
630
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Nguyễn Thị Hoa,
Trường Đại học Tài chính - Marketing
Trần Thị Hà38,
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính
Tóm tắt
Tác động của của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) được dự báo là sẽ
làm thay đổi mãnh mẽ, toàn diện các khía cạnh chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời tác động trực
tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc ứng dụng hiệu quả các thành tựu của
cuộc cách mạng sẽ cắt giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm qua đó
gia tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp. Bài viết tập trung đánh giá việc ứng dụng
CMCN 4.0 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số
khuyến nghị cho nhà nước và doanh nghiệp nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả trong việc
ứng dụng CMCN 4.0 vào hoạt động.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoa học và
công nghệ.
APPLICATION OF INDUSTRIAL REVOLUTION - THE KEY TO ENHANCE
COMPETITIVE ABILITY OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRIZES
Abstract
The impact of the 4th industrial revolution (Industrial revolution 4.0) is forecast to
drastically and comprehensively change key aspects of the economy, and directly impact the
operation of small and medium business. Effective application of the achievements of the
industrial revolution will reduce production costs, improve productivity and product quality
thereby increasing competitive advantages of enterprises. The paper focuses on assessing the
application of industrial revolution 4.0 in small and medium-sized enterprises (SMEs) in
Vietnam, at the same time, making a number of recommendations for the state and businesses to
improve the activeness and efficiency in the application of industry revolution 4.0 into operation.
38 Email: tranha0312@gmail.com
ỨNG DỤNG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆ 4.0 - CHÌA KHÓA NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO CÁC DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA

631
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Keyword: The 4th industrial revolution, small and medium-sized enterprises, science and
technology.
Giới thiệu vấn đề
CMCN 4.0 là một thuật ngữ xuất phát từ cụm từ ―Industrie 4.0‖ trong một đề án chiến
lược công nghệ cao của Chính phủ Đức năm 2013, ngày nay thuật ngữ này đã được sử dụng rộng
rãi để mô tả về việc áp dụng các thành tựu của khoa học và kỹ thuật (KH&CN) vào mọi mặt của
hoạt động kinh tế, xã hội. Theo Giáo sư Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), giải thích về CMCN 4.0 như sau: "CMCN đầu tiên sử dụng
năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng
dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông
tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc CMCN 4.0 đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó
kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học". Trong
khi đó, TS. Vũ Đình Ánh, Viện Kinh tế Tài chính cho rằng bản chất của CMCN 4.0 là sự thay
thế con người bởi máy móc trong quá trình thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định. Nếu
CMCN 1.0 và 2.0 là máy móc thay thế sức lực con người bằng động cơ hơi nước và động cơ
điện thông qua sản xuất hàng loạt thì CMCN 3.0 là máy móc thay thế con người trong thu thập,
trao đổi và kết nối thông tin - một phần của trí tuệ con người. Như vậy, bản chất của các cuộc
CMCN là sự loại bỏ dần sự tham gia trực tiếp của con người vào quá trình sản xuất kinh doanh
tiến tới toàn bộ quá trình sản xuất được tự động hoá và con người chỉ đóng vai trò thụ hưởng kết
quả của quá trình đó. Nói cách khác, máy móc tự vận hành thay vì cần sự điều khiển của con
người và thông tin trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
CMCN 4.0 hiện là một xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, với các đặc trưng
công nghệ: Internet vạn vật (IoT), công nghệ nano, tương tác thực tại ảo, trí tuệ nhân tạo (AI),
mạng xã hội, điện toán đám mây, dữ liệu lớn (Bigdata)… tác động rất lớn đến hoạt động kinh
doanh, giúp tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh của các tổ chức (doanh nghiệp, Chính phủ).
CMCN 4.0 được dự báo sẽ làm thay đổi toàn diện các khía cạnh chủ yếu của nền kinh tế các
quốc gia như về cơ cấu kinh tế, mô hình kinh doanh, trình độ phát triển, tốc độ tăng trưởng.
Nhiều ngành nghề kinh tế sẽ bị mất đi, thay vào đó sẽ xuất hiện nhiều ngành nghề mới, cách làm
mới với việc ứng dụng ngày càng nhiều KH&CN vào quá trình hoạt động qua đó có ảnh hưởng
tới hoạt động của các doanh nghiệp. Sự bùng nổ của cuộc CMCN 4.0 tác động mạnh mẽ tới các
ngành, lĩnh vực như tự động hóa, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, tài chính - ngân
hàng, giáo dục đào tạo, y tế... Từ đó giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới
sáng tạo, sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ tốt hơn và hợp lý hơn với người tiêu dùng. Hơn
nữa, với các thành tựu công nghệ, chi phí cận biên trên một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có thể giảm
xuống hàng trăm lần, quy trình sản xuất nhanh hơn, thông minh hơn, rút ngắn thời gian sản xuất
nhiều lần so với trước đây.
Thực trạng ứng dụng CMCN 4.0: Doanh nghiệp chƣa thực sự sẵn sàng
Cuộc cách mạng này đã và đang phát triển nhanh chóng không chỉ ở các nước phát triển
mà ngay tại các nước đang phát triển như Việt Nam, cuộc cách mạng cũng đã tạo ra những tác
động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế, trong đó có cộng đồng doanh nghiệp. Theo Ông Cấn
Văn Lực (Chuyên gia kinh tế trưởng kiêm Giám đốc Trường nghiên cứu và Đào tạo ngân hàng
BIDV), CMCN 4.0 sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí giao dịch và quản lý từ 30 –
80%, đồng thời tăng khả năng tiếp cận thị trường, tăng cơ hội kinh doanh mới, khả năng thu tập

632
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
thông tin, dữ liệu và hợp tác... Đồng thời, ứng dụng các thành quả của CMCN 4.0 sẽ giúp các
doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các sản phẩm mới với số lượng lớn hơn và chất lượng cao
hơn, cải thiện điều kiện và quy trình làm việc; tăng năng suất lao động, nâng cao an toàn, giảm
thiểu phát thải, bảo vệ môi trường, đây cũng là điều kiện để đổi mới, đột phá, ra quyết định trên
cơ sở phân tích dữ liệu lớn…
Nhấn mạnh vai trò của CMCN 4.0 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như
hoạt động của doanh nghiệp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định tại hội thảo Smart
Industry World 2017, rằng: "Cách mạng công nghệ 4.0 là cơ hội để thực hiện khát vọng phồn
vinh của dân tộc. Tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng này là yếu tố then chốt, quyết định sự
thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Trong thời gian qua, Nhà
nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ sự phát triển của các DNNVV. Luật Hỗ trợ DNNVV được
Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 và đã có hiệu lực ngày 01/01/2018 quy định những yếu tố
quan trọng liên quan đến ưu đãi về thuế, tín dụng cho các DNNVV trong việc sản xuất, kinh
doanh. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật hỗ trợ
DNNVV ngày 11/3/2018, theo đó, Nhà nước dành nhiều ưu đãi cho các DNNVV về ứng dụng
KH&CN như: giá trị hợp đồng tư vấn về thủ tục xác lập, chuyển giao, bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ được hỗ trợ 100%; giá trị hợp đồng tư vấn về xây dựng và thực hiện chính sách, chiến lược
hoạt động sở hữu trí tuệ được hỗ trợ 100%; giá trị hợp đồng tư vấn để doanh nghiệp xây dựng
tiêu chuẩn cơ sở được hỗ trợ 100%; phí thử nghiệm mẫu phương tiện đo được giảm 50%; phí
kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường được giảm 50%; chi phí hợp
đồng ứng dụng công nghệ cao, hợp đồng chuyển giao công nghệ nhưng không quá 100 triệu
đồng trên một hợp đồng và không quá một hợp đồng mỗi năm được hỗ trợ 50% … Bên cạnh đó,
Chính phủ ban hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN, ngày 01 tháng 02
năm 2019, Nghị định này đã giảm bớt các trở ngại đối với các doanh nghiệp như: đơn giản hóa
việc chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp đối với kết quả KH&CN bằng quy định
doanh nghiệp có thể tự cam kết về quyền sở hữu, thay vì phải giải trình về việc hoàn thành quá
trình ươm tạo và làm chủ công nghệ từ kết quả KH&CN; khuyến khích doanh nghiệp có kết quả
nghiên cứu thuộc mọi lĩnh vực KH&CN đều có thể chứng nhận doanh nghiệp KH&CN. Nghị
định 13 quy định chung cho các doanh nghiệp KH&CN, tuy nhiên với việc chiếm tới 97% các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Nghị định này có tác động thúc đẩy mạnh mẽ tới việc ứng
dụng KH&CN của các DNNVV.
Hiện nay, các thành tựu của CMCN 4.0 đã được ứng dụng tại các DNNVV tuy nhiên,
quá trình này còn gặp phải nhiều khó khăn do nguyên nhân chủ quan và khách quan. Năng suất
lao động của Việt Nam ở mức thấp so với các nước trong khu vực, trong khi đó tốc độ tăng năng
suất lại có xu hướng giảm; các máy móc và công nghệ hiện nay chưa theo kịp với yêu cầu phát
triển của thế giới, tỷ lệ ứng dụng công nghệ thông tin trong tự động hóa và quản lý còn thấp.
Theo báo cáo của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), 75% doanh nghiệp sản
xuất ở Việt Nam hiện sử dụng máy móc đã hết khấu hao, các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt
là khu vực DNNVV vẫn đang sử dụng những máy móc có công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ.
Theo Ông Trần Việt Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công thương), có tới
76% thiết bị máy móc, công nghệ, phương tiện kỹ thuật… nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ
những năm 1980-1990; 75% số máy móc, công nghệ sử dụng đã hết khấu hao và tỷ lệ thiết bị là
đồ tân trang lên tới 50%.

633
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Đánh giá về tính sẵn sàng cho CMCN 4.0 của Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF) và Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
chưa thực sự sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0. Báo cáo ―Đánh giá mức độ sẵn sàng cho nền sản
xuất tương lai‖ của WEF (2018) được thực hiện thông qua 59 chỉ tiêu được nhóm thành hai chỉ
tiêu tổng hợp: cấu trúc sản xuất và các động lực của sản xuất, qua đó có thể thấy các điểm mạnh,
điểm yếu, các xu hướng và cơ hội có liên quan tới sự thay đổi của nền sản xuất của các nền kinh
tế. Theo Báo cáo này, Việt Nam thuộc nhóm sơ khai với mức điểm khá thấp 4,9/10, chỉ số về
―Cấu trúc sản xuất‖ đạt 5,0/10 điểm, xếp hạng 48/100 quốc gia, chỉ số ―Động lực sản xuất‖ đạt
4,9/10 điểm, xếp hạng 53/100. Theo TS. Lê Đình Phong – chuyên gia về tự động hóa và robotics
tại Trung tâm triển khai - Khu công nghệ cao TP. HCM, nhận định rằng: ―Việt Nam vẫn đang
trong giai đoạn tự động hóa từng phần đến tự động hóa toàn bộ (tức ở mức độ giữa của công
nghệ 2.0-3.0, những nhà máy sản xuất có mức độ tự động hóa cao thường nằm ở các thương hiệu
lớn hoặc có đầu tư từ nước ngoài. Một số doanh nghiệp đã nhận thức được vai trò quan trọng của
các thành tựu như "vạn vật kết nối", "ứng dụng IoT" tuy nhiên, chưa nhận thức rõ rằng cái gì
được ứng dụng trong đó, trong khi nhiều doanh nghiệp đang mơ hồ với CMCN 4.0 và không biết
phải bắt đầu từ khi nào và từ đâu‖.
Năm 2018, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách (Bộ Công Thương) đã tiến hành
khảo sát 2.000 doanh nghiệp thuộc Hiệp hội DNNVV Hà Nội, kết quả cho thấy, có đến 79%
doanh nghiệp cho biết chưa sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0; 55% doanh nghiệp cho biết đang
trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu; 19% doanh nghiệp đã lập kế hoạch cụ thể và chỉ có 12%
doanh nghiệp đang triển khai các biện pháp nhằm ứng dụng các thành tựu CMCN 4.0.
Đối với các DNNVV, vướng mắc đang gặp phải là khó khăn về vốn, khoa học kỹ
thuật và chất lượng của nguồn nhân lực. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, tính đến năm 2018 có đến 70% DNNVV hiện chưa tiếp cận được vốn tín dụng, trong
đó, hơn 30% DNNVV không thể tiếp cận với nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại và 30%
doanh nghiệp khác cho biết không dễ để tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng. Chính việc khó
tiếp cận vốn đã dẫn đến việc hạn chế khả năng áp dụng các tiến bộ KH&CN vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu của cuộc
CMCN 4.0 không chỉ phụ thuộc vào vấn đề vốn, khoa học kỹ thuật mà quan trọng hơn cả là
chiến lược phát triển và đầu tư của doanh nghiệp. Theo ông Laurence Mott, Phó chủ tịch phụ
trách kỹ thuật và phát triển của tập đoàn Tetra Pak (công ty cung cấp các giải pháp chế biến và
đóng gói thực phẩm hàng đầu thế giới có trụ sở tại Thụy Sỹ) cho rằng: "Tôi không nghĩ công
nghiệp 4.0 chỉ dành cho các công ty lớn. Hầu hết công nghệ không phụ thuộc vào nguồn vốn lớn
hay nhỏ, mà vào sự đầu tư cho việc cải thiện năng lực và xây dựng quan hệ với các đối tác". Như
vậy, đối với các DNNVV, điều quan trọng là có chiến lược đầu tư và phát triển phù hợp, thì dù
có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp vẫn có thể tìm được cơ hội cho mình. Đánh giá về khả
năng của các DNNVV trong tiếp cận CMCN 4.0, Giáo sư Hồ Tú Bảo, Viện trưởng Viện John
von Neumann cho rằng các thách thức về ngành và quy mô không gây trở ngại DNNVV trong
CMCN 4.0 và ngay cả những vấn đề phức tạp vẫn có chỗ cho công ty nhỏ tham gia. Nhiều

634
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
chuyên gia cho rằng việc các DNNVV, các startup tham gia vào cuộc CMCN 4.0 có nhiều thuận
lợi hơn so với các doanh nghiệp lớn khi họ thường nhanh hơn trong việc ra quyết định, đồng thời
tư duy cởi mở hơn so với các tập đoàn đã hoạt động lâu năm và có lượng nhân sự lớn.
Theo các chuyên gia kinh tế, đối với các DNNVV, việc tiếp cận những thành tựu của cuộc
CMCN 4.0 là con đường ngắn nhất để họ có thể bứt phá, gia tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường
và trở thành các doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Một số giải pháp ứng dụng CMCN 4.0 đối với các DNNVV
Thời gian tới, các DNNVV muốn ứng dụng CMCN 4.0 một cách hiệu quả sẽ cần các giải
pháp đồng bộ, tổng thể từ các chính sách vĩ mô của Nhà nước đến các hoạt động cụ thể của
doanh nghiệp.
Về chính sách vĩ mô, Chính phủ cần tiếp tục chú trọng việc cải thiện môi trường kinh
doanh theo hướng thông thoáng, hiện đại để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo tiền đề
cho doanh nghiệp có thể hấp thụ các công nghệ sản xuất mới một cách nhanh nhất thông qua
việc khẩn trương xây dựng Chính phủ điện tử, rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không
phù hợp, áp dụng theo hướng đơn giản hóa, điện tử hóa thủ tục hành chính. Việt Nam cần hoàn
thiện hệ thống thể chế thuận lợi cho nền kinh tế số phát triển; tự do hóa đầu tư, tham gia, ứng
dụng CMCN 4.0. Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo môi trường cho phát triển và nâng
cấp hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động thanh toán điện tử trong giao dịch thương mại và hỗ trợ
pháp lý phát triển các loại hình kinh doanh mới; tối ưu hóa mô hình sản xuất, kinh doanh… Việc
hoàn thiện cơ chế, chính sách không chỉ giúp doanh nghiệp trong nước tập trung nguồn vốn, thời
gian vào sản xuất kinh doanh mà còn giúp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài - những người tạo
ra cơ hội sản xuất và kinh doanh; kết nối các DNNVV Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, Chính
phủ cần tập trung cho giáo dục, đào tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực KH&CN. Cần chú trọng đến
giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, hướng tới đào tạo những sinh viên có đủ kiến thức, kỹ
năng ứng dụng KH&CN vào thực tế. Với nguồn lực tài chính còn hạn chế, NSNN nên tập trung
vào lĩnh vực một số lĩnh vực đào tạo cơ bản thông qua hệ thống các Viện Nghiên cứu, các
trường Đại học và các lĩnh vực trọng điểm, phù hợp với yêu cầu như công nghệ dữ liệu số lớn
(bigdata), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT)…
Về phía các DNNVV cũng cần tiến hành nhiều thay đổi để có thể ứng dụng hiệu quả các
thành tựu của cuộc CMCN 4.0. Trước tiên là thay đổi về tư duy, các doanh nghiệp cần chú trọng
đến việc sử dụng công nghệ mới vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và khả năng
chăm sóc khách hàng. Các doanh nghiệp phải tham vấn với người lao động của đơn vị mình
nhiều hơn, có tầm nhìn thích nghi tốt hơn với nhu cầu của thị trường; bên cạnh đó, không nên áp
lực lớn cho nhân viên mà phải có sự cân đối để tạo hiệu quả trong quá trình ứng dụng các thành
tựu của CMCN 4.0. Điều quan trọng là các DNNVV phải tạo ra ―văn hóa công nghệ‖ cho toàn
thể nhân viên trong doanh nghiệp hướng tới mục tiêu chung là thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của
khách hàng. Các doanh nghiệp cần hiểu bản chất, công nghệ chỉ là công cụ muốn thành công cần
đến con người có trình độ, làm việc sáng tạo, hăng say với công việc. Để tạo nên văn hoá công
nghệ, cần chú trọng đến tính sáng tạo của nhân viên. Đồng thời, doanh nghiệp cần có sự chuyển