
TẠP CHÍ TÂM LÝ - GIÁO DỤC
11TÂM LÝ - GIÁO DỤC
ỨNG DỤNG KĨ THUẬT “CÁC MẢNG GHÉP” TRONG DẠY HỌC
VẬT LÝ ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM KỸ THUẬT VINH
Lê Thị Ngọc Linh – Trường Đại học sư phạm Kỹ Thuật Vinh
Email: ngoclinhlektv@gmail.com
Tóm tắt: Hiện nay, việc phần đông sinh viên vẫn còn học tập thụ động, thiếu tính tích cực và chưa có thói quen tự học
tự nghiên cứu, việc phát huy năng lực của các em bị hạn chế. Thay đổi và kết hợp các phương pháp dạy sẽ giúp người
học tham gia vào các hoạt động một cách tích cực, sáng tạo, tránh sự thụ động và ỷ lại từ đó mới phát huy được năng lực
bản thân người học. Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu các kĩ thuật và các phương pháp dạy học, tác giả nhận thấy, kĩ thuật
dạy học “các mảng ghép” là một trong những PPDH tích cực nhằm hướng tới mục tiêu trên. Bài viết nêu một số vấn đề
về dạy học theo định hướng phát triển năng lực; khái niệm, cách thức tiến hành kĩ thuật “các mảng ghép” và ứng dụng
trong dạy học Vật lý.
Từ khóa: giảng viên; sinh viên; kĩ thuật mảnh ghép; vật lý; dạy học
APPLICATION OF THE TECHNICAL "PLACES" IN TEACHING
GENERAL PHYSICS FOR STUDENTS OF VINH
UNIVERSITY OF TECHNICAL PEDAGOGY
Le Thi Ngoc Linh - Vinh University of Technical Education
Email: ngoclinhlektv@gmail.com
Abstract: Currently, the majority of students are still learning passively, not actively and do not have the habit of self-
study and self-research, the promotion of their capacity is limited. Therefore, changing and combining teaching methods
will help students (learners) participate in activities actively and creatively, avoid passivity and dependence, thereby
promoting their own abilities. learner body. Through the process of researching and researching teaching techniques and
methods, the author found that the teaching technique "Matches" is one of the active teaching methods towards the above
goal. The article will raise some issues about oriented teaching and capacity development; concepts, how to conduct the
technique of "composites" and its application in teaching Physics.
Keywords: Lecturers; student; graft technique; physics; teaching
Nhận bài: 5/6/2024 Phản biện: 9/7/2024 Duyệt đăng: 12/7/2024
I. GIỚI THIỆU
Trong quá trình dạy học (QTDH), người học
không thể học được nhiều nếu chỉ ngồi trong lớp
nghe giảng, làm bài tập cho và trả lời câu hỏi. Phải
để cho họ được nói về những gì đang học, viết về
nó, liên hệ với kinh nghiệm thực tiễn và ứng dụng
vào cuộc sống hàng ngày.
Nhiều kỹ thuật rất đơn giản nhưng nó có thể
tạo ra sự khác biệt rất lớn trong quá trình học tập
của người học. Để tập trung chú ý của người học
vào nội dung bài giảng, GV phải biết cách làm
cho người học tham gia tích cực vào quá trình học
tập của bản thân họ. Người học phải biến những
gì học được thành một phần của chính bản thân
mình. Có nhiều cách thức học tập khác nhau, SV
mang đến trường với những năng lực và kiểu học
tập rất khác nhau. Do vậy mỗi SV cần có cơ hội
để thể hiện tài năng riêng của họ và được học theo
cách hữu hiệu nhất với mỗi người. Vì vậy, dạy
học không chỉ lấy việc thuyết giảng nhằm trang bị
kiến thức làm nhiệm vụ cơ bản mà phải tạo cơ hội
cho người học chủ động tích cực trong việc tìm
kiếm kiến thức theo những cách thức nhất định
(phương pháp học) và vận dụng những kiến thức
đã học được để tiếp tục học. Thông qua quá trình
học tập chủ động, tích cực, người học sẽ phát huy
được năng lực của bản thân.
Thực tế giảng dạy cho thấy, phần đông SV vẫn
còn học tập thụ động, thiếu tính tích cực và chưa
có thói quen tự học, tự nghiên cứu. Các SV hầu hết
thiếu sự trao đổi qua lại với giảng viên(GV), cũng

TẠP CHÍ TÂM LÝ - GIÁO DỤC
12 Tập 30, số 07 (tháng 07/2024)
như giữa các SV với nhau. Vì vậy, thay đổi và kết
hợp các phương pháp dạy học(PPDH) trong nhà
trường có vai trò hết sức quan trọng, giúp người
học tham gia vào các hoạt động một cách tích cực,
sáng tạo, tránh sự thụ động và ỷ lại từ đó mới phát
huy được năng lực bản thân người học.
Để đổi mới PPDH theo định hướng phát triển
năng lực (người dạy chủ yếu là người tổ chức, hỗ
trợ người học tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức);
cần chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết
vấn đề, khả năng giao tiếp,…; trong quá trình dạy
học, giảng viên cần sử dụng nhiều PPDH tích
cực khác nhau; chú trọng sử dụng các quan điểm,
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; các
phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành,...
Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu các kĩ thuật và
phương pháp dạy học, tác giả nhận thấy, kĩ thuật
dạy học “các mảng ghép” là một trong những kĩ
thuật của PPDH tích cực nhằm hướng tới mục tiêu
trên. Phương pháp dạy học tích cực này sẽ phát
triển tối đa năng lực của người học; người học tự
mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ
chức, hướng dẫn của người dạy.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Dạy học theo định hướng phát triển
năng lực
a) Khái niệm năng lực
Có rất nhiều quan niệm, khái niệm khác nhau
về NL. Trong bài viết này tác giả trích dẫn
một số khái niệm về NL nhìn theo góc độ giáo
dục học.
Theo F. E. Weinert: “NL là tổng hợp các
khả năng, kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng
như sự sẵn sàng của người học nhằm giải quyết
những vấn đề nảy sinh và hành động một cách
có trách nhiệm có sự phê phán để đi đến giải
quyết” [3, tr25]
Theo Hoàng Hòa Bình, “NL là thuộc tính
cá nhân được hình thành và phát triển nhờ tố
chất cá nhân có sẵn và quá trình học tập, rèn
luyện, cho phép con người thực hiện thành công
một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong
muốn trong những điều kiện cụ thể”. [1]
Như vậy, dưới góc độ giáo dục học, chúng ta
có thể xem xét NL là kết quả của quá trình giáo
dục, rèn luyện của cá nhân, thể hiện ở những
kiến thức, kĩ năng và thái độ phù hợp để cá nhân
có thể tham gia hiệu quả vào một lĩnh vực hoạt
động nhất định. Tuy nhiên có tri thức, kĩ năng
chưa thể khẳng định cá nhân có NL hay không,
bởi tri thức kĩ năng ấy chưa chắc đã được hiện
thực hóa trong hoạt động. Vậy NL được thể hiện
ở kết quả hoạt động của cá nhân, khả năng vận
dụng tri thức, kĩ năng để tham gia có hiệu quả
trong một lĩnh vực hoạt động nhất định. Hiện
nay, việc phát triển năng lực thông qua dạy học
được hiểu đồng nghĩa với phát triển năng lực
hành động.
Về đặc trưng của NL, cũng theo Hoàng Hòa
Bình: “NL có hai đặc trưng cơ bản:
1) Được bộc lộ, thể hiện qua hoạt động
2) Đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đạt kết
quả mong muốn.” [1]
Về cấu trúc của NL, Lương Việt Thái
khẳng định: “NL được cấu trúc từ những bộ
phận cơ bản:
1) Tri thức về một lĩnh vực hoạt động hay
quan hệ nào đó.
2) Kĩ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến,
ứng xử với(trong) quan hệ nào đó.
3) Những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực
hiện tri thức, kĩ năng đó trong một cơ cấu thống
nhất và theo một định hướng rõ ràng, chẳng hạn
như ý chí – động cơ, tình cảm – thái độ đối
với nhiệm vụ hoặc nói chung là tính tích cực
trí tuệ, tính tích cực giao tiếp, tính tích cực học
tập,..”[2, tr 21-22].
Một số quan niệm năng lực như trên giúp
các nhà quản lí GD và các GV hình dung để
xây dựng một chương trình, kịch bản lên lớp
cho người học sao cho chú trọng được tổ chức
hoạt động cho người học. Qua hoạt động và
bằng hoạt động, họ bộc lộ được tiềm năng, hình
thành và phát triển năng lực, tăng sự tự tin của
bản thân.
b) Dạy học theo định hướng phát triển năng lực:
Phát triển NL của người học trong QTDH là
sự tiến bộ không ngừng về nhân cách của người
học đáp ứng với sự vận động liên tục của thực
tiễn nghề nghiệp nói riêng và trong thời đại công
nghiệp 4.0 nói chung. Sự phát triển NL được
diễn ra trong chính bản thân người học; được
biểu hiện thông qua các hoạt động và kết quả
của các hoạt động đó. Phát triển NL người học
không chỉ là kết quả của việc tác động tích cực,
đồng bộ của các nhân tố trong QTDH mà còn là
kết quả của những quá trình hoạt động tích cực,

TẠP CHÍ TÂM LÝ - GIÁO DỤC
13TÂM LÝ - GIÁO DỤC
tự giác và đầy sáng tạo của bản thân người học.
Do cấu trúc NL người học bao gồm kiến thức,
kĩ năng và thái độ, nên phát triển NL người học
trước hết là phát triển tất cả những yếu tố này.
Tuy nhiên, việc chuyển hóa thành NL phải thông
qua hoạt động của chủ thể trong việc kết nối, liên
hệ và vận dụng vào giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn. Do đó, phát triển NL người học còn bao hàm
cả phát triển khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng
thái độ vào giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn đặt
ra theo mục tiêu đào tạo đã xác định.
“Phát triển NL người học là phát triển hệ thống
các NL (NL chuyên môn, NL phương pháp, NL
xã hội và NL cá nhân) của người học, xét về bản
chất và nguồn gốc đó là quá trình tác động làm
tăng trưởng không ngừng các yếu tố kiến thức, kĩ
năng, thái độ và những phm chất cá nhân cũng
như khả năng vận dụng các yếu tố đó vào thực
tiễn cuộc sống và hoạt động quân sự, đáp ứng
kịp thời sự vận động, biến đổi không ngừng của
thực tiễn.” [6]
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
“là phát triển năng lực hành động tức là khả năng
thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành
động, giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề trong
những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết,
kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành
động. Như vậy năng lực người học cần đạt là cơ
sở để xác định các mục tiêu, nội dung, hoạt động,
phương pháp … dạy học mà người dạy cần phải
căn cứ vào đó để tiến hành các hoạt động giảng
dạy và giáo dục”. [7]
Dạy học phát triển phm chất, năng lực người
học được xem như một nội dung giáo dục, một
phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học
nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực của người học. Những định hướng dạy
học theo định hướng phát triển năng lực là: phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học,
hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng
giáo trình, tài liệu, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
tin,...), trên cơ sở đó trau dồi các phm chất linh
hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy, kĩ năng trình bày
một vấn đề trước đám đông và kĩ năng giao tiếp
xã hội. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các
phương pháp chung và phương pháp đặc thù
của môn học để thực hiện và dù sử dụng bất kỳ
phương pháp nào, kĩ thuật dạy học nào cũng
phải đảm bảo được nguyên tắc “Người học tự
mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự
tổ chức, hướng dẫn của GV”. Việc sử dụng kĩ
thuật dạy học hay PPDH thường gắn chặt với
các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục
tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể
mà có những hình thức tổ chức thích hợp như
học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở
ngoài lớp...
Việc chuyển quá trình dạy học theo định hướng
phát triển năng lực thành xu thế chủ đạo sẽ đòi hỏi
một sự thay đổi “căn bản và toàn diện” cách tiếp
cận về giáo dục của chúng ta từ trước đến nay. Để
thực hiện tốt việc dạy học theo định hướng phát
triển năng lực, một chương trình dạy học cần xây
dựng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của các
yếu tố sau:
Về mục tiêu: Cần chú trọng hình thành phm
chất và năng lực thông qua việc hình thành
kiến thức, kỹ năng; mục tiêu dạy học được mô
tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được.
Khi xác định mục tiêu năng lực, GV phải
chỉ ra quá trình SV tìm kiếm, phát hiện, chiếm
lĩnh, phát triển kiến thức, kĩ năng và thái độ.
Điều đó cũng chính là chỉ ra con đường người
học tư duy như thế nào để đạt được những kết
quả đó. Như vậy, GV phải đưa ra tình huống có
vấn đề cho người học giải quyết nhờ vận dụng
kinh nghiệm cuộc sống và từ một trường hợp
cụ thể đó mà khái quát hóa thành nội dung của
bài học.Người học phải tư duy ít nhất 2 lần:
giải quyết vấn đề và khái quát hóa thành bài
học. Ngoài ra, họ còn hình thành các năng lực
khác như: tự chủ học tập, giao tiếp với nhau,
tư duy phản biện,...
Về nội dung: Nội dung được lựa chọn nhằm đạt
được kết quả đầu ra đã quy định; chương trình chỉ
quy định những nội dung chính. Chú trọng các kỹ
năng thực hành, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Nội dung chương trình không quá chi tiết, có tính
mở; nên tạo điều kiện để GV chun bị đề cương
bài giảng một cách hệ thống có phân nhánh và
xen kẽ kiến thức với hoạt động và dễ cập nhật tri
thức mới.
Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển
năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ
năng chuyên môn mà gồm những nhóm nội dung
nhằm phát triển các lĩnh vực năng lực: Học nội
dung chuyên môn, phương pháp-chiến lược, giao
tiếp xã hội và tự trải nghiệm. Từ đó, ngoài việc

TẠP CHÍ TÂM LÝ - GIÁO DỤC
14 Tập 30, số 07 (tháng 07/2024)
phát triển năng lực chuyên môn, người học sẽ
phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội
và năng lực cá nhân.
Về phương pháp: Người dạy chủ yếu là người
tổ chức, hỗ trợ trò chiếm lĩnh tri thức; chú trọng
phát triển khả năng giải quyết vấn đề của trò.
Coi trọng các tổ chức hoạt động, trò chủ động
tham gia các hoạt động. Coi trọng hướng dẫn
trò tự tìm tòi. Giáo án được thiết kế phân
nhánh, có sự phân hóa theo trình độ và năng
lực. Người học có nhiều cơ hội được bày tỏ ý
kiến, tham gia phản biện. GV sử dụng nhiều
PPDH tích cực (giải quyết vấn đề, tự phát
hiện, trải nghiệm…) kết hợp PP truyền thống.
Tùy vào đặc điểm của mỗi môn học, mỗi đơn
vị kiến thức để thay đổi, kết hợp PP, kĩ thuật
dạy học phù hợp và hiệu quả.
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát
triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá
người học về hoạt động trí tuệ mà còn chú
ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn
với những tình huống của cuộc sống và nghề
nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với
hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ GV-
SV theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng
nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc
học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của
các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ
đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực
giải quyết các vấn đề phức hợp.
Về môi trường học tập: Có tính linh hoạt,
người dạy không luôn luôn ở vị trí trung tâm.
Hoạt động trung tâm chủ yếu tập trung vào
người học. Ngoài ra, cần chú trọng các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học,
trải nghiệm sáng tạo.
Về đánh giá: Tiêu chí đánh giá dựa vào kết
quả “đầu ra”, quan tâm tới sự tiến bộ của người
học, chú trọng khả năng vận dụng kiến thức đã
học vào thực tiễn. Cần tạo điều kiện để người học
được tham gia vào đánh giá lẫn nhau. Theo quan
điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả
học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện
kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá.
Đánh giá kết quả học tập cần chú trọng khả năng
vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống
ứng dụng khác nhau.
Về sản phẩm giáo dục: Đó là những con người
tự do, tự chủ, có tư duy độc lập sáng tạo; Giàu tri
thức khoa học và thực tiễn, có năng lực tư duy và
hành động, phát triển toàn diện và tối đa theo thế
mạnh riêng của mỗi người. Tri thức người học có
được là khả năng áp dụng vào thực tiễn. Phát huy
sự tìm tòi nên người học không phụ thuộc vào
Giáo trình/Tài liệu/Sách giáo khoa. Phát huy khả
năng ứng dụng nên sản phm GD là những con
người năng động, tự tin.
2.2. Kĩ thuật dạy học “Các mảnh ghép”
Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá
nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
- Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều
chủ đề)
- Kích thích sự tham gia tích cực của
người học.
- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình
hợp tác.
2.3. Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”.
Vòng 1: Nhóm chuyên gia.
• Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 người:
Số nhóm được chia = số chủ đề x n, (n =
1,2,…).
• Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ
Ví dụ : nhóm 1: nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ
B, nhóm 3: nhiệm vụ C, … (có thể có nhóm cùng
nhiệm vụ).
• Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng
vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại
những ý kiến của mình.
• Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi
thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất
cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở
thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và
có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm
ở vòng 2.
Vòng 2: Nhóm các mảnh ghép.
• Hình thành nhóm 3 đến 6 người mới (1 đến 2
người từ nhóm 1, 1 đến 2 người từ nhóm 2, 1 đến
2 người từ nhóm 3…).
• Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được
các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ
với nhau.
• Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu
được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm vụ mới
sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết.
• Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày
và chia sẻ kết quả.

TẠP CHÍ TÂM LÝ - GIÁO DỤC
15TÂM LÝ - GIÁO DỤC
Hoạt động cá nhân
Thảo luận nhóm
vòng 1
Thảo luận nhóm
vòng 2
Tiếp tục thảo luận
vòng 2
Trình bày, chia sẻ
kết quả
Chia nhóm giao NV
vòng 1
Tổng kết, đánh giá,
nhận xét
Chia nhóm giao NV
vòng 2
Giao NV mới
GV SV
Lưu ý khi sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”:
- Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với
nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học, người học được
chia nhóm ở vòng 1 cùng nghiên cứu một chủ đề.
- Không thể sử dụng kĩ thuật “các mảng ghép”
cho các nội dung có mối quan hệ ràng buộc nhân
quả với nhau.
- Trước khi lên lớp, GV phải giới thiệu trước
cho SV một số tài liệu có liên quan đến học phần
mình giảng dạy để SV có thời gian tìm kiếm và tự
nghiên cứu.
- Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công
việc, GV hình thành nhóm mới (mảnh ghép) theo
số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới.
Bước này phải tiến hành một cách cn thận tránh
làm cho SV ghép nhầm nhóm.
- Trong qua trình thảo luận nhóm các mảnh
ghép, GV phải đảm bảo tránh gây mất trật tự.
- Khi sử dụng kĩ thuật “các mảng ghép”, phải
đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép lại với
nhau có thể hiểu được bức tranh toàn cảnh của
một vấn đề và là cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ
phức hợp ở vòng 2.
- Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành
viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các
câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành
“chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả
năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
- Trong quá trình sử dụng các mảnh ghép, GV
dành thời gian theo dõi sinh viên thảo luận nhóm
và trình bày kết quả, người học có điều kiện trao
đổi trực tiếp với GV và mỗi SV có ý thức làm việc
một cách nghiêm túc, và có hiệu quả.
- Các thành viên trong cùng một nhóm có thể
có trình độ khác nhau, GV cần xác định yếu tố hỗ
trợ kịp thời để tất cả mọi thành viên có thể hoàn
thành nhiệm vụ ở vòng 1, chun bị cho vòng 2.
- Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để
đảm bảo các thành viên có thể truyền đạt lại kiến
thức cho nhau một cách hiệu quả nhất.
- Nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ
phức hợp và chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở
nắm vững những kiến thức đã có ở vòng 1. Do đó,
GV cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về kiến
thức, kĩ năng, thông tin, …cũng như các yếu tố hỗ
trợ cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức hợp này.
- Khi SV đã chun bị tốt tâm thế học tập như tài
liệu và nội dung bài học thì việc sử dụng kỹ thuật
các mảnh ghép là khâu cuối cùng để các SV có cơ
hội nêu ý kiến, bộc lộ được khả năng của mình và
ai cũng được tham gia vào nội dung của bài học
hay một vấn đề mà GV nêu ra.
Với kĩ thuật “các mảng ghép”, trong khoảng
thời gian trên lớp, khi GV chia nhóm và giao