC - Các đ/c Thẩm phán TANDTC; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2019
Số: 79/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến số 64/TANDTC-PC
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của một số Tòa án nhân dân về vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động quyền sử dụng đất tại Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, cụ thể như sau:
Theo hướng dẫn tại mục 2 Phần II Công văn số 64/TANDTC-PC thì: “khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng”. Trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý vụ án dân sự có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người nhận chuyển quyền thuộc trường hợp nêu tại Công văn số 64/TANDTC-PC thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ án hay ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp huyện. Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
Để bảo đảm việc xét xử kịp thời, tuân thủ pháp luật, đối với những tranh chấp dân sự thuộc trường hợp hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-PC mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung; trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo nhưng chưa thụ lý thì chuyển đơn và tài liệu chứng cứ cho Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền hoặc tiến hành thụ lý, giải quyết nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các đ/c thành viên HĐTP TANDTC (để biết); - Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 09 năm 2019
Số: 212/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 29-7-2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phiên họp trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự và kinh doanh, thương mại. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như sau:
I. Về hình sự
1. Vướng mắc về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (quy định tại Điều 201 của Bộ luật Hình sự).
- Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho vay hay là khoản tiền lãi thu được sau khi trừ đi tiền lãi theo quy định của Bộ luật Dân sự?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay...”. Do đó, khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay hay số tiền lãi thu được của từng người vay?
Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng bị tịch thu sung công hay trả lại cho người vay?
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì: “Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Do đó, khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay và khoản lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm có xác định là phương tiện phạm tội để tịch thu sung quỹ nhà nước hay trả cho người phạm tội?
Đối với khoản tiền cho vay (tiền gốc) được xác định là phương tiện phạm tội, nên bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm tuy không bị tính khi xác định trách nhiệm hình sự, nhưng đây cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, đồng thời hoạt động cho vay lãi nặng thường gắn với các băng nhóm tội phạm. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án phải tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản tiền này.
- Người vay tiền trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tham gia tố tụng với tư cách là bị hại hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?
Theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người vay tiền trong trường hợp này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
- Trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có bắt buộc phải trưng cầu giám định về tiền lãi không?
Tại Điều 4 của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP ngày 13- 12-2017 quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế thì việc xác định tiền lãi, tiền lãi nặng trong vụ án này không thuộc trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tư pháp.
2. Trường hợp người chấp hành án mới được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (trong thời hạn 01 năm) thì có được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện hay không?
Theo các quy định của pháp luật về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì không giới hạn thời gian từ khi được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đến khi xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Do đó, nếu người đang chấp hành án phạt tù có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì có thể tha tù trước thời hạn có điều kiện.
3. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” có tương tự như tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” không?
Tình tiết "Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án" và tình tiết "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” là hai tình tiết độc lập quy định tại điểm t và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” được hiểu là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra.
4. Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự thì tội cướp tài sản có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Vậy có được xử bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mức hình phạt là 04 năm tù không?
Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mức phạt tù có thời hạn cao nhất được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, luật chỉ khống chế mức phạt cao nhất áp dụng đối với đối tượng này mà không khống chế mức thấp nhất. Do đó, trong trường hợp nêu trên, Tòa án có thể áp dụng mức phạt 04 năm tù đối với bị cáo, nếu việc áp dụng hình phạt đó bảo đảm được mục đích của hình phạt và các nguyên tắc trong việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội.
5. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có được coi các tình tiết về nhân thân của bị cáo như trình độ học vấn thấp, là lao động chính, có con nhỏ, có ông bà là người có công Cách mạng... là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự hay không?
Hiện nay quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tham khảo quy định tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xác định tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
6. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và lại xin giảm mức bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp phúc thẩm có xem xét yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 342 của của Bộ luật Tố tụng hình sự thì: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo...”. Đồng thời, theo quy định tại Điều 345 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị”.
Theo quy định nêu trên, bị cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo trong quá trình xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, trường hợp trước khi bắt đầu phiên tòa vì bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên Tòa án đã không triệu tập bị hại, đương sự trong vụ án tham gia phiên tòa do phần kháng cáo không liên quan đến họ. Cho nên đối với trường hợp này, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có quyền xem xét, quyết định phần kháng cáo bổ sung xin giảm mức bồi thường thiệt hại nhưng phải xem xét một cách thận trọng bảo đảm không được gây bất lợi cho bị hại, đương sự không có mặt tại phiên tòa.
7. Bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm buộc nộp lại số tiền thu lợi bất chính hoặc bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt chính và đã nộp tiền thu lợi bất chính hoặc nộp tiền phạt thì có được coi là tình tiết giảm nhẹ mới ở Tòa án cấp phúc thẩm không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự thì việc bị cáo giao nộp tiền thu lợi bất chính hoặc tiền phạt bổ sung không được xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trường hợp bị cáo tự nguyện giao nộp ít nhất 1/2 số tiền thu lợi bất chính hoặc tiền phạt bổ sung theo bản án, quyết định của Tòa án thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có thể xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
Tuy nhiên, khi xem xét quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định hình phạt chính nhẹ hơn so với trách nhiệm hình sự của bị cáo, thì khi xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này Tòa án cấp phúc thẩm không nhất thiết phải giảm hình phạt chính, tuy nhiên, việc quyết định có giảm hay không giảm hình phạt chính thì Hội đồng xét xử vẫn phải nhận định rõ ràng trong bản án.
8. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm được xác định như thế nào?
Khi xem xét, quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tòa án căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án có đồng phạm được thực hiện theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật Dân sự, theo đó thì “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”. Ngoài ra, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thì Tòa án có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
9. Trường hợp sau khi bị khởi tố bị cáo mới có thai thì Tòa án có áp dụng tình tiết “Người phạm tội là phụ nữ có thai” không?
Quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là phụ nữ có thai tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, trường hợp sau khi bị khởi tố bị cáo mới có thai thì Tòa án vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là phụ nữ có thai” đối với bị cáo.
10. Người thực hiện hành vi làm giả các giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức?
Hành vi làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm vào 02 khách thể khác nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều 341 của Bộ luật Hình sự), nên nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341).
II. Về tố tụng hành chính
1. Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp phải xác minh làm rõ hành vi vi phạm hành chính được xác định như thế nào?
- Trường hợp khi phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, người có thẩm quyền mới chỉ lập biên bản để ghi nhận vụ việc (như biên bản kiểm tra, biên bản làm việc...); sau đó, tiến
hành xác minh làm rõ tình tiết vụ việc vi phạm hành chính. Sau khi có kết quả xác minh, người có thẩm quyền mới lập biên bản vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
- Trường hợp việc xác minh được thực hiện sau khi lập biên bản vi phạm hành chính làm cơ sở để người có thẩm quyền xem xét, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.
- Đối với trường hợp hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến mà người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải xác minh thêm tình tiết làm căn cứ ra quyết định xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tối đa không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2. Khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền có được căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính bổ sung?
Luật Xử lý vi phạm hành chính không có quy định về biên bản vi phạm hành chính bổ sung. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “3. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập biên bản và ra quyết định xử phạt một lần...”. Do đó, khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền chỉ căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính đã được lập.
Đối với trường hợp sau khi lập biên bản vi phạm hành chính lại phát hiện thêm hành vi vi phạm hành chính khác thuộc phạm vi quản lý của mình, người có thẩm quyền đã tiếp tục lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính này thì được căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính lập sau để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Theo quy định tại khoản 1 Điều 122 của Luật Tố tụng hành chính thì trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này thì Thẩm phán yêu cầu đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Vậy trường hợp đương sự đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng không nộp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích
bị xâm phạm thì Tòa án có trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính thì Thẩm phán chỉ được trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm h khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính (gồm: a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; b) Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ; c) Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó; d)Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; đ) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; e) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này; g) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này; h) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng). Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính thì không có quy định về trường hợp trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.
Đối với trường hợp người khởi kiện không nộp hoặc nộp không đầy đủ kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm được xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành chính. Thẩm phán không được căn cứ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính để trả lại đơn khởi kiện. Bởi vì, điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính quy định về trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, nếu: “Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này”.
Trường hợp người khởi kiện không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm kèm theo đơn khởi kiện, thì Tòa án vẫn phải xem xét, thụ lý vụ án theo quy định. Trong quá trình tố tụng, trên cơ sở yêu cầu của người khởi kiện thì Tòa án yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện.
4. Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính chỉ quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các quyết định hành chính thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 116 của Luật
này mà không quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 của Luật này. Vậy trong trường hợp khiếu kiện quyết định hành chính thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án áp dụng thời hạn xét xử như thế nào?
Theo quy định tại Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án hành chính, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
“1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này.
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này....”.
Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 và điểm a, b khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính về thời hiệu khởi kiện thì:
“2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 103 của Luật Cạnh tranh thì trong lĩnh vực cạnh tranh chỉ có quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Do đó, đối với các quyết định giải quyết khiếu nại còn lại thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được nêu tại khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính là 04 tháng.
5. Điều 203 của Luật Đất đai quy định: “3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Vậy trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện tại Tòa án hay không?
Theo quy định tại Điều 7 của Luật Khiếu nại thì:
“1....Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
3... Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 (về khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) của Luật Tố tụng hành chính thì:
“1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật;
b) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.”
Như vậy, theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì không loại trừ quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trong lĩnh vực đất đai. Do đó,
nếu các quyết định này thỏa mãn quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
6. Khi làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đối với Luật sư và công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án phải yêu cầu những người này xuất trình những giấy tờ gì?
Đối với Luật sư, khi làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án yêu cầu Luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu Luật sư của khách hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Luật sư.
Đối với trường hợp công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án yêu cầu người đề nghị xuất trình giấy tờ, tài liệu theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính.
7. Trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định hành chính của người khởi kiện, thì cơ quan hành chính có được cưỡng chế thi hành quyết định hành chính ngay hay phải chờ sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành án thì mới được cưỡng chế thi hành quyết định hành chính?
Trong trường hợp này, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 311 của Luật Tố tụng hành chính thì người phải thi hành án có thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án; quá thời hạn này mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án (cơ quan hành chính) có quyền gửi đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 312 của Luật Tố tụng hành chính; sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì cơ quan hành chính có thẩm quyền mới được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính theo quy định của pháp luật.
8. Quyết định hành chính bị khiếu nại. Hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không giải quyết nên người bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp đã khởi kiện cả quyết định hành chính và hành vi hành chính không giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp này, Tòa án có thụ lý xem xét, giải quyết đồng thời hai yêu cầu này của người khởi kiện hay không?
Về vấn đề này, tại Mục 7 của Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 về một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn trường hợp người khởi kiện vừa khởi kiện quyết định hành chính, vừa khởi kiện hành vi không giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính đó, thì Tòa án cần giải thích cho người khởi kiện lựa chọn một trong hai yêu cầu nêu trên. Trường hợp người khởi kiện lựa chọn khởi kiện quyết định hành chính hoặc lựa chọn khởi kiện hành vi không giải quyết khiếu nại thì Tòa án xem xét, thụ lý vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện của đương sự. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong trường hợp này được xác định theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp người khởi kiện vẫn đề nghị Tòa án giải quyết đồng thời cả hai yêu cầu thì Tòa án chỉ thụ lý, xem xét giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính.
9. Tại mục 2 phần dân sự của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến hướng dẫn đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đó cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho quyền sử dụng đất thì Tòa án không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Vậy, trong trường hợp người khởi kiện chỉ khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án có thụ lý giải quyết hay không?
Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì người khởi kiện thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào?
Tại mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, trong trường hợp này, nếu người khởi kiện chỉ khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án vẫn xem xét thụ lý giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người khởi kiện thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án đang xem xét, giải quyết ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý theo quy định tại khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quyết định này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
10. Đối với trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất, khi Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án có xem xét, quyết định về giá trị pháp lý của hợp đồng về quyền sử dụng đất này hay không và có đưa những người tham gia ký kết hợp đồng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 của Luật Tố tụng hành chính thì đối với vụ án hành chính, Hội đồng xét xử chỉ xem xét, quyết định về các vấn đề sau đây:
“a) Tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
b) Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính;
c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;
d) Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan;
đ) Tính hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính có liên quan (nếu có);
e) Vấn đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có)”.
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở hợp đồng về quyền sử dụng đất thì Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng về quyền sử dụng đất để làm cơ sở xem xét, đánh giá về tính hợp pháp và có căn cứ của quyết định hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đánh giá, nhận định này, Hội đồng xét xử quyết định bác yêu cầu khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật, hoặc chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó trái pháp luật.
Trong trường hợp này, người tham gia ký kết hợp đồng về quyền sử dụng đất tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính.
III. Về dân sự
1. Thẩm phán có quyền thu thập chứng cứ bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không?
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định cụ thể về quyền thu thập chứng cứ bổ sung của Thẩm phán ở giai đoạn phúc thẩm mà chỉ quy định về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm tại Điều 287 của Bộ luật này.
Khoản 2 và khoản 4 Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ như sau:
“2. Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;
c) Trưng cầu giám định;
d) Định giá tài sản;
đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.
…
4. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ quy định tại các điểm a, g và h khoản 2 Điều này.”
Điều 304 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Việc tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này”.
Theo điểm c khoản 1 Điều 259 của Bộ luật này thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi “cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa ”.
Khoản 2 Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự không giới hạn việc thu thập chứng cứ của Tòa án ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm mà chỉ giới hạn việc thu thập chứng cứ ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực tế, nếu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì Thẩm phán vẫn tiến hành thu thập bổ sung. Do vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên thì Thẩm phán có quyền tiến hành thu thập chứng cứ bổ sung ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.
2. Trường hợp do tình thế khẩn cấp, người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ sáu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 111 và khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ hay không?
Khoản 2 Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.
Khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là 48 giờ. Do thời hạn tính bằng giờ nên thời điểm kết thúc thời hạn cũng tính bằng giờ, không phụ thuộc thời điểm kết thúc thời hạn đó vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ. Vì vậy, nếu Tòa án nhận đơn và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ sáu thì Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán để xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đảm bảo đúng thời hạn 48 giờ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có được xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?
Khoản 1 Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
Khoản 4 Điều 215 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
“Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án.
Sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm khắc phục trong thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết”.
Việc tạm đình chỉ là tạm ngừng giải quyết vụ án trong một thời gian nhất định; trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu một trong các bên đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vẫn là “trong quá trình giải quyết vụ án” theo quy định tại Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
4. Người bị xâm phạm về danh dự, uy tín do hành vi của Chủ tịch UBND huyện gây ra khi thi hành công vụ khởi kiện yêu cầu Chủ tịch UBND huyện bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, uy tín của người đó bị xâm phạm thì Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết không?
Điều 598 của Bộ luật Dân sự quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì người bị xâm phạm có quyền lựa chọn phương thức yêu cầu bồi thường là: (1) Yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại bồi thường hoặc (2) khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì trong thời hạn 3 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong các trường hợp sau đây: (1) Người yêu cầu bồi thường chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường; (2) Người yêu cầu bồi thường rút yêu cầu bồi thường trước khi cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành xác minh thiệt hại và cơ quan giải quyết bồi thường đã ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường.
Như vậy, nếu người bị xâm phạm khởi kiện trong thời hạn quy định và thuộc hai trường hợp nêu trên thì Tòa án phải thụ lý và căn cứ vào các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để giải quyết.
5. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, theo quy định khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, xóa sổ thụ lý giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng thì tiền tạm ứng án phí và lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp được giải quyết như thế nào?
Khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật này quy định”.
Khoản 5 Điều 25 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Trường hợp đình chỉ việc dân sự và thụ lý vụ án để giải quyết theo quy định tại khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung”.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định tư cách tố tụng của các đương sự, theo đó, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí thì được khấu trừ số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp; nếu chưa đủ thì phải nộp phần còn thiếu; trường hợp đương sự không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp sẽ được giải quyết khi Tòa án quyết định án phí.
6. Trong vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, sau đó bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm thì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời có đương nhiên bị hủy không? Trường hợp Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị hủy thì khi thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết như thế nào?
Điều 112 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau:
“1. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
2. Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định”.
Khoản 1 và khoản 3 Điều 138 của Bộ luật này quy định:
“1. Tòa án ra ngay quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ;
b) Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự;
d) Việc giải quyết vụ án được đình chỉ theo quy định của Bộ luật này;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng theo quy định của Bộ luật này;
e) Căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn;
g) Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
h) Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật này.
…
3. Thủ tục ra quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công giải quyết”.
Căn cứ các quy định nên trên thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở một quyết định của Tòa án hoặc ghi nhận trong bản án và được thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng biệt; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và không bị
kháng cáo, kháng nghị. Do đó, việc bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đương nhiên bị hủy.
Trường hợp bản án bị hủy, giao hồ sơ cho Tòa án cấp có thẩm quyền giải quyết lại vụ án thì việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Chương VIII, từ Điều 111 đến Điều 142 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
7. Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.
Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên căn cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết.
8. Trường hợp con riêng và bố dượng, mẹ kế không sống chung, nhưng vẫn đi lại thăm nom và chi trả tiền để người khác nuôi dưỡng, chăm sóc người kia (ví dụ: trả chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc cho trại trẻ mồ côi, trại dưỡng lão) thì có được coi là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con để được hưởng thừa kế di sản của nhau theo quy định tại Điều 654 của Bộ luật Dân sự hay không?
Điều 654 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được chia thừa kế theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.
Việc xác định có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trên thực tế như cha con, mẹ con thì cần căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con (Điều 69, 70, 71, 72), trong đó, phải đánh giá một cách toàn diện các yếu tố như: bố dượng, mẹ kế hàng tháng có trả tiền nuôi dưỡng, chăm sóc, chăm lo đến việc học tập, giáo dục con, thương yêu con... hoặc nếu bố dượng, mẹ kế không đủ điều kiện sinh sống ở mức độ trung bình ở địa phương thì con riêng đã chu cấp tiền nuôi dưỡng, chăm sóc hàng tháng... Đồng thời, mức độ quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trên thực tế như cha con, mẹ con phải đảm bảo được cuộc sống của họ.
Do vậy, căn cứ quy định nêu trên thì con riêng, bố dượng, mẹ kế chỉ cần có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế như cha, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau, không bắt buộc những người này phải sống chung.
IV. Về kinh doanh, thương mại
1. Tại công ty TNHH hai thành viên, thành viên A mua lại toàn bộ phần vốn góp của thành viên B, nhưng chưa thanh toán giá trị chuyển nhượng phần vốn góp theo thỏa thuận. Sau đó A làm thủ tục thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chuyển đổi từ công ty TNHH hai thành viên thành công ty TNHH một thành viên. Việc B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trả lại phần vốn góp đã chuyển nhượng, trả lại tư cách thành viên công ty và hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh thương mại? Tòa án nhân dân cấp nào có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm? Khi giải quyết vụ án Tòa án có xem xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi đó không?
- Việc A mua lại toàn bộ phần vốn góp của thành viên B đã xác lập hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B. B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trả lại phần vốn góp đã chuyển nhượng, là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B. Trường hợp này lí do hủy bỏ Hợp đồng do A chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 424 của Bộ luật Dân sự 2015).
Tại thời điểm B khởi kiện thì B không còn là thành viên của công ty (do A đã chuyển đổi từ Công ty TNHH hai thành viên sang Công ty TNHH một thành viên). Tuy nhiên, đây là tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B và tại thời điểm giao kết hợp đồng thì A và B đều là thành viên của Công ty TNHH hai thành viên. Vì vậy, Toà án căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 20151 để xác định tranh chấp này là tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 20152 thì Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này theo thủ tục sơ thẩm.
- Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
…”
Căn cứ khoản 2 Điều 34 của Bộ luật này, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là quyết định cá biệt; trường hợp vụ án kinh doanh thương mại có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ án. Do vậy, trong vụ án tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, (theo đó Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp; các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận (Điều
427 của Bộ luật Dân sự năm 2015); đồng thời có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi thì Tòa án có thẩm quyền xem xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi nếu văn bản đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Ông A và bà B là thành viên của Công ty TNHH hai thành viên thành lập năm 2016. Ông A góp vốn bằng nhà xưởng, Công ty đã nhận nhà xưởng và sử dụng để sản xuất, kinh doanh nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất cho Công ty. Năm 2018, Ông A chuyển nhượng vốn góp cho bà C, nhưng không cho bà B biết. Trường hợp bà B khởi kiện ông A thì Tòa án xác định việc góp vốn của ông A vào Công ty đã hoàn thành chưa và bà C có là thành viên Công ty TNHH hai thành viên không?
- Điều 36 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
…”
Căn cứ vào quy định nêu trên thì ông A phải có nghĩa vụ làm thủ tục sang tên nhà xưởng cho Công ty TNHH hai thành viên ngay từ khi góp vốn. Về pháp lý, thủ tục chuyển quyền chưa được thực hiện, nhưng trên thực tế Công ty TNHH hai thành viên đã nhận và sử dụng nhà xưởng do ông A góp vốn từ khi thành lập (năm 2016), được xác định vào vốn Điều lệ của Công ty, được hạch toán là giá trị của Công ty trong báo cáo tài chính hàng năm. Do đó, trong quá trình giải quyết Toà án phải căn cứ vào quá trình hoạt động của Công ty, các tài liệu có liên quan (báo cáo tài chính hàng năm, Giấy chứng nhận góp vốn...) để từ đó xác định việc góp vốn của ông A đã hoàn thành.
Trong trường hợp ông A có Giấy chứng nhận phần vốn góp theo quy định tại Điều 48 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, có tên trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với phần giá trị vốn góp tương ứng nhà xưởng đã được định giá; có tên trong Sổ đăng ký thành viên theo quy định tại Điều 49 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thành viên theo Điều 50, 51 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, nên mặc dù thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa được thực hiện, nhưng ông A đã là thành viên trên thực tế của Công ty.
- Khoản 1 Điều 53 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“1. Trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 52, khoản 5 và khoản 6 Điều 54 của Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:
a) Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện;
b) Chỉ được chuyển nhượng với cùng điều kiện chào bán đối với các thành viên còn lại quy định tại điểm a khoản này cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán.”
Căn cứ quy định nêu trên thì việc ông A tự ý chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho bà C mà không chào bán phần vốn góp cho bà B (bà B không biết) là không đúng quy định của pháp luật nên Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông A và bà C bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật (Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015), do đó các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận (Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo đó, bà C phải trả lại phần vốn góp đã nhận chuyển nhượng từ ông A; bà C không trở thành thành viên Công ty.
3. Thành viên Công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần khởi kiện Giám đốc Công ty TNHH hoặc Giám đốc Công ty cổ phần vì cho rằng Giám đốc không thực hiện đúng nghĩa vụ, gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên hoặc công ty TNHH; cổ đông hoặc Công ty cổ phần. Khi phát sinh tranh chấp, Tòa án sẽ căn cứ quy định pháp luật nào để thụ lý, giải quyết.
- Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như sau:
“…
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”
- Điều 72 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về khởi kiện người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn như sau:
“1. Thành viên công ty tự mình, hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật và cán bộ quản lý khác vi phạm nghĩa vụ của người quản lý trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm quy định tại Điều 71 của Luật này;
b) Không thực hiện đúng và đầy đủ hoặc thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty về các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của Hội đồng thành viên;
c) Trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
2. Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”.
- Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về khởi kiện người quản lý trong công ty cổ phần như sau:
“1. Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm nghĩa vụ người quản lý công ty theo quy định tại Điều 160 của Luật này;
b) Không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của Hội đồng quản trị;
c) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty hoặc nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
d) Sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
đ) Sử dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
e) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
2. Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện.”
Theo quy định nêu trên thì khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định trường hợp tranh chấp giữa thành viên công ty khởi kiện Giám đốc công ty nên trường hợp này Tòa án phải căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự (các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại...) và quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp để thụ lý, giải quyết.
Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, trường hợp Giám đốc gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên hoặc công ty thì Tòa án căn cứ khoản 5 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 72 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đồng thời lưu ý các quy định tại Điều 71 của Luật Doanh nghiệp 2014, nghị quyết của Hội đồng thành viên và Điều lệ của công ty để thụ lý, giải quyết vụ án.
Đối với Công ty cổ phần, trường hợp thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc gây thiệt hại đến lợi ích của cổ đông hoặc công ty thì khi phát sinh tranh chấp Toà án căn cứ khoản 5 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm
2014 đồng thời lưu ý các quy định tại Điều 160 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông và Điều lệ công ty để thụ lý, giải quyết vụ án.
Căn cứ theo Điều 72, Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì thành viên công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần có quyền nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với người quản lý. Trong trường hợp này nếu việc nhân danh Công ty của thành viên Công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần là hợp pháp (được Công ty ủy quyền) thì Toà án phải căn cứ khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết vụ án.
4. Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng A với Công ty B được giao kết và thực hiện giải ngân tiền vay tại chi nhánh M của Ngân hàng. Khi ký kết hợp đồng, các bên không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp. Đến hạn trả nợ, Công ty B không trả được nợ nên Ngân hàng A đã khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng với Công ty B tại Tòa án nơi có chi nhánh M của Ngân hàng. Trường hợp này, Tòa án nơi có chi nhánh của Ngân hàng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không?
Về nguyên tắc chung, thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với tranh chấp thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 40 của Bộ luật này thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp.
Trường hợp này, do các đương sự không có thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nên không áp dụng điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để xác định thẩm quyền của Tòa án.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.
Điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.
Căn cứ các quy định nêu trên, Tòa án nơi bị đơn có trụ sở và Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện đều có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trường hợp nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết tranh chấp thì tôn trọng và thực hiện theo quyền định đoạt của nguyên đơn.
Hợp đồng tín dụng này có hoạt động giải ngân tiền vay tại chi nhánh M của Ngân hàng nên nơi có chi nhánh M của Ngân hàng được xác định là nơi thực hiện hợp đồng. Do vậy, Tòa án nơi có chi nhánh M của Ngân hàng có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp nêu trên.
5. Tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm về việc đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ đã ký kết là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh, thương mại?
Pháp luật quy định chủ thể ký Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm. Chủ thể ký là cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong trường hợp các bên ký Hợp đồng đều là thương nhân (tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động thương mại) có đăng ký kinh doanh, hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, nếu phát sinh tranh chấp, đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại; Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong trường hợp một bên ký Hợp đồng không phải là thương nhân, Hợp đồng này là Hợp đồng dân sự và nếu phát sinh tranh chấp thì đó là tranh chấp Hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Điều 6 của Luật Thương mại năm 2005 quy định thương nhân như sau: “1. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. 2. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
…”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 thì khái niệm hoạt động thương mại được quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận", trong trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm về việc đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ thì: doanh nghiệp bảo hiểm đã có đăng ký kinh doanh, hai bên ký kết hợp đồng đều vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, nếu người mua bảo hiểm có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nếu người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp được xác định là tranh chấp về dân sự.
6. Trường hợp bên mua bảo hiểm có ý cung cấp thông tin không trung thực để giao kết hợp đồng bảo hiểm và hưởng chế độ bảo hiểm thì bị coi là trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu do có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm theo điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo hiểm hay là trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo điểm a khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm?
Khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định "2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:
a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường".
Như vậy, trường hợp bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không trung thực để giao kết hợp đồng bảo hiểm và hưởng chế độ bảo hiểm thì doanh nghiệm bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm được thực hiện theo các thỏa thuận của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, theo điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo hiểm thì một trong các trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu là "Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm". Đồng thời, Điều 127 của Bộ luật Dân sự quy định: "Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó". Như vậy, hành vi cố ý cung cấp thông tin không trung thực của bên mua bảo hiểm có thể bị coi là hành vi lừa dối dẫn đến hợp đồng bảo hiểm vô hiệu.
Do đó, khi thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh bảo hiểm do có hành vi lừa dối Tòa án cần lưu ý: Trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường thì Tòa án cần căn cứ tài liệu, chứng cứ, quá trình tranh tụng (trong đó chú ý thỏa thuận của các bên tại hợp đồng bảo hiểm) để xác định nếu doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng đúng pháp luật thì không tuyên hợp đồng bảo hiểm vô hiệu theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo hiểm mà tuyên đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 422 (Chấm dứt hợp đồng) và Điều 428 của Bộ luật Dân sự (Đơn phương chấm dứt hợp đồng).
7. Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án mà nội dung hòa giải liên quan đến tranh chấp về kinh doanh, thương mại là yêu cầu về dân sự hay yêu cầu về kinh doanh, thương mại? Nếu là yêu cầu về kinh doanh, thương mại thì Tòa án áp dụng Điều luật nào để thụ lý giải quyết vì hiện nay theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là yêu cầu dân sự (khoản 7 Điều 27 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Nội dung hòa giải liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì phải xác định yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
Theo quy định tại Điều 31 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 31. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
2. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
3. Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
4. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
6. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, trong trường hợp này, Tòa án áp dụng khoản 6 Điều 31 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để thụ lý giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
8. Từ ngày 01-01-2017 (ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành), thời điểm tính thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 01-7-2011) được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự hay Luật Kinh doanh bảo hiểm?
Theo quy định tại Điều 184 và Điều 185 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01-01-2017) quy định: "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Theo quy định tại Điều 30 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì “Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp”.
Điều 336 của Bộ luật Hàng hải Việt Nam thì “Thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp”.
Như vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định khác nhau về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện. Vì trên thực tế hai thời điểm này không đồng nhất: khi người yêu cầu biết sự kiện pháp lý xảy ra xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ nhưng họ chưa thực hiện quyền khởi kiện ngay mà sẽ thực hiện thỏa thuận, hòa giải, thống nhất cách giải
quyết trong một thời gian nhất định. Khi không thống nhất được cách giải quyết thì mới phát sinh tranh chấp.
Trong trường hợp này, Tòa án phải ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành, tức là Luật Kinh doanh bảo hiểm để xác định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp, thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Quy định này không trái với các nguyên tắc cơ bản quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (nguyên tắc bình đẳng; tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; thiện chí, trung thực; không xâm phạm đến lợi ích chung và của người thứ ba; tự chịu trách nhiệm).
Ngoài ra, còn có các quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiện yêu cầu trong các luật chuyên ngành khác thì cũng áp dụng quy định của các luật chuyên ngành này mà không áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự khi xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Ví dụ: Bộ luật Hàng hải Việt Nam (có hiệu lực kể từ ngày 01.7.2017) có quy định về thời hiệu khởi kiện (Thời hiệu khởi kiện về hư hỏng, mất mát hàng hóa; thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến; thời hiệu khởi kiện về vận chuyển hành khách và hành lý; thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng thuê tàu; thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng đại lý tàu biển, thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải...) thì áp dụng quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam khi xác định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan.
9. Hợp đồng tín dụng mà bên vay là Công ty TNHH hai thành viên trở lên, do người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng nhưng hồ sơ vay không có biên bản họp thành viên của Hội đồng thành viên. Trường hợp có tranh chấp xảy ra thì bên vay được xác định là Công ty hay cá nhân người đại diện? Công ty sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì?
Điểm d khoản 2 Điều 56 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định Hội đồng thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền và nghĩa vụ: “Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và chuyển giao công nghệ; thông qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty”.
Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện quy định:
“1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
…”
Căn cứ các quy định nêu trên, về nguyên tắc hợp đồng tín dụng có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty giữa tổ chức tín dụng với Công ty TNHH hai thành viên trở lên phải được Hội đồng thành viên Công ty thông qua. Người đại diện theo pháp luật của Công ty giao kết hợp đồng tín dụng có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty mà không được Hội đồng thành viên thông qua thì được xác định là giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Theo đó:
(1) Trường hợp hợp đồng tín dụng do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của Công ty (người được đại diện); khi đó bên vay được xác định là Công ty. Trường hợp hồ sơ vay không có biên bản họp thành viên của Hội đồng thành viên về nội dung thông qua hợp đồng vay, nhưng có tài liệu, chứng cứ thể hiện khoản tiền vay được chuyển vào tài khoản của Công ty, được Công ty sử dụng, được hạch toán trên sổ sách, giấy tờ của Công ty thì được coi là Công ty đồng ý với hợp đồng tín dụng do người đại diện của Công ty xác lập, thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
(2) Trường hợp hợp đồng tín dụng do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và có tài liệu, chứng cứ cho thấy người đại diện theo pháp luật sử dụng số tiền vay được cho mục đích cá nhân thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của Công ty. Căn cứ khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này, bên vay được xác định là cá nhân người đại diện đã ký hợp đồng tín dụng.
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự căn cứ vào Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tổ chức tín dụng khởi kiện Công ty thì Công ty là bị đơn. Tổ chức tín dụng khởi kiện cá nhân người đại diện ký hợp đồng tín dụng thì cá nhân đó là bị đơn; Công ty tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
10. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể đã đăng ký và được cấp nhãn hiệu tập thể theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Khi hộ gia đình, tổ hợp tác khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu tập thể đó hoặc bị khởi kiện thì việc xác định tư cách tham gia tố tụng như thế nào?
Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Dân sự năm 20153 thì hộ gia đình, tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân sẽ không thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án với tư cách độc lập là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Trường hợp này các
thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác đó sẽ trực tiếp tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác được thực hiện như sau:
- Trường hợp tất cả thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác tự mình khởi kiện vụ án thì phải xác định tất cả các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng nguyên đơn trong vụ án đó.
- Trường hợp tất cả thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác đều đồng ý khởi kiện vụ án và thống nhất ủy quyền bằng văn bản cho một thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc người khác làm người đại diện khởi kiện vụ án tại Tòa án thì phải xác định các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng nguyên đơn trong vụ án và xác định người đại diện hợp pháp của các đồng nguyên đơn là người được các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác ủy quyền.
- Trường hợp một hoặc một số thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác khởi kiện mà không được các thành viên còn lại ủy quyền bằng văn bản làm người đại diện khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án cần hỏi những thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác xem họ có đồng ý khởi kiện vụ án hay không. Nếu các thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác đồng ý khởi kiện vụ án thì xác định họ là nguyên đơn như trường hợp 1 và 2 nêu trên. Nếu các thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác không đồng ý khởi kiện vụ án thì phải xác định nguyên đơn là các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác khởi kiện; những thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác không khởi kiện được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đó.
Trường hợp hộ gia đình, Tổ hợp tác là người bị khởi kiện thì việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác được thực hiện như sau:
- Trường hợp tất cả các thành viên trong Hộ gia đình, Tổ hợp tác đều bị kiện thì phải xác định tất cả các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng bị đơn trong vụ án đó.
- Trường hợp chỉ có một hoặc một số thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác bị kiện thì phải xác định các thành viên bị kiện là bị đơn; các thành viên còn lại trong hộ gia đình, Tổ hợp tác không bị kiện được xác định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đó.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
1 Khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”.
2 Điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
…”
3 Điều 101. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 2019
Số: 244/TANDTC-PC V/v thi hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC- VKSNDTC
Kính gửi: - Chánh án Tòa án nhân dân các cấp;
- Chánh án Tòa án quân sự các cấp; - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Để bảo đảm thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP- BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Thông tư liên tịch số 10) quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình thực hiện một số nội dung sau đây:
1. Trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Thông tư liên tịch số 10, đặc biệt là trong một số hoạt động như giải thích, thông báo, thông tin về trợ giúp pháp lý, vào sổ theo dõi vụ việc trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; báo cáo, thống kê trong công tác trợ giúp pháp lý.
2. Đối với các vụ việc về dân sự, hành chính, hôn nhân và gia đình khi thụ lý vụ việc mà có đối tượng là người được trợ giúp pháp lý thì cung cấp Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.
3. Tích cực phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm, cơ quan Công an, Viện kiểm sát cùng cấp ngay từ giai đoạn thụ lý, điều tra để kịp thời nắm bắt các trường hợp thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý, từ đó có kế hoạch, tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý đăng ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
4. Phối hợp với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, chi nhánh của Trung tâm tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án mình phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất thực tế của địa phương để người được trợ giúp pháp lý biết và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời.
5. Báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 10, để Tòa án nhân dân tối cao kịp thời phối hợp với liên ngành trung ương hướng dẫn, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Chánh án Tòa án nhân dân, Chánh án Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tổ chức quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình để đảm bảo thực hiện nghiêm túc và thống nhất nội dung Thông tư liên tịch số 10.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ Nơi nhận: - Như trên; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Bộ Tài chính; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 03/2019/CT-CA Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2019
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016) đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung, trong đó quy định mới một số biện pháp1, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định khác về các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Những quy định mới được sửa đổi, bổ sung đã góp phần giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi tắt là vụ án dân sự) thời gian qua cho thấy, việc áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án nhân dân về cơ bản đã đảm bảo đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn một số Tòa án nhân dân để xảy ra sai sót, vi phạm được nêu tại Phụ lục ban hành kèm theo Chỉ thị này.
Để việc áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời đúng pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu:
1. Các Tòa án nhân dân chủ động nâng cao tinh thần trách nhiệm, tự kiểm tra, rà soát các vụ việc đang áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời, kịp thời phát hiện sai sót, vi phạm pháp luật để chấn chỉnh, khắc phục ngay, đồng thời tổ chức rút kinh nghiệm trong cơ quan, đơn vị mình. Trường hợp tiếp tục để xảy ra sai sót, vi phạm thì phải kiểm điểm trách nhiệm và xem xét, xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có liên quan.
2. Các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình quan tâm, chỉ đạo việc cập nhật, theo dõi việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm chính xác, kịp thời. Đối với các vụ án đương sự có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện thì Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán có kinh nghiệm xem xét, giải quyết, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người liên quan.
3. Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học khẩn trương tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự, sớm nghiên cứu, xây dựng và trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, thông qua Nghị quyết hướng dẫn một số quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trước mắt, khi Nghị quyết này chưa được ban hành, các Tòa án nhân dân phải nghiên cứu, áp dụng đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, pháp luật có liên quan2 và các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao3.
4. Ban Thanh tra phối hợp với các Vụ Giám đốc kiểm tra, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc tiếp tục rà soát, kiểm tra, xử lý kịp thời các trường hợp có đơn khiếu nại hoặc phản ánh, kiến nghị về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; đồng thời kiến nghị các giải pháp để hạn chế sai sót, vi phạm pháp luật dẫn đến phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
5. Vụ Thi đua - Khen thưởng phối hợp với Ban Thanh tra Tòa án nhân dân tối cao theo dõi, nắm thông tin về các đơn vị để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật khi áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; chậm trễ trong việc khắc phục, xử lý vi phạm, sai sót để tham mưu cho Hội đồng Thi đua khen thưởng Tòa án nhân dân trong việc xét thi đua, khen thưởng.
6. Học viện Tòa án phối hợp các đơn vị có liên quan nghiên cứu, xây dựng giáo trình về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và các tài liệu hướng dẫn quy trình, kỹ năng áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn tạm thời trong tố tụng dân sự; tổ chức tập huấn pháp luật, kiến thức, kỹ năng áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.
7. Vụ Hợp tác quốc tế phối hợp với Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học và các đơn vị có liên quan tổ chức nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm trong nước và quốc tế về áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.
8. Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý, Cổng thông tin điện tử và các đơn vị liên quan đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật, chia sẻ kinh nghiệm về áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thông qua các bài viết, nghiên cứu, trao đổi.
Việc áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án. Do đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao ngay sau khi nhân được Chỉ thị này cần tổ chức quán triệt và triển khai tới các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực hiện nêu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học).
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
Nơi nhận: - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính TW; - Ban Chỉ đạo CCTPTW; - Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Các Đ/c Phó Chánh án TANDTC (để chỉ đạo thực hiện); - Các Đ/c Thẩm phán TANDTC;
- Thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC; - Các Tòa án nhân dân; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
Nguyễn Thúy Hiền
PHỤ LỤC
VỀ MỘT SỐ SAI SÓT CẦN RÚT KINH NGHIỆM TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI (Kèm theo Chỉ thị số 03/2019/CT-CA ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao)
1. Sai sót khi áp dụng những quy định chung về các biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.1. Về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Tòa án có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án đang giải quyết vụ án. Tuy nhiên, có trường hợp tại thời điểm nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án đã biết việc thụ lý vụ án là không đúng thẩm quyền nhưng vẫn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (sau đó mới chuyển vụ án theo thẩm quyền) là vi phạm quy định của pháp luật.
1.2. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Một là, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu. Tuy nhiên, có trường hợp Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc thông báo không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn này. Bên cạnh đó, còn có Tòa án không có sổ theo dõi nhận đơn, không ghi chép thời gian nhận đơn nên không có căn cứ để xác định chính xác thời hạn giải quyết theo quy định.
Có trường hợp không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng Thẩm phán không thông báo bằng văn bản hoặc có thông báo nhưng không nêu rõ lý do cho người yêu cầu hoặc nêu lý do không áp dụng không đúng quy định của pháp luật.
Hai là, theo quy định tại khoản 2 Điều 111, khoản 3 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự thì trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, khi nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc trường hợp nêu trên thì có Tòa án
lại từ chối việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vì chưa thụ lý vụ án là chưa đúng quy định của pháp luật.
Ba là, theo quy định tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự thì trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, gồm: phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Thẩm phán chỉ được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời này, Thẩm phán có sai sót là không ấn định rõ số tiền bị phong tỏa; không xác định giá trị tài sản phong tỏa mà phong tỏa một phần tài sản chung (chưa chia); phong tỏa số tiền hoặc tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện; hoặc phong tỏa số tiền, tài sản có giá trị vượt quá yêu cầu của người yêu cầu.
1.3. Về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm (Điều 136 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Có trường hợp người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Kê biên tài sản đang tranh chấp (khoản 6 Điều 114); cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp (khoản 7 Điều 114); Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (khoản 8 Điều 114); Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (khoản 10 Điều 114); Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (khoản 11 Điều 114); Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu (khoản 15 Điều 114); Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (khoản 16 Điều 114) chưa thực hiện biện pháp bảo đảm nhưng Tòa án vẫn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; có trường hợp Tòa án ấn định số tiền buộc thực hiện biện pháp bảo đảm quá ít hoặc quá nhiều, không tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng.
Có trường hợp Tòa án vẫn ra quyết định yêu cầu thực hiện biện pháp bảo đảm trong khi theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Tố tụng dân sự thì người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
1.4. Về hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Đối với những vụ án đã được đình chỉ giải quyết, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự, sau đó khi người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ thì Thẩm phán mới ra quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng.
Tòa án ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng không xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mặc dù không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng dân sự mà sau đó đợi có đơn yêu cầu mới xem xét, giải quyết.
1.5. Về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 140, Điều 141 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Đương sự thực hiện quyền khiếu nại về việc Tòa án không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đã quá thời hạn quy định tại Điều 140 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng Chánh án Tòa án vẫn xem xét, giải quyết khiếu nại. Trường hợp đương sự khiếu nại trong thời hạn nhưng Chánh án Tòa án không giải quyết khiếu nại hoặc giải quyết khiếu nại bằng thông báo trả lời khiếu nại hoặc công văn mà không ra quyết định giải quyết khiếu nại là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 141 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Những sai sót khi áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể
2.1. Kê biên tài sản đang tranh chấp, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (các khoản 6, 7 và 8 Điều 114, Điều 120, 121 và Điều 122 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Một là, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8 Điều 114, các điều 120, 121, 122 Bộ luật Tố tụng dân sự đối với tài sản không phải là tài sản đang tranh chấp (như: tranh chấp hợp đồng vay tài sản nhưng Tòa án lại áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với nhà đất của bị đơn; tranh chấp hợp đồng đặt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nhưng Tòa án lại áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với nhà đất đó; tranh chấp hợp đồng xây dựng tòa nhà tại một lô đất cụ thể trong toàn bộ dự án khu nhà ở nhưng Tòa án lại áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với phần dự án hoặc sản phẩm của dự án tại lô đất khác trong dự án đó,...). Các biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp. Đối với tài sản không có tranh chấp, Tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ nêu đương sự có yêu cầu và việc áp dụng này là có căn cứ.
Hai là, áp dụng đồng thời hai biện pháp “Kê biên tài sản đang tranh chấp” và “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp” đối với cùng một tài sản đang tranh chấp. Trường hợp này, tài sản đang tranh chấp đã bị kê biên thì hệ quả tất yếu là tài sản đó cũng không thể chuyển dịch. Do vậy, Tòa án chỉ áp dụng một trong hai biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên đối với cùng một tài sản đang tranh chấp. Tòa án căn cứ vào yêu cầu của đương sự và quy định của từng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể để ra quyết định cho phù hợp.
Ba là, áp dụng biện pháp kê biên một phần tài sản tranh chấp (ví dụ: kê biên một phần căn nhà,...), cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với một phần tài sản đang tranh chấp (ví dụ: cấm chuyển dịch 1/6 quyền sử dụng đất, cấm chuyển dịch phần giá trị còn lại của căn nhà đang tranh chấp,...). Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như trên là không đúng và không thể thực hiện được vì không xác định được “một phần” là bao nhiêu, là phần nào trong khối tài sản đang tranh chấp.
2.2. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (khoản 8 Điều 114, Điều 122 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Áp dụng biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp nhưng không mô tả hiện trạng tài sản đang tranh chấp tại thời điểm ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến không thể xác định được tài sản có bị thay đổi hiện trạng hay không sau khi áp dụng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
2.3. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước (khoản 10 Điều 114, Điều 124 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Khi phong tỏa nhiều tài khoản của người có nghĩa vụ, Thẩm phán không xác định chính xác số tiền phải phong tỏa. Đối với tài khoản chung của nhiều người, Thẩm phán chưa làm rõ số tiền cụ thể của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tài khoản chung đó. Người yêu cầu không nêu rõ số tiền cụ thể yêu cầu Tòa án phong tỏa hoặc Tòa án phong tỏa tài khoản có số tiền vượt quá đề nghị của người yêu cầu. Tài khoản là của chung nhiều người, chưa phân định được phần của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng Tòa án phong tỏa toàn bộ tài khoản chung.
2. 4. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (khoản 11 Điều 114, Điều 126 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Thẩm phán áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản trong khi tài sản này đang thế chấp ở Ngân hàng để bảo đảm cho nghĩa vụ khác hoặc tài sản đã được tổ chức bán đấu giá, trong khi biện pháp này chỉ được áp dụng sau khi tài sản đã được giải chấp. Đối với tài sản chung chưa chia hoặc không thể phân chia nhưng Thẩm phán vẫn áp dụng biện pháp phong tỏa một phần tài sản của người có nghĩa vụ.
2.5. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định (khoản 12 Điều 114, Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Tố tụng dân sự, người yêu cầu đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm thực hiện hành vi nhất định thì không buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, có trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp cấm thực hiện hành vi nhất định nhưng khi mô tả hành vi bị cấm thì lại thể hiện đó là hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp, thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp quy định tại Điều 121 và Điều 122 Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, lẽ ra, Tòa án phải áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp (Điều 121), cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (Điều 122) và phải buộc thực hiện biện pháp bảo đảm thì Tòa án lại áp dụng cấm thực hiện hành vi nhất định và không buộc thực hiện biện pháp bảo đảm.
Thẩm phán áp dụng biện pháp cấm thực hiện hành vi nhất định nhưng việc không thực hiện hành vi này là trái quy định của pháp luật, ví dụ: Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp cấm Đại hội đồng cổ đông họp trong khi khoản 1 Điều 136 Luật Doanh nghiệp quy định đại hội đồng cổ đông họp thường niên mỗi năm một lần.
2.6. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ (Điều 128 Bộ luật Tố tụng dân sự)
Tòa án áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ để bảo đảm giải quyết vụ án khi người bị áp dụng đã có người đại diện cư trú tại Việt Nam tham gia tố tụng hoặc để bảo đảm thi hành án trong khi người có nghĩa vụ đã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác, như: phong tỏa tài khoản, phong tỏa tài sản... là không đúng quy định của pháp luật.
1 (1) Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ, (2) Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình, (3) Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu, (4) Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
2 Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu biển, Pháp lệnh Thủ tục bắt giữ tàu bay...
3 Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về một số vấn đề nghiệp vụ, Thông báo số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 về kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu nội dung hướng dẫn còn phù hợp).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2020
Số: 89/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 18-5-2020, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức phiên họp trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính và dân sự. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như sau:
I. HÌNH SỰ
1. Đối tượng có hành vi đưa ma túy cho người khác sử dụng, nhưng không phát hiện có người chỉ huy, phân công, điều hành đối tượng để đưa ma túy cho người khác sử dụng. Vậy trường hợp này có xử lý đối tượng là người trực tiếp đã cung cấp ma túy cho người khác về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” hay không?
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không đồng nhất với khái niệm “phạm tội có tổ chức”. Theo quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự thì “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.” Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Còn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy[1]. Trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng có đồng phạm nhưng đồng phạm ở đây được hiểu là thực hiện theo sự chỉ huy, phân công điều hành (không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không bắt buộc phải có sự phân công, chỉ đạo, điều hành chặt chẽ trong các đồng phạm).
Do đó, hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Người có hành vi này bị xử lý theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
2. Trường hợp rủ nhau sử dụng trái phép chất ma túy thì có được xác định là rủ rê, dụ dỗ người khác sử dụng trái phép chất ma túy để xử lý hình sự theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự hay không?
Khoản 1 Điều 258 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Như vậy, người có hành vi dụ dỗ, khêu gợi sự ham muốn của người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy với mình thì thuộc trường hợp rủ rê, lôi kéo theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, đối với trường hợp các con nghiện cùng nhau góp tiền, cùng nhau sử dụng ma túy thì không xác định là rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng ma túy theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự.
Ví dụ:
- Nguyễn Văn A (không nghiện ma túy) nhưng A đã dụ dỗ, khêu gợi sự ham muốn của Nguyễn Văn B để B sử dụng trái phép chất ma túy với mình. Trường hợp này xác định là rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng ma túy theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự.
- Nguyễn Văn A (nghiện ma túy) đã dụ dỗ, khêu gợi sự ham muốn của Nguyễn Văn B (không nghiện ma túy) để B sử dụng trái phép chất ma túy với mình. Trường hợp này xác định là rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng ma túy theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự.
- Nguyễn Văn A (nghiện ma túy) rủ Nguyễn Văn B (nghiện ma túy) cùng nhau góp tiền, cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, mặc dù A đã có hành vi dụ dỗ để B cùng sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng không xác định đây là rủ rê, lôi kéo người khác sử dụng ma túy theo quy định tại Điều 258 của Bộ luật Hình sự.
3. Tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy) của Bộ luật Hình sự được hiểu là trong 01 lần phạm tội với 02 người trở lên hay bao gồm cả phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng mỗi lần là 01 người khác nhau?
Tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự được hiểu là trong một lần phạm tội, người phạm tội đã mua bán trái phép chất ma túy đối với từ 02 người trở lên. Nội dung này cũng phù hợp với hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 Phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 là “phạm tội đối với nhiều người” quy định tại khoản 2 các điều 197, 198 và 200 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được hiểu là trong một lần phạm tội, người phạm tội đã thực hiện tội phạm đối với từ hai người trở lên”.
Ví dụ:
- Trong một lần phạm tội, Nguyễn Văn A vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn C, vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Trường hợp này, A bị áp dụng tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
- Ngày 12-8-2019, Nguyễn Văn A bán ma túy cho Nguyễn Văn C. Ngày 01-10-2019, A bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Trường hợp này, A bị áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
- Ngày 12-4-2020, Nguyễn Văn A vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn C, vừa bán ma túy cho Nguyễn Văn D. Ngày 10-5-2020, A bán ma túy cho Nguyễn Thị H. Trường hợp này, A bị áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” và tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
4. Trường hợp thu giữ được chất ma túy tổng hợp (dạng viên nén), bên trong có chứa nhiều loại chất ma túy khác nhau và theo quy định của Bộ luật Hình sự các chất ma túy này bị xử lý ở các điểm khác nhau (Ví dụ: chất thu giữ được là ma túy tổng hợp có chứa MDMA, Methamphetamine và Methylphenidate, trong đó MDMA, Methamphetamine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249, Methylphenidate là ma túy thể rắn được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249), thì có phải giám định hàm lượng để phân tách khối lượng từng loại chất ma túy làm căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự hay không?
Điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội quy định: “Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, xái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định
hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được. Đối với các trường hợp khác thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13.”.
Điều 206 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:
…5. Chất ma tuý…”.
Như vậy, trong trường hợp chất thu giữ đã được xác định là ma túy dạng MDMA, Methamphetamine và Methylphenidate thì không thuộc trường hợp phải giám định hàm lượng.
5. Trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy, các đối tượng đã trộn ma túy ở thể rắn vào chất rắn khác, sau đó dập thành viên nén để bán. Qua giám định xác định chất thu giữ là chất ma túy nhưng hàm lượng ma túy thấp. Trường hợp này để xử lý hình sự thì căn cứ vào khối lượng chất thu giữ hay phải giám định hàm lượng để xác định khối lượng ma túy trong chất thu giữ.
Về nguyên tắc việc giám định để xác định chất ma túy, khối lượng và hàm lượng chất ma túy phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 206 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội.
Đối với trường hợp có căn cứ xác định đối tượng đã trộn ma túy với chất rắn khác để bán và qua giám định xác định chất thu giữ là chất ma túy nhưng hàm lượng ma túy thấp thì cần căn cứ và kết luận giám định về hàm lượng để xác định khối lượng chất ma túy làm cơ sở để xử lý hình sự.
Cũng cần lưu ý rằng, nếu theo kết luận giám định chất thu giữ ko phải là ma túy, nhưng người thực hiện hành vi mua bán, trao đổi… ý thức rằng đó là chất ma túy thì bị xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, nếu ko có các tình tiết định khung tăng nặng khác.
Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 của Bộ luật Hình sự, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.
6. Trường hợp thu được 02 chất ma túy trở lên, nhưng đều được quy định trong một điểm của điều luật (ví dụ Heroine và MDMA) thì có cộng tổng các chất ma túy và xử lý theo điểm đó hay xử lý theo điểm “có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ….khoản này”?
Trường hợp này đã được quy định tại Điều 4 và hướng dẫn tại Mục 1 Phụ lục của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02-2-2018, cụ thể:
“Trường hợp các chất ma túy đó đều được quy định trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 248; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 249; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 250; hoặc trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 251; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì cộng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy lại với nhau và đối chiếu với quy định về khối lượng hoặc thể tích của nhóm chất ma túy đó trong các khoản của điều luật được áp dụng để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật được áp dụng.”
Ví dụ: Một người mua bán trái phép 03 gam Heroine, 03 gam Cocaine, 03 gam Methamphetamine, 20 gam Amphetamine và 20 gam MDMA. Tổng khối lượng các chất ma túy trong trường hợp này được xác định như sau:
Căn cứ quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Tội mua bán trái phép chất ma túy), thì Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine và MDMA là các chất ma túy được quy định trong cùng một điểm tại các khoản của Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (cụ thể gồm: điểm i khoản 2; điểm b khoản 3; điểm b khoản 4 Điều 251), vì vậy sẽ áp dụng quy định tại Điều 4 của Nghị định số 19 để tính tổng khối lượng của Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine và MDMA như sau:
- Cộng khối lượng của từng chất lại với nhau để xác định tổng khối lượng của 05 chất ma túy Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA là: 03 gam + 03 gam + 03 gam + 20 gam + 20 gam = 49 gam.
- Đối chiếu tổng khối lượng của 05 chất ma túy với quy định tại điểm i khoản 2; hoặc điểm b khoản 3; hoặc điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì trong trường hợp này tổng khối lượng của 05 chất ma túy tương đương với khối lượng Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine hoặc MDMA được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xác định điểm, khoản, điều luật: Như vậy trong trường hợp này tổng khối lượng của 05 chất ma túy Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine và MDMA thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể: “h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.
Như vậy, trường hợp thu được 02 chất ma túy trở lên mà đều được quy định trong một điểm của điều luật thì áp dụng khoản tương ứng “có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm…”.
7. Trường hợp đối tượng bị bắt quả tang bán ma túy. Qua điều tra thu được một lượng ma túy khác mà đối tượng này cất giấu trong nhà, đối tượng khai vừa để sử dụng vừa để bán thì xử lý đối tượng này về tội mua bán trái phép chất ma túy hay tội tàng trữ trái phép chất ma túy?
Trường hợp này phải căn cứ vào hành vi và ý thức chủ quan của người phạm tội để xem xét trách nhiệm hình sự. Nếu các hành vi đủ yếu tố cấu thành của 02 tội thì xem xét xử lý cả về 02 tội theo quy định của Bộ luật Hình sự. Trường hợp bắt được đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, sau đó đối tượng khai có tàng trữ trái phép chất ma túy ở nhà để sử dụng thì xem xét xử lý đối tượng này về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Trường hợp bắt được đối tượng mua bán trái phép ma túy, sau đó đối tượng tiếp tục khai còn tàng trữ ma túy trái phép chất ma túy ở nhà để mua bán thì cộng tổng khối lượng ma túy để xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật Hình sự.
8. Đối với tội buôn lậu, do hàng hóa buôn lậu đã tiêu thụ hết không thể thu hồi nên không định giá được. Trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng đã sử dụng kết luận của Cơ quan chuyên môn để kết luận giá trị hàng hóa làm căn cứ xem xét trách nhiệm của bị cáo có đúng không?
Trường hợp kết luận của cơ quan chuyên môn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác thì có giá trị làm căn cứ chứng minh tội phạm.
9. Khoản 1 Điều 264 (Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ) của Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào giao cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;…”
Vậy người khác trong quy định này được hiểu là người nào? Có bao gồm người được giao điều khiển phương tiện giao thông hay không?
Người khác ở trong trường hợp này được hiểu là bất kỳ người nào, trừ người giao phương tiện giao thông.
10. Người có hành vi buôn bán pháo nổ đã bị kết án về tội buôn bán hàng cấm theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (bản án có hiệu lực pháp luật trước ngày 01-7- 2015) chưa chấp hành hình phạt tù có thời hạn, hiện đang được hoãn thi hành án. Hiện nay Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định pháo nổ là hàng cấm thì người này có được xem xét miễn toàn bộ hình phạt hay không?
Tại mục 1 của Công văn số 91/TANDTC-PC ngày 28-4-2017 hướng dẫn xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa như sau.
“1. Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01-7-2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội…
Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình phạt là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người được miễn chấp hành hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước…”.
Theo hướng dẫn nêu thì mặc dù hiện nay Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định pháo nổ là hàng cấm nhưng do hành vi buôn bán pháo nổ xảy ra trước thời điểm Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành (ngày 01-7-2015) nên người bị kết án vẫn thuộc đối tượng được miễn toàn bộ hình phạt theo quy định của pháp luật.
11. Người có hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 (ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành) mà sau thời điểm này mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì khi xem xét cho hướng án treo, Tòa án căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP hay Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP?
Đối chiếu các quy định Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phạm vi áp dụng án treo của 02 điều luật này là không thay đổi. Do đó, đối với hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 mà sau thời điểm này mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử thì Tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định này (trong đó có Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP) để xem xét việc cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, đối với quy định về người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên trong thời gian thử thách tại đoạn 2 khoản 1 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là quy định mới không có lợi cho người phạm tội, nên quy định này không được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41 của Quốc hội. Do đó, khi tuyên án Tòa án cũng không áp dụng hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 02/2018//NQ-HĐTP để tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01-01-2018 nếu cho hưởng án treo.
12. Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không quy định không cho hưởng án treo đối với trường hợp người phạm tội đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác hoặc người phạm tội họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác. Như vậy, trường hợp bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo nhưng trong hồ sơ thể hiện bị cáo còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong vụ án khác thì có được hưởng án treo không?
Tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP đã hướng dẫn một trong những điều kiện để cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo là phải có nhân thân tốt. Trường hợp này, người phạm tội đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác hoặc người phạm tội còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác là không bảo đảm điều kiện có nhân thân tốt để cho hưởng án treo.
13. Đối với vụ án đánh bạc, Tòa án căn cứ vào tổng số tiền thu được hay số tiền mỗi bị cáo dùng đánh bạc để xem xét trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo.
Trường hợp này, tùy vào vụ việc cụ thể mà xác định trách nhiệm hình sự và mức hình phạt của các bị cáo. Cụ thể: đối với trường hợp các bị cáo cùng đánh bạc với nhau (như đánh phỏm, đánh chắn, đánh liêng, đánh sâm...) thì căn cứ vào tổng số tiền thu trên chiếu bạc (tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc) để xem xét trách nhiệm hình sự; số tiền mỗi bị cáo dùng vào việc đánh bạc là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm khi quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo; đối với trường hợp con bạc đánh với chủ bạc (như lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa, xóc đĩa...) thì việc xác định khung hình phạt và mức hình phạt phải căn cứ vào số tiền từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì việc chứng minh số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
14. Do có mâu thuẫn từ trước nên một nhóm đối tượng bàn bạc chuẩn bị các loại hung khí như búa đinh, dao phay, kiếm, tuýt sắt dài nhằm mục đích tấn công gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Khi đang trên đường đi gây án thì bị phát hiện và được ngăn chặn kịp thời. Trường hợp này nhóm đối tượng trên có bị xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích không?
Khoản 6 Điều 134 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
Quy định này không bắt buộc người phạm tội phải hoàn thành hành vi khách quan là gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của người khác và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra. Người có hành vi chuẩn bị một trong các loại công cụ, phương tiện phạm tội như: vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì đã đủ dấu hiệu về mặt hành vi khách quan để xử lý hình sự người phạm tội.
Do đó, đối với trường hợp nêu trên thì các đối tượng mặc dù chưa thực hiện hành vi gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng đã có sự bàn bạc thống nhất, câu kết chặt chẽ với nhau và đã hoàn thành việc chuẩn bị các loại hung khí nguy hiểm nhằm mục đích tấn công gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do đó, các đối tượng này có đủ dấu hiệu về mặt hành vi khách quan theo quy định tại khoản 6 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
15. Tại Công văn số 170/TANDTC-PC ngày 01-8-2018 của Tòa án nhân dân tối cao về thực hiện quy định của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-04-2018 về tha tù trước thời hạn có điều kiện có hướng dẫn: “…thời điểm có hiệu lực pháp luật của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là sau 15 ngày kể từ ngày ký, ban hành và thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách kể từ ngày Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật.”. Vậy xác định ngày đầu tiên trong thời hạn 15 ngày để xác định thời điểm có hiệu lực pháp luật của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện được tính như thế nào?
Quy định về tính thời hạn của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cơ bản không thay đổi. Trước đây, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị tại tiểu mục 4.1 phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08-12-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, thời hạn trong tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định hiện hành cũng được xác định định tượng tự. Cụ thể, ngày đầu tiên của thời hạn 15 ngày để xác định thời điểm có hiệu lực của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện theo hướng dẫn tại Công văn số 170 nêu trên là ngày tiếp theo của ngày ký ban hành Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Ví dụ: ngày 01-4-2020, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh A ký, ban hành Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện thì ngày bắt đầu của thời hạn 15 ngày để xác định thời điểm có hiệu lực của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là 0 giờ ngày 02-4-2020, thời điểm kết thúc của thời hạn này là 24 giờ ngày 16-4-2020 và thời điểm có hiệu lực pháp luật của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là 0 giờ ngày 17-4-2020.
II. TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện nhưng khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án hình sự được thực hiện như thế nào?
Về vấn đề này, trước đây đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày 22-10- 2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tuy nhiên hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có thay đổi, bổ sung so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó, trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Toà án nhân dân cấp tỉnh để Toà án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh.
2. Căn cứ khoản 3 Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử: Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về 01 tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử tội danh nặng hơn. Tuy nhiên, đối với các tội phạm khác nhau về khách thể thì có được áp dụng quy định trên không?
Ví dụ: Trong vụ án hình sự có 02 bị cáo, bị cáo A bị Viện kiểm sát truy tố về tội: “Che dấu tội phạm”, bị cáo B bị truy tố về tội: “Giết người”. Tòa án nhận thấy bị cáo A có dấu hiệu phạm tội: “Giết người” với vai trò đồng phạm. Tòa án tiến hành trả hồ sơ để viện kiểm sát truy tố lại nhưng Viện kiểm sát không thực hiện. Vậy, Tòa án xét xử bị cáo A về tội gì?
Khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn, quy định này được hiểu là bất kể tội danh gì mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm nếu hành vi phạm tội của bị cáo có đủ căn cứ kết tội họ. Do đó, trường hợp này Tòa án có thể xét xử tội danh nặng hơn đối với các tội phạm khác nhau về khách thể như nêu trên. Tuy nhiên, các Tòa án cần lưu ý bảo đảm quyền bào chữa, thành phần Hội đồng xét xử và các quy định khác theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Trong vụ án hình sự, có bị can, bị cáo đang thi hành án hình phạt tù ở một vụ án trước hoặc có bị can, bị cáo đang thi hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, khi trích xuất bị can, bị cáo để phục vụ việc xét xử Tòa án có phải ra Quyết định tạm giam để làm căn cứ trích xuất được bị cáo đến phiên tòa không? (Thông tư liên tịch số 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 30-5-2013 và Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23-01-2018 không nêu rõ trường hợp này).
- Đối với bị can, bị cáo đang thi hành án hình phạt tù ở một vụ án trước thì không ra quyết định tạm giam mà chỉ ra quyết định trích xuất để phục vụ công tác xét xử vụ án. Vì không có căn cứ tạm giam theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, liên ngành trung ương đang soạn thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 04 nêu trên, trong đó đã hướng dẫn trường hợp này khi phạm nhân được trích xuất phục vụ điều tra, truy tố, xét xử thì chế độ quản lý giam giữ, chế độ ăn, ở, sinh hoạt đối với phạm nhân được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Đối với bị can, bị cáo đang thi hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Tòa án có thể yêu cầu Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó theo quy định tại Điều 117 của Luật xử lý vi phạm hành chính. Sau đó, tùy trường hợp căn cứ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để xem xét áp dụng biện pháp tạm giam hay biện pháp ngăn chặn khác đối với bị can, bị cáo đó. 4. Viện kiểm sát rút một phần truy tố tại phiên tòa thì bản án có phải xem xét, đánh giá tính có căn cứ của việc rút truy tố của Viện kiểm sát hay không?
Về vấn đề này, trước đây Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự” và Công văn số 328/NCPL ngày 22-6-1993 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn. Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có thay đổi, bổ sung so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó, nếu tại phiên toà, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên chỉ rút quyết định truy tố đối với một tội hoặc một số tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với các tội khác hay Kiểm sát viên chỉ rút quyết định truy tố đối với một hoặc một số các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo hoặc các bị cáo còn lại thì đây là các trường hợp Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố. Vì vậy trong trường hợp này, Hội đồng xét xử vẫn xét xử toàn bộ vụ án và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận việc rút truy tố đó. Căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận được ghi trong bản án.
5. Sau khi Tòa án tuyên án nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật, chưa có quyết định thi hành án thì người được hưởng án treo không có mặt tại nơi cư trú hoặc vi phạm nội quy, quy chế tại nơi cư trú có được xác định là vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự hay không?
Trường hợp này xác định là vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự. Vì thời gian thử thách của người được hưởng án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm và căn cứ vào khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử lý.
6. Người được Tòa án quyết định hoãn chấp hành án phạt tù (đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc mang thai), chưa hết thời gian hoãn nhưng người bị kết án tự nguyện xin đi chấp hành án thì cơ quan có thẩm quyền có chấp nhận không?
Trường hợp này, người đang được hoãn chấp hành án phạt tù phải có đơn gửi Chánh án Tòa án đã ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù để Chánh án ra quyết định thi hành án trong đó có ghi rõ nội dung quyết định này thay thế quyết định hoãn chấp hành án phạt tù.
III. TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1. Việc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã có thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 2 và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thì chứng thực là việc Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận cho các yêu cầu, giao dịch dân sự của người có yêu cầu chứng thực, qua đó người thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao đúng với bản chính, về tính xác thực chữ ký của người yêu cầu chứng thực trong giấy tờ, văn bản, về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, về nội dung của hợp đồng, giao dịch. Do đó, đây là hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nếu hành vi đó làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
2. Quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có phải là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện không?
Theo quy định tại Điều 1 của Luật Đấu thầu thì: Luật này quy định quản lý nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên quan và các hoạt động đấu thầu, bao gồm: lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp...; lựa chọn nhà thầu thực hiện cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa trên lãnh thổ Việt Nam ...; lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), dự án đầu tư có sử dụng đất; lựa chọn nhà thầu trong lĩnh vực dầu khí, trừ việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ dầu khí liên quan trực tiếp đến hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí theo quy định của pháp luật về dầu khí.
Theo quy định từ Điều 100 đến Điều 103 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26-6-2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu thì Bộ trưởng; Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và Thủ trưởng các cơ quan khác ở địa phương; Hội đồng quản trị, người đứng đầu doanh nghiệp; Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần và đại diện hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có trách nhiệm phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Căn cứ các quy định nêu trên thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu các dự án thuộc phạm vi quy định tại Điều 1 của Luật Đấu thầu nên quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
3. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, người khởi kiện được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đến Tòa để lấy lời khai, nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng và không có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trong trường hợp này, Tòa án có được đình chỉ giải quyết vụ án không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp:
“…đ) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 135 của Luật Tố tụng hành chính thì tại phiên đối thoại vụ án hành chính nếu người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt là thuộc trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được.
Như vậy, theo các quy định này thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính mà người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa để lấy lời khai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án cấp sơ thẩm có quyền đình chỉ giải quyết vụ án, trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Riêng đối với trường hợp người khởi kiện được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên đối thoại mà vẫn cố tình vắng mặt thì thuộc trường hợp vụ án không tiến hành đối thoại được và Tòa án vẫn tiến hành các thủ tục để giải quyết vụ án theo quy định.
4. Khi đã hết thời hiệu khiếu nại thì người khiếu nại mới có đơn khiếu nại quyết định hành chính đến cơ quan, người có thẩm quyền. Việc khiếu nại quá thời hiệu là không có lý do chính đáng. Do việc khiếu nại gay gắt, nhiều lần nên cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản (Quyết định, Công văn, Thông báo,…) có nội dung cho rằng quyết định hành chính đã được ban hành theo đúng quy định của pháp luật. Người khiếu nại không đồng ý nên đã có đơn khởi kiện đối với văn bản này. Vậy có xác định văn bản hành chính trên là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không? Nếu xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thì khi giải quyết vụ án có phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính ban đầu hay không?
Theo quy định tại khoản 6 Điều 11 của Luật Khiếu nại thì khiếu nại thuộc một trong các trường hợp sau đây không được thụ lý giải quyết: “Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng”.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31-10-2014 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh thì Đơn khiếu nại đã hết thời hạn, thời hiệu theo quy định của pháp luật được xếp lưu đơn.
Theo các quy định nêu trên thì khi khiếu nại đã hết thời hiệu khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền không được thụ lý mà xếp lưu đơn. Tuy nhiên, trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản hành chính trả lời cho người khiếu nại xác định quyết định hành chính đúng pháp luật; văn bản này bị khởi kiện thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xem xét văn bản đó có phải là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính hay không, cụ thể:
+ Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành Quyết định để giải quyết khiếu nại thì đây là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện; khi giải quyết vụ án hành chính thì Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của cả quyết định hành chính ban đầu;
+ Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản bằng hình thức Công văn, Thông báo,… có nội dung thể hiện diễn biến việc ra quyết định hành chính, quá trình xác minh khiếu nại, từ đó căn cứ các quy định của pháp luật để ra kết luận đối với việc khiếu nại thì xác định văn bản hành chính này là quyết định giải quyết khiếu nại. Văn bản này có nội dung làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên được xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Khi giải quyết vụ án thì Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính ban đầu;
+ Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản bằng hình thức Công văn, Thông báo,… có nội dung cho rằng việc khiếu nại đã hết thời hiệu theo quy định của pháp luật thì văn bản hành chính này không phải là quyết định giải quyết khiếu nại và không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
5. Theo quy định tại các khoản 2, 3 Điều 196 của Luật Tố tụng hành chính thì:
“2. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải cấp, gửi bản án cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp, gửi bản án đã có hiệu lực pháp luật cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cơ quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện”.
Theo quy định này thì Tòa án 02 lần gửi bản án (01 bản án chưa có hiệu lực, 01 bản án có hiệu lực pháp luật) cho Viện kiểm sát cùng cấp có đúng không?
Đây là các quy định khác nhau nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính. Do đó, các Tòa án phải thực hiện theo đúng quy định này.
6. Trường hợp đất đai của hộ gia đình nhưng đã được ông A (một thành viên trong hộ) lén lút đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông A chuyển nhượng cho ông B; Ông B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tiếp tục chuyển nhượng cho ông C. Ông C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, các thành viên hộ gia đình phát hiện hiện ra việc kê khai gian dối để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông C. Trường hợp này, Tòa án chỉ hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông C hay hủy cả giấy chứng nhận đứng tên ông A, ông B.
Trường hợp này, Tòa án phải xem xét đánh giá về tính hợp pháp của các quyết định hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông A, ông B, ông C. Nếu việc chuyển nhượng đất giữa ông B với ông C là ngay tình và đúng theo quy định của pháp luật về chuyển nhượng đất thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai và khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự.
7. Quyết định hành chính hết thời hiệu khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại còn thời hiệu khởi kiện, tuy nhiên người khởi kiện chỉ khởi kiện quyết định hành chính mà không khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại. Trường hợp này Tòa án vẫn xem xét giải quyết hay đình chỉ vụ án do hết thời hiệu?
Theo quy định tại Điều 7 của Luật Khiếu nại và khoản 3 Điều của 116 Luật Tố tụng hành chính thì trường hợp này thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại, mà không phải tính từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính. Do đó, Tòa án vẫn xem xét giải quyết mà không đình chỉ vụ án.
8. Văn bản của Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thông báo ý kiến kết luận của Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp huyện thu hồi đất của hộ gia đình (vì cho rằng giao đất không đúng đối tượng) bị khởi kiện. Tòa án có xác định văn bản này là quyết định hành chính bị khởi kiện hay không?
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 66 Luật Đất đai thì việc thu hồi đất của hộ gia đình thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, mà không phải thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức.
Theo các quy định trên thì văn bản thông báo ý kiến của Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là văn bản mang tính chất nội bộ của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về việc chỉ đạo, điều hành của cơ quan, tổ chức, đồng thời văn bản này không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính thì quyết định này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
IV. DÂN SỰ
1. Trong vụ án xác nhận cha, mẹ cho con, Tòa án đã ra Quyết định trưng cầu giám định nhưng bị đơn không hợp tác dẫn đến không thực hiện được việc giám định ADN. Vậy, trường hợp này thì Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án hay tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung?
Khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định:
“1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
b) Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
c) Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án;
đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;
e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;
g) Theo quy định tại Điều 41 của Luật Phá sản;...”
Việc thu thập mẫu vật để giám định ADN là một trong hoạt động thu thập chứng cứ của Thẩm phán quy định tại điểm c khoản 2 Điều 97 và khoản 2 Điều 102 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 214 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vì vậy không phải là một trong các căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 5 Điều 94 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì kết luận giám định chỉ là một trong các nguồn chứng cứ. Điều 108 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ”.
Do đó, nếu không thể thu thập được mẫu vật để giám định ADN thì Tòa án phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
2. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vậy, khi lý do tạm đình
chỉ giải quyết vụ án không còn thì Tòa án ra thông báo mở lại phiên tòa hay ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự?
Khoản 2 Điều 259 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:“Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự...”.
Điều 216 của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự quy định:
“Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.”
Như vậy, trường hợp vụ án đã được đưa ra xét xử sau đó mới tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 259 nêu trên, nhưng sau đó lý do tạm đình chỉ không còn thì Tòa án phải căn cứ Điều 216 của Bộ luật Tố tụng dân sự để ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự theo mẫu số 44-DS ban hành theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13-01-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong mẫu số 44-DS không có nội dung về ngày mở phiên tòa. Vì vậy, kèm theo quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, Tòa án gửi thông báo ngày mở lại phiên tòa và phiên tòa sẽ được tiến hành lại từ đầu.
3. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán có phải giải thích cho đương sự quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu hay không? (nhiều trường hợp do đương sự không hiểu biết và những người tiến hành tố tụng không giải thích trước khi Tòa tuyên án sơ thẩm dẫn đến đương sự mất quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu).
Theo quy định tại Điều 48, Điều 210, Điều 239 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm phổ biến, giải thích về quyền và nghĩa vụ cho đương sự đối với những trường hợp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, ví dụ quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định từ Điều 70 đến Điều 73; khoản 6 Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự…
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định trách nhiệm của Thẩm phán về việc phổ biến và giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu. Mặt khác, khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc...”.
Để bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán không giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.
4. Trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa thì việc tuyên quyền kháng cáo của đương sự trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hay kể từ ngày nhận được bản án?
Điều 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn kháng cáo thì:
“1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.”
Theo những quy định nêu trên thì người đại diện của đương sự được nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo ủy quyền, việc đương sự vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa thì đây là trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa và thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
5. Sau khi ly hôn, cha, mẹ sống tại nước ngoài. Nay, họ có đơn khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, con chung đang sinh sống tại Việt Nam thì có thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam hay không?
Điểm đ khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài quy định: “Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp sau đây:
…đ) Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở Việt Nam, đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên lãnh thổ Việt Nam hoặc công việc được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam;…”.
Người con đang sinh sống tại Việt Nam, nếu phát sinh tranh chấp yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, tức là tranh chấp về quan hệ trực tiếp nuôi con xẩy ra ở Việt Nam. Do vậy, cha, mẹ có đơn khởi kiện tại Tòa án Việt Nam về việc thay đổi người trực tiếp nuôi người con đang sinh sống tại Việt Nam thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, Tòa án cần căn cứ quy định tại Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự để xem xét vụ án có thuộc trường hợp “Trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc đã có Tòa án nước ngoài, Trọng tài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài giải quyết hoặc đương sự được hưởng quyền miễn trừ tư pháp” hay không?
6. Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định nguyên tắc xét xử liên tục. Vậy, có được thay đổi thành viên Hội đồng xét xử trong quá trình nghị án hoặc tạm ngừng phiên tòa vì lý do khách quan hay không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 197 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có
Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp”.
Điều 226 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “1. Trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì những người này được tham gia xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu.
Trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
2. Trường hợp không có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên Hội đồng xét xử hoặc phải thay đổi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa mà không có Thẩm phán để thay thế theo quy định tại khoản 1 Điều này thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu.”
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên thì trong quá trình nghị án hoặc tạm ngừng phiên tòa mà có thành viên Hội đồng xét xử không thể tiếp tục tham gia xét xử thì có thể được thay đổi bằng thành viên dự khuyết và tiếp tục việc xét xử, nếu không có thành viên dự khuyết thì vẫn được thay đổi thành viên Hội đồng xét xử nhưng vụ án phải được xét xử lại từ đầu.
7. Tranh chấp liên quan đến ranh giới đất (Ví dụ: cấp chồng lấn), một trong hai bên đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu. Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý, xem xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nếu vậy thì nhiều vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện chuyển lên Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ dẫn đến quá tải.
Đối với trường hợp nêu trên, Tòa án xác định diện tích, ranh giới đất và đề nghị Ủy ban nhân dân điều chỉnh diện tích đất phù hợp với thực tế sử dụng mà không cần hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy, Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết thì có phù hợp với Công văn số 64/TANDTC-PC hay không?
Tại mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ đã hướng dẫn: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính cá biệt.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất mà trong đó có việc cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đang tranh chấp không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự thì Tòa án phải xem xét giải quyết việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó trong vụ án dân sự và
đưa cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khoản 4 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức như sau: “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính quy định: Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Đối tượng hướng dẫn áp dụng theo Công văn số 64/TANDTC-PC là tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, còn đối tượng tranh chấp trong trường hợp nêu trên là tranh chấp quyền sử dụng đất. Đây là hai đối tượng tranh chấp khác nhau. Hơn nữa, pháp luật chỉ quy định thẩm quyền của Tòa án là hủy quyết định cá biệt hoặc bác yêu cầu khởi kiện của đương sự mà không quy định Tòa án có thẩm quyền đề nghị cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh quyết định.
Do vậy, đối với tranh chấp liên quan đến ranh giới đất bị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng lấn, nếu thấy cần thiết phải xem xét việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
8. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (bị đơn) để bảo đảm thi hành án. Tài sản bị yêu cầu phong tỏa là nhà, đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bị đơn. Bị đơn đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất này cho người thứ 3 và hợp đồng được công chứng nhưng chưa được đăng ký vào sổ địa chính. Vậy, Tòa án có được ra quyết định áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản trong trường hợp này hay không?
Điều 126 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:“Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
Khoản 1 Điều 12 và khoản 1 Điều 122 của Luật Nhà ở năm 2014 quy định như sau:
Khoản 1 Điều 12: “Trường hợp mua bán nhà ở mà không thuộc diện quy định tại khoản 3 Điều này và trường hợp thuê mua nhà ở thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền mua, tiền thuê mua và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Khoản 1 Điều 122: “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng”.
Khoản 3 Điều 188 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”.
Như vậy, theo các quy định trên, cần xác định rõ tài sản mà nguyên đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là nhà hay là quyền sử dụng đất.
Trường hợp tài sản là nhà ở, theo quy định của pháp luật, thời điểm hợp đồng mua bán nhà có hiệu lực là thời điểm hợp đồng đó được công chứng, chứng thực, còn việc chuyển giao quyền sở hữu từ người bán sang người mua là thời điểm bên mua đã thanh toán đủ tiền và nhận bàn giao nhà. Vì vậy, trường hợp nguyên đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là nhà ở thuộc quyền sở hữu của bị đơn thì giải quyết như sau: Nếu bị đơn đã ký hợp mua bán nhà ở với bên mua, hợp đồng đã được Công chứng mà bên mua đã trả đủ tiền và nhận bàn giao nhà ở từ bên bán thì kể từ thời điểm này nhà ở đã không còn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị đơn, nên Tòa án không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; nếu hợp đồng mua bán nhà ở giữa bị đơn với người mua đã được công chứng, nhưng người mua chưa thanh toán đủ tiền mua hoặc chưa nhận nhà từ bên bán bàn giao thì tài sản đó vẫn còn thuộc quyền sở hữu của bị đơn, nên Tòa án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, theo quy định của pháp luật thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời đăng ký vào sổ địa chính. Vì vậy, trường hợp nguyên đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ là thửa đất thuộc quyền sử dụng của bị đơn thì giải quyết như sau: Nếu bị đơn đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, hợp đồng đã được công chứng và đã hoàn thành thủ tục đăng ký vào sổ địa chính thì kể từ thời điểm này thửa đất không thuộc quyền sử dụng của bị đơn, nên Tòa án không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; nếu đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, hợp đồng đã được công chứng, nhưng chưa đăng ký vào sổ địa chính thì thửa đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng của bị đơn, nên Tòa án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
9. Tòa án tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng lần 1 nhưng đương sự cố tình không nhận thì Tòa án có phải tiến hành niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự không?
Khoản 1 Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:“Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện trong trường hợp không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì Tòa án chỉ niêm yết công khai văn bản tố tụng khi không thể cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp văn bản tố tụng, không phụ thuộc vào việc cấp, tống đạt, thông báo lần thứ nhất hay những lần sau.
Khoản 4 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.” và khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp
người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn bản tố tụng hoặc vắng mặt thì thực hiện theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 177 của Bộ luật này.”
Như vậy, trường hợp Tòa án đã tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng mà đương sự từ chối nhận văn bản tống đạt thì người tống đạt lập biên bản trong đó nêu rõ lý do của việc từ chối, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn về việc người đó từ chối nhận văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177, Điều 178 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc cấp, tống đạt, thông báo trực tiếp cho đương sự được coi là tống đạt hợp lệ, Tòa án không phải niêm yết công khai.
10. Trong vụ án chia tài sản chung, chia di sản thừa kế thì người được hưởng phần tài sản là công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất có phải chịu án phí không?
Người có công sức gìn giữ tôn tạo đối với quyền sử dụng đất là di sản thừa kế hoặc là tài sản chung có thể là người thừa kế (theo di chúc, theo pháp luật, người được chia tài sản chung) hoặc người ngoài diện được hưởng thừa kế, người ngoài diện được chia tài sản chung, họ có yêu cầu độc lập đề nghị được hưởng công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất mà nguyên đơn, bị đơn đang tranh chấp yêu cầu chia thừa kế, chia tài sản chung.
Khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án quy định:
“7. Đối với vụ án liên quan đến chia tài sản chung, di sản thừa kế thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
a) Khi các bên đương sự không xác định được phần tài sản của mình hoặc mỗi người xác định phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần di sản của mình trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó thì mỗi bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc trong khối di sản thừa kế. Đối với phần Tòa án bác đơn yêu cầu thì người yêu cầu chia tài sản chung, di sản thừa kế không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trường hợp, Tòa án xác định tài sản chung, di sản thừa kế mà đương sự yêu cầu chia không phải là tài sản của họ thì đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch;
b) Trường hợp đương sự đề nghị chia tài sản chung, chia di sản thừa kế mà cần xem xét việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản với bên thứ ba từ tài sản chung, di sản thừa kế đó thì:
Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba; các đương sự phải chịu một phần án phí ngang nhau đối với phần tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba theo quyết định của Tòa án.
Người thứ ba là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập hoặc có yêu cầu nhưng yêu cầu đó được Tòa án chấp nhận thì không phải chịu án phí đối với phần tài sản được nhận.
Người thứ ba có yêu cầu độc lập nhưng yêu cầu đó không được Tòa án chấp nhận phải chịu án phí dân sự có giá ngạch đối với phần yêu cầu không được chấp nhận.”
Căn cứ quy định nêu trên thì tùy từng trường hợp, việc xác định nghĩa vụ chịu án phí của người được hưởng phần tài sản là công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất được xác định như sau:
- Trường hợp người yêu cầu được hưởng công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc, hoặc thuộc diện được chia tài sản chung thì xác định án phí như sau:
+ Nếu yêu cầu được chấp nhận, người đó được hưởng phần công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất cùng với việc được chia di sản hoặc chia tài sản chung thì phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối di sản thừa kế hoặc trong khối tài sản chung;
+ Nếu yêu cầu không được chấp nhận, Tòa án bác yêu cầu hưởng phần công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất cùng với việc được chia di sản hoặc chia tài sản chung thì không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu hưởng công sức.
- Trường hợp người yêu cầu được hưởng công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất không phải là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc hoặc không thuộc diện được chia tài sản chung (gọi là người thứ ba) thì xác định án phí như sau:
+ Nếu yêu cầu của người thứ ba được chấp nhận, Tòa tuyên cho người thứ ba được hưởng phần công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất trong vụ án chia thừa kế hoặc chia tài sản chung thì người thứ ba không phải chịu án phí; những người được thừa kế theo pháp luật, theo di chúc hoặc được chia tài sản chung phải chịu án phí sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản mà người thứ ba được hưởng trong khối di sản thừa kế hoặc trong khối tài sản chung.
+ Nếu yêu cầu của người thứ ba không được chấp nhận thì người thứ ba phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu hưởng phần công sức gìn giữ tôn tạo quyền sử dụng đất trong vụ án chia thừa kế hoặc chia tài sản chung bị Tòa án bác.
11. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH thì tranh chấp xác định cha, mẹ cho con là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, vậy khi giải quyết thì nguyên đơn hay bị đơn phải chịu án phí?
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con là thuộc trường hợp tranh chấp quy định tại khoản 4 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự cho nên đây là loại án hôn nhân và gia đình; tuy nhiên Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH không quy định cụ thể về án phí đối với loại tranh chấp này cho nên phải áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH: “Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm...Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận.” để tính án phí, trừ trường hợp quy định tại Điều 11, Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH.
Trường hợp xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH.
12. Người cao tuổi không có đơn, không có đề nghị miễn tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án (vì không hiểu biết, không được giải thích). Tòa án vẫn buộc phải chịu án phí (không cho miễn) có được xác định là vi phạm hay không?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH thì người cao tuổi được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH quy định: “Người đề nghị được miễn, giảm tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án thuộc trường hợp quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết này phải có đơn đề nghị nộp cho Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm”.
Do đó, nếu đương sự không có đơn đề nghị thì việc Tòa án quyết định đương sự phải chịu án phí là không vi phạm.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
[1] Tham khảo hướng dẫn tại tiểu mục 6.1 của Mục 6 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 8 năm 2021
Số: 136/TANDTC-PC V/v tăng cường hơn nữa công tác phát triển, áp dụng án lệ trong Tòa án nhân dân
Kính gửi: - Chánh án các Tòa án nhân dân cấp cao;
- Chánh án các Tòa án án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Chánh án các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; - Vụ trưởng các Vụ Giám đốc kiểm tra I, II, III.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành tổng kết 05 năm công tác phát triển án lệ. Qua tổng kết cho thấy, mặc dù Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30-5-2016 về việc tăng cường công tác phát triển và công bố, áp dụng án lệ trong xét xử nhưng thực tế mới chỉ có một số Tòa án, đơn vị, cá nhân trong hệ thống Tòa án nhân dân có đóng góp trong việc rà soát, nghiên cứu, đề xuất các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để đề xuất phát triển thành án lệ; còn lại đa số các Tòa án, đơn vị, cá nhân chưa tham gia vào công tác phát triển án lệ; nhiều Thẩm phán chưa thực sự quan tâm đến công tác nâng cao chất lượng các bản án, quyết định dẫn đến một số bản án, quyết định của Tòa án được ban hành chưa bảo đảm tính chuẩn mực, không đáp ứng được yêu cầu làm nguồn án lệ; số lượng bản án, quyết định được đề xuất là nguồn án lệ còn hạn chế... dẫn đến số lượng án lệ được công bố trong thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Để tiếp tục tăng cường công tác phát triển và áp dụng án lệ trong Tòa án nhân dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác phát triển án lệ và nâng cao chất lượng các bản án, quyết định, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quán triệt như sau:
1. Về yêu cầu trong công tác phát triển, áp dụng án lệ
1.1. Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Vụ trưởng Vụ Giám đốc kiểm tra I, II, III Tòa án nhân dân tối cao trong phạm vi thẩm quyền được giao có trách nhiệm:
- Nghiêm túc tổ chức thực hiện các quy định tại Điều 3 và Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ- HĐTP ngày 18-6-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc đề xuất các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ và áp dụng án lệ;
- Quán triệt cho Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh tư pháp khác trong cơ quan, đơn vị chủ động tìm hiểu, nghiên cứu nội dung của các án lệ đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố để xem xét áp dụng vào thực tiễn công tác;
- Tăng cường công tác tập huấn về kỹ năng viết bản án cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình nhằm nâng cao chất lượng các bản án, quyết định; đối với các vụ án có định hướng đề xuất phát triển thành án lệ thì cần lên ý tưởng “xây dựng án lệ” từ
khi tiến hành viết bản án, quyết định có chứa đựng lập luận, phán quyết để đáp ứng được các tiêu chí lựa chọn án lệ, nhằm nâng cao chất lượng nguồn án lệ; hướng dẫn cách viện dẫn án lệ.
1.2. Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định tại mục 3 đến mục 9 phần I của Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30-5-2016 về việc tăng cường công tác phát triển và công bố án lệ, áp dụng án lệ trong xét xử.
2. Chỉ tiêu đề xuất bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ
- Các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mỗi đơn vị phải đề xuất ít nhất 05 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ/01 năm;
- Các Vụ Giám đốc kiểm tra I, II, III mỗi đơn vị phải đề xuất ít nhất 03 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ/01 năm;
- Các Tòa án quân sự quân khu và tương đương mỗi đơn vị phải đề xuất ít nhất 02 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là nguồn để phát triển thành án lệ/01 năm (Tòa án quân sự trung ương có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ này của các Tòa án quân sự quân khu và tương đương).
3. Tổ chức thực hiện
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các nhiệm vụ được giao theo Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30-5- 2016 về việc tăng cường công tác phát triển và công bố, áp dụng án lệ trong xét xử; Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18-6-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ và Công văn này.
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao là đơn vị thường trực theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện, thường xuyên báo cáo Chánh án và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc thực hiện nhiệm vụ này.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Đ/c Phó Chánh án TANDTC (để chỉ đạo thực hiện); - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao (để thực hiện); - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng); - Lưu: VP, Vụ PC&QLKH. KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2020
Số: 199/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong giải quyết phá sản
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 27-7-2020, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức tập huấn trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như sau:
1. Thế nào là "tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán" quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản thì "Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán."
Căn cứ vào quy định trên thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có khoản nợ cụ thể, rõ ràng do các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại, hoặc được xác định trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền và các bên không có tranh chấp về khoản nợ này.
- Khoản nợ đến hạn thanh toán.
Khoản nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ đã được xác định rõ thời hạn thanh toán, mà đến thời hạn đó doanh nghiệp, hợp tác xã phải có nghĩa vụ trả nợ. Thời hạn thanh toán này được các bên thừa nhận, thỏa thuận hoặc được xác định thông qua bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phán quyết của Trọng tài thương mại hoặc trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán bao gồm 02 trường hợp:
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không có tài sản để thanh toán các khoản nợ;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã có tài sản nhưng không thanh toán các khoản nợ.
Theo đó, “mất khả năng thanh toán” không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để trả nợ; mặc dù doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản để trả nợ nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn cho chủ nợ thì vẫn coi là doanh nghiệp, hợp tác xã "mất khả năng thanh toán".
Cần lưu ý: Pháp luật hiện hành không quy định một mức khoản nợ cụ thể nào để xác định là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán mà chỉ cần có đủ các điều kiện nêu trên.
2. Trường hợp người yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản thì Tòa án sử dụng khoản tiền nào để chi trả cho cho các khoản chi phí khi tiến hành phá sản doanh nghiệp?
Theo quy định tại Điều 22 và khoản 2 Điều 23 Luật Phá sản thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn không phải nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản quy định tại khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 1 Điều 105 Luật Phá sản.
Khoản 2 Điều 5 Luật Phá sản quy định người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Khoản 6 Điều 9, các điểm e, g khoản 1 Điều 16, khoản 3 Điều 23 Luật Phá sản quy định theo đề nghị của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì Thẩm phán có quyền quyết định giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán sau khi mở thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản.
Từ các quy định nêu trên, trường hợp người yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản thì Tòa án giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản.
Tuy nhiên, thực tiễn xảy ra vướng mắc như sau: Để thực hiện việc bán tài sản thì Quản tài viên phải thực hiện việc định giá tài sản, bán đấu giá tài sản. Vậy chi phí cho việc thực hiện các công việc này được lấy từ đâu?
Vấn đề này chưa được pháp luật quy định. Trong khi chờ sửa luật, các Tòa án có thể cân nhắc các giải pháp tạm thời như sau:
Thứ nhất, Tòa án có thể đề nghị tổ chức định giá tài sản, bán đấu giá tài sản thực hiện việc định giá tài sản, bán đấu giá tài sản trước. Sau khi bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp xong sẽ thanh toán chi phí định giá, bán đấu giá tài sản cho tổ chức định giá tài sản, bán đấu giá tài sản.
Thứ hai, Tòa án có thể phối hợp, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh tạm ứng chi phí cho việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Sau khi bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã xong sẽ hoàn trả lại cho Ủy ban nhân dân tỉnh số tiền đã tạm ứng.
3. Thẩm phán đã ra quyết định không mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có phải từ chối tham gia giải quyết phá sản đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã đó khi vụ việc phá sản được thụ lý lại không?
Thẩm phán đã ra quyết định không mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trước đó không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 Luật Phá sản “đã tham gia ra quyết định tuyên bố phá sản đối với vụ việc phá sản đó” và cũng không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi khác theo quy định tại Điều 10 Luật Phá sản. Vì vậy, trường hợp này Thẩm phán không phải từ chối tham gia giải quyết vụ việc phá sản.
4. Trường hợp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mà thấy rằng số tiền tạm ứng chi phí phá sản do người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nộp không đủ thì Tòa án có yêu cầu người nộp đơn nộp bổ sung tiền tạm ứng chi phí phá sản nữa không?
“Tạm ứng chi phí phá sản là khoản tiền do Tòa án nhân dân quyết định để đăng báo, tạm ứng chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” (khoản 14 Điều 4 Luật Phá sản).
“Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn quy định tại khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 1 Điều 105 của Luật Phá sản.” (khoản 2 Điều 23 Luật Phá sản).
Như vậy, việc nộp tạm ứng chi phí phá sản là nghĩa vụ bắt buộc của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi họ nộp đơn và khoản tiền tạm ứng do Tòa án quyết định chỉ là dự tính ban đầu để có căn cứ cho người yêu cầu nộp (khoản 1 Điều 38 Luật Phá sản) trên cơ sở quy định tại Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ về chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Do vậy, trong quá trình giải quyết phá sản nếu xét thấy phát sinh các chi phí tiếp theo để Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoạt động giải quyết phá sản thì Tòa án có quyền yêu cầu người nộp đơn phải tiếp tục nộp tạm ứng chi phí phá sản.
Nếu người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không nộp bổ sung tạm ứng chi phí phá sản thì căn cứ vào các quy định tại điểm e khoản 1 Điều 16, khoản 6 Điều 9 và khoản 3 Điều 23 Luật Phá sản, Thẩm phán tự mình hoặc theo yêu cầu của Quản tài viên quyết định việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán sau khi mở thủ tục phá sản để bảo đảm chi phí phá sản và giao cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm trả đủ chi phí phá sản.
5. Theo quy định tại Điều 38 Luật Phá sản thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ, Tòa án nhân dân dự tính số tiền tạm ứng chi phí phá sản và thông báo cho người yêu cầu mở thủ tục phá sản để nộp tạm ứng chi phí phá sản. Căn cứ để Tòa án tính tạm ứng chi phí phá sản như thế nào?
"Tạm ứng chi phí phá sản là khoản tiền do Tòa án nhân dân quyết định để đăng báo, tạm ứng chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” (khoản 14 Điều 4 Luật Phá sản).
"... Tòa án nhân dân dự tính số tiền tạm ứng chi phí phá sản..." (khoản 1 Điều 38 Luật Phá sản).
Như vậy, tùy từng vụ việc phá sản, Tòa án căn cứ mức thu lệ phí của Báo địa phương, thực tế tại địa phương về hoạt động của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và trên cơ sở quy định tại Điều 21 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ về chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản để quyết định số tiền tạm ứng chi phí phá sản, trong đó có khoản tiền tạm ứng ban đầu cho Quản tài viên.
6. Trường hợp bán một phần tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản thì khoản tiền đó được gửi vào tài khoản của Tòa án hay của Quản tài viên?
Pháp luật phá sản chưa quy định Tòa án sử dụng tài khoản nào để quản lý số tiền bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật Phá sản thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc nộp tạm ứng chi phí phá sản, người yêu cầu phải “nộp tạm ứng chi phí phá sản vào tài khoản do Tòa án nhân dân mở tại ngân hàng”. Vì vậy, áp dụng tương tự quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 khi bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để bảo đảm chi phí phá sản thì tiền bán tài sản được chuyển vào tài khoản do Tòa án mở theo điểm b khoản 2 Điều 38 nêu trên.
7. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Luật Phá sản thì tiền tạm ứng chi phí phá sản được nộp vào tài khoản do Tòa án nhân dân mở tại ngân hàng. Vậy Tòa án nhân dân mở một tài khoản chung dùng cho tất cả các vụ việc phá sản hay phải mở một tài khoản riêng cho từng vụ việc phá sản?
Sau khi được phân công giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và xem xét thấy đơn yêu cầu hợp lệ, Thẩm phán có thể quyết định mở một tài khoản riêng tại ngân hàng để quản lý các khoản tiền gửi vào (tiền tạm ứng chi phí phá sản, tiền bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã...) và quyết định việc rút tiền để thanh toán các chi phí như: chi phí Quản tài viên, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và các chi phí khác phát sinh.
Như vậy, đối với mỗi vụ việc phá sản, Tòa án nên có một tài khoản riêng để dễ quản lý các chi phí liên quan đến từng vụ việc phá sản. Kết thúc vụ việc phá sản thì Tòa án phải đóng tài khoản đó.
8. Trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chỉ nộp lệ phí phá sản mà không nộp tạm ứng chi phí phá sản thì phải giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều 22 và Điều 23 Luật Phá sản thì nộp lệ phí phá sản và tạm ứng chi phí phá sản là nghĩa vụ của người nộp đơn (trừ trường hợp họ không phải nộp). Điều 39 Luật Phá sản quy định: "Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản sau khi nhận được biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi phí phá sản.”
Như vậy, việc nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản và biên lai nộp lệ phí phá sản, biên lai nộp tạm ứng chi phí phá sản cho Tòa án là hai điều kiện bắt buộc để Tòa án thụ lý phá sản (Điều 39 Luật Phá sản).
Người nộp đơn yêu cầu thuộc trường hợp phải nộp lệ phí và tạm ứng chi phí phá sản mà họ chỉ nộp lệ phí phá sản mà không nộp tạm ứng chi phí phá sản, hoặc không nộp biên lai (chứng cứ khác) về việc nộp hai khoản trên thì Tòa án trả lại đơn cho họ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 35 Luật Phá sản.
9. Trường hợp “Quyết định mở thủ tục phá sản” bị Tòa án cấp trên hủy thì tiền tạm ứng chi phí phá sản có được hoàn trả lại cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 23 Luật Phá sản thì Tòa án quyết định việc hoàn trả tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Phá sản.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 42 Luật Phá sản, trường hợp Tòa án ra quyết định không mở thủ tục phá sản thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả lại tiền tạm ứng chi phí phá sản.
Việc quyết định mở thủ tục phá sản bị Tòa án cấp trên hủy đồng nghĩa với việc Tòa án đã quyết định không mở thủ tục phá sản. Do đó, trong trường hợp này người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được trả lại tiền tạm ứng chi phí phá sản, trừ trường hợp họ vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Phá sản.
Khi Tổ Thẩm phán giải quyết đề nghị xem xét lại, kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản ra quyết định hủy quyết định mở thủ tục phá sản thì phải xem xét, giải quyết luôn việc quyết định hoàn trả tiền tạm ứng chi phí phá sản cho người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
10. Khi giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án có chấp nhận việc doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ hoặc con nợ mời luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ không?
Khoản 8 Điều 18 Luật Phá sản quy định quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản như sau: "Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình". Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc chủ nợ, con nợ có đề nghị Tòa án để luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Tòa án phải làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
11. Chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người lao động, đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì có phải gửi kèm Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã hay không?
Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo khoản 1, khoản 2 Điều 5 Luật Phá sản chỉ phải nộp:
“Kèm theo đơn phải có chứng cứ chứng minh khoản nợ đến hạn” đối với chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (khoản 2 Điều 26 Luật Phá sản).
“Kèm theo đơn phải có chứng cứ để chứng minh lương và các khoản nợ khác đến hạn” đối với người lao động, đại diện công đoàn (khoản 2 Điều 27 Luật Phá sản).
Do vậy, họ không bắt buộc phải gửi kèm Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã.
12. Trường hợp Tòa án đã thụ lý giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp nhưng trong quá trình giải quyết phá sản, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp vắng mặt (không có mặt tại địa phương) do doanh nghiệp đã dừng hoạt động từ lâu, chủ nợ cũng không biết họ ở đâu thì giải quyết như thế nào?
Khoản 2 Điều 16 Luật Phá sản quy định: Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có quyền đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 65 Luật Phá sản quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ chỉ định một người làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Như vậy, trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã mà người đại diện theo pháp luật vắng mặt thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã đó hoặc chỉ định một người làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
13. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang thi hành bản án, quyết định của Tòa án, trong đó doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án và tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã là tài sản của bên thứ ba (không phải là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã). Vậy sau khi Tòa án thụ lý vụ việc phá sản/mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó thì Cơ quan thi hành án dân sự có phải tạm đình chỉ/đình chỉ thi hành án đối với tài sản bảo đảm của bên thứ ba hay không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật Phá sản thì cơ quan thi hành án dân sự phải tạm đình chỉ thi hành án dân sự về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án, trừ bản án, quyết định buộc doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự hoặc trả lương cho người lao động. Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là người phải thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải tạm đình chỉ thi hành án dân sự đối với tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã đó mà không phân biệt đó có phải là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hay không.
Trường hợp nghĩa vụ phải thi hành án là tài sản của người thứ ba có liên quan đến khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng thì được giải quyết theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21-6-2017 và khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
14. Sau khi Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản thì người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có được nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản lại đối với chính doanh nghiệp đó không? Nếu có thì sau bao lâu được nộp lại đơn?
Luật Phá sản không quy định cụ thể về trường hợp Tòa án cấp trên có quyết định giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản thì sau bao lâu người có quyền, nghĩa vụ được nộp lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Do đó, trong bất kỳ khoảng thời gian nào, nếu xác định doanh nghiệp, hợp tác xã đó bị mất khả năng thanh toán, người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được nộp lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét đơn yêu cầu, các điều kiện khác theo quy định của Luật Phá sản để xử lý đơn, thụ lý đơn và quyết định việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản. Đối với trường hợp này, Tòa án cần tham khảo các tài liệu chứng cứ về hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã kể từ sau khi có quyết định của Tòa án cấp trên giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản như báo cáo thuế, báo cáo tài chính...
15. Theo quy định tại Điều 45 Luật Phá sản thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, sau khi được chỉ định, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối giải quyết vụ việc thì Thẩm phán xử lý như thế nào vì hiện nay chưa có quy định?
Khoản 1 Điều 46 Luật Phá sản quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có thể bị Thẩm phán quyết định thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau: "c) Trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được nhiệm vụ".
Như vậy, khi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có đơn từ chối giải quyết vụ việc thì Thẩm phán xem xét, quyết định thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản khi xét thấy có căn cứ chứng minh thuộc trường hợp bất khả kháng mà Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được nhiệm vụ.
16. Trường hợp địa phương không có Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoặc Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản từ chối, địa phương không còn Quản tài viên nào khác thì Thẩm phán có được liên hệ với Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản ở địa phương khác không?
Luật Phá sản chỉ quy định Thẩm phán có quyền chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản mà không giới hạn phạm vi hoạt động của hai chủ thể này. Do đó, Thẩm phán có quyền chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản ở địa phương khác.
17. Người nộp đơn được quyền đề nghị Thẩm phán chỉ định bao nhiêu Quản tài viên? Sau khi Thẩm phán đã ban hành quyết định chỉ định Quản tài viên, Quản tài viên này lại tiếp tục đề xuất Thẩm phán chỉ định thêm Quản tài viên có được không?
Khoản 3 Điều 26 Luật Phá sản quy định: "3. Trường hợp có đề xuất chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ghi rõ tên, địa chỉ của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản". Như vậy, Luật Phá sản không quy định cụ thể số lượng Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được chỉ định để tham gia giải quyết vụ việc phá sản. Vì vậy, căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, tính chất phức tạp của vụ việc phá sản, người nộp đơn, Quản tài viên có quyền đề xuất Thẩm phán chỉ định thêm Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
18. Trong quá trình xem xét, giải quyết đơn đề nghị xem xét lại, kháng nghị đối với quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản thì có trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định kháng nghị, người có đơn đề nghị xem xét lại quyết định rút đơn đề nghị xem xét lại đối với quyết định mở, không mở thủ tục phá sản. Khoản 7 Điều 44 Luật Phá sản không quy định thẩm quyền của Tổ Thẩm phán về đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu, kháng nghị đối với quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản; trường hợp này Tổ Thẩm phán phải ra quyết định nào?
Khoản 7 Điều 44 Luật Phá sản về giải quyết đề nghị xem xét lại, kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản quy định như sau:
"... 7. Tổ Thẩm phán có quyền ra một trong các quyết định sau:
a) Giữ nguyên quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản;
b) Hủy quyết định không mở thủ tục phá sản và giao cho Tòa án nhân dân đã ra quyết định không mở thủ tục phá sản xem xét ra quyết định mở thủ tục phá sản;
c) Hủy quyết định mở thủ tục phá sản và thông báo cho Tòa án nhân dân đã ra quyết định mở thủ tục phá sản và những người tham gia thủ tục phá sản...”
Như vậy, trường hợp Viện kiểm sát quyết định rút kháng nghị, người yêu cầu rút đơn yêu cầu xem xét lại đối với quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản thì Tổ Thẩm phán căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 7 Điều 44 Luật Phá sản ra quyết định giữ nguyên Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Trường hợp giữ nguyên Quyết định mở thủ tục phá sản thì Tổ Thẩm phán phải chuyển hồ sơ về cho Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản để giải quyết phá sản theo thủ tục chung.
19. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, Tòa án áp dụng quy định của Luật Phá sản hay Bộ luật Tố tụng dân sự để xem xét tuyên bố giao dịch vô hiệu?
Khoản 1 Điều 3 Luật Phá sản quy định Luật Phá sản được áp dụng khi giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 207 Luật Doanh nghiệp quy định việc phá sản doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, Tòa án áp dụng quy định của Luật Phá sản để xem xét tuyên bố giao dịch vô hiệu.
20. Quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong quá trình giải quyết phá sản có được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của Bộ luật Tố tụng dân sự hay không?
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 Luật Phá sản thì:
”3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, bên giao kết với doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân xem xét lại quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu.
4. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu, Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu phải ra một trong các quyết định sau:
a) Không chấp nhận đề nghị xem xét lại quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu;
b) Hủy bỏ quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trường hợp có tranh chấp thì được giải quyết theo quy định tại Chương X của Luật này”.
Do đó, Quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu được xem xét lại theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 Luật Phá sản mà không áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
21. Khi tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định của Luật Phá sản, Tòa án có phải giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu không và giải quyết như thế nào?
Điểm b khoản 1 Điều 60 Luật Phá sản quy định: "b) Tuyên bố giao dịch vô hiệu, hủy bỏ các biện pháp bảo đảm và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật."
Như vậy, khi tuyên bố giao dịch vô hiệu Tòa án phải giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật, cụ thể Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015.
22. Theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Luật Phá sản thì Hội nghị chủ nợ được tổ chức hợp lệ với số chủ nợ tham gia đại diện cho 51% tổng số nợ không có bảo đảm và 100% chủ nợ có mặt thống nhất tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Vậy Hội nghị chủ nợ có thông qua được Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản không?
Khoản 2 Điều 81 Luật Phá sản quy định: "Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho từ 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành". Vậy trường hợp này, Hội nghị chủ nợ được tổ chức hợp lệ thành công nhưng không thông qua được Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ và thuộc trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều 83 Luật Phá sản thì Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định Điều 106 Luật Phá sản.
23. Trường hợp sau khi mở thủ tục phá sản mà người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút đơn yêu cầu thì Tòa án có được đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật Phá sản về đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản thì kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không mất khả năng thanh toán thì Tòa án nhân dân ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản. Như vậy, sau khi mở thủ tục phá sản mà người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản rút đơn yêu cầu thì giải quyết như sau:
Trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ duy nhất hoặc tất cả các chủ nợ đều thống nhất việc rút đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Tòa án xem xét quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật Phá sản nếu có căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản đã thanh toán hết nợ cho tất cả các chủ nợ hoặc có thỏa thuận giữa các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã về việc gia hạn trả nợ. Trường hợp này cần phải coi là doanh nghiệp, hợp tác xã không mất khả năng thanh toán vì không còn khoản nợ đến hạn chưa thanh toán.
Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã còn có những chủ nợ khác thì Tòa án căn cứ kết quả triệu tập Hội nghị chủ nợ, Nghị quyết Hội nghị chủ nợ để có cơ sở xác định doanh nghiệp, hợp tác xã có thực sự mất khả năng thanh toán hay không để quyết định theo Điều 86 Luật Phá sản.
24. Trường hợp doanh nghiệp có khoản nợ đến hạn mà không thanh toán cho chủ nợ trong thời hạn 03 tháng và chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, Thẩm phán nhận thấy doanh nghiệp vẫn hoạt động kinh doanh tốt, có lợi nhuận thì có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó không?
Việc doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh tốt, có lợi nhuận không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã đó không mất khả năng thanh toán vì theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Như vậy, mặc dù doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh tốt, có lợi nhuận nhưng có khoản nợ đến hạn trong thời gian 03 tháng mà không trả nợ (mất khả năng thanh toán) thì Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 42 Luật Phá sản.
25. Chi phí phá sản có cần thiết phải nêu trong Quyết định tuyên bố phá sản không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 54, điểm h khoản 1 Điều 108 Luật Phá sản thì chi phí phá sản phải được nêu trong phần phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản của Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Thẩm phán không phải nêu cụ thể số tiền chi phí phá sản. Bởi lẽ, chi phí phá sản là khoản tiền phải chi trả cho việc giải quyết phá sản, bao gồm chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và các chi phí khác theo quy định của pháp luật. Sau khi
Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì cơ quan thi hành án tiến hành việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục phát sinh chi phí phá sản. Do đó, Tòa án không thể xác định được chính xác số tiền chi phí phá sản ở thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.
26. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản phải trả nợ theo bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng bản án đó đã bị cấp giám đốc thẩm hủy và giao sơ thẩm xét xử lại thì có phải nhập vào vụ việc phá sản để giải quyết hay tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự?
Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm được giao giải quyết lại vụ án dân sự phải tạm đình chỉ, đình chỉ và chuyển hồ sơ vụ việc cho Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết theo quy định tại Điều 41 và Điều 71 Luật Phá sản.
27. Trong trường hợp bản án sơ thẩm bị kháng cáo mà một bên đương sự trong bản án này là doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án khác ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục giải quyết kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hay ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án để nhập vào vụ việc phá sản để giải quyết?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 và khoản 2 Điều 71 Luật Phá sản thì nếu vụ án dân sự đang được giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, nếu Tòa án cấp phúc thẩm đang giải quyết thì Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ.
Trường hợp vụ án dân sự có kháng cáo mà một trong các bên đương sự là doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã được Tòa án khác ra quyết định mở thủ tục phá sản thì cần phân biệt doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án? Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là nguyên đơn, bị đơn trong vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục tiến hành thụ lý vụ án dân sự trên. Sau đó, Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự đó để chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản để tiếp tục giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Phá sản.
Nếu đương sự là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bị yêu cầu tuyên bố phá sản thì theo nguyên tắc họ không phải là người trực tiếp bị kiện trong vụ án dân sự, việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ đến đâu phụ thuộc vào tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn. Do vậy trường hợp này Tòa án vẫn giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung. Bản án có hiệu lực xác định quyền, nghĩa vụ của họ đến đâu thì phần đó sẽ được chuyển vào việc phá sản để giải quyết (lúc này thì người có quyền hoặc có nghĩa vụ sẽ trở thành chủ nợ hoặc con nợ trong vụ việc phá sản).
28. Trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản mà phát sinh tranh chấp về tài sản của người tham gia thủ tục phá sản thì Tòa án giải quyết như thế nào? Có phải thụ lý thành một vụ án khác không?
Theo quy định tại Điều 115 Luật Phá sản thì trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản mà phát sinh tranh chấp thì người tham gia thủ tục phá sản có quyền
đề nghị Tòa án nhân dân đã giải quyết vụ việc phá sản xem xét. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của người tham gia thủ tục phá sản, Tòa án đã giải quyết vụ việc phá sản phải ra văn bản trả lời không chấp nhận đề nghị của người tham gia thủ tục phá sản hoặc chuyển đơn đến người có thẩm quyền để xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Trường hợp không đồng ý với văn bản trả lời không chấp nhận đề nghị thì người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị người có thẩm quyền xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Tòa án không phải thụ lý thành một vụ án khác.
29. Đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực (01-01-2015) mà đang thực hiện thủ tục thanh lý tài sản thì có được ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của Luật Phá sản năm 2014 hay không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 131 Luật Phá sản năm 2014 thì "đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực mà chưa ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì áp dụng quy định của Luật này để tiếp tục giải quyết".
Vậy trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã đang thực hiện thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì Tòa án xem xét, quyết định việc ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo Luật Phá sản năm 2014.
30. Đối với vụ việc phá sản được thụ lý trước thời điểm Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực, Tổ Quản lý, thanh lý tài sản có tiếp tục được giải quyết vụ việc phá sản sau khi Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực hay không hay phải chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay thế?
Điều 28 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản quy định như sau:
“Điều 28. Điều khoản chuyển tiếp
1. Đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà đã thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số 21/2004/QH11, nếu đến ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa thực hiện xong nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với vụ việc phá sản đó.
Trường hợp Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản chỉ định được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số 51/2014/QH13 và Nghị định này đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản nêu trên thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản chấm dứt hoạt động và bị giải thể theo quy định của Luật Phá sản số 21/2004/QH11. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản đối với vụ việc phá sản đó, trừ phần công việc mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn theo quy định của Luật Phá sản số 21/2004/QH11. Kết quả công việc do Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện được công nhận và có giá trị sử dụng theo quy định của Luật Phá sản số 51/2014/QH13.
2. Đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày 01 tháng 01 năm 2015 mà chưa thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số 21/2004/QH11, đến ngày 01 tháng 01 năm 2015, Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản số 51/2014/QH13 và Nghị định này".
Như vậy, đối với trường hợp nêu trên, Tổ quản lý, thanh lý tài sản có thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với vụ việc phá sản đó. Trường hợp Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản chỉ định được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản nêu trên thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản chấm dứt hoạt động và bị giải thể theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản đối với vụ việc phá sản đó, trừ phần công việc mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Phá sản năm 2004. Kết quả công việc do Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện được công nhận và có giá trị sử dụng theo quy định của Luật Phá sản năm 2014.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Tiến
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC; - Các đồng chí Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT VP, Vụ PC&QLKH.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 17 tháng 3 năm 2021
Số: 33/TANDTC-HTQT V/v về công tác tương trợ tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài
Kính gửi: - Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành
phố Hồ Chí Minh; - Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
1. Để bảo đảm thuận tiện cho công tác tương trợ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao cập nhật các Hiệp định/Thỏa thuận tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Trang tin TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao.
Các Hiệp định/Thỏa thuận nêu trên được đăng tải tại Trang tin TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP theo từng lĩnh vực cụ thể: DÂN SỰ, HÌNH SỰ, DẪN ĐỘ VÀ CHUYỂN GIAO NGƯỜI ĐANG CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ tại địa chỉ sau đây: http://tttp.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tttp/home.
Danh sách các Hiệp định/Thỏa thuận tương trợ tư pháp được liệt kê tại Bảng số 1 kèm theo Công văn này.
2. Trường hợp Tòa án gửi hồ sơ theo đường bưu chính theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 10 (a) của Công ước tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước tống đạt giấy tờ), Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri (có hiệu lực từ ngày 6/03/2019), các Tòa án cần lưu ý một số điểm sau đây:
a) Theo quy định tại Điều 10 (a) của Công ước tống đạt giấy tờ, nếu nước nơi đương sự có địa chỉ không phản đối, thì nước khác có thể tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo đường bưu chính, không phân biệt đương sự đó là tổ chức hoặc cá nhân có quốc tịch nước tống đạt, nước sở tại hoặc không quốc tịch.
Do đó, Tòa án có thể gửi hồ sơ theo đường bưu chính cho các đương sự là công dân Việt Nam, công dân Việt Nam có cả quốc tịch nước khác, người nước ngoài, tổ chức nước ngoài có địa chỉ tại các nước không phản đối nước khác tống đạt văn bản tố tụng theo Điều 10 (a) của Công ước tống đạt giấy tờ. Danh sách các nước này đã được Tòa án nhân dân tối cao cung cấp tại Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017, Công văn số 101/TANDTC-HTQT ngày 25/6/2020 và tại Công văn này.
Hung-ga-ri là nước tuyên bố phản đối nước khác tống đạt văn bản theo quy định của Điều 10 (a) của Công ước tống đạt giấy tờ. Tuy nhiên, tại Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri có quy định về việc cho phép Tòa án nước này áp dụng phương thức tống đạt theo đường bưu chính cho đương sự ở nước kia. Do đó, Tòa án có thể tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự có địa chỉ tại Hung-ga-ri theo đường bưu chính theo điều kiện quy định tại khoản 7 Điều 10 Hiệp định tương trợ tư pháp nêu trên;
b) Trong hồ sơ gửi theo đường bưu chính, Tòa án không phải lập văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp theo Mẫu 2A hoặc 2B ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG- TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự;
c) Hồ sơ phải được dịch, có công chứng bản dịch hoặc chứng thực chữ ký của người dịch ra ngôn ngữ chính thức của nước nêu tại điểm a Mục 2 của Công văn này hoặc ngôn ngữ được nước đó chấp nhận đối với trường hợp đương sự là người nước ngoài, tổ chức nước ngoài. Trường hợp đương sự ở nước ngoài có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt Nam, thì hồ sơ được lập bằng tiếng Việt, không phải dịch ra tiếng nước ngoài;
d) Trong hồ sơ, Tòa án cần có văn bản yêu cầu đương sự thực hiện việc chứng thực chữ ký, hợp pháp hóa lãnh sự, dịch giấy tờ, tài liệu mà họ gửi cho Tòa án theo quy định tại Điều 478 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự ở nước ngoài là công dân Việt Nam, Tòa án cần nêu rõ trong văn bản: nếu vì lý do khách quan mà không thể đến Cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài để chứng thực chữ ký trên giấy tờ, tài liệu do đương sự lập, thì đương sự chuyển sang thực hiện hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu đó theo hướng dẫn công bố trên trang thông tin của Cơ quan đại diện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài;
Ví dụ: đối với công dân Việt Nam cư trú tại Hoa Kỳ, Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam tại
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hướng dẫn đương sự yêu cầu hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu để thay thế
việc chứng thực chữ ký trên giấy tờ, tài liệu tại Mục: Thủ tục hợp pháp hóa và chứng thực
bản sao giấy tờ, tài liệu tại Trang thông tin điện tử của Đại sứ quán
“1. Hợp pháp hóa (legalization)
Đối với việc chứng nhận, công chứng chữ ký hoặc giấy tờ ủy quyền, Đại sứ quán chỉ thực hiện đối với khách đến ký trực tiếp tại trụ sở Đại sứ quán (xem thủ tục công chứng, chứng thực chữ ký hoặc giấy tờ ủy quyền).
Trường hợp không thể trực tiếp đến Đại sứ quán, Quý vị có thể làm thủ tục theo các bước sau:
- Ký giấy tờ trước mặt công chứng viên Hoa Kỳ;
- Xin chứng nhận tại Bộ Ngoại giao Tiểu bang (State level - Department of State), địa chỉ liên hệ các Bộ Ngoại giao Tiểu bang tải tại đây;
- Gửi qua đường bưu điện đến ĐSQ làm thủ tục hợp pháp hóa giấy tờ của Hoa Kỳ để mang về Việt Nam sử dụng (xem thủ tục ở dưới).”
đ) Khi thực hiện việc gửi hồ sơ theo đường bưu chính, Tòa án cần sử dụng loại dịch vụ bưu phẩm bảo đảm cỏ gắn số hiệu để định vị, theo dõi quá trình chuyển phát. Để nhận kết quả chuyển phát bưu phẩm, Tòa án đề nghị công ty bưu chính hướng dẫn cách sử dụng mã phiếu gửi/mã bưu gửi (là dãy số hoặc dãy số cùng chữ cái in trên phiếu gửi/bưu gửi) để tra cứu trực tuyến, in ra thông báo kết quả chuyển phát bưu phẩm. Đây là căn cứ để Tòa án xác định đã hoàn thành việc tống đạt hoặc phải tiếp tục tống đạt lại văn bản tố tụng.
Trên đây là một số thông tỉn phục vụ công tác tương trợ tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính cho đương sự ở nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự, hành chính có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án.
Trường hợp muốn trao đổi nghiệp vụ về ủy thác tư pháp ra nước ngoài, tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính, các Tòa án gửi văn bản về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế, 48 Lý Thường Kiệt, Hà Nội) hoặc liên hệ đồng chí Lê Mạnh Hùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Hợp tác quốc tế theo số điện thoại: 024.38250117 hoặc 0976437814; email: hunglm@toaan.gov.vn./.
TL. CHÁNH ÁN KT. VỤ TRƯỞNG VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ PHÓ VỤ TRƯỞNG Lê Mạnh Hùng Nơi nhận: - Như trên; - Các đ/c PCA TANDTC (để b/c); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Trang thông tin Tương trợ tư pháp, Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng); - Trang thông tin điện tử của các TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao (để đăng); - Đ/c Vụ trưởng VHTQT (để b/c); - Lưu VT, PLQT, HTQT (TANDTC).
BẢNG SỐ 1
DANH SÁCH CÁC HIỆP ĐỊNH/THỎA THUẬN TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ DÂN SỰ, HÌNH SỰ, DẪN ĐỘ, CHUYỂN GIAO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ TÍNH ĐẾN NGÀY 17/3/2021 (Ban hành kèm theo Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao).
HIỆP ĐỊNH CHUNG
TT Tên Hiệp định Ngày ký Ngày có hiệu Ghi chú lực
1 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề 30/11/1984 19/9/1987
dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Cu-ba
18/01/1985 5/7/1987 Hết hiệu lực kể
từ ngày 06/03/2019 2 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hung-ga-ri
03/10/1986 5/7/1987
3 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Bun-ga-ri
12/10/1982 16/4/1994
4 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc (Cộng hòa Séc và Xlô-va-ki-a kế thừa)
22/3/1993 18/01/1995
5 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ba Lan
19/10/1998 25/12/1999
6 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
06/7/1998 19/02/2000
7 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
14/9/2000 18/10/2001
8 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đê dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Bê-la-rút
6/4/2000 19/8/2002
9 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và U-crai-na
17/4/2000 13/6/2002
10 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mông cổ
04/5/2002 24/02/2004 11 Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân
Triều Tiên về tương trợ tư pháp và pháp lý trong các vấn đề dân sự và hình sự
25/8/1998 27/8/2012 12 Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Liên bang Nga về tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
23/4/2003 27/7/2012 13 Nghị định thư bổ sung Hiệp định giữa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga về tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
HIỆP ĐỊNH/THỎA THUẬN TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ DÂN SỰ
Ghi chú Tên Hiệp định Ngày ký Ngày có hiệu lực
24/02/1999 5/01/2001
1 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp
14/4/2010 24/6/2012
2 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa An-giê-ri dân chủ và nhân dân
31/10/2011 28/6/2015
3 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ca- dắc-xtan
21/01/2013 9/10/2014
4 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu- chia
10/9/2018 06/3/2019 5 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri
12/4/2010 02/12/2011
6 Thỏa thuận giữa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam về tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự
HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ
Tên Hiệp định Ngày ký Ngày có hiệu Ghi chú lực
15/9/2003 19/4/2005 1 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc
8/10/2007 17/11/2008 2 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ấn Độ
13/01/2009 30/9/2009
3 Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen về tương trợ tư pháp về hình sự
14/4/2010 28/3/2014 4 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ và nhân dân An-giê- ri
27/6/2013 21/01/2016 5 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa In-đô-nê-xi-a
02/7/2014 05/4/2017
6 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ốt-xtơ-rây-li-a
18/9/2015 08/7/2017
7 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Tây Ban Nha
16/3/2016 30/6/2017
8 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri
06/9/2016 01/5/2020
9 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp
15/6/2017 01/6/2019 10 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ca-dắc-xtan
20/12/2016 02/10/2020 11 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia
29/3/2018 29/9/2018 12 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cu ba
13 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự 03/12/2018 11/9/2020
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Mô-dăm bích
8/01/2020 18/02/2021 14 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
HIỆP ĐỊNH VỀ DẪN ĐỘ
Tên Hiệp định Ngày ký Ngày có hiệu Ghi chú lực
15/9/2003 19/4/2005 1 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại hàn dân quốc
14/4/2010 28/3/2014
2 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ và nhân dân An-giê-ri
12/10/2011 12/8/2013 3 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ấn Độ
10/4/2012 07/4/2014 4 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ốt-xtơ-rây-li-a
27/6/2013 26/4/2015
5 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa In-đô- nê-xi-a
23/12/2013 9/10/2014
6 Hiệp định về dẫn độ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia
01/10/2014 01/5/2017
7 Hiệp định về dẫn độ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Tây Ban Nha
16/9/2013 30/6/2017 8 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri
07/4/2014 01/12/2017
9 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa dân chủ Xri-lan-ca
07/4/2015 12/12/2019
10 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
06/9/2016 01/5/2020 11 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Pháp
15/6/2017 15/11/2019
12 Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Ca- dắc-xtan về dẫn độ
10/7/2019 Chưa có hiệu 13 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội lực chủ nghĩa Việt Nam và Mông Cổ
9/12/2019 Chưa có hiệu lực 14 Hiệp định về dẫn độ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Mô- dăm-bích
HIỆP ĐỊNH VỀ CHUYỂN GIAO NGƯỜI BỊ KẾT ÁN PHẠT TÙ
Ghi chú Tên Hiệp định Ngày ký Ngày có hiệu lực
12/9/2008 20/9/2009
1 Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen về chuyển giao người bị kết án phạt tù
13/10/2009 11/12/2009
2 Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ốt-xtơ-rây-li-a về chuyển giao người bị kết án phạt tù
29/5/2009 30/8/2010
3 Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc về chuyển giao người bị kết án phạt tù
03/3/2010 19/7/2010
4 Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan về chuyển giao người bị kết án phạt tù
16/9/2013 30/6/2017
5 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hung-ga-ri
07/4/2014 16/5/2017
6 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và nhân dân Xri-lan-ca
01/10/2014 01/5/2017
7 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Tây Ban Nha
12/11/2013 15/5/2017
8 Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga về chuyển giao người bị kết án phạt tù
9 Hiệp định chuyển giao người bị kết án 01/11/2013 01/12/2020
phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Ấn Độ
20/12/2016 01/10/2020
10 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia
07/6/2017 2/7/2019
11 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Séc
01/7/2019 19/8/2020
12 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nhật Bản
16/10/2018 Chưa có hiệu lực 13 Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mông Cổ
9/12/2019 Chưa có hiệu 14 Hiệp định về chuyển giao người bị kết án lực phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mô-dăm-bích
04/01/2020 Chưa có hiệu 15 Hiệp định về chuyển giao người bị kết án lực
phạt tù giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
BẢNG SỐ 2
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ KHÔNG PHẢN ĐỐI VIỆC TỐNG ĐẠT THEO ĐƯỜNG BƯU CHÍNH QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 10 (a) CỦA CÔNG ƯỚC (Ban hành kèm theo Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1. An-ba-ni (Albania) 23 I-xra-en (Israel)
2. 24 I-ta-li-a (Italy) An-ti-goa và Bác-bu-đa (Antigua and Barbuda)
25 An-đô-ra (Andorra) 3. Ác-mê-ni-a (Armenia)
4. Ốt-xtrây-li-a (Australia) 26 Ca-dắc-xtan (Kazakhstan)
5. Ba-ha-mát (Bahamas) 27 Lát-vi-a (Latvia)
6. Bác-ba-đốt (Barbados) 28 Lúc-xăm-bua (Luxembourg)
7. Bê-la-rút (Belarus) 29 Ma-la-uy (Malawi)
8. Bỉ (Belgium) 30 Ma-rốc (Morocco)
9. Bê-li-xê (Belize) 31 Hà Lan (Netherlands)
10. 32 Pa-ki-xtan (Pakistan) Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina)
33 Bồ Đào Nha (Portugal) 11. Bốt-xoa-na (Botswana)
12. Ca-na-đa (Canada) 34 Ru-ma-ni (Romania)
13. Cô-lôm-bi-a (Colombia) 35 Xanh-vin-xen và Grê-na-din (Saint Vincent and the Grenadines)
14. Hồng Kông (Trung Quốc) 36 Xây-sen (Seychelles)
15. Ma Cao (Trung Quốc) 37 Xlô-ve-ni-a (Slovenia)
16. Síp (Cyprus) 38 Tây Ban Nha (Spain)
17. Đan Mạch (Denmark) 39 Thụy Điển (Sweden)
18. Ex-tô-ni-a (Estonia) 40 Vương quốc Anh (United Kingdom)
19. Phần Lan (Finland) 41 Hoa Kỳ (United States of America).
20. Pháp (France) 42 Ai-len (Ireland)
21. Ai-xơ-len (Iceland) 43 Tuy-ni-di (Tunisia)
22 Cốt-xta-ri-ca (Costa Rica)
BẢNG SỐ 3
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ PHẢN ĐỐI VIỆC TỐNG ĐẠT THEO ĐƯỜNG BƯU CHÍNH QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 10 (a) CỦA CÔNG ƯỚC (Ban hành kèm theo Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
1. Bun-ga-ri (Bulgaria) 19 Cô-oét (Kuwait)
2. Áo (Austria) 20 Lít-va (Lithuania)
3. Trung Quốc (China) 21 Man-ta (Malta)
4. Séc (Czech Republic) 22 Mê-hi-cô (Mexico)
5. Xlô-va-ki-a (Slovakia) 23 Mô-na-cô (Monaco)
6. Ba Lan (Poland) 24 Môn-tê-nê-grô (Montenegro)
7. Liên bang Nga (Russian Federation) 25 Na Uy (Norway)
8. U-crai-na (Ukraine) 26 Môn-đô-va (Moldova)
9. Ác-hen-ti-na (Argentina) 27 Xan-ma-ri-nô (San Marino)
10. Cờ-roát-ti-a (Croatia) 28 Xéc-bi-a (Serbia)
11. Ả Rập Ai Cập (Egypt) 29 Xri-lan-ca (Sri Lanka)
12. Đức (Germany) 30 Thụy sỹ (Switzerland)
13 Hy Lạp (Greece) 31 Ma-xê-đô-ni-a (Macedonia)
14. Ấn Độ (India) 32 Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
15. Hàn Quốc (Korea) 33 Vê-nê-du-ê-la (Venezuela).
16 Nhật Bản (Japan) 34 Bra-xin (Brasin)
17 Ni-ca-ra-goa (Nicaragua) 34 MarsallIslands
18 Hung-ga-ri (Hungary)
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 06 tháng 5 năm 2021
Số: 58/TANDTC-PC V/v xác định thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo
Kính gửi: - Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về vướng mắc có được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao tổ chức thực hiện đúng quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và hướng dẫn tại Điều 4 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, theo đó thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Các thành viên HĐTP TANDTC (để biết); - Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải); - Lưu VT (VP, Vụ PC&QLKH-P1).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 9 tháng 6 năm 2021
Số: 64/TANDTC-HTQT V/v ủy thác tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài
Kính gửi: - Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí
Minh; - Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Qua công tác nắm bắt tình hình, Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng hiện nay, do tình hình dịch bệnh Covid-19 đã được cải thiện ở nhiều nước tại Châu Âu, Hoa Kỳ...nên hồ sơ tống đạt của Tòa án đang được gửi đến các nước này nhiều hơn so với năm 2020 theo các phương thức khác nhau như: thông qua Bộ Tư pháp, Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc theo phương thức bưu chính. Để đạt được điều đó, các Tòa án đã có nhiều nỗ lực, ý thức cao trong việc lập, gửi hồ sơ tống đạt, ủy thác tư pháp.
Mặc dù vậy, vẫn có nhiều Tòa án còn chưa thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật khi lập, gửi hồ sơ theo các phương thức nêu trên cho đương sự ở nước ngoài. Từ đó, việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự bị chậm trễ do hồ sơ bị trả lại hoặc không thực hiện được do sai sót về địa chỉ...
Để hạn chế việc giải quyết vụ việc dân sự bị kéo dài do không thực hiện đúng quy định của pháp luật khi lập, gửi hồ sơ yêu cầu tống đạt, ủy thác tư pháp văn bản tố tụng ra nước ngoài, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án thực hiện thống nhất một số nội dung sau đây:
I. Đối với việc đề nghị Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài tống đạt văn bản tố tụng
Khi Tòa án đề nghị Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là Đại sứ quán) tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước sở tại, Tòa án phải thực hiện đúng, đầy đủ quy trình quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2019/TTLT-TANDTC-BNG ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao “Quy định về trình tự, thủ tục phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính ở nước ngoài” (sau đây gọi tắt là TTLT số 01/2019).
Theo quy trình này, Tòa án phải chuyển trước chi phí tống đạt văn bản tố tụng cho Đại sứ quán. Sau khi nhận được chi phí và hồ sơ tống đạt, Đại sứ quán sử dụng chi phí đó để thanh toán tiền cước bưu chính gửi hồ sơ của Tòa án cho đương sự và gửi kết quả thực hiện tống đạt về Việt Nam cho Tòa án.
Vì vậy, trong quá trình phối hợp với Đại sứ quán thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài, các Tòa án cần lưu ý:
1. Trường hợp Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy trình quy định tại TTLT số 01/2019 khi đề nghị Đại sứ quán tống đạt văn bản tố tụng và đã quá 03 tháng, kể từ ngày Tòa án gửi hồ sơ tống đạt cho Đại sứ quán nhưng chưa nhận được kết quả tống đạt, thì Tòa án cần chủ động liên hệ qua thư điện tử hoặc có văn bản gửi Đại sứ quán. Đồng thời, Tòa án có văn bản gửi Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế) đề nghị hỗ trợ. Trong văn bản, Tòa án cần nêu rõ thông tin cơ bản về hồ sơ (số, ngày thụ lý vụ việc, loại việc, họ tên, địa chỉ của đương sự ở nước ngoài cần được tống đạt), xác nhận đã chuyển chi phí tống đạt, thời gian đã chuyển hồ sơ cho Đại sứ quán. Trên cơ sở đó, Tòa án nhân dân tối cao có văn bản đề nghị Bộ Ngoại giao chỉ đạo Đại sứ quán sớm thực hiện các công việc cần thiết để gửi kết quả tống đạt văn bản tố tụng cho Tòa án.
Trường hợp Tòa án đã thực hiện như trên nhưng đến khi mở phiên tòa vẫn không nhận được kết quả tống đạt từ Đại sứ quán, thì sau khi hoãn phiên tòa, Tòa án lập văn bản đề nghị Đại sứ quán trả lời kết quả thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Trường hợp Tòa án chỉ chuyển hồ sơ tống đạt mà không chuyển trước chi phí tống đạt cho Đại sứ quán, thì việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự theo đề nghị của Tòa án sẽ không được Đại sứ quán thực hiện. Trong trường hợp này, Tòa án bắt buộc phải thực hiện lại việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài mà không được chờ kết quả tống đạt văn bản tố tụng từ Đại sứ quán.
Khi tống đạt lại văn bản tố tụng, Tòa án có thể tiếp tục đề nghị Đại sứ quán thực hiện hoặc áp dụng phương thức gửi theo đường bưu chính theo hướng dẫn tại Phần II của Công văn này.
II. Về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo đường bưu chính
1. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có thể tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài, bao gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, theo đường bưu chính với điều kiện pháp luật của nước nơi đương sự có địa chỉ đồng ý với cách thức tống đạt này.
Để thuận tiện cho việc áp dụng quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 21/02/2017 và Công văn số 33/TANDTC-HTQT ngày 17/03/2021 cung cấp, cập nhật thông tin cho các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao về những nước phản đối và không phản đối cách thức tống đạt theo đường bưu chính.
2. Tòa án có thể áp dụng phương thức tống đạt theo đường bưu chính trong những trường hợp sau đây:
a) Tòa án đã thực hiện việc tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của TTLT số 01/2019 hoặc ủy thác tư pháp cho nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp nhưng xét thấy có khả năng hoặc trên thực tế
việc nhận được kết quả thực hiện tống đạt từ Đại sứ quán, Bộ Tư pháp có chậm trễ, ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ việc.
Việc áp dụng thêm phương thức tống đạt theo đường bưu chính nhằm tạo điều kiện cho Tòa án nhận được kết quả tống đạt sớm hơn so với việc Tòa án đề nghị Đại sứ quán, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tống đạt. Kết quả tống đạt theo phương thức này có giá trị pháp lý như phương thức tống đạt thông qua Đại sứ quán hoặc phương thức ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp;
b) Tòa án phải tống đạt lại văn bản tố tụng do không thực hiện đúng, đầy đủ quy định của TTLT số 01/2019. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Tòa án cần xem xét các yếu tố: thời gian còn lại của thời hạn tố tụng, khả năng và thực tiễn nhận được kết quả tống đạt nêu tại điểm a Mục 2 trên đây để quyết định tống đạt theo phương thức bưu chính hoặc vẫn tiếp tục đề nghị Đại sứ quán tống đạt;
c) Tòa án không đề nghị Đại sứ quán hoặc ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tống đạt văn bản tố tụng.
3. Tòa án tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài theo đường bưu chính bằng dịch vụ bưu phẩm bảo đảm có gắn số hiệu để định vị, theo dõi quá trình chuyển phát.
Để nhận kết quả chuyển phát bưu phẩm, Tòa án đề nghị công ty bưu chính hướng dẫn cách sử dụng mã vận đơn hoặc mã bưu gửi (là dãy số hoặc tổ hợp dãy số cùng chữ cái in ở góc phải hoặc góc trái trên vận đơn hoặc phiếu bưu gửi) để tra cứu trực tuyến, in ra thông báo kết quả chuyển phát bưu phẩm.
Kết quả chuyển phát bưu chính có giá trị pháp lý xác nhận kết quả tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; là căn cứ để Tòa án xác định việc tống đạt văn bản tố tụng đã hoàn thành, đương sự đã nhận được văn bản tố tụng hoặc Tòa án phải tống đạt lại với lý do việc tống đạt không thực hiện được vì không đúng địa chỉ của đương sự, địa chỉ của đương sự thiếu chi tiết hoặc đương sự đã chuyển đến địa chỉ mới nhưng không rõ địa chỉ mới.
4. Tòa án không áp dụng phương thức tống đạt văn bản tố tụng theo đường bưu chính đối với đương sự có địa chỉ tại nước không thuộc danh sách được liệt kê tại Công văn số 33/TANDTC- HTQT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao, kể cả trường hợp Tòa án chưa nhận được kết quả tống đạt từ Đại sứ quán hoặc kết quả ủy thác tư pháp do nước đó thực hiện cho Tòa án.
Trong trường hợp này, Tòa án bắt buộc phải chờ kết quả tống đạt từ Đại sứ quán hoặc kết quả thực hiện ủy thác của nước ngoài gửi thông qua Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong thời gian chờ, Tòa án cũng cần tích cực liên hệ với Đại sứ quán, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để thúc đẩy việc sớm có được kết quả thực hiện ủy thác tư pháp.
III. Về việc Tòa án ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện việc tống đạt, thu thập chứng cứ
Khi ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao “Quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (sau đây gọi tắt là TTLT số 12/2016), Tòa án cần lưu ý:
1. Khi lập hồ sơ yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án có thể gửi kèm trong hồ sơ bảng câu hỏi để đương sự tự trả lời và gửi văn bản trả lời trực tiếp cho Tòa án, trừ trường hợp Tòa án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản tống đạt cho đương sự ở nước này.
2. Khi lập hồ sơ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Nhật Bản tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án không được gửi kèm bảng câu hỏi để hạn chế Nhật Bản trả lại hồ sơ với lý do bảng câu hỏi là yêu cầu thu thập chứng cứ nên không được gửi kèm yêu cầu tống đạt. Đối với những vấn đề mà Tòa án muốn đương sự ở Nhật Bản trả lời, cung cấp giấy tờ, tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải lập thành một hồ sơ thu thập chứng cứ, trong đó yêu cầu ủy thác thu thập chứng cứ được lập theo Mẫu 2A ban hành kèm theo TTLT số 12/2016.
3. Trước đây, cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ xác định bảng câu hỏi tại Mục 1 Phần III nêu trên là yêu cầu thu thập chứng cứ nên Tòa án phải tách ra khỏi hồ sơ yêu cầu tống đạt để lập thành hồ sơ yêu cầu thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, hiện nay, Hoa Kỳ đồng ý cho Tòa án Việt Nam gửi kèm bảng câu hỏi trong hồ sơ yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng. Do đó, Tòa án không cần phải tách hồ sơ mà có thể gửi kèm bảng câu hỏi trong hồ sơ yêu cầu tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở Hoa Kỳ.
4. Khi cần tống đạt văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ đối với đương sự ở Lãnh thổ Đài Loan, thì trong văn bản tố tụng và Văn bản yêu cầu ủy thác lập theo Mẫu 2A ban hành kèm theo TTLT số 12/2016, Tòa án chỉ ghi “Lãnh thổ Đài Loan” mà không phải ghi: “Lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) hoặc Đài Loan (Trung Quốc)”. Cùng với đó, khi dịch hồ sơ, Tòa án yêu cầu tổ chức dịch thuật chỉ dịch: “Lãnh thổ Đài Loan”, không dịch thành: “Lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) hoặc Đài Loan (Trung Quốc)”.
IV. Về chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài
1. Theo quy định của Hiệp định/Thỏa thuận tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với 18 nước, vùng lãnh thổ sau đây: An-giê-ri, Bê-la-rút, Ba Lan, Bun-ga-ri, Cu Ba, Cam-pu-chia, Ca-dắc-xtan, Lãnh thổ Đài Loan, Hung-ga-ri, Lào, Mông Cổ, Nga, Pháp, Séc, Triều Tiên, Trung Quốc, U- crai-na, Xlô-va-ki-a, thì hai bên thực hiện miễn phí cho nhau các yêu cầu tương trợ tư pháp. Cùng với đó, theo quy định của Công ước tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (sau đây gọi tắt là Công ước tống đạt giấy tờ) mà Việt Nam là thành viên, thì nước thành viên được yêu cầu tống đạt thực hiện miễn phí yêu cầu tống đạt của nước thành viên khác, trừ một số trường hợp đặc biệt.
2. Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp 03 triệu đồng tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp cho Cục thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 của TTLT số 12/2016 nếu Tòa án ủy thác tống đạt, thu thập chứng cứ cho một trong 18 nước và vùng lãnh thổ nêu tại Mục 1 Phần IV nêu trên hoặc ủy thác tống đạt cho một trong các nước đã được liệt kê trong danh sách ban hành kèm theo Công văn này.
3. Trường hợp do sơ suất mà Tòa án đã yêu cầu và đương sự đã nộp 03 triệu đồng tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp, Tòa án phải có văn bản đề nghị Cục thi hành án dân sự trả lại cho đương sự khoản tiền này.
Trong văn bản đề nghị, Tòa án cần viện dẫn Công văn số 3577/TCTHADS-NV2 ngày 25/9/2018 của Tổng Cục thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp chỉ đạo Cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương làm thủ tục trả lại khoản tiền 03 triệu đồng nêu trên cho đương sự theo đề nghị của Tòa án.
(Công văn số 3577/TCTHADS-NV2 ngày 25/9/2018 của Tổng Cục thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã được gửi cho các Tòa án năm 2018 và tiếp tục được gửi kèm Công văn này).
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao đối với việc tống đạt văn bản tố tụng thông qua Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự và theo đường bưu chính cho đương sự ở nước ngoài.
Trường hợp Tòa án muốn trao đổi nghiệp vụ tống đạt, ủy thác tư pháp ra nước ngoài, Tòa án có thể liên hệ trực tiếp đồng chí Lê Mạnh Hùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Hợp tác quốc tế, Tòa án nhân dân tối cao thông qua hộp thư điện tử: hunglm@toaan.gov.vn; điện thoại: 0976437814./.
Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để báo cáo); - Trang thông tin Tương trợ tư pháp, Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng); - Trang thông tin điện tử của các TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao (để đăng); - Lưu: VT, HTQT (TANDTC). KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Du
BẢNG SỐ 1
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ CÓ THU CHI PHÍ TỐNG ĐẠT
(Ban hành kèm theo Công văn số: 64/TANDTC-HTQT ngày 9 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tối cao)
TT TÊN NƯỚC MỨC THU CÁCH THANH TOÁN
1 Trả trước 50 Euro Xan-ma-ri-nô (San Marino)
Tên tài khoản ngân hàng: Ufficio Registro e Ipoteche della Repubblica di San Marino Via 28 Luglio n. 196
47893 Borgo Maggiore Repubblica di San Marino
SWIFT CODE: ICSMSMSMXXX
IBAN SM44 A032 2509 8000 0001 0005 403
Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt
2 Trả trước 95 Đô la Mỹ Chủ tài khoản: ABC Legal Hoa Kỳ (United States) Ngân hàng: Wells Fargo Bank
Số tài khoản: 2007107119
Swift/IBAN Code: WFBIUS6S
Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt
Ghi chú: tên cá nhân hoặc tên doanh nghiệp cần được tống đạt.
3 Ba-ha-mát (Bahamas) 80 Đô la Mỹ; nếu địa chỉ sai phải tìm kiếm: 160 Đô la Mỹ.
Bằng tiền mặt hoặc séc 4 Trả trước Ca-na-đa (Canada) 100 Đô la Ca-na-đa
5 Trả trước 110 Euro Chủ tài khoản: Lít-va (Lithuania)
Chamber of Judicial Officers of Lithuania
Địa chỉ: Konstitucijos Ave. 15, LT-09319 Vilnius, Republic of Lithuania
Số tài khoản:
LT92 4010 0424 0031 5815, AB "DnB bankas", Bank code 40100
Tel. +370 5 2750067, +370 5 275
0068
E-mail: info@antstoliurumai.lt Website: www.antstoliurumai.lt
Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt
6 Trả trước 21 Euro Síp (Cyprus) Bank Account Number: 6001017 - Ministry of Justice and Public Order
IBAN: CY21 0010 0001 0000 0000 0600 1017
Swift Code: CBCYCY2N
Tên chủ tài khoản: Bộ Tư pháp và Trật tự công cộng
Số tài khoản ngân hàng: 6001017
IBAN: CY21 0010 0001 0000 0000 0600 1017
Mã Swift: CBCYCY2N
Chứng từ thanh toán gửi kèm hồ sơ tống đạt
7 Trả trước 50 Euro Tên chủ tài khoản: Hy Lạp (Greece)
Bộ Tư pháp, Minh bạch và Nhân quyền Hy Lạp (The Hellenic Ministry of Justice, Transparency & Human Rights)
8 Ốt-xtrây-li-a (Australia)
69 Đô la Úc Trả sau cho Tòa án tối cao tiểu bang New South Wales Bang New South Wales
Bang Victoria 32 Đô la Úc Trả sau
Thủ đô Trả trước 372 Đô la úc
Tên tài khoản/Account Name: Justice and Community Safety - Courts EFTPOS Clearing Account
SWIFT Code: WPACAU2S
BSB: 032-777
Số tài khoản/Account number: 002108
Ngân hàng và địa chỉ/Bank name and address:
Westpac Banking Corporation, London Circuit, Canberra ACT 2601, Australia
Bang Queensland Trả sau
Bang Tasmania Trả sau
9 Phi-lip-pin (Philippines) Tên ngân hàng: Land Bank of the Philippines Trả trước 100 Đô la Mỹ cho 1 hồ sơ có 1 đương sự cần tống đạt. Số tài khoản: 3472-1010-39
Swift Code: TLBPPHMM
Trường hợp có nhiều đương sự ở cùng 1 địa chỉ, thì mức phí cũng chỉ 100 đô la Mỹ đối với việc tống đạt cho các đương sự đó. Bản chụp chứng từ chuyển tiền được gửi kèm trong hồ sơ yêu cầu tống đạt.
10 Quần đảo Mác-san Dưới 100 Đô la Mỹ (Marshall Islands)
Trả trước 113,97 Euro 11 Lát-vi-a (Latvia) Thông tin Ngân hàng/Bank account information:
Registration No. 90001497619 Registered office: 27-32 Lāčplēša street, Riga, LV-1011, Latvia
Ngân Hàng/Bank: Swedbank AS
Số tài khoản/Account No: LV93HABA0551038096742
SWIFT code: HABALV22
Payment purpose: information on the addressee
80 Đô la Mỹ 12 Bê-li-dê (Belize)
13 Bỉ Trả trước 165 Euro (Belgium)
Liên hệ với Bỉ về thông tin ngân hàng, tài khoản theo email: dh1965@just.fgov.be, với tiêu đề “Yêu cầu mới về chi tiết ngân hàng và tham chiếu giao dịch”. Trong e-mail, nên đề cập đến tên và địa chỉ của người nhận địa chỉ ở Bỉ.
BẢNG SỐ 2
DANH SÁCH CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN CÔNG ƯỚC TỐNG ĐẠT GIẤY TỜ KHÔNG THU CHI PHÍ TỐNG ĐẠT
(Ban hành kèm theo Công văn số: 64/TANDTC-HTQT ngày 9 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tối cao)
TÊN NƯỚC TÊN NƯỚC
Ác-hen-ti-na (Argentina) 26 Tiểu bang Nam Úc (South Australia) 1
27 Cô-oét (Kuwait) 2 Bô-xni-a và Héc-xê-gô-vi-na (Bosnia and Herzegovina)
Bun-ga-ri (Bulgaria) 28 Man-ta (Malta) 3
Trung Quốc (China) 29 Liên bang Nga (Russian Federation) 4
Trung Quốc (Ma Cao) 30 Xlô-ve-ni-a (Slovenia) 5
Trung Quốc (Hồng Kông) 31 Tây Ban Nha (Spain) 6
Cờ-roát-ti-a (Croatia) 32 Ba Lan (Poland) 7
Séc (Czech Republic) 33 Xri-lan-ca (Sri Lanka) 8
Đan Mạch (Denmark) 34 Thụy Điển (Sweden) 9
Phần Lan (Finland) 35 Thụy sỹ (Switzerland) 10
Đức (Germany) 36 Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) 11
Hung-ga-ri (Hungary) 37 U-crai-na (Ukraine) 12
Ấn Độ (India) 38 Vương quốc Anh (United Kingdom) 13
Ai-len (Ireland) 39 Vê-nê-xu-ê-la (Venezuela) 14
I-xra-en (Israel) 40 Ba Lan (Poland) 15
I-ta-li-a (Italy) 41 Na Uy (Norway) 16
Ác-mê-ni-a (Armenia) 42 Xlô-va-ki-a (Slovakia) 17
Xéc-bi (Serbia) 43 Áo (Austria) 18
Hà Lan (Netherlands) 44 Bồ Đào Nha (Portugal) 19
20 Môn-tê-nê-gờ-rô (Montenegro) 45 Ma-rốc (Morocco)
21 Na Uy (Norway) 46 Lúc-xăm-bua (Luxembourg)
22 Mô-na-cô (Monaco) 47 Nhật Bản (Japan)
23 Mê-hi-cô (Mexico) 48 Ai-xơ-len (Iceland)
Hàn Quốc (Korea) 49 Pháp (Trance) 24
Tiểu bang Tây Úc (Western Australia) 50 E-xtô-ni-a (Estonia) 25
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Số: 01/2021/GĐ-TANDTC Hà Nội, ngày 01 tháng 7 năm 2021
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIỆP VỤ VỀ HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Qua thực tiễn triển khai thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, các Tòa án nhân dân đề nghị Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề vướng mắc về nghiệp vụ hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Sau đây là giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao:
1. Thế nào là chuyên gia, nhà chuyên môn khác, người có uy tín trong cộng đồng dân cư theo quy định tại Điều 10 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án?
Chuyên gia là những người được đào tạo theo hướng chuyên sâu, có kỹ năng thực hành công việc, có kinh nghiệm thực tiễn, lý luận chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể hoặc có hiểu biết vượt trội so với mặt bằng kiến thức chung, trình độ từ Đại học trở lên. Chuyên gia theo lĩnh vực như: tâm lý học, thương mại, tài chính, sở hữu trí tuệ...
Theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06-3-2018 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí lựa chọn, công nhận người có uy tín và chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số thì người có uy tín là người hiểu biết về văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán dân tộc; có mối liên hệ chặt chẽ và có ảnh hưởng trong dòng họ, dân tộc và cộng đồng dân cư; được người dân trong cộng đồng tôn trọng, tín nhiệm, tin tưởng, nghe và làm theo. Già làng, trưởng thôn, trưởng dòng họ hoặc những người thường được đồng bào dân tộc thiểu số mời thực hiện các nghi lễ cầu cúng cho gia đình, dòng họ, bản làng; chức sắc, chức việc trong các tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số (Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành, Công giáo,...); nhân sỹ, trí thức, doanh nhân, nhà giáo, người hành nghề chữa bệnh giỏi hoặc người có điều kiện kinh tế thường giúp đỡ và được đồng bào tín nhiệm là người có uy tín.
Tùy tình hình thực tiễn tại địa phương, Tòa án có thẩm quyền tuyển chọn chuyên gia, nhà chuyên môn khác, người có uy tín trong cộng đồng dân cư đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án để bổ nhiệm Hòa giải viên.
2. Hòa giải viên có thể kiêm nhiệm công tác khác, như Hội thẩm nhân dân, Luật sư, Hòa giải viên thương mại của Trung tâm Hòa giải thương mại... được hay không?
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không cấm Hòa giải viên kiêm nhiệm công tác khác. Hội thẩm nhân dân, Luật sư, Hòa giải viên thương mại của Trung tâm Hòa giải thương mại... đáp ứng
đủ điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có thể được lựa chọn, bổ nhiệm làm Hòa giải viên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì mỗi vụ việc do 01 Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại. Hòa giải viên được trả thù lao đối với từng vụ việc theo quy định tại Điều 9 của Nghị định số 16/2021/NĐ-CP ngày 03-3-2021 quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án và thù lao Hòa giải viên tại Tòa án nên được chủ động về thời gian. Hòa giải viên có thể vừa tham gia công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án vừa kiêm nhiệm công tác khác. Tuy nhiên, Hòa giải viên phải bố trí thời gian hợp lý, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao đúng thời hạn quy định, đúng quy định về bảo mật thông tin hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Đồng thời, theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 14 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Hòa giải viên phải từ chối tham gia tố tụng với tư cách là người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đối với vụ việc mà mình đã tiến hành hòa giải, đối thoại nhưng không thành và được chuyển cho Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Số lượng Hòa giải viên tối thiểu đối với mỗi Tòa án là bao nhiêu?
Khoản 1 Điều 3 của Thông tư số 04/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, khen thưởng, xử lý vi phạm; cấp và thu hồi thẻ Hòa giải viên quy định:
“1. Số lượng Hòa giải viên được xác định trên cơ sở số lượng vụ, việc dân sự, hành chính được thụ lý của từng Tòa án và các tiêu chí sau:
a) Tòa án có số lượng thụ lý dưới 300 vụ, việc/năm có tối đa là 05 Hòa giải viên.
b) Tòa án có số lượng thụ lý từ 300 đến dưới 1.000 vụ, việc/năm có tối đa 15 Hòa giải viên.
c) Đối với các Tòa án có số lượng thụ lý từ 1.000 vụ, việc/năm trở lên thì cứ tăng thêm 100 vụ, việc/năm bổ sung thêm 01 Hòa giải viên”.
Như vậy, số lượng Hòa giải viên tại mỗi Tòa án được định biên tối đa trên cơ sở số lượng vụ việc dân sự, hành chính được thụ lý của từng Tòa án mà không giới hạn số lượng tối thiểu.
4. Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức có liên quan đến người được đề nghị bổ nhiệm làm Hòa giải viên tham gia Hội đồng tư vấn lựa chọn Hòa giải viên trong trường hợp nào?
Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức có liên quan đến người được đề nghị bổ nhiệm làm Hòa giải viên quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 của Thông tư số 04/2020/TT-TANDTC tham gia Hội đồng tư vấn lựa chọn Hòa giải viên trong trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm là chuyên gia, nhà chuyên môn khác; người có hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 10 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Theo đó, cơ quan, tổ chức liên quan đến người được đề nghị bổ nhiệm có thể là Ủy ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ...
5. Việc quản lý Hòa giải viên của Tòa án được thực hiện như thế nào?
Việc quản lý Hòa giải viên của Tòa án được quy định tại Điều 7 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 4 của Thông tư số 02/2020/TT- TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án; theo đó, Hòa giải viên do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý, theo dõi, phụ trách và tổ chức hoạt động hòa giải, đối thoại.
Thẩm phán phụ trách Hòa giải, đối thoại chỉ định Hòa giải viên và tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên.
6. Hòa giải viên có Thư ký giúp việc trong quá trình tiến hành hòa giải, đối thoại không?
Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại độc lập và không có Thư ký giúp việc. Tuy nhiên, việc tiếp nhận hồ sơ vụ việc do Tổ hành chính tư pháp, Phòng hành chính tư pháp của Tòa án thực hiện theo sự phân công của Chánh án. Tòa án hỗ trợ, hướng dẫn Hòa giải viên trong hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
7. Tranh chấp đất đai mà chưa qua thủ tục hòa giải ở xã, phường thì có được xem xét để hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì hòa giải theo quy định của Luật này được thực hiện đối với những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành theo quy định tại Điều 203 của Luật Đất đai, được hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
Như vậy, đối với những tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp ranh giới thửa đất mà chưa qua thủ tục hòa giải ở xã, phường thì không được hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
8. Người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức có được ủy quyền cho người khác mà không phải là cấp phó của mình đại diện tham gia đối thoại khiếu kiện hành chính theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?
Khoản 3 Điều 25 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Người bị kiện trong khiếu kiện hành chính có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia đối thoại. Người đại diện theo ủy quyền phải có đầy đủ thẩm quyền để giải quyết khiếu kiện”.
Như vậy, khi tham gia đối thoại khiếu kiện hành chính theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức được ủy quyền cho người khác mà không phải là cấp phó của mình, nhưng phạm vi ủy quyền phải thể hiện người được đại diện có đầy đủ thẩm quyền để giải quyết vụ việc, tức là đại diện trong việc giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ việc.
9. Khi các bên tranh chấp, khiếu kiện tham gia hòa giải, đối thoại theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì họ có phải nộp khoản chi phí, lệ phí nào không?
Theo quy định tại Điều 9 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì:
“1. Chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án do ngân sách nhà nước bảo đảm, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải chịu chi phí trong các trường hợp sau đây:
a) Chi phí hòa giải đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch;
b) Chi phí khi các bên thống nhất lựa chọn địa điểm hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án; chi phí khi Hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi địa giới hành chính của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết có trụ sở;
c) Chi phí phiên dịch tiếng nước ngoài.
3. Chính phủ quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp và việc quản lý, sử dụng chi phí quy định tại khoản 2 Điều này”.
Ngày 03-3-2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, trong đó quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp và việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án đối với những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Theo đó, khi hòa giải, đối thoại tại Tòa án, việc thu, nộp chi phí cần phân biệt như sau:
Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch thì các bên tranh chấp phải chịu chi phí theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, bao gồm: chi thù lao cho Hòa giải viên, chi phí hành chính phục vụ việc hòa giải (chi văn phòng phẩm, nước uống, cước phí bưu chính, viễn thông phục vụ trực tiếp việc hòa giải). Ngoài ra, các bên còn phải chịu các chi phí quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định này.
Đối với vụ việc hòa giải, đối thoại còn lại, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án chỉ phải chịu chi phí quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, bao gồm:
- Chi phí khi các bên tham gia hòa giải, đối thoại thống nhất lựa chọn địa điểm hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án gồm: Chi phí đi lại, phụ cấp lưu trú, thuê phòng nghỉ của Hòa giải viên; chi phí thuê địa điểm và chi phí khác trực tiếp phục vụ việc hòa giải, đối thoại theo thực tế phát sinh;
- Chi phí khi Hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi địa giới hành chính của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc hòa giải, đối thoại có trụ sở gồm: Chi phí đi lại, phụ cấp lưu trú, thuê phòng nghỉ của Hòa giải viên; chi phí thuê trang thiết bị, máy móc hoặc chi thuê đơn vị, tổ chức có chức năng để phục vụ xem xét hiện trạng tài sản;
- Chi phí phiên dịch tiếng nước ngoài gồm: Chi phí thuê người biên dịch, thuê người phiên dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt và ngược lại.
Như vậy, trong quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Tòa án căn cứ Điều 9 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Nghị định số 16/2021/NĐ-CP để thu, chi các khoản chi phí hòa giải, đối thoại khi các bên tranh chấp đồng ý hòa giải, đối thoại tại Tòa án; ngoài những chi phí nói trên không được thu các chi phí khác, không thu lệ phí.
10. Khi phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại, Chánh án Tòa án có phải ban hành quyết định phân công bằng văn bản không?
Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 16 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và điểm c khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 4 của Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Chánh án Tòa án cấp tỉnh hoặc cấp huyện phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại đối với mỗi vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính trong thời hạn luật định.
Như vậy, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không quy định việc phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại của Chánh án Tòa án phải bằng quyết định. Chánh án có thể phân công Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại bằng quyết định hoặc hình thức khác để phù hợp và thuận tiện cho việc quản lý hoạt động hòa giải, đối thoại.
11. Vụ việc được giải quyết tại Tòa án cấp huyện thì người khởi kiện, người yêu cầu có quyền lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp tỉnh không? Vụ việc được giải quyết tại Tòa án cấp tỉnh thì người khởi kiện, người yêu cầu có quyền lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện không?
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì các bên tham gia hòa giải, đối thoại có quyền:
“Lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính; trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện thì có thể lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện khác trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Như vậy, trường hợp tranh chấp, yêu cầu được giải quyết tại Tòa án cấp huyện thì người khởi kiện, người yêu cầu có quyền lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án cấp huyện khác mà không có quyền lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án cấp tỉnh. Trường hợp tranh chấp, yêu cầu được giải quyết tại Tòa án cấp tỉnh thì người khởi kiện, người yêu cầu có
quyền lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án cấp tỉnh đó mà không có quyền lựa chọn Hòa giải viên của Tòa án cấp huyện.
12. Trường hợp Tòa án đã chỉ định Hòa giải viên theo yêu cầu của người khởi kiện nhưng sau đó Tòa án chỉ định lại do người bị kiện đề nghị thay đổi Hòa giải viên thì thời hạn hòa giải, đối thoại tính từ khi nào?
Trường hợp Tòa án đã chỉ định Hòa giải viên theo yêu cầu của người khởi kiện nhưng sau đó Tòa án chỉ định lại do người bị kiện đề nghị thay đổi Hòa giải viên thì Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại kể từ thời điểm nhận được quyết định chỉ định Hòa giải viên theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên. Thời hạn hòa giải, đối thoại được thực hiện theo Điều 20 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
13. Có thể đóng dấu treo của Tòa án vào các Giấy mời và Thông báo của Hòa giải viên theo các biểu mẫu số 08-HG, 09-HG, 10-HG, 08-ĐT, 09-ĐT, 10-ĐT ban hành kèm theo Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?
Giấy mời và Thông báo của Hòa giải viên do Hòa giải viên ký và ghi rõ họ tên theo các biểu mẫu số 08-HG, 09-HG, 10-HG, 08-ĐT, 09-ĐT, 10-ĐT ban hành kèm theo Thông tư số 02/2020/TT- TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Tòa án nơi tiến hành hòa giải, đối thoại có thể đóng dấu treo vào tên Tòa án ghi ở phía trên bên trái của văn bản để bảo đảm tính xác thực của văn bản theo yêu cầu của Hòa giải viên. Việc đóng dấu treo được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05-3-2020 của Chính phủ về công tác văn thư.
14. Hết thời hạn hòa giải, đối thoại mà Hòa giải viên không báo cáo kết quả hòa giải, đối thoại cho Tòa án thì xử lý như thế nào?
Theo quy định tại điểm d khoản 2 và điểm c khoản 3 Điều 7 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại; đánh giá, nhận xét kết quả hoạt động của Hòa giải viên. Do đó, trường hợp hết thời hạn hòa giải, đối thoại mà Hòa giải viên không báo cáo kết quả hòa giải, đối thoại cho Tòa án thì Tòa án phải yêu cầu Hòa giải viên chuyển ngay đơn khởi kiện cùng các tài liệu cho Tòa án và báo cáo kết quả hòa giải, đối thoại. Kết quả hòa giải, đối thoại là căn cứ để Tòa án trả thù lao và xem xét khen thưởng hoặc xử lý vi phạm theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
15. Trường hợp Hòa giải viên yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp, khiếu kiện mà các bên không cung cấp thì Hòa giải viên xử lý như thế nào?
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được tiến hành trên tinh thần tự nguyện của các bên với sự hỗ trợ của Hòa giải viên. Do đó, nếu Hòa giải viên yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp, khiếu kiện mà các bên không cung cấp thì Hòa giải viên động viên, thuyết phục để các bên thấy được việc cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ là để Hòa giải viên có đầy đủ thông tin, từ đó hỗ trợ tối đa cho các bên trong việc đi đến thỏa thuận, thống nhất việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện. Nếu các bên vẫn không cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp, khiếu kiện thì Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại trên cơ sở các thông tin, tài liệu hiện có.
16. Khi xem xét hiện trạng tài sản tranh chấp thì Hòa giải viên có phải mời đại diện chính quyền địa phương tham gia không?
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không quy định việc buộc phải mời đại diện chính quyền địa phương tham gia khi Hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản tranh chấp. Tuy nhiên, nếu việc mời đại diện chính quyền địa phương tham gia là cần thiết để phục vụ cho việc xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến vụ việc đang được hòa giải, đối thoại thì Hòa giải viên có thể mời đại diện chính quyền địa phương tham gia.
17. Trong quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trường hợp Hòa giải viên mời người có uy tín tham gia hòa giải, đối thoại hoặc tham khảo ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về lĩnh vực tranh chấp, khiếu kiện (theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án) thì người có uy tín, cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn có được chi trả chi phí không?
Trường hợp Hòa giải viên mời người có uy tín tham gia hòa giải, đối thoại thì việc chi trả các chi phí được thực hiện theo khoản 11 Điều 4 của Thông tư số 92/2020/TT-BTC ngày 13-11-2020 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Cụ thể như sau:
“Chi mời người có uy tín (ngoài hệ thống Tòa án) tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án: Trường hợp người có uy tín được mời tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong trường hợp cần thiết theo quy định tại Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, thì thanh toán chi phí đi lại, chi phí lưu trú (nếu có) theo mức chi công tác phí theo quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28-4-2017 của Bộ Tài chính và quy định cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao. Số lượng, tiêu chí lựa chọn người có uy tín tham gia hòa giải theo từng vụ việc thực hiện theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao...”.
Đối với trường hợp Hòa giải viên tham khảo ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về lĩnh vực tranh chấp, khiếu kiện thì Thông tư số 92/2020/TT-BTC ngày 13-11-2020 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án không có quy định về việc chi trả chi phí. Do vậy, Tòa án không phải chi trả chi phí cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn khi được tham khảo ý kiến.
18. Trong quá trình hòa giải, đối thoại, nếu cần xem xét hiện trạng tài sản và Hòa giải viên phải mời đơn vị, tổ chức có chức năng thực hiện các công việc như đo vẽ, đánh giá tình trạng tài sản,... thì việc thanh toán các chi phí phát sinh thực hiện như thế nào?
Trong quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trường hợp Hòa giải viên thấy cần phải mời đơn vị, tổ chức có chức năng xem xét hiện trạng tài sản và phát sinh chi phí từ hoạt động này thì cần thực hiện như sau:
Thứ nhất, Hòa giải viên trao đổi với các bên về sự cần thiết của việc xem xét hiện trạng tài sản và vấn đề chi phí như sau:
- Trường hợp tài sản cần xem xét hiện trạng nằm trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết có trụ sở, thì chi phí được Nhà nước chi trả theo khoản 13 Điều 4 của Thông tư số 92/2020/TT-BTC ngày 13-11-2020 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Cụ thể, chi phí được chi trả trong trường hợp này gồm: Chi phí thuê trang thiết bị, máy móc hoặc chi thuê đơn vị, tổ chức có chức năng (trong trường hợp cần thiết). Việc thuê trang thiết bị, máy móc và thuê đơn vị, tổ chức có chức năng thực hiện theo quy định của các cơ quan, đơn vị của nhà nước và có hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định.
- Trường hợp tài sản cần xem xét hiện trạng nằm ngoài phạm vi địa giới hành chính của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết có trụ sở, thì chi phí thực hiện theo quy định tại Điều 9 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Nghị định số 16/2021/NĐ-CP ngày 03-3-2021 của Chính phủ quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp và việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án và thù lao Hòa giải viên tại Tòa án. Theo đó, đối với trường hợp này, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nghĩa vụ nộp chi phí quy định tại điểm b khoản 2 Điều 3 Nghị định số 16/2021/NĐ-CP theo tỷ lệ do các bên thỏa thuận. Cụ thể, các chi phí đó gồm: Chi phí đi lại, phụ cấp lưu trú, thuê phòng nghỉ của Hòa giải viên; chi phí thuê trang thiết bị, máy móc hoặc chi thuê đơn vị, tổ chức có chức năng để phục vụ xem xét hiện trạng tài sản.
Thứ hai, sau khi nghe Hòa giải viên trao đổi về sự cần thiết và vấn đề chi phí như trên, tùy từng trường hợp mà thực hiện như sau:
- Trường hợp các bên tranh chấp nhất trí để Hòa giải viên tiến hành xem xét hiện trạng tài sản và thỏa thuận được với nhau về tỷ lệ nộp chi phí (nếu thuộc trường hợp phải nộp chi phí) thì Hòa giải viên tiến hành xem xét hiện trạng tài sản, Tòa án thực hiện việc thu, chi các chi phí theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, Thông tư số 92/2020/TT-BTC và quy định khác có liên quan.
- Trường hợp các bên tranh chấp không nhất trí việc xem xét hiện trạng tài sản mà phát sinh chi phí hoặc không thỏa thuận được với nhau về tỷ lệ nộp chi phí (nếu thuộc trường hợp phải nộp chi phí) thì Hòa giải viên tiếp tục thực hiện việc hòa giải, đối thoại theo quy định mà không tiến hành xem xét hiện trạng tài sản. Các bên có thể tự cung cấp thông tin, tài liệu về tài sản cho Hòa giải viên.
19. Khi tiến hành hòa giải tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì Hòa giải viên có phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ bảy tuổi trở lên không?
Khoản 9 Điều 3 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong hòa giải, đối thoại”.
Khoản 4 Điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”.
Như vậy, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không quy định việc buộc phải lấy ý kiến của con chưa thành niên trong quá trình Hòa giải viên tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, Hòa giải viên có thể lấy ý kiến của con chưa thành niên để hiểu được nguyện vọng của con, từ đó có phương án hòa giải bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
20. Hòa giải vụ việc ly hôn có phải là thủ tục bắt buộc theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?
Khoản 1 Điều 3 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
“Các bên tham gia hòa giải, đối thoại phải tự nguyện hòa giải, đối thoại”.
Điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: các bên có quyền đồng ý hoặc từ chối tham gia hòa giải, đối thoại hoặc chấm dứt hòa giải, đối thoại.
Như vậy, tự nguyện là nguyên tắc trong hòa giải, đối thoại và hòa giải vụ việc ly hôn theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được tiến hành theo sự tự nguyện của các bên, không phải là thủ tục bắt buộc.
21. Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu khi Hòa giải viên mời đến hòa giải, đối thoại thì xử lý như thế nào?
Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết theo quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Sau khi nhận đơn do Hòa giải viên chuyển đến, Tòa án xem xét trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
22. Sau khi Tòa án chỉ định Hòa giải viên mà người khởi kiện, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì có được coi là hòa giải thành, đối thoại thành hay không?
Khoản 4 và khoản 5 Điều 2 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
“4. Hòa giải thành là thông qua hòa giải, các bên tham gia hòa giải tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự mà phần này không liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự đó.
5. Đối thoại thành là thông qua đối thoại, các bên tham gia đối thoại tự nguyện thống nhất về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần khiếu kiện hành chính mà phần này không liên quan đến những phần khác của khiếu kiện hành chính đó”.
Như vậy, khi Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại và thông qua hoạt động hòa giải, đối thoại của Hòa giải viên mà người khởi kiện, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì được coi là hòa giải thành, đối thoại thành. Trường hợp Hòa giải viên đã được chỉ định nhưng chưa tiến hành hoạt động hòa giải, đối thoại mà người khởi kiện, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì không được coi là hòa giải thành, đối thoại thành.
23. Sau khi các bên đã thỏa thuận, thống nhất giải quyết tranh chấp, khiếu kiện mà một bên phát hiện là bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì Hòa giải viên xử lý như thế nào?
Khoản 1 Điều 3 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: Các bên tham gia hòa giải, đối thoại phải tự nguyện hòa giải, đối thoại.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành khi nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên đáp ứng điều kiện: “hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.
Khoản 1 Điều 36 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
"Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại theo đề nghị của các bên, người đại diện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định của Tòa án, kiến nghị của Viện kiểm sát nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này”.
Do đó, sau khi các bên đã thỏa thuận, thống nhất giải quyết tranh chấp, khiếu kiện mà một bên phát hiện là bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì Hòa giải viên hướng dẫn, hỗ trợ các bên tiến hành thỏa thuận lại việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện. Nếu các bên không thỏa thuận lại thì Hòa giải viên hướng dẫn bên bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép yêu cầu Tòa án xem xét nếu Tòa án tiến hành thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; hoặc đề nghị Tòa án xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
24. Hòa giải viên lập biên bản chấm dứt hòa giải, đối thoại khi một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại thì những ai ký vào biên bản hòa giải, đối thoại?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 40 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì việc hòa giải, đối thoại chấm dứt khi một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại.
Khoản 3 Điều 41 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
“Hòa giải viên lập biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này...”.
Như vậy, khi một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại thì Hòa giải viên lập biên bản chấm dứt hòa giải, đối thoại có chữ ký của những người tham gia hòa giải, đối thoại có mặt.
25. Các bên tham gia hòa giải, đối thoại có phải làm đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành không?
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 31 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì ý kiến của các bên về việc yêu cầu hoặc không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được nêu trong biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại. Do đó, các bên tham gia hòa giải, đối thoại không phải làm đơn yêu cầu mà Hòa giải viên ghi ý kiến của các bên vào Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại để Tòa án làm căn cứ xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
26. Tòa án có phải thực hiện thủ tục thụ lý trước khi xem xét công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành không?
Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ Tổ hành chính tư pháp hoặc Phòng hành chính tư pháp, Chánh án hoặc Phó Chánh án (được Chánh án phân công) phân công Thẩm phán xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành theo quy định tại Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Đây là thủ tục riêng được quy định trong Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, không qua thủ tục thụ lý như vụ án dân sự, hành chính theo quy định của các luật tố tụng.
27. Ngay sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án mà các bên tự nguyện thi hành ngay các thỏa thuận, thống nhất thì Tòa án có phải ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành hay không?
Khoản 1 Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu”.
Như vậy, Tòa án chỉ ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành khi các bên có yêu cầu, nếu các bên tự nguyện thi hành ngay các thỏa thuận, thống nhất và không yêu cầu thì Tòa án không ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
28. Thẩm phán xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có bắt buộc phải là Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Thẩm phán này không bắt buộc phải là Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại. Tuy nhiên, để thuận lợi hơn đối với việc xem xét ra quyết định của Thẩm phán, Chánh án nên phân công Thẩm phán tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại đồng thời là Thẩm phán xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành vì Thẩm phán đó đã có thông tin về kết quả hòa giải, đối thoại từ phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại.
29. Khi xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, Thẩm phán có được tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính hay không?
Khoản 2 Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
"Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án”.
Như vậy, Thẩm phán áp dụng các biện pháp đã được quy định tại khoản 2 Điều 32 và các quy định khác của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án để làm cơ sở xem xét ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành mà không tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
30. Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, các bên có phải thực hiện cam kết của mình làm căn cứ để Tòa án ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành hay không?
Khoản 1 Điều 32 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định về thủ tục ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án như sau: “Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu”.
Như vậy, Luật không quy định về việc các bên phải thực hiện cam kết trước khi Tòa án xem xét ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành. Việc thực hiện cam kết trong biên bản ghi nhận kết quả đối thoại có thể được các bên thực hiện trước hoặc sau khi có quyết định công nhận kết quả đối thoại thành. Tòa án chỉ xem xét ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành nếu các bên có yêu cầu.
31. Khi chuyển đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ cho Hòa giải viên thì Tòa án có chuyển bản gốc hay không? Nếu đương sự không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì hồ sơ đó sẽ được lưu như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì trong giai đoạn chuẩn bị hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Hòa giải viên tiếp nhận đơn và tài liệu kèm theo do Tòa án chuyển đến. Như vậy, Tòa án chuyển tài liệu gốc cho Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại. Nếu đương sự không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải, đối thoại thành thì hồ sơ sẽ được lưu tại Tòa án.
32. Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước ngày 01-01-2021, đã yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn và nhận lại đơn đã sửa đổi, bổ sung sau ngày 01-01- 2021 thì có xem xét chuyển sang hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?
Khoản 2 Điều 10 của Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC ngày 16-11-2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên quy định:
“Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, Tòa án nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và quy định chi tiết tại Thông tư này”.
Như vậy, đối với trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước ngày 01-01-2021, đã yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn và nhận lại đơn đã sửa đổi, bổ sung sau ngày 01-01-2021 thì được xử lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp các bên có yêu cầu thì mới xem xét theo thủ tục quy định tại Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
33. Trong quá trình hòa giải, đối thoại tại Tòa án, người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người yêu cầu rút đơn yêu cầu và Hòa giải viên lập biên bản chấm dứt hòa giải, đối thoại, chuyển biên bản, tài liệu kèm theo cho Tòa án nhận đơn. Tòa án phân công chính Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại đối với vụ việc đó để xử lý theo quy định của pháp luật tố tụng (trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu). Vậy, Thẩm phán đó có được tham gia giải quyết vụ việc khi đương sự khởi kiện lại không?
Đoạn 2 khoản 2 Điều 41 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Thẩm phán đã tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại không được tham gia giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính”.
Như vậy, trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người yêu cầu rút đơn yêu cầu trước khi Hòa giải viên tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại, thì Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại đã trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu có quyền tham gia giải quyết vụ việc khi đương sự khởi kiện lại vụ việc.
Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người yêu cầu rút đơn yêu cầu sau khi Hòa giải viên tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại thì cần phân biệt: nếu Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại đối với vụ việc đó thì không được tham gia giải quyết vụ việc khi đương sự khởi kiện lại theo thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; nếu Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại không tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại đối với vụ việc đó thì có quyền tham gia giải quyết lại vụ việc.
34. Thẩm phán tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải khi các bên tham gia hòa giải thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự hay chỉ tham gia phiên họp khi các bên thỏa thuận được toàn bộ vụ việc dân sự?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì: “Khi các bên đạt được sự thỏa thuận, thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính, Hòa giải viên ấn định thời gian, địa điểm mở phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại”.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 28 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì thành phần phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại có “Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công”.
Như vậy, Thẩm phán tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải khi các bên thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự.
35. Trường hợp Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại mà người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì có phải mở phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành với sự tham gia của Thẩm phán hay không?
Theo quy định tại Điều 40 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì hòa giải, đối thoại chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
"1. Hòa giải thành, đối thoại thành;
……
6. Người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì “Trường hợp người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 6 Điều 40 của Luật này thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết”.
Như vậy, khi Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại mà người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn để tiến hành xem xét, giải quyết theo quy định chung và thông báo cho các bên biết, không tổ chức phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, do đó, không có sự tham gia của Thẩm phán.
Trên đây là giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ về hòa giải, đối thoại tại Tòa án để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Du
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 02 tháng 8 năm 2021 Số: 02/TANDTC-PC V/v giải đáp một số vướng mắc trong xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
I. VỀ HÌNH SỰ
1. Trong vụ án hình sự có đồng phạm bị Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất côn đồ” hoặc tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có tính chất côn đồ” theo quy định của Bộ luật Hình sự, đối với đồng phạm khác là người phạm tội có vai trò không đáng kể, không trực tiếp tham gia thực hiện hành vi phạm tội thì khi xét xử có được cho hưởng án treo không?
Theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 3 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì người phạm tội là người côn đồ thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Như vậy, trường hợp người phạm tội bị Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất côn đồ” hoặc tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có tính chất côn đồ” theo quy định của Bộ luật Hình sự thì thuộc trường hợp không cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, đối với vụ án hình sự có đồng phạm, khi xét xử Tòa án phải xem xét, đánh giá tính chất, vai trò, hành vi phạm tội của từng đồng phạm để xác định có thuộc trường hợp “phạm tội có tính chất côn đồ” hay không.
2. Do có mâu thuẫn nên P, L đã đánh nhau với Y. Y đã dùng lưỡi dao lam gây thương tích cho P 14%, L 44%. Vậy Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại hai điểm c, d khoản 3 hay chỉ điểm c hoặc điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự?
Trường hợp này, Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Y còn gây thương tích cho P 14% nên khi lượng hình cần xem xét cả hậu quả này.
3. Trường hợp bị cáo phạm tội lúc chưa đủ 70 tuổi. Tại thời điểm xét xử, bị cáo đã trên 70 tuổi thì có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hay không?
Quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là người đã đủ 70 tuổi trở lên tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, trường hợp khi phạm tội bị cáo chưa đủ 70 tuổi nhưng trong quá trình xét xử họ đã đủ 70 tuổi trở lên thì Tòa án vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” đối với họ.
4. Người sử dụng phương tiện giao thông của người khác gây tai nạn thì thiệt hại đối với tài sản này có bị coi là gây “thiệt hại cho người khác” quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự không?
Thiệt hại cho người khác quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự được hiểu là thiệt hại không bao gồm thiệt hại của người gây tai nạn và phương tiện mà người gây tai nạn sử dụng. Do đó, trường hợp nêu trên không coi thiệt hại từ chính phương tiện mà họ điều khiển là “thiệt hại cho người khác” dù đó không phải là tài sản của họ.
5. Thế nào được coi là đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án khi xét tha tù trước thời hạn có điều kiện?
Khoản 1 Điều 591 của Bộ luật Dân sự quy định: “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: ...Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng...”.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án thì chỉ được coi là đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại để xét tha tù trước thời hạn có điều kiện nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đã thực hiện xong hoàn toàn nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án;
- Đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 01 lần và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là đã hoàn thành việc cấp dưỡng;
- Đã thực hiện được một phần nghĩa vụ cấp dưỡng và có thỏa thuận, xác nhận của đại diện hợp pháp của người được nhận cấp dưỡng về việc tiếp tục thực hiện hoặc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận;
- Chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng có thỏa thuận, xác nhận của người đại diện hợp pháp của người được nhận cấp dưỡng về việc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
6. Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm hoặc có hành vi khác để chứa chấp người nghiện ma túy cùng sử dụng trái phép chất ma túy thì có bị xử lý hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự hay không?
Theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: "b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người nào có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 của Bộ luật Hình sự”.
Theo hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP ngày 14-11-2015 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì: “...Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”. Cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn thay thế nội dung này của Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 của Bộ luật Hình sự thì: “Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này...”. Quy định này không loại trừ việc xử lý hình sự đối với người nghiện ma túy có hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Cho nên, đối với trường hợp người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm để cùng sử dụng ma túy nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự thì bị xử lý về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
7. A là người đi mua ma túy về (B không biết A mua ma túy). Sau đó A và B đến nhà C chơi. Khi đến nhà C, A mới bỏ ma túy ra và bảo “ai chơi thì chơi”. Lúc này cả 03 người cùng sử dụng ma túy, sau đó D đến nhà C và thấy ma túy trên bàn nên đã tự lấy sử dụng. A, B, C và D đều là người nghiện ma túy. Vậy A có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay không?
Theo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30-6-2020 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ thì: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ... để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Trong trường hợp này, A là người cung cấp ma túy cho B, C, D để họ thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Do đó, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ, THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp vi phạm về thời hạn ra quyết định truy tố bị can và thời hạn giao cáo trạng theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 240 của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc có dấu hiệu sửa chữa ngày ghi biên bản giao nhận hồ sơ vụ án từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát để phù hợp với thời hạn luật định. Vậy Tòa án có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không?
Trường hợp trên được xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu vi phạm này xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp nếu Tòa án không trả hồ sơ thì khi xét xử và ban hành bản án, Tòa án phải đánh giá, phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Do thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam nên Hội đồng xét xử đã tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa. Trường hợp này, Tòa án có phải ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị kết án không?
Trường hợp trên, Tòa án không ra quyết định thi hành án phạt tù mà ra quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án gửi kèm theo bản án quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa cho cơ quan thi hành án hình sự theo quy định.
3. Thẩm quyền tổng hợp hình phạt của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được thực hiện như thế nào?
Thẩm quyền tổng hợp hình phạt của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được thực hiện như sau:
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt;
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh; cùng cấp khu vực trong cùng một quân khu hoặc khác quân khu; cùng sơ thẩm cấp tỉnh, cùng cấp quân khu, cùng phúc thẩm ở Tòa án nhân dân cấp cao), thì Chánh án Tòa án ra bản án sau cùng (về mặt thời gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt.
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn đã có bản án có hiệu lực pháp luật ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.
- Trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật, có bản án của Tòa án nhân dân, có bản án của Tòa án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện tương tự như trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp và trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp như trên.
III. VỀ DÂN SỰ
1. Nhà đất thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông A, bà B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C (việc giả chữ ký đã được chứng minh thông qua việc giám định). Sau khi chuyển nhượng, ông A, bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Sau đó, C dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại Ngân hàng. Vậy, giao dịch thế chấp tại Ngân hàng có bị vô hiệu không? Nếu vô hiệu thì có trái với mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự, tố tụng hành chính (sau đây gọi tắt là Công văn số 64/TANDTC-PC) không?
Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.
Khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.
Trường hợp này, việc ông A giả chữ ký của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C mà không được bà B đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu.
Sau khi nhận chuyển nhượng, C dùng tài sản này thế chấp khoản vay tại Ngân hàng nhưng khi ký hợp đồng thế chấp tài sản, Ngân hàng không thẩm định, xác minh nên không biết ông A, bà B vẫn quản lý, sử dụng nhà đất hoặc đã thẩm định nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh ông A, bà B biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (Ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC, do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản cũng vô hiệu.
2. Ông A vay của Ngân hàng 01 tỷ đồng, thời hạn vay 01 tháng kể từ ngày 02-01-2017, lãi suất 2% tháng. Sau thời hạn 01 tháng ông A không trả được nợ gốc và lãi. Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày 03-02-2017 đến ngày 03-02-2020, Ngân hàng không khởi kiện yêu cầu ông A trả nợ. Đến nay, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả nợ thì ông A có được quyền yêu cầu
áp dụng quy định về thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không?
Theo quy định Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Căn cứ quy định nêu trên thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã hết. Tuy nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp "yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác". Do đó, Ngân hàng có thể khởi kiện ông A yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc) và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không.
3. Đối với các loại hợp đồng dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản của các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì có áp dụng thời hiệu khởi kiện như quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 không?
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
...2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai....”
Theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.
Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền sở hữu, đòi lại tài sản thì Tòa án không áp dụng thời hiệu không phụ thuộc vào việc một bên hoặc các bên có hay không có yêu cầu áp dụng thời hiệu. Đối với các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. Theo Công văn số 64/TANDTC-PC thì trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật, căn cứ Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giao dịch thế chấp đó
không vô hiệu. Như vậy, hướng dẫn này có áp dụng đối với các giao dịch thế chấp phát sinh trước ngày 01-01-2017 mà nay có tranh chấp không?
Khoản 1 Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 63/2020/QH14 năm 2020 quy định: Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.
Như vậy, về nguyên tắc chung, hành vi xảy ra ở thời điểm nào thì áp dụng pháp luật ở thời điểm đó. Khi văn bản quy phạm pháp luật cụ thể có quy định khác, như quy định có hiệu lực trở về trước (hồi tố) thì mới được áp dụng khác với nguyên tắc chung nêu trên.
Căn cứ quy định nêu trên, hướng dẫn tại phần 1 mục I của Công văn số 64/TANDTC-PC được áp dụng đối với các giao dịch dân sự được thực hiện kể từ ngày 01-01-2017 mà không áp dụng đối với các giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01-01-2017.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Ông A phải thi hành án trả cho ông C số tiền là 500 triệu đồng, ông A không tự nguyện thi hành án. Cơ quan thi hành án xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng 156m2 đất cùng tài sản gắn liền trên đất, nhưng chưa làm các thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, chưa cưỡng chế thi hành án đối với ông A. Ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ông A trong khối tài sản chung. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do ông C chưa đủ kiều kiện khởi kiện. Vậy, quyết định đình chỉ này của Tòa án nhân dân huyện H có đúng không?
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền: "Khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án".
Khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự...”
Theo quy định tại khoản 12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự" là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan thi hành án dân sự mới chỉ xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa đất diện tích 156m2 cùng tài sản gắn liền trên đất mà chưa làm các thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, ông C (người được thi hành án) đã khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Do đó, Tòa án nhân huyện H ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là có căn cứ.
2. Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”. Vậy, Tòa án có được thụ lý giải quyết các trường hợp này không?
Khoản 8 Điều 6 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Mục 1 Phần I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Theo đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, không phải là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015 và các pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng mua bán tài sản, thế chấp tài sản... Tòa án có phải đưa tổ chức hành nghề công chứng hợp đồng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không?
Theo quy định tại điểm d và điểm g khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 thì Công chứng viên có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng và chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình.
Điều 38 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 quy định:
“1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
2. Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét có đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết tranh chấp hợp đồng có liên quan đến nghĩa vụ giải thích của Công chứng viên theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng của tổ chức hành nghề công chứng thì Tòa án xem xét đưa tổ chức hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
4. Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) mua lại khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó, VAMC ủy quyền lại cho tổ chức tín dụng khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án để yêu cầu xử lý nợ xấu. Khi thụ lý, giải quyết thì Tòa án có triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng cho cả VAMC và tổ chức tín dụng không?
Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Khoản 4 Điều 85 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự”.
Khoản 2 Điều 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân thì pháp nhân có quyền ủy quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Trường hợp này, VAMC đã mua lại khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó VAMC có văn bản ủy quyền cho tổ chức tín dụng với nội dung tổ chức tín dụng được khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án để giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thì tổ chức tín dụng được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự. Do vậy, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải triệu tập và tống đạt văn bản tố tụng cho tổ chức tín dụng được ủy quyền, không phải triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng cho VAMC.
5. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên đơn không nộp tiền chi phí định giá theo điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy, trong trường hợp này nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án như trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện hay không?
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
“Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
...đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này...”
Khoản 1 Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật...”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên thì trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì lý do “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố
tụng khác” thì nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu Tòa giải quyết tiếp vụ án như đối với trường hợp rút đơn khởi kiện.
6. Ông A chuyển nhượng đất cho ông B với giá 02 tỉ đồng, ông B đã trả được cho ông A là 500 triệu đồng nhưng sau đó hai bên xảy ra tranh chấp, ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng giữa ông với ông A vô hiệu. Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A và ông B vô hiệu và các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Vậy, trong trường hợp này ông A có phải chịu án phí của số tiền 500 triệu đồng phải trả cho ông B không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) thì:
"Đối với tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
a) Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đều không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên yêu cầu công nhận hợp đồng phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch;
b) Trường hợp một bên yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài việc chịu án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a, khoản 3 Điều này, người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.”
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, ông A và ông B không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì ông A phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch.
Trường hợp ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, thì ông A phải chịu án phí không có giá ngạch và án phí theo giá ngạch của số tiền 500 triệu đồng phải trả cho ông B.
7. Cụ D, cụ E có hai người con là ông A, bà B. Ông A sinh sống cùng cụ D, cụ E trên diện tích đất do các cụ tạo lập nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993, ông A đã kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khi đó cụ D, cụ E còn sống không có ý kiến phản đối. Sau khi cụ D, cụ E chết, bà B khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của hai cụ. Vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh?
Khoản 5 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế tài sản.
Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này”.
Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:
"1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
3. Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
4. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết: "Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”.
Như vậy, trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế, không yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 26 và khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Trường hợp đương sự yêu cầu chia di sản thừa kế đồng thời yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
8. Trong vụ án dân sự, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Sau đó, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Tòa án có ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút không và xử lý tiền tạm ứng án phí như thế nào?
Khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 18 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu trong vụ án dân sự vì lý do bị đơn có yêu cầu phản tố rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp”.
Như vậy, trường hợp nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì Tòa án đình chỉ giải quyết phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút, tiền tạm ứng án phí không được trả lại cho đương sự. Việc đình chỉ và xử lý tiền tạm ứng án phí sẽ được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định trong bản án. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì tiền tạm ứng án phí sẽ được Tòa án trả lại cho đương sự.
9. Người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì Tòa án có phải yêu cầu bổ sung văn bản xác minh nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới thụ lý vụ án không? Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không thể tống đạt được văn bản tố tụng cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng do nguyên đơn cung cấp. Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương thì bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú 06 tháng trước. Trong trường hợp này, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hay tiếp tục giải quyết vụ án?
Điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Điểm a khoản 1 Điều 5 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP) quy định: “Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được xác định như sau: Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú”.
Khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”.
Khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung”.
Căn cứ các quy định trên, người khởi kiện đã ghi đúng, đầy đủ địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng thì Tòa án phải thụ lý vụ án mà không được yêu cầu người khởi kiện phải cung cấp bổ sung văn bản xác minh nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà không tống đạt được văn bản tố tụng, xác minh tại địa phương thì họ đã đi khỏi nơi cư trú 6 tháng trước; đây được xác định là trường hợp người bị kiện, người có quyền, nghĩa vụ liên quan giấu địa chỉ. Tòa án căn cứ quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
10. Trường hợp A kiện đòi B trả số tiền là 10.000.000 đồng và 20 chỉ vàng. Khi Tòa án tiến hành hòa giải, A chỉ yêu cầu B trả 10.000.000 đồng, đối với 20 chỉ vàng A không yêu cầu B trả. Như vậy, Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và xử lý tiền tạm ứng án phí đối với 20 chỉ vàng như thế nào?
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định việc đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa thì được xử lý như thế nào mà chỉ quy định việc đương sự rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện tại điểm a khoản 2 Điều 210, điểm c khoản 1, 2, 3, 4 Điều 217, khoản 1 Điều 29, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Trường hợp này, việc A rút yêu cầu đối với 20 chỉ vàng phải được ghi nhận vào Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án căn cứ Điều 212 của Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Về án phí, theo quy định tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Do vậy, các đương sự phải chịu 50% mức án phí đối với số tiền 10.000.000 đồng, khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp đối với yêu cầu trả 20 chỉ vàng thì đương sự không phải chịu án phí nên sẽ được hoàn trả lại.
11. Trong vụ án hôn nhân và gia đình, trước khi mở phiên tòa xét xử, đương sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung. Do đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Trường hợp này, Tòa án phải quyết định về án phí như thế nào?
Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm”.
Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí”.
Căn cứ các quy định nêu trên, trong vụ án ly hôn, nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm, trường hợp thuận tình ly hôn thì các bên đương sự phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định).
Trong trường hợp này, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Do các đương sự đã thỏa thuận tự nguyện ly hôn nên các đương sự chỉ phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định); về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu dựa trên giá trị tài sản mà mỗi bên được chia theo quy định của pháp luật về án phí.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc trong xét xử của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Nơi nhận: KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
- Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 13 tháng 9 năm 2021
Số: 156/TANDTC-PC V/v ra quyết định thi hành án, theo dõi việc thi hành án hình sự
Kính gửi: - Chánh án Tòa án nhân dân các cấp; - Chánh án Tòa án quân sự các cấp.
Căn cứ khoản 2 Điều 197 của Luật Thi hành án hình sự, để bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được tổ chức thi hành đúng quy định, tránh vi phạm trong việc ra quyết định thi hành án, ủy thác ra quyết định thi hành án hình sự, gửi quyết định thi hành án, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các Tòa án thực hiện một số nội dung như sau:
1. Về ra quyết định thi hành án
Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án, gửi quyết định thi hành án đúng thời hạn, thành phần, thủ tục theo quy định tại Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự và các Điều 21, 22, 77, 84, 96 của Luật Thi hành án hình sự.
Việc cấp, giao quyết định thi hành án hình sự cho người bị kết án theo quy định tại các Điều 138 và 139 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Về ủy thác ra quyết định thi hành án và gửi quyết định thi hành án
Tòa án ra quyết định ủy thác thi hành án cho Tòa án khác cùng cấp phải gửi quyết định ủy thác này cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án.
Khi nhận được quyết định ủy thác ra quyết định thi hành án, Tòa án được ủy thác phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án. Căn cứ kết quả xác minh, tùy trường hợp để vận dụng tinh thần hướng dẫn tại điểm d tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “thi hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý.
Trường hợp Tòa án được ủy thác không biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ủy thác biết. Trong trường hợp này, Tòa án đã ủy thác ra quyết định thi hành án và căn cứ khoản 3 Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.
Trường hợp sau khi xác minh, Tòa án được ủy thác thi hành án thấy có đủ điều kiện thi hành án thì phải ra quyết định thi hành án và gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án.
3. Về theo dõi việc thi hành án
Các Tòa án thực hiện nghiêm việc vào sổ thụ lý và theo dõi việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; trong đó, đặc biệt chú ý các trường hợp bị án bị kết án phạt tù nhưng đang hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Tòa án phải rà soát lập danh sách kết quả ra quyết định thi hành án, ủy thác ra quyết định thi hành án để xác định số bản án/số bị án mà Tòa án đã ra quyết định thi hành án; số bản án/số bị án còn lại Tòa án chưa ra quyết định thi hành án; trong đó, cần chú ý đến những trường hợp bị án bị kết án phạt tù nhưng đang tại ngoại.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện, bảo đảm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, cần báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học hoặc gửi ý kiến về hòm thư điện tử phapchetoaan2016@gmail.com) để được giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để biết); - Cổng Thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải); - Lưu VT, Vụ PC&QLKH-P1.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Trí Tuệ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 2021 Số: 114/TANDTC-HTQT V/v xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài
Kính gửi: - TAND cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Thời gian vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy có một số Tòa án đã và đang gặp khó khăn trong việc giải quyết yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Để tạo điều kiện thuận tiện cho Tòa án xem xét thụ lý đơn, giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, sau khi trao đổi với Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao lưu ý các Tòa án một số vấn đề sau đây:
1. Cơ sở pháp lý và thực tiễn để Tòa án yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài
1.1. Hiện nay, một số hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam là thành viên có quy định về việc nước này hỗ trợ nước kia xác minh địa chỉ của đương sự trên lãnh thổ nước đó. Cụ thể là các quy định tại các Hiệp định sau đây:
- Khoản 1 Điều 14 Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang Nga về tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự;
- Khoản 1 Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hòa Bê-la-rút;
- Điều 11 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc (Cộng hòa Séc và Cộng hòa Xlô-va-ki-a kế thừa);
- Khoản 2 Điều 13 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự giữa CHXHCN Việt Nam và Hung-ga- ri.
1.2. Ngoài các Hiệp định nêu trên, các Hiệp định/Thỏa thuận tương trợ tư pháp về dân sự còn lại giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ sau đây: Lào, Trung Quốc, Cam-pu-chia, Ca-dắc- xtan, Triều Tiên, Mông Cổ, Ba Lan, Bun-ga-ri, Pháp, Cu Ba, U-crai-na, An-giê-ri, Lãnh thổ Đài Loan không có quy định về việc xác minh địa chỉ của đương sự.
Tuy nhiên, qua trao đổi, cơ quan có thẩm quyền của Ba Lan và Lãnh thổ Đài Loan cho biết có thể hỗ trợ Tòa án Việt Nam xác minh địa chỉ của đương sự như là một yêu cầu tương trợ tư pháp dân sự độc lập hoặc yêu cầu thu thập chứng cứ.
1.3. Một số nước cùng với Việt Nam là thành viên công ước La Hay về Tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước tống đạt giấy tờ), Công ước La Hay về thu thập chứng cứ trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước thu thập chứng cứ) cho biết đồng ý hỗ trợ xác định địa chỉ của đương sự trên lãnh thổ nước đó trên cơ sở yêu cầu ủy thác tư pháp của Tòa án Việt Nam.
1.4. Đối với công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài, trong một số trường hợp cụ thể, Tòa án có thể đề nghị Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài) hỗ trợ xác minh địa chỉ của đương sự ở nước sở tại.
2. Các trường hợp Tòa án có thể ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự
2.1. Tòa án ủy thác tư pháp cho nước, vùng lãnh thổ được nêu tại Mục 1 của Công văn này xác minh địa chỉ của đương sự trên lãnh thổ nước đó trên cơ sở đề nghị của người khởi kiện, người yêu cầu trước khi thụ lý vụ việc dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 473 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2.2. Tòa án ủy thác tư pháp cho những nước, vùng lãnh thổ nêu tại Tiểu mục 2.1 Mục 2 của Công văn này xác minh địa chỉ của đương sự trong các trường hợp sau đây:
a) Trong quá trình giải quyết vụ việc mà có đương sự đề nghị đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự;
b) Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong trường hợp không có ai đề nghị đưa đương sự đó tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2.3. Tòa án đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ xác minh địa chỉ của đương sự trước khi thụ lý vụ việc hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc tương tự các trường hợp được nêu tại Tiểu mục 2.1 và 2.2 Mục 2 của Công văn này.
3. Thông tin mà đương sự phải cung cấp cho Tòa án để xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài
3.1. Khi đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của người nước ngoài, công ty, doanh nghiệp có trụ sở ở nước ngoài, công dân Việt Nam ở nước ngoài, người khởi kiện, người yêu cầu, đương sự phải cung cấp cho Tòa án các thông tin có được về cá nhân, doanh nghiệp đó, trong đó phải có các thông tin sau đây:
a) Đối với việc xác minh địa chỉ của người nước ngoài
- Họ và tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, giới tính, số hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu, số căn cước công dân của người nước ngoài cần được xác minh địa chỉ. Những thông tin này có trên các tài liệu, giấy tờ bao gồm: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài: giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú, giấy chứng nhận kết hôn, giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân của người nước ngoài...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp và các tài liệu, giấy tờ khác có các thông tin nêu trên mà đương sự có được.
b) Đối với việc xác minh địa chỉ của doanh nghiệp, công ty nước ngoài
- Tên doanh nghiệp, công ty, mã số đăng ký doanh nghiệp, công ty, mã số thuế của doanh nghiệp, công ty cần được xác minh địa chỉ. Những thông tin này có thể tồn tại trong các tài liệu, giấy tờ như: hợp đồng, thư tín giao dịch, telegram, fax, telex, thư điện tử...và các tài liệu, giấy tờ khác có các thông tin nêu trên mà đương sự có được.
c) Đối với việc xác minh địa chỉ của công dân Việt Nam ở nước ngoài
Khi đề nghị Tòa án xác minh địa chỉ của công dân Việt Nam ở nước ngoài, người khởi kiện, người yêu cầu hoặc đương sự đề nghị Tòa án đưa công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải cung cấp cho Tòa án các thông tin sau đây:
- Họ và tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, quốc tịch, số hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế hộ chiếu, số căn cước công dân hoặc số chứng minh thư nhân dân của người cần được xác minh địa chỉ. Những thông tin này có trên các tài liệu, giấy tờ bao gồm: hộ chiếu Việt Nam, thẻ căn cước công dân, chứng minh thư nhân dân, giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp và các giấy tờ, tài liệu khác có các thông tin nêu trên.
3.2. Trường hợp đương sự không đề nghị nhưng Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự, thì Tòa án yêu cầu đương sự đã có ý kiến hoặc cung cấp tài liệu, giấy tờ về sự liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài cung cấp địa chỉ của đương sự ở nước ngoài đó.
Trong trường hợp không cung cấp được địa chỉ, đương sự phải cung cấp một trong các thông tin nêu tại Tiểu mục 3.1 Mục 3 của Công văn này để Tòa án tiến hành xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài.
4. Các trường hợp không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự
4.1. Đối với các nước cùng với Việt Nam là thành viên Hiệp định tương trợ tư pháp, Công ước tống đạt giấy tờ, Công ước thu thập chứng cứ nêu tại Công văn này đã cho biết không có thẩm quyền xác minh địa chỉ của đương sự, thì Tòa án giải thích cho đương sự không có cơ sở pháp lý để Tòa án Việt Nam ủy thác cho các nước này xác minh địa chỉ của đương sự trên lãnh thổ nước đó. Đương sự phải tự tìm kiếm địa chỉ của đương sự ở nước ngoài để cung cấp cho Tòa án.
4.2. Tòa án không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự ở nước đó trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu, người đề nghị đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp được cho Tòa án một trong các thông tin nêu tại Mục 3 của Công văn này.
Tòa án không ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ nếu đương sự nêu tại Tiểu mục 3.2 Mục 3 của Công văn này không cung cấp được thông tin về đương sự ở nước ngoài theo yêu cầu của Tòa án.
Ví dụ 1: Trường hợp đương sự chỉ cung cấp được cho Tòa án họ tên, giới tính, quốc tịch của đương sự là người nước ngoài, không cung cấp được một trong các thông tin sau đây: số hộ chiếu (hết hạn sử dụng hay còn hạn sử dụng) hoặc số căn cước công dân; tài liệu, giấy tờ như: bản chụp thẻ tạm trú, thường trú, giấy phép lái xe...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp cho đương sự ở nước ngoài, thì Tòa án không có căn cứ đề ủy thác tư pháp cho nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự.
Ví dụ 2: Trường hợp đương sự chỉ cung cấp được cho Tòa án họ tên, giới tính, quốc tịch của đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài mà không có các thông tin khác như: số hộ chiếu (hết hạn sử dụng hay còn hạn sử dụng), số căn cước công dân hoặc số chứng minh thư nhân dân, tài liệu, giấy tờ như: bản chụp thẻ tạm trú, thẻ thường trú, giấy phép lái xe...do Việt Nam hoặc nước ngoài cấp cho đương sự cần xác minh địa chỉ, thì Tòa án không có căn cứ để đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ.
4.3. Trường hợp nguyên đơn, bị đơn hoặc đương sự khác cung cấp được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, không phân biệt địa chỉ đó đương sự có được từ nhiều năm về trước hoặc tại thời gian gần nhất so với thời điểm cung cấp địa chỉ này cho Tòa án, thì Tòa án tiến hành tống đạt văn bản tố tụng hoặc thu thập chứng cứ đối với đương sự ở nước ngoài theo địa chỉ đã được cung cấp mà không thực hiện việc ủy thác tư pháp cho nước ngoài hoặc đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự.
4.4. Tại Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao chỉ mới thông báo một số nước chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu ủy thác tư pháp của Tòa án Việt Nam xác minh địa chỉ của đương sự ở nước đó. Trong thời gian tới Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục cập nhật thông tin về vấn đề này.
Trường hợp Tòa án muốn xác minh địa chỉ của đương sự ở các nước khác nêu tại Công văn này, thì cần liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Cơ quan trung ương đầu mối của Việt Nam theo quy định tại các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp mà Việt Nam là thành viên), để được hỗ trợ, cung cấp thông tin.
5. Thủ tục ủy thác tư pháp cho nước ngoài, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự
5.1. Đối với trường hợp đề nghị nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự
Tòa án lập, gửi hồ sơ đề nghị xác minh địa chỉ của đương sự theo quy định tại Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (Thông tư liên tịch số 12/2016). Hồ sơ gồm có:
- 01 Văn bản gửi Bộ Tư pháp được lập theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này;
- 03 Văn bản đề nghị xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài được lập theo Mẫu số 02A ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 12/2016.
- Bản chụp các giấy tờ, tài liệu khác phục vụ cho việc xác minh địa chỉ của đương sự (nếu có) như: hộ chiếu, giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu, thẻ căn cước, giấy phép lái xe...của đương sự là cá nhân hoặc tên doanh nghiệp, công ty, mã số đăng ký doanh nghiệp, công ty, mã số thuế của doanh nghiệp, công ty.
- Biên lai nộp lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp biên lai nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài trong trường hợp nước ngoài thu chi phí thực tế xác minh địa chỉ của đương sự.
Đối với các trường hợp ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự theo từng nước cụ thể, Tòa án lập hồ sơ ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo hướng dẫn tại Phần phụ lục của Công văn này.
5.2. Đối với trường hợp đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác định địa chỉ của đương sự là công dân Việt Nam
Việc Tòa án đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự là công dân Việt Nam không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư liên tịch số 01/2019/TTLT- TANDTC-BNG ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao quy định về trình tự, thủ tục phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính ở nước ngoài. Do đó, hồ sơ đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài được lập như sau:
- 01 Văn bản của Tòa án gửi Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài do Thẩm phán ký và đóng dấu Tòa án. Trong đó, bao gồm các nội dung sau đây:
+ Tóm tắt vụ việc dân sự, các chi tiết về thông tin của người cần được xác định địa chỉ: họ và tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, quốc tịch, số hộ chiếu, số thẻ căn cước, chứng minh thư nhân dân, thẻ thường trú, thẻ tạm trú và các thông tin khác (nếu có) như: nghề nghiệp, địa điểm đã từng cư trú tại nước sở tại...;
+ Đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam xác minh địa chỉ và gửi kết quả cho Tòa án thông qua hộp thư điện tử của Tòa án.
+ Thông tin liên hệ của Tòa án: số điện thoại, hộp thư điện tử, địa chỉ của Tòa án.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ có thông tin về đương sự như: hộ chiếu, thẻ căn cước, chứng minh thư nhân dân, bằng lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...
5.3. Tòa án gửi hồ sơ ủy thác tư pháp cho nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự cho Bộ Tư pháp theo đường công văn.
Tòa án gửi hồ sơ đề nghị Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài xác minh địa chỉ của đương sự theo đường bưu chính bằng thư bảo đảm có gắn số hiệu để định vị, theo dõi trong quá trình chuyển phát.
5.4. Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng nước ngoài và chi phí thực tế do nước ngoài thu để xác minh địa chỉ đương sự (nếu có).
5.5. Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài phải chịu chi phí bưu chính gửi hồ sơ của Tòa án cho Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Trên đây là ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao đối với việc xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp Tòa án muốn trao đổi nghiệp vụ tống đạt, ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Tòa án gửi văn bản về Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế, 48 Lý Thường Kiệt, Hà Nội) hoặc có thể liên hệ trực tiếp đồng chí Lê Mạnh Hùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Hợp tác quốc tế. Tòa án nhân dân tối cao thông qua hộp thư điện tử: hunglm@toaan.gov.vn: điện thoại: 0976437814./.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Du Nơi nhận: - Như trên; - Đ/c Chánh án TANDTC (để b/c); - Các đ/c PCA TANDTC (để p/h); - Các đ/c Thẩm phán TANDTC (để biết); - Trang thông tin Tương trợ tư pháp, Cổng thông tin điện tử TANDTC (để đăng); - Trang thông tin điện tử của các TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao (để đăng); - Tạp chí TAND điện tử (đã đăng);
- Vụ I, II, III TANDTC (để biết); - Lưu VT, PLQT, Vụ HTQT (TANDTC).
PHỤ LỤC
THÔNG TIN VỀ VIỆC XÁC MINH ĐỊA CHỈ CỦA ĐƯƠNG SỰ Ở NƯỚC NGOÀI (Ban hành kèm theo Công văn số 114/TANDTC-HTQT ngày 17 tháng 9 năm 2021)
STT
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
NƯỚC/VÙNG LÃNH THỔ
QUY ĐỊNH/ THÔNG TIN VỀ YÊU CẦU XÁC MINH ĐỊA CHỈ CỦA ĐƯƠNG SỰ
Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
1. Hung-ga-ri
Cơ sở pháp lý: Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự giữa CHXHCN Việt Nam và Hung-ga-ri năm 2018.
(Hungary)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư Pháp, Bộ Ngoại giao, Tòa án nhân dân tối cao (Thông tư liên tịch số 12/2016);
Khoản 2 Điều 13 Hiệp định quy định yêu cầu xác minh địa chỉ thuộc phạm vi yêu cầu thu thập chứng cứ:
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5. Văn bản này phải dịch ra tiếng Hung-ga-ri có chứng thực chữ ký của người dịch.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
“...2. Tùy thuộc quy định pháp luật và điều kiện thực tiễn tại Bên ký kết được yêu cầu, yêu cầu thu thập chứng cứ bao gồm việc xác định địa chỉ của một người, cư trú trên lãnh thổ của một trong các Bên ký kết, bị người có nơi thường trú hoặc nơi cư trú trong lãnh thổ của Bên ký kết kia kiện về một trong những vấn đề thuộc phạm vi khoản 2 Điều 1, và xác định nơi làm việc và thu nhập của người được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Để tạo điều kiện thực hiện các yêu cầu này, Bên ký kết yêu cầu phải thông báo tất cả các thông tin có sẵn trong vụ việc”.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Hung-ga-ri.
Chi phí thanh toán cho Hung-ga-ri: Miễn phí.
Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
2. LB Nga
Cơ sở pháp lý: Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang Nga năm 1998.
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch 12/2016;
(Russian Federation)
Khoản 1 Điều 14 Hiệp định quy định yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự là một yêu cầu tương trợ tư pháp riêng biệt:
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô YÊU CẦU KHÁC tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Nga hoặc tiếng Anh.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
“1. Theo yêu cầu, Cơ quan tư pháp của các bên ký kết sẽ hỗ trợ cho nhau trong việc xác minh địa chỉ của những người có mặt trên lãnh thổ nước mình, trong khuôn khổ thực hiện tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự.
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Nga hoặc tiếng Anh.
Chi phí thanh toán cho LB Nga: Miễn phí.
3. Bê-la-rút
Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
(Belarus)
Cơ sở pháp lý: Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hòa Bê-la-rút năm 2000.
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Khoản 1 Điều 17 Hiệp định quy định yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự là một yêu cầu tương trợ tư pháp riêng biệt:
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô YÊU CẦU KHÁC tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ Văn bản này phải dịch ra tiếng Nga hoặc tiếng Bê-la-rút.
“1. Tòa án và Viện Kiểm sát của các Bên ký kết sẽ hỗ trợ cho nhau trong việc xác minh địa chỉ của những người có mặt trên lãnh thổ của nước mình.”
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQ1114 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lộ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Nga hoặc tiếng Bê-la-rút.
Chi phí thanh toán cho Bê-la-rút: Miễn phí.
Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
4. Trung Quốc
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 29/6/2020)
(China)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn
Quy định/Thông tin: Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Trung Quốc không quy định về thực hiện các yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự. Tuy nhiên, qua trao đổi với đại diện Bộ Tư pháp Trung Quốc - Cơ quan Trung ương trong việc thực thi Hiệp định và Công ước Thu thập chứng cứ, được
bản này phải dịch ra tiếng Trung Quốc.
biết các yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự được xem là yêu cầu thu thập chứng cứ theo quy định của Công ước thu thập chứng cứ.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Trung Quốc.
Chi phí thanh toán cho Trung Quốc: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
5. Ba Lan
Cơ sở pháp lý: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt nam và nước CH Ba Lan năm 1993.
(Poland)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô YÊU CẦU KHÁC tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Ba Lan hoặc tiếng Nga hoặc tiếng Pháp.
Hiệp định tương trợ tư pháp không quy định cụ thể về yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự. Qua trao đổi với đại diện Bộ Tư pháp Ba Lan - Cơ quan Trung ương trong việc thực thi Hiệp định, yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự là một yêu cầu tương trợ tư pháp riêng biệt.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQ1114 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên kết quả thực hiện yêu cầu sẽ hạn chế do pháp luật Ba Lan chỉ yêu cầu tòa án chủ động xác minh địa chỉ trong các vụ việc về cấp dưỡng, xác định quan hệ cha con và vụ việc tương tự.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Ba Lan hoặc tiếng Nga hoặc tiếng Pháp.
Chi phí thanh toán cho Ba Lan: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự.
Đương sự có thể tự xác minh địa chỉ đương sự đang cư trú ở Ba Lan bằng cách truy cập vào các hệ thống thông tin có sẵn (một số trường
hợp sẽ phải trả phí), như:
- Powzechny Elektroniczny System Ewidencji Ludności (Hệ thống điện tử phổ quát để đăng ký dân cư; viết tắt: PESEL)- thông tin cơ bản về cá nhân đang cư trú tại Ba Lan;
- Krajowy Rejestr Sądowy (Sổ đăng ký tòa án quốc gia; viết tắt: KRS)- thông tin đăng ký công ty;
- Centralna Ewidencja i Informacja o Dzialalności Gospodarczej (Trung tâm đăng ký và thông tin về kinh doanh; viết tắt: CEIDG)- thông tin về cá nhân kinh doanh. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
6. Séc và Xlô-va-
ki-a
Cơ sở pháp lý: Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và CHXHCN Tiệp Khắc (Séc và Xlô-va-ki-a kế thừa).
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
(Czech and Slovakia)
Quy định/Thông tin: Điều 11 Hiệp định quy định yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự là yêu cầu tương trợ tư pháp độc lập:
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô YÊU CẦU KHÁC tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Séc hoặc tiếng Nga nếu yêu cầu nước Séc xác minh hoặc tiếng Xlô-va-kia hoặc tiếng Nga nếu yêu cầu nước Xlô-va-ki-a xác minh.
“Các cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết sẽ giúp nhau tìm địa chỉ của những người đang trên lãnh thổ nước mình, khi việc này cần thiết để công dân nước kia đòi thực hiện quyền lợi”.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đương sự có thể tìm kiếm địa chỉ của công ty hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh tại Séc tại trang thông tin điện tử:
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
https://www.czso.cz/csu/res/business_register.
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Séc hoặc tiếng Nga hoặc tiếng Xlô-va-ki-a hoặc tiếng Nga.
- Không lập cùng hồ sơ để yêu cầu cả hai nước Séc và Xlô-va-ki-a xác minh địa chỉ.
Nếu muốn hai nước Séc và Xlô-va-ki-a xác minh địa chỉ thì phải lập thành từng hồ sơ riêng biệt.
Chi phí thanh toán cho Séc hoặc Xlô-va-ki-a: Miễn phí.
Tòa án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
7. Đài Loan
Cơ sở pháp lý: Thỏa thuận giữa Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Việt nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự năm 2010
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn
Thỏa thuận tương trợ tư pháp không quy định cụ thể về việc xác định địa chỉ của đương sự. Tuy nhiên, qua trao đổi với đại diện Bộ Tư pháp Lãnh thổ Đài Loan - Cơ quan Trung ương trong việc thực thi Thỏa
bản này phải dịch ra tiếng Trung Quốc hoặc tiếng Anh.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
thuận tương trợ tư pháp, được biết: Đài Loan xác định yêu cầu xác minh địa chỉ đương sự là một yêu cầu thu thập chứng cứ riêng. Trong đó, cần cung cấp chính xác tên của người có liên quan và ít nhất là tên thành phố đương sự cư trú để cơ quan có thẩm quyền của Đài Loan tìm kiếm, xác minh.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Trung Quốc hoặc tiếng Anh.
Chi phí thanh toán cho Đài Loan: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
8. Nhật Bản
(Japan)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Quy định/Thông tin: Qua trao đổi với Bộ Ngoại giao Nhật Bản - Cơ quan Trung ương thực thi Công ước Tống đạt, được biết: Việc tìm kiếm hoặc xác minh địa chỉ được coi là yêu cầu thu thập chứng cứ ở Nhật Bản và phải do Tòa án Việt Nam có yêu cầu.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Nhật.
Trong trường hợp tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự, cần cung cấp tên và địa chỉ liên lạc (ít nhất cần cung cấp được tên phường hoặc quận ở Nhật Bản - nơi đương sự có thể cư trú).
Chi phí thực tế: Chi phí sẽ thông báo kèm theo kết quả.
- 02 bản chụp Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- 02 bản chụp Biên lai nộp tạm ứng ba triệu đồng (3.000.000 đồng) chi phí thực tế ủy thác tư pháp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 12/2016.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án dưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Nhật Bản và chi phí ủy thác tư pháp tìm kiếm địa chỉ của đương sự theo thông báo của Nhật Bản. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Bồ Đào Nha từ
9. Bồ Đào Nha (Portugal)
09/11/2020), Công ước Tống đạt.
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Tại Bồ Đào Nha, yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự là cá nhân có thể được thực hiện theo Công ước Thu thập chứng cứ nhưng phụ thuộc vào quyết định của Tòa án.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Bồ Đào Nha.
Đối với pháp nhân có thể sử dụng nhiều cách khác nhau để tìm kiếm địa chỉ như: tìm kiếm số VAT trên internet.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
Nếu có một địa chỉ cụ thể của đương sự, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu tống đạt giấy tờ theo Công ước Tống đạt. Trong quá trình thực hiện tống đạt, nếu tìm thấy địa chỉ mới của đương sự, cơ quan có thẩm quyền của Bồ Đào Nha sẽ tống đạt theo địa chỉ mới.
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Bồ Đào Nha.
Chi phí thanh toán cho Bồ Đào Nha: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
10. Cô-lôm-bi-a
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Cô-lôm-bi-a từ 10/4/2021).
(Colombia)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Quy định/thông tin: Tại Cô-lôm-bi-a, yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự là yêu cầu thu thập chứng cứ theo Công ước Thu thập chúng cứ.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Điều kiện: Cơ quan yêu cầu xác định địa chỉ phải cung cấp họ và tên, số chứng minh thư/hộ chiếu (10) và địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của đương sự (nếu có thể).
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.
Chi phí thanh toán cho Cô-lum-bi-a: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
11. Bra-xin
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Bra-xin từ 16/11/2020).
(Brasil)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Tại Bra-xin, yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự là yêu cầu thu thập chứng cứ theo Công ước Thu thập chứng cứ.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Bồ Đào Nha.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án dưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Bồ Đào Nha.
Chi phí thanh toán cho Bra-xin: Miễn phí.
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự.
12. Thụy Điển (Sweden)
Quy định/thông tin: Yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ đương sự tại Thụy Điển là yêu cầu tương trợ tư pháp độc lập, không thuộc phạm vi Công ước thu thập chứng cứ.
Tòa án lập 01 văn bản theo Mẫu số 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016 gửi Bộ Tư pháp. Trong đó, Tòa án đề nghị Bộ Tư pháp hỗ trợ liên hệ với Bộ Tư pháp Thụy Điển để xác minh địa chỉ của đương sự (ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh của đương sự).
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không cần gửi yêu cầu tương trợ tư pháp mà chỉ cần gửi thư điện tử cho Bộ Tư pháp Thụy Điển, cung cấp họ và tên đầy đủ, ngày tháng năm sinh của cá nhân hoặc tên của pháp nhân, cơ quan có thẩm quyền của Thụy Điển sẽ giúp xác định địa chỉ.
Chi phí thanh toán cho Thụy Điển: Miễn phí.
13. Hà Lan
Toà án không được yêu cầu đương sự nộp lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài và tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp về dân sự. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Hà Lan từ 15/02/2021).
(Netherlands)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Quy định/thông tin: Tại Hà Lan, yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự có thể được xem xét, giải quyết như một yêu cầu thu thập chứng cứ theo Công ước Thu thập chứng cứ.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12/2016. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Hà Lan hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Đức
hoặc tiếng Pháp.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Hà Lan hoặc tiếng Anh hoặc tiếng Đức hoặc tiếng Pháp. Hồ sơ ủy thác tư pháp bao gồm:
Cơ sở pháp lý: Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Hàn Quốc từ 17/4/2021).
14. Hàn Quốc (Korea)
- 01 Văn bản yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự gửi Bộ Tư pháp theo Mẫu 01 tại Thông tư liên tịch số 12/2016;
Theo pháp luật Hàn Quốc, yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự được coi là yêu cầu thu thập chứng cứ theo Công ước Thu thập chứng cứ.
- 03 Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự theo Mẫu 02A tại Thông tư liên tịch số 12. Trong đó, đánh dấu vào ô THU THẬP CHỨNG CỨ tại Mục 5 và ghi rõ là XÁC MINH ĐỊA CHỈ. Văn bản này phải dịch ra tiếng Hàn Quốc hoặc tiếng Anh.
Điều kiện: phải cung cấp được họ tên và số đăng ký cư trú của đương sự cần tìm kiếm địa chỉ tại Hàn Quốc.
- 01 Biên lai thu lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài (200.000 đồng) theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Bản chụp tài liệu, giấy tờ như: hộ chiếu nước ngoài, thẻ căn cước công dân nước ngoài; giấy phép lái xe, thẻ thường trú, thẻ tạm trú...do nước ngoài hoặc Việt Nam cấp (nếu có).
LƯU Ý:
Người yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự ở nước ngoài, đương sự đề nghị Tòa án đưa đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có ý kiến hoặc cung cấp giấy tờ, tài liệu thể hiện vụ việc dân sự có liên quan đến quyền lợi của đương sự ở nước ngoài phải nộp lệ phí ủy thác tư pháp dân sự ra nước ngoài, chịu chi phí dịch và chứng thực chữ ký của người dịch văn bản ủy thác tư pháp ra tiếng Hàn Quốc hoặc tiếng Anh.
Chi phí thanh toán cho Hàn Quốc: Miễn phí.
Cơ sở pháp lý: Công ước Tống đạt.
15. Phần Lan (Finland)
Tòa án cần liên hệ trước với Bộ Tư pháp để trao đổi với Cơ quan có thẩm quyền của Phần Lan trước khi lập hồ sơ ủy thác tư pháp tống đạt giấy tờ.
Điều kiện tối thiểu phải có để xác định địa chỉ:
Họ tên, ngày tháng năm sinh của cá nhân hoặc mã số doanh nghiệp của doanh nghiệp cần tìm kiếm địa chỉ.
Yêu cầu tìm kiếm, xác minh địa chỉ đương sự không thuộc phạm phạm vi Công ước Thu thập chứng cứ (có hiệu lực giữa Việt Nam và Phần Lan từ 25/6/2021) nhưng cơ quan có thẩm quyền Phần Lan hỗ trợ tìm kiếm địa chỉ khi thực hiện yêu cầu tống đạt giấy tờ theo Công ước tống đạt. Cụ thể, khi không có thông tin về địa chỉ của đương sự, cơ quan có thẩm quyền vẫn gửi yêu cầu tống đạt giấy tờ theo Công ước tống đạt tới Phần Lan kèm theo thông tin họ và tên đầy đủ, ngày tháng năm sinh của đương sự, cơ
LƯU Ý:
quan có thẩm quyền Phần Lan sẽ hỗ trợ tìm kiếm địa chỉ đương sự trong cơ sở dữ liệu dân cư. Đối với doanh nghiệp, việc tìm kiếm địa chỉ tương tự đối với cá nhân nhưng cần có mã số doanh nghiệp.
Ngoài ra, đương sự có thể tìm kiếm thông tin trên hệ thống đăng ký doanh nghiệp và thuế của Phần Lan theo địa chỉ trang thông tin điện tử: https://www.ytj.fi/en/index.html.
16. Pháp
Không có cơ sở pháp lý để yêu cầu ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của Pháp xác minh địa chỉ của đương sự ở Pháp.
(Trance)
Theo quy định của Pháp, Thừa phát lại có thẩm quyền xác định địa chỉ của đương sự ở nước này. Do đó, người yêu cầu xác minh địa chỉ có thể liên hệ với Thừa phát lại nơi được cho là đương sự có địa chỉ để thực hiện việc tìm kiếm địa chỉ.
Quy định/Thông tin: Qua rà soát Hiệp định Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp năm 1999 và trao đổi với đại diện Bộ Tư pháp Pháp - Cơ quan Trung ương trong việc thực thi Hiệp định TTTP, yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự không có quy định trong Hiệp định và không thuộc thẩm quyền thực hiện thu thập chứng cứ của Toà án Pháp.
17. Bun-ga-ri
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại Bun-ga-ri.
(Bulgaria)
Quy định/Thông tin: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Bun-ga-ri năm 1986 không quy định cụ thể về việc xác định địa chỉ của đương sự.
Nếu cần tìm kiếm địa chỉ của một công ty hoặc pháp nhân phi lợi nhuận, đương sự có thể tìm kiếm trên sổ đăng ký thương mại Bun-ga- ri và đăng ký pháp nhân phi lợi nhuận bằng cách truy cập trang:
https://portal.registryagency.bg/en/commercial-register.
Cơ sở pháp lý: Công ước Tống đạt.
18. Hoa Kỳ
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại Hoa Kỳ.
(United States of America)
Đương sự có thể liên hệ trực tiếp với Công ty ABC Legal để yêu cầu dịch vụ tìm kiếm địa chỉ.
Thông tin liên hệ: ABC Legal Services
Hoa Kỳ coi yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự tại Hoa Kỳ là yêu cầu thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ (Bộ Tư pháp Hoa Kỳ) không thể thực hiện yêu cầu này do không có hệ thống đăng ký quản lý tập trung với người cư trú. Các đương sự và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có quyền thuê các công ty tư nhân cung cấp dịch vụ tìm kiếm địa chỉ (skip tracing).
Địa chỉ: 633 Yesler Way
Seattle, WA 98104
United States of America.
Số điện thoại:
+1(206) 521-9000
Công ty ABC Legal - công ty được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ giao thực hiện các hồ sơ tống đạt giấy tờ đến Hoa Kỳ theo Công ước Tống đạt cũng cung cấp dịch vụ tìm kiếm địa chỉ của đương sự ở Hoa Kỳ nếu tòa án nước ngoài hoặc luật sư trong vụ việc yêu cầu với mức giá 85 đô la Mỹ/yêu cầu. Các thông tin cần thiết để có thể tìm kiếm được địa chỉ là họ tên, ngày tháng năm sinh, số hộ chiếu, số an sinh xã hội, thông tin về địa chỉ cuối cùng của người này tại Hoa Kỳ...
Email: internationalinfo@abclegaI.com
Quy định/Thông tin:
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại CHLB Đức.
19. CHLB Đức (Germany)
Đương sự có thể truy cập một số trang sau đây để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Đức cấp trích lục đăng ký đơn giản:
1. Bang Baden-Württemberg
https://www.service-bw.de/leistung/-/sbw/Melderegister
2. Bang Bayern
htlps://www.freistaat.bayern/suche/leistung
3. Bang Berlin
Theo thông tin của Đức cung cấp tại trang của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế, phần về Công ước tống đạt, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có thể tham khảo phần trả lời tại trang EUROPEAN- JUSTICE https://e- justice.europa.eu/content_service_of_documents - 371-de-en.do?init=true&member=1#tocHeader3 về việc xác định địa chỉ của cá nhân như sau: Theo pháp luật của Đức, việc xác định địa chỉ của một cá nhân hay một doanh nghiệp không phải là hoạt động tư pháp. Theo Mục 44 của Đạo luật Đăng ký Công dân Liên bang Đức (Bundesmeldegesetz - BMG), cá nhân nước ngoài có quyền thu thập thông tin nhất định về một người cụ thể từ các cơ quan đăng ký của Đức mà không cần nêu lý do yêu cầu. Tài liệu này được gọi là Trích lục đăng ký đơn giản (Einfache Melderegisterauskunft).
https://service.berlin.de/dienstleistune/120732/
Trích lục đăng ký đơn giản bao gồm các thông tin sau đây:
4. Bang Brandenburg
https://www.stadt-
Họ tên, tên thường dùng, địa chỉ hiện tại. Nếu người đó đã chết, thì có thông tin chính thức có hiệu lực về việc này (giấy chứng tử/xác nhận là đã chết đang có hiệu lực).
brandenburg.de/dienstleistungen/melderegister-auskunft
5. Bang Bremen
https://www.service.bremen.de/dienstleistungen/melderegistera uskunft-beantragen-8365?asl=bremen128.c.9886.de
6. Bang Humburg
https://serviceportal.hambure.de/HamburgGateway
Yêu cầu xác định địa chỉ và thông tin hộ tịch cơ bản phải được gửi đến cơ quan đăng ký có thẩm quyền. Theo quy định, đây số là văn phòng hành chính dành cho công dân (Bürgeramt) ở đô thị, thị trấn hoặc thành phố nơi người đó được cho là cư trú. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả phí. Mức phí khác nhau theo từng bang tại Đức. Bản trích lục đăng ký đơn giản chỉ có thể được cung cấp nếu người đang được tìm kiếm có thể được xác định chính xác từ các thông tin chi tiết do người yêu cầu xác định địa chỉ cung cấp. Ngoài ra, yêu cầu thông tin phải tuyên bố rằng họ sẽ không sử dụng dữ liệu cho các mục đích giao dịch quảng cáo hoặc thương mại.
7. Bang Hessen
https://verwaltungsportal.hessen.de/
Bản trích lục sổ đăng ký không được cấp theo Mục 51 hoặc Mục 52 của Đạo luật Đăng ký Công dân Liên bang.
8. Bang Mecklenburg-Vorpommern
https://www.schoenberger-land.de/
9. Bang Niedersachsen
https://service.niedersachsen.de/detail?areald=8663442&pstld= 8664208
Trường hợp bên yêu cầu cung cấp được lý do cụ thể như cần các thông tin cho vụ việc về dân sự hoặc thương mại thì có thể yêu cầu cơ quan nêu trên cung cấp thông tin hộ tịch mở rộng (bao gồm cả họ tên trước đây, ngày tháng năm sinh, tình trạng hôn nhân, quốc tịch hiện nay, địa chỉ trước đây, ngày đến và ngày đi khỏi địa chỉ, tên và địa chỉ của người đại diện theo pháp luật, tên và địa chỉ của vợ/chồng; ngày và nơi chết). Việc cung cấp các thông tin này cũng phải trả phí.
10. Bang Nordrhein-Westfalen
https://www.wuppertal.de/vv/produkte/003/Melderemsterausku nft.php?
11. Bang Rheinland-Pfalz
Việc cung cấp các thông tin này sẽ được thông báo cho người liên quan đến thông tin hộ tịch, kể cả nội dung về người yêu cầu cung cấp thông tin, trừ khi người yêu cầu chứng minh được lý do chính đáng của việc không thông báo, chẳng hạn như vì lý do khởi kiện.
https://bus.rlp.de/detail?pstId= 196318871
12. Bang Saarland
https://www.meldeportal-saar.de/Login/hauptmenu.do
13. Bang Sachsen
https://amt24.sachsen.de/leistung/-/sbw/Melderegister+einfache
14. Bang Sachsen-Anhalt
https://buerger.sachsen- anhalt.de/detail?areald=300871 &pstId=380239072
15. Bang Schleswig-Holstein
https://serviceportal.schleswig-holstein.de
16. Bang Thüringen
https://www.erfurt.de/ef/de/rathaus/bservice/leistungen/leistung- 1725.htmc
20. Ô-xtrây-li-a
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự tại Ô-xtrây-li-a.
(Australia)
Quy định/Thông tin: Qua trao đổi với đại diện Bộ Tổng chưởng lý - Cơ quan Trung ương trong việc thực thi Công ước Tống đạt, Bộ Tư pháp được cung cấp thông tin như sau:
Nếu cần xác minh địa chỉ của đương sự tại Ô-xtrây-li-a, đương sự có thể tìm kiếm trên các cơ sở dữ liệu điện tử công khai, như:
Danh bạ điện thoại trực tuyến tại trang:
Các cơ quan có thẩm quyền của Ô-xtrây-li-a không hỗ trợ xác minh địa chỉ của đương sự. Pháp luật liên quan đến quyền riêng tư của Ô- xtrây-li-a quy định cấm việc tiết lộ thông tin cá nhân mà không có sự đồng ý của người đó.
www.whitepages.com.au
Danh sách cử tri tại trang:
www.aec.gov.au/EnrolIing_to_vote/About_Electoral_Roll/
hoặc có thể sử dụng dịch vụ của các công ty tư nhân ở nước Ô- xtrây- li-a để hỗ trợ tìm kiếm đương sự. Đương sự cũng có thể sử dụng các trang tìm kiếm địa chỉ như: PERSON LOOKUP tại trang: https://personlookup.com.au; hoặc trang REVERSE AUSTRALIA: https://www.reverseaustralia.com.
Quy định/Thông tin:
21. Ca-na-da
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự tại bang British Columbia, Ca-na-đa.
(Bang British Columbia)
Qua trao đổi với đại diện Cơ quan Trung ương bang British Columbia, Ca-na-da trong thực thi Công ước Tống đạt, Bộ Tư pháp nhận được thông tin: Cơ quan có thẩm quyền của Bang British Columbia không cung cấp dịch vụ tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự.
Đương sự có thể sử dụng dịch vụ tìm kiếm (skip trace/trace and locate) của các công ty tư nhân cung cấp dịch vụ tìm kiếm tại bang British Columbia, Ca-na-da. Đối với các bang khác của Ca na đa, đương sự có thể sử dụng trang tra cứu điện thoại: https://www.phonepages.ca/; hoặc https://www.yellowpages.ca/
Hoặc trang tìm kiếm địa chỉ: canada411.ca có tại trang
https://www.canada411.ca/help.html?key=starting
Quy định/Thông tin:
22. Liên hiệp
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len.
Vương quốc Anh và Bắc Ai- len (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland)
Đương sự có thể tìm kiếm địa chỉ của cá nhân tại Vương quốc Anh và Bắc Ai-len thông qua một số cơ sở dữ liệu như: Tìm kiếm số điện thoại: có tại trang British Telecommunications; tìm kiếm địa chỉ có tại trang: 192, UKRoll hoặc tìm kiếm người có tại trang: Tracesmart.
Qua trao đổi với đại diện Tòa án hoàng gia Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len - Cơ quan Trung ương của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len ương thực thi Công ước Tống đạt, được biết: Cơ quan tư pháp có thẩm quyền không hỗ trợ thực hiện xác minh, tìm kiếm địa chỉ của đương sự vì nằm ngoài chức năng của cơ quan tư pháp.
Đương sự cũng có thể tìm kiếm địa chỉ đã đăng ký của một công ty tại trang Companies House.
23. Xinh-ga-po
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại Xinh-ga-po.
(Singapore)
Quy định/Thông tin: Xinh-ga-po cho rằng tìm kiếm và xác minh địa chỉ của đương sự không được coi là yêu cầu thu thập chứng cứ. Việc cung cấp địa chỉ của đương sự cho Tòa án là trách nhiệm của các bên. Vì vậy, Cơ quan có thẩm quyền của Xinh-ga-po không hỗ trợ tìm kiếm, xác minh địa chỉ của đương sự cho nước ngoài.
Có một số cơ sở dữ liệu tìm kiếm trên mạng internet có thể tìm thấy hồ sơ thông tin về các cá nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại Xinh-ga-po để xác định địa chỉ đương sự như: www.bizfile.gov.sg hoặc www.questnet.sg và phải trả phí. Thông tin tối thiểu cần có để xác định địa chỉ gồm họ và tên đầy đủ, số chứng minh thư/hộ chiếu đối với cá nhân (ID) hoặc số đăng ký của công ty.
24. Bỉ (Belgium) Theo thông tin có tại trang European-Justice
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại nước Bỉ.
https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì tại nước Bỉ, công việc tống đạt giấy tờ do Thừa phát lại thực hiện. Do đó, trong quá trình tiến hành tống đạt. Thừa phát
lại số tiến hành xác định địa chỉ đúng của người được yêu cầu tống đạt nếu người đó không còn cư trú tại địa chỉ mà nước yêu cầu tống đạt cung cấp. Việc xác định địa chỉ của đương sự không phải là hoạt động thu thập chứng cứ nên không có cơ sở để ủy thác tư pháp xác định địa chỉ đương sự ở Bỉ.
25. Ai-len
Không có cơ sở pháp lý để ủy thác tư pháp xác minh địa chỉ của đương sự đang cư trú tại nước Ai-len.
(Ireland)
Theo thông tin có tại trang European-Justice httns://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì tại nước Ai- len không có trung tâm đăng ký địa chỉ dân cư. Nếu muốn tìm kiếm địa chỉ các công ty, thì người tìm kiếm sử dụng các trang thông tin đăng ký văn phòng công ty có sẵn trên mạng Internet. Nước yêu cầu tống đạt tài liệu bắt buộc phải cung cấp địa chỉ người nhận. Nước này không có trung tâm đăng ký dân cư nên không hỗ trợ tìm kiếm địa chỉ của người nhận tài liệu. Do đó, không có cơ sở ủy thác tư pháp để xác định địa chỉ của đương sự ở nước này.
26. Tây Ban Nha (Spain)
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài.
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì Tòa án Tây Ban Nha có thể hỗ trợ với điều kiện phải cung cấp được mã số thuế hoặc số chứng minh thư, thẻ căn cước hoặc số chứng minh thư dành cho người nước ngoài cư trú tại nước này. Nếu không có thông tin nêu trên, thì phải cung cấp được số hộ chiếu, ngày tháng năm sinh của đương sự.
27. Crô-a-ti-a
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài.
(Croatia)
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.curopa.eu/371/EN/ thì đối với yêu cầu tống đạt có địa chỉ người nhận nhưng người nhận không còn cư trú tại địa chỉ đó, thì Tòa án sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ mới của người cần được tống đạt.
Đương sự có thể tìm kiếm địa chỉ của công ty ở nước Crô-a-ti-a tại trang:
https://sudreg.pravosudje.hr/registar/f?p=150:1
28. Sip (Cyprus) Theo thông tin có tại trang European-Justicc
Không có cơ sở pháp lý để yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự tại Síp.
https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì đối với yêu cầu tống đạt có địa chỉ người nhận nhưng người nhận không còn cư trú tại địa chỉ đó, thì Thừa phát lại không thực hiện việc tìm kiếm địa chỉ mới của đương sự. Trong trường hợp này, việc tống đạt sẽ được thông báo là không thực hiện được.
Hiện nay, còn có ý kiến khác nhau về việc xác định yêu cầu xác minh địa chỉ có được coi là yêu cầu thu thập chứng cứ hay không.
29. Lít va
Không có cơ sở pháp lý để yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự tại Lít va.
(Lithuania)
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì đối với yêu cầu tống đạt có địa chỉ người nhận nhưng người nhận không còn cư trú tại địa chỉ đó, thì Tòa án hoặc Thừa phát lại sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ mới của người cần được tống đạt.
30. Ru-ma-ni
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở nước Ru-ma-ni.
(Romania)
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì Tòa án Ru- ma-ni có thể chấp nhận yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự ở nước này.
Đương sự cũng có thể yêu cầu Văn phòng đăng ký thương mại quốc gia cung cấp địa chỉ văn phòng đã đăng ký của một công ty tại trang https://portal.onrc.ro/ONRCPortalWeb/ONRCPo rtal.portal
31. E-xtô-ni-a
Theo thông tin có tại trang Europcan-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì Tòa án nước
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở
nước E-xtô-ni-a.
(Estonia)
E-xtô-ni-a có thể chấp nhận yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự ở nước này.
Đương sự có thể tìm kiếm địa chỉ của công ty ở nước này thông qua trang đăng ký công ty Commercial Register có tại địa chỉ: https://ariregister.rik.ee/est#
32. Hy Lạp (Greece)
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở nước Hy Lạp.
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì Tòa án Hy Lạp có thể chấp nhận yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự ở nước này.
33. Lúc-xăm-bua
Liên hệ trước với Bộ Tư pháp (Vụ Pháp luật quốc tế) trước khi chấp nhận đề nghị của đương sự về việc xác định địa chỉ của đương sự ở nước Lúc-xăm-bua.
(Luxembourg)
Theo thông tin có tại trang European-Justice https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì Tòa án Lúc- xăm-bua có thể chấp nhận yêu cầu xác định địa chỉ của đương sự ở nước này. 34. Áo (Austria) Theo thông tin có tại trang European-Justice
Không có cơ sở pháp lý để yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự tại nước Áo.
https://e-justice.europa.eu/371/EN/ thì không có cơ sở pháp lý để yêu cầu xác minh địa chỉ của đương sự tại nước Áo.
Đương sự có thể liên hệ với Cơ quan đăng ký của Áo (Văn phòng thành phố, văn phòng quận) để yêu cầu thông tin đăng ký về nơi cư trú chính được đăng ký cho một cá nhân. Điều kiện tối thiểu để yêu cầu cung cấp thông tin: họ và tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, quốc tịch hoặc địa chỉ trước đây.
Phí yêu cầu cung cấp thông tin đăng ký bằng văn bản là 14,30 Euro và 3,30 Euro chi phí quản lý của liên bang.
Thông tin chi tiết có tại trang: www.help.gv.at
ở thư mục: Dokumente und Recht (tài liệu và thông tin pháp lý) và Personen-Meldeauskunft (thông tin cá nhân /đăng ký).
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------
Hà Nội, ngày 27 tháng 12 năm 2022
Số: 206/TANDTC-PC V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử
Kính gửi: - Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự; - Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 28/3/2022, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị trực tuyến giải đáp một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính và công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Trên cơ sở các vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong công tác xét xử như sau:
I. HÌNH SỰ
1. Người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” hay không?
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu”.
2. Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 234 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự thì:
“1. Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau:
a) Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành để trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
b) Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.
c) Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy.
3. Người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ Luật Hình sự hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự hay cả hai tội?
Trường hợp người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
II. TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử hay không?
Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội danh thì căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố.
2. Bị cáo là đồng phạm trong một vụ án. Trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng để bồi thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo theo hướng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bị cáo để lại trong phạm vi di sản hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đới thay cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa kế tài sản của bị cáo để giải quyết thành vụ án dân sự khác?
Trường hợp có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại, Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Trường hợp, không thể giải quyết trong cùng vụ án hình sự thì Tòa án buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự.
3. Trong cùng một vụ án hình sự có nhiều bị can, mỗi bị can bị truy tố theo các khoản khác nhau của cùng một điều luật hoặc bị truy tố theo các tội danh khác nhau. Vậy thời hạn tạm giam các bị can, bị cáo để chuẩn bị xét xử được tính theo thời hạn tạm giam của bị can, bị cáo có thời hạn tạm giam dài nhất hay tính theo thời hạn tạm giam của từng loại tội phạm tương ứng với từng bị can, bị cáo?
Vấn đề này, trước đây đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “xét xử sơ thẩm” Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Qua rà soát thấy rằng, nội dung hướng dẫn tại Nghị quyết này vẫn phù hợp với quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, trường hợp trong vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy tố.
4. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hơn về phần án phí, áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không đúng. Căn cứ vào quy định nào của pháp luật để Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa các nội dung này?
Mặc dù khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm về án phí, áp dụng tình tiết tăng nặng không đúng. Việc sửa 02 nội dung này nếu có lợi cho bị cáo thì Hội đồng xét xử có thể vận dụng quy định tại Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc thẩm để sửa 02 nội dung này của bản án sơ thẩm. Tuy nhiên tại phần quyết định của bản án cần căn cứ cả Điều 345 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
5. Khi Tòa án yêu cầu trích xuất bị can, bị cáo đang chấp hành hình phạt tù trong vụ án khác để phục vụ yêu cầu xét xử ngoài văn bản yêu cầu trích xuất, Tòa án có còn phải bổ sung Quyết định tạm giam đối với phạm nhân là bị can, bị cáo trong thời gian trích xuất không?
Trường hợp này, đã được hướng dẫn tại mục 3 phần II Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử: “Đối với bị can, bị cáo đang thi hành án hình phạt tù ở một vụ án trước thì không ra quyết định tạm giam mà chỉ ra quyết định trích xuất để phục vụ công tác xét xử vụ án. Vì không có căn cứ tạm giam theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự”. Mặt khác, Điều 9 của Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 17/6/2020 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trích xuất phạm nhân, học sinh đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử đã quy định chế độ giam giữ đối với trường hợp này, khi được trích xuất theo Lệnh/Quyết định trích xuất mà không phải Quyết định tạm giam.
6. Trong vụ án hình sự, bị cáo thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì có được miễn án phí hình sự không?
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc Chương quy định chung, do đó khi bị cáo thuộc một trong các trường hợp này thì cũng được miễn án phí hình sự.
7. Trong vụ án hình sự, tại phiên tòa lần đầu, bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị vắng mặt và đề nghị hoãn phiên tòa. Trường hợp này, Tòa án hoãn phiên tòa hay tiếp tục xét xử vụ án?
Đối với trường hợp vắng mặt bị hại thì Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự xem xét hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định việc vắng mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thì Tòa án xem xét hoãn phiên tòa. Do đó, trường hợp này, Tòa án vẫn mở phiên tòa theo quy định. Tuy nhiên, nếu việc vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại mà ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử có thể căn cứ vào Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự, hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không, nếu có yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
III. KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1. Trong vụ án kinh doanh thương mại, sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì người thế chấp tài sản (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) chết. Nguyên đơn và Tòa án không xác định được nơi cư trú của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án căn cứ điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, trường hợp không thể xác định được nơi cư trú của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng nêu trên thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng thì trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế của người đó tham gia tố tụng.
Trường hợp nguyên đơn và Tòa án không xác định được nơi cư trú của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án áp dụng điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đồng thời, Tòa án hướng dẫn nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú (theo quy định tại chương XXV Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích (theo quy định tại chương XXVI Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) đối với người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Sau khi có kết quả giải quyết việc tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc có quyết định tuyên bố một người mất tích đối với người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2. Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng có nguyên đơn là ngân hàng, Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng thế chấp tài sản mà ngân hàng đã thẩm định tài sản trước khi cho vay, để làm cơ sở giải quyết vụ án. Trường hợp sau khi ngân hàng thẩm định tài sản thế chấp mà có người thứ ba đang sử dụng tài sản này (đang sử dụng đất hoặc đang ở nhà trên đất) thì khi giải quyết vụ án, Tòa án có phải đưa những người này tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Trường hợp này, Tòa án phải xem xét việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người thứ ba này hay không, nếu có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ thì phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng, bên vay dùng tài sản là quyền sử dụng đất và nhà trên đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình làm tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, sau đó bên thứ ba đã tháo dỡ nhà cũ để xây dựng nhà mới trên đất. Bên thứ ba biết rõ quyền sử dụng đất và nhà cũ trên đất dùng được thế chấp cho ngân hàng nhưng không thông báo cho Ngân hàng và Ngân hàng cũng không biết việc bên thứ ba xây dựng nhà mới trên đất. Bên vay không trả nợ đúng hạn nên bị ngân hàng khởi kiện. Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án có cần phải định giá tài sản là căn nhà mới phát sinh trên đất hay không và giải quyết như thế nào đối với tài sản phát sinh này?
Căn nhà mới của bên thứ ba xây dựng trên đất là tài sản phát sinh sau khi bên vay đã thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp tài sản đã ký giữa bên vay và Ngân hàng, nên khi giải quyết vụ án Tòa án phải đưa bên thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án phải căn cứ vào nội dung thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thế chấp, yêu cầu của các bên đương sự để xem xét có định giá căn nhà mới này hay không. Nếu việc định giá tài sản này là cần thiết, kết quả định giá căn nhà mới này có giá trị sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa án cần tiến hành định giá tài sản này.
Nếu bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì theo yêu cầu của Ngân hàng, Tòa án tuyên phát mại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Quá trình thi hành án, bên thứ ba được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua tài sản gắn liền với đất nếu có nhu cầu[1]. Trường hợp bên thứ ba không nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và không mua tài sản gắn liền với đất thì sẽ được thanh toán giá trị tài sản của mình trên đất theo quy định của pháp luật.
4. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì các đương sự có quyền thỏa thuận mời một tổ chức định giá độc lập, sau khi định giá sẽ căn cứ vào giá ghi trong chứng thư định giá của tổ chức định giá để giải quyết. Tuy nhiên, trường hợp chỉ một trong các bên đương sự nhất trí mời tổ chức định giá, một hoặc các bên còn lại không nhất trí thì trường hợp này xử lý như thế nào?
Khoản 2 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“2. Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.
Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản ”.
Như vậy, theo quy định trên thì các đương sự trong vụ án có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án để giải quyết tranh chấp, việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản. Tuy nhiên, trường hợp chỉ một trong các bên nhất trí mời tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và các bên còn lại không nhất trí là trường hợp các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản. Do đó, Tòa án phải ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015[2] để làm căn cứ giải quyết vụ án.
5. Khi giải quyết các tranh chấp Hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng với bị đơn là hộ kinh doanh cá thể, trong đó chủ hộ kinh doanh là người trên 60 tuổi. Hộ kinh doanh cá thể vay tiền để thực hiện hoạt động kinh doanh có mục đích lợi nhuận. Vậy người trên 60 tuổi trong trường hợp này có được miễn án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không?
Theo khoản 1 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 quy định: “1. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.” Theo khoản 2 Điều 81 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 thì chủ hộ kinh doanh đại diện cho hộ kinh doanh với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án.
Trong trường hợp này, chủ hộ kinh doanh chỉ là người đại diện cho hộ kinh doanh tham gia tố tụng tại Tòa án, nên hộ kinh doanh là chủ thể phải nộp án phí chứ không phải là chủ hộ kinh doanh. Vì vậy, nếu chủ hộ kinh doanh là người trên 60 tuổi thì cũng không được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
IV. DÂN SỰ - TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Trong vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản, một người thuộc hàng thừa kế đã có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế, Tòa án cấp sơ thẩm đưa họ vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án đã giải quyết chia toàn bộ di sản thừa kế cho những đồng thừa kế khác (bao gồm cả ký phần thừa kế của người từ chối nhận di sản thừa kế). Sau khi xét xử sơ thẩm, người từ chối nhận di sản kháng cáo bản án với nội dung yêu cầu giải quyết được chia thừa kế theo pháp luật, xin được nhận kỷ phần thừa kế mà lẽ ra họ được hưởng. Trong trường hợp này, Tòa án có chấp nhận yêu cầu của họ về việc chia di sản thừa kế hay không?
Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”
Điểm c khoản 2 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau: “Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, trong trường hợp nêu trên thì tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét, quyết định:
- Trường hợp việc từ chối nhận di sản của người thừa kế là tự nguyện thì Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu của đương sự về việc chia thừa kế đối với kỷ phần mà họ đã từ chối nhận.
- Trường hợp có căn cứ về việc từ chối nhận di sản thừa kế của người thừa kế do bị lừa dối, ép buộc, đe dọa... thì Tòa án sẽ xem xét chấp nhận yêu cầu của đương sự.
2. Tòa án nhận được đơn khởi kiện của vợ/chồng người Việt Nam kết hôn tại Việt Nam nhưng đang định cư ở nước ngoài; một bên đương sự có yêu cầu giải quyết ly hôn nhưng đề nghị vắng mặt thì Tòa án giải quyết như thế nào? Tòa án có thể xác minh thu thập tài liệu chứng cứ vắng mặt đối với cả nguyên đơn và bị đơn định cư ở nước ngoài được không? Chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài như thế nào?
Theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng thì:
“1. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xét xử vắng mặt đương sự, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
b) Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người đại diện hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt”.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cho phép Tòa án tiến hành xét xử ngay cả khi tất cả người tham gia tố tụng vắng mặt nếu việc tống đạt văn bản tố tụng là hợp lệ và nguyên đơn, bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt. Do vậy, Tòa án có thể xem xét, giải quyết vụ án ly hôn vắng mặt các bên nếu vẫn bảo đảm việc tống đạt hợp lệ và nhận được phản hồi bằng văn bản hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật (ví dụ: giấy tờ, tài liệu gửi từ nước ngoài về cho Tòa án Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo đúng quy định...).
Về nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài và nghĩa vụ chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài đã được quy định tại Điều 152 và Điều 153 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-HTQT ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc ủy thác tư pháp, tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài.
3. Nguyên đơn là công dân Việt Nam kết hôn với bị đơn là người nước ngoài, có 01 con chung (việc kết hôn và đăng ký khai sinh cho con được thực hiện tại Việt Nam). Sau khi sinh con, cả gia đình sang nước A sinh sống. Sau đó, người vợ đưa con về Việt Nam sống từ năm 2015 đến nay. Nay người vợ khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn và con chung. Bị đơn cung cấp thông tin và tài liệu chứng minh đã có quyết định của Tòa án nước A công nhận cho bị đơn được nuôi dưỡng con chung; bị đơn chưa cung cấp được chứng cứ xác định đã được giải quyết về quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn và quan hệ con chung theo yêu cầu của nguyên đơn không?
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn là công dân Việt Nam, bị đơn là người nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam.
Tòa án nước A đã có bản án công nhận cho bị đơn được nuôi con chung nên Tòa án Việt Nam cần hướng dẫn đương sự làm thủ tục công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án nước A.
- Trường hợp đương sự có yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án nước A thì cần phân biệt:
Trường hợp Tòa án Việt Nam ra quyết định công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa án Việt Nam chỉ xem xét giải quyết yêu cầu ly hôn của nguyên đơn nếu yêu cầu ly hôn chưa được Tòa án nước A giải quyết.
Trường hợp Tòa án Việt Nam ra quyết định không công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa án Việt Nam xem xét giải quyết cả yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn nếu yêu cầu ly hôn chưa được Tòa án nước A giải quyết.
- Trường hợp đương sự không yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa án Việt Nam căn cứ điểm d khoản 1 Điều 472 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu nuôi con chung; Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn khi Tòa án nước A chưa giải quyết.
4. Trong vụ án yêu cầu chia thừa kế tài sản, Tòa án có thụ lý yêu cầu độc lập của ông A và xác định tư cách tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu đòi tài sản là 50m2 đất nằm trong diện tích đất yêu cầu chia thừa kế. Như vậy, Tòa án có giải quyết trong cùng vụ án hay phải tách ra giải quyết yêu cầu đòi tài sản trước sau đó mới có căn cứ chia thừa kế sau?
Điều 42 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.
Đối với vụ án có nhiều người có cùng yêu cầu khởi kiện đối với cùng một cá nhân hoặc cùng một cơ quan, tổ chức thì Tòa án có thể nhập các yêu cầu của họ để giải quyết trong cùng một vụ án.
2. Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật ”.
Quan hệ tranh chấp yêu cầu chia thừa kế tài sản và tranh chấp đòi quyền sử dụng đất là hai quan hệ pháp luật khác nhau nhưng có liên quan đến nhau trong cùng vụ án. Việc giải quyết quan hệ tranh chấp đòi tài sản là căn cứ để Tòa án xác định di sản thừa kế khi giải quyết yêu cầu chia thừa kế tài sản. Do vậy, để giải quyết chính xác, nhanh chóng và đúng pháp luật; trên cơ sở chứng cứ thu thập được và yêu cầu của đương sự thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án có thể giải quyết trong cùng một vụ án hoặc tách thành hai vụ án riêng biệt.
5. Trường hợp phiên tòa dân sự sơ thẩm đang diễn ra không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Quá trình xét xử, Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mới có đủ căn cứ giải quyết vụ án. Sau khi Tòa án tiến hành xác minh, thu thập và bổ sung chứng cứ thì vụ án thuộc trường hợp phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, cụ thể: “Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc...”. Trong trường hợp này, Tòa án phải thực hiện các thủ tục gì để đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa và phiên tòa có phải bắt đầu lại từ đầu không hay vẫn tiếp tục của phiên tòa đã tạm ngừng trước đó?
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi: “Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”.
Khoản 2 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”.
Trong trường hợp này, khi hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa và lý do để tạm ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa. Để đảm bảo chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của Viện kiểm sát thì khi tiếp tục tiến hành phiên tòa, Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa để gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày và Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn chấp nhận việc rút đơn khởi kiện. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nhưng cấp phúc thẩm thấy phần án phí của bản án sơ thẩm là sai. Vậy, tại Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cấp phúc thẩm có quyền sửa phần án phí sơ thẩm hay không ?
Điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm như sau:
“Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. ”
Như vậy, trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện án phí trong bản án sơ thẩm bị sai thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ tuyên án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm trong quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
V. HÀNH CHÍNH, TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1. Hộ gia đình ông A và hộ gia đình ông B có tranh chấp ranh giới thửa đất giữa hai gia đình. Quá trình giải quyết, Chủ tịch UBND quận C ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi lấn chiếm đất tranh chấp của ông A. Ông A khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND quận C đã cấp cho ông B và quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND quận C đối với ông A. Tòa án đã thụ lý thành hai vụ án khác nhau. Trong trường hợp này thì Tòa án có nhập hai vụ án thành một vụ án để giải quyết không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì:
“1. Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết bằng một vụ án hành chính khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ có một người khởi kiện đối với nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính đều do một cơ quan, tổ chức hoặc một người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành, thực hiện và có mối liên hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý riêng biệt có nhiều người khởi kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính:
b. Việc nhập hai hay nhiều vụ án hành chính thành một vụ án hành chính phải bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để và không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử. ”
Trong trường hợp này người khởi kiện khởi kiện 01 Quyết định của Ủy ban nhân dân quận C và 01 Quyết định của người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân quận C. Hai quyết định này có mối liên hệ mật thiết với nhau và do cùng một cơ quan, chỉ khác về thẩm quyền ban hành (Một quyết định của cơ quan và một quyết định của người đứng đầu cơ quan đó ban hành). Hai quyết định này đều liên quan đến diện tích đất mà các bên đang tranh chấp (một quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B bao gồm cả diện tích đất tranh chấp, một quyết định liên quan đến diện tích đất ông A lấn chiếm của ông B đã được Ủy ban nhân dân quận C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Do vậy, trong trường hợp này để việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để thì Tòa án có thể nhập vụ án để giải quyết.
2. Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là cán bộ của Ủy ban nhân dân xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai đã nhận hồ sơ đất nhưng trả lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là gì?
Tại đoạn 2 khoản 2 Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định: “... Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do Ủy ban nhân dân xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai.
Khoản 5 Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định:
“5. Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện như sau:
a) Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả giải quyết, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản này;
b) Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì việc trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định; trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính;
c) Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. ”
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã B. Việc bà N là cán bộ của Ủy ban nhân dân xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã B mà không phải là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã B.
3. Người khởi kiện khởi kiện quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không?
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
“a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. ”
Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
4. Khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không?
Khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.
Điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ...
e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.
Điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định:
“1. Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:...
g) Thời hiệu khởi kiện đã hết ”.
Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không.
5. Người chồng sử dụng xe ô tô khách của gia đình vận chuyển bao thuốc lá điếu nhập lậu, bị xử lý vi phạm hành chính và tịch thu toàn bộ chiếc xe; người chồng trình bày vận chuyển số hàng trên là để kiếm thu nhập cho gia đình. Người vợ (có đăng ký kết hôn) có yêu cầu được nhận 1/2 giá trị của chiếc xe, yêu cầu này có được chấp nhận hay không?
Điều 26 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 quy định: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức ”.
Điểm c khoản 11 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định:
“Tịch thu phương tiện vận tải được sử dụng để vận chuyển hàng cấm đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này trong trường hợp hàng cấm có số lượng, khối lượng, trị giá hoặc số thu lợi bất chính được quy định tại khoản 6, 7 và 8 Điều này hoặc trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm”
Khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”.
Khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”.
Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “... Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình”.
Theo các quy định nêu trên, nếu người chồng dùng xe ô tô vận chuyển số lượng bao thuốc lá nhập lậu tới mức phải bị tịch thu phương tiện vận chuyển theo quy định của pháp luật và nguồn lợi thu được là để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì người vợ không được quyền đòi lại 1/2 giá trị của chiếc xe ôtô.
6. Luật Tố tụng hành chính không quy định về thời hạn có hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vậy, khi nào thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hết hiệu lực thi hành?
Khoản 1 Điều 75 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay”.
Khoản 1, 2 Điều 74 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về các trường hợp thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ hết hiệu lực khi có quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 chưa có quy định cụ thể về trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện như thế nào; cho nên, trong trường hợp này có thể tham khảo quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2020/NQ- HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Bộ luật Tố tụng dân sự, cụ thể là sẽ do một
Thẩm phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công giải quyết.
7. Người được thi hành án gửi đơn yêu cầu thi hành án nhưng hết thời hạn yêu cầu ra quyết định buộc thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 312 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Trường hợp này Tòa án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án hay không?
Khoản 1 Điều 312 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 311 của Luật này mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn kèm theo bản sao bản án, quyết định của Tòa án, tài liệu khác có liên quan đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn yêu cầu thi hành án”.
Trường hợp người được thi hành án gửi đơn yêu cầu thi hành án sau thời hạn 01 năm thì Tòa án yêu cầu họ phải chứng minh do trở ngại khách quan (theo Khoản 13 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015) hoặc sự kiện bất khả kháng (theo Khoản 14 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015) dẫn đến việc nộp đơn yêu cầu thi hành án chậm hơn thời hạn luật định. Nếu họ chứng minh được việc đề nghị thi hành án quá hạn là do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn yêu cầu thi hành án.
Trường hợp họ không chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì Tòa án trả lại đơn yêu cầu.
VI. HÒA GIẢI, ĐỐI THOẠI TẠI TÒA ÁN
1. Trong vụ việc hôn nhân và gia đình các bên có yêu cầu hòa giải về quan hệ hôn nhân (hai hên không có con chung và không có tài sản chung). Hòa giải viên đã hòa giải thành (hai hên thuận tình ly hôn). Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành được lập theo quy định của pháp luật. Nhưng các bên không đề nghị Tòa án ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Vậy Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý không? Có được coi là hai hên đã ly hôn và chấm dứt quan hệ hôn nhân không?
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “14. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. ”
Khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật ”.
Khoản 1 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
“1. Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì “Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật”.
Theo các quy định trên đây thì biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành (thuận tình ly hôn) có giá trị pháp lý là cơ sở để Tòa án có thẩm quyền xem xét, ra quyết định thuận tình ly hôn (công nhận kết quả hòa giải thành). Trường hợp này, Hòa giải viên cần giải thích và hướng dẫn các bên yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật. Nếu các bên không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn thì về pháp lý, quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt.
2. Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính”. Điều 36 của Luật này quy định: “Quyết công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại theo đề nghị của các bên, người đại diện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến Quyết định của Tòa án, kiến nghị của Viện kiểm sát nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này. Thời hạn để các bên đề nghị và Viện kiểm sát kiến nghị là 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định”. Theo quy định này thì Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ký không? Hay sau thời gian quy định tại Điều 36 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án mới có hiệu lực pháp luật?
Theo quy định tại Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký. Đây cũng là đặc điểm đặc thù của hòa giải, đối thoại với kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu kiện là do sự thỏa thuận, thống nhất giữa các bên tranh chấp, khiếu kiện. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện công nhận quy định tại Điều 33 của Luật này.
3. Theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì “Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu”. Như vậy, người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có phải thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án hay không?
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành không quy định về nghĩa vụ nộp lệ phí đối với người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Do đó, người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án không phải nộp lệ phí đối với thủ tục xét công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
KT. CHÁNH ÁN PHÓ CHÁNH ÁN Nguyễn Văn Tiến
Nơi nhận: - Như kính gửi; - Chánh án TANDTC (để b/c); - Các Phó Chánh án TANDTC; - Các Thẩm phán TANDTC; - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - Ban Nội chính Trung ương; - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Văn phòng Chính phủ; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao: - Bộ Công an; - Bộ Quốc phòng; - Bộ Tư pháp; - Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải); - Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
[1] Áp dụng tương tự Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp.
[2] “Điều 104. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
…
3. Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
b) Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;
…”