
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
THS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN
1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Xuất phát từ bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại, hợp
đồng nhượng quyền thương mại cũng giống như các loại hợp đồng thông thường khác, là sự thoả thuận
của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại về những vấn đề chính trong nội dung của quan
hệ này. Đây chính là cơ sở phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhượng quyền và
cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình các bên thực hiện hợp đồng.
Theo Hiệp ước EEC, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thoả thuận trong đó, một bên là bên
nhượng quyền cấp phép cho một bên khác là bên nhận quyền khả năng được khai thác một “quyền
thương mại” nhằm mục đích xúc tiến thương mại đối với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ đặc thù để đổi
lại một cách trực tiếp hay gián tiếp một khoản tiền nhất định. Hợp đồng này phải quy định những nghĩa
vụ tối thiểu của các bên, liên quan đến: việc sử dụng tên thông thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng
hoặc một cách thức chung; việc trao đổi công nghệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền; việc
tiếp tục thực hiện của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong việc trợ giúp, hỗ trợ thương mại
cũng như kỹ thuật trong suốt thời gian hợp đồng nhượng quyền thương mại còn hiệu lực”[1].
Có thể nói, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một loại hợp đồng chứa đựng những đặc điểm tổng
hợp của rất nhiều loại hợp đồng khác nhau. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có chứa đựng những
yếu tố của hợp đồng li -xăng, đó là sự hướng tới việc sử dụng một số đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó, hợp đồng này còn có
những điểm tương đồng với hợp đồng chuyển giao công nghệ khi mà trong nội dung của hợp đồng luôn
xác định rõ việc bên nhượng quyền phải chuyển giao, cung cấp, hướng dẫn cho bên nhận quyền các
công nghệ đi kèm và các tài liệu hướng dẫn vận hành công nghệ đó. Không những thế, bóng dáng của
các hợp đồng cung ứng, hợp đồng đại lý phân phối cũng hiện hữu trong hợp đồng nhượng quyền thương
mại . Với tính chất tổng hợp này, hợp đồng nhượng quyền thương mại và các vấn đề cụ thể liên quan tới
chúng đã đặt việc nghiên cứu trước ngưỡng cửa của sự phức tạp.
Mặc dù Hiệp hội nhượng quyền thương mại của nước Đức đã đưa ra một khái niệm chính thức về hoạt
động nhượng quyền thương mại , nhưng pháp luật thương mại của nước này lại không đề cập đến khái
niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại với tư cách là một loại hợp đồng đặc thù. Trong con mắt của
người Đức, hợp đồng nhượng quyền thương mại chỉ là một loại hợp đồng hợp tác để phân phối sản
phẩm. Tuy nhiên, do được nhìn nhận là một loại thoả thuận theo chiều dọc giữa các tác nhân kinh tế
(giữa nhà sản xuất và người bán lẻ), hợp đồng nhượng quyền thương mại lại trở thành một đối tượng
xem xét của pháp luật cạnh tranh[2]. Đối với nước Đức, hợp đồng nhượng quyền thương mại chỉ được
nhận biết thông qua sự so sánh chúng với các hợp đồng phân phối hàng hoá, dịch vụ với các đặc tính:
thứ nhất, trong hợp đồng nhượng quyền, quan hệ cung ứng hàng hoá, dịch vụ từ phía bên nhượng quyền
cho bên nhận quyền không nhất thiết phải tồn tại với lý do bên nhận quyền có thể tự mình sản xuất ra
sản phẩm; thứ hai, bên nhượng quyền trao toàn bộ “quyền thương mại” dưới một thể thống nhất cho bên
nhận quyền; thứ ba, bên nhận quyền vẫn có tên thương mại của mình trong con mắt pháp luật, mặc dù
dịch vụ hoặc hàng hoá mà bên này cung cấp trên thị trường lại không mang tên thương mại đã đăng ký
với nhà nước.
Cũng tương tự như nước Đức, Cộng hoà Pháp cũng không ban hành một luật riêng cho hoạt động
nhượng quyền thương mại . ở đây, các án lệ, các quy định của Hiệp hội nhượng quyền thương mại Pháp
được coi là luật lệ chính điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại . Nói đến nhượng quyền
thương mại , người Pháp luôn nhắc tới một vụ án nổi tiếng có liên quan – vụ Pronuptia de Paris – trong

đó nội dung tranh chấp chính liên quan đến các thoả thuận của một hợp đồng nhượng quyền từ một
hãng bán áo cưới nổi tiếng của Pháp và một cá nhân với tư cách là bên nhận quyền. Sau này, nghĩa là
sau thời điểm có phán quyết của Toà án về vụ Pronuptia vào năm 1986, hầu hết các vụ tranh chấp liên
quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại đều được các Toà án ở Pháp và trong khối Cộng đồng
chung châu Âu xem xét dưới góc độ của án lệ Pronuptia. Khi giải quyết tranh chấp đối với Pronuptia,
Toà Phúc thẩm Paris đã lần đầu tiên công nhận hiệu lực của hợp đồng nhượng quyền thương mại với
tính chất không phải một dạng hợp đồng phân phối sản phẩm mà là hợp đồng theo đó, một bên có thể
mở rộng mạng lưới, kiếm tìm lợi nhuận mà không cần đầu tư bằng tiền của chính mình[3]. Như vậy, ở
Pháp, đây là lần đầu tiên hợp đồng nhượng quyền thương mại được nhìn nhận đúng với bản chất của
nó. Có thể nói, hầu hết những khái niệm về hợp đồng nhượng quyền thương mại ra đời sau này ở một số
nước châu Âu đều dựa trên những đặc điểm chính mà các chủ thể của án lệ Pronuptia đã thoả thuận.
Một thực tế là, không phải quốc gia nào cũng có khái niệm riêng biệt để nhận biết hợp đồng nhượng
quyền thương mại . Tuy nhiên, bằng cách này hay cách khác, loại hợp đồng này vẫn được phân biệt với
các loại hợp đồng khác như hợp đồng li -xăng hay hợp đồng đại lý phân phối sản phẩm.
Như vậy, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một tập hợp các thoả thuận của các bên chủ thể, trong
đó các bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan đến: thứ nhất, sự chuyển giao các
yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm
khai thác thu lợi nhuận; thứ hai, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng; thứ ba, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận
quyền đối với bên nhượng quyền. Với khái niệm này, hợp đồng nhượng quyền thương mại đã thể hiện
được đúng bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại , giúp cho công chúng có thể dễ
dàng phân biệt được loại hợp đồng thương mại đặc biệt này với một số loại hợp đồng khác có cùng một
hoặc một số tính chất nhất định.
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà chỉ quy định
về hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật Thương mại năm 2005. Như vậy, có thể hiểu, trên
phương diện pháp luật, hợp đồng nhượng quyền thương mại là một loại hợp đồng được các thương nhân
ký kết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, mà cụ thể ở đây chính là thực hiện hoạt động
nhượng quyền thương mại . Vì vậy, hợp đồng này cũng phải có những đặc điểm chung của hợp đồng
được quy định ở chương VI của Bộ luật Dân sự và đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật dân sự
đặt ra dưới góc độ của một loại giao dịch dân sự. Thêm vào đó, về cơ bản, nó phải thể hiện được bản
chất của giao dịch nhượng quyền thương mại đã được định nghĩa tại Điều 284 Luật Thương mại năm
2005.
Không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung, nhưng Nghị định số
35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ lại nêu định nghĩa về các dạng đặc biệt của hợp đồng
nhượng quyền thương mại như: “hợp đồng phát triển quyền thương mại” (Khoản 8 Điều 3) hoặc “hợp
đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp” (Khoản 10 Điều 3). Đây là các dạng biến thể của hợp đồng
nhượng quyền thương mại , thể hiện sự đa dạng về hình thức và phương thức nhượng quyền thương mại
nên việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những loại hợp đồng này trong luật là rất đúng đắn. Tuy nhiên, khi
giải thích về nghĩa của cả hai loại hợp đồng nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng
nhượng quyền thương mại ” để làm cầu nối. Như vậy, việc pháp luật thương mại không đưa ra định
nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà lại dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các
thuật ngữ khác có liên quan là chưa đảm bảo tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các quy
định pháp luật trong bối cảnh hiện nay.
2. Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại tồn tại hai chủ thể quan trọng, đó là bên nhượng quyền và bên

nhận quyền. Về cơ bản, hợp đồng nhượng quyền thương mại chính là những thoả thuận của hai chủ thể
này về nội dung của hoạt động nhượng quyền. Do nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương
mại đặc thù nên hầu hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ nhượng quyền phải là thương
nhân, tồn tại một cách hợp pháp, có thẩm quyền kinh doanh và có quyền hoạt động thương mại phù hợp
với đối tượng được nhượng quyền. Những đặc trưng về mặt chủ thể này của hợp đồng nhượng quyền
thương mại đã làm cho hợp đồng loại này có những tính chất khác biệt so với các loại hợp đồng khác.
Đặc biệt, quan hệ nhượng quyền không chỉ dừng lại giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, mà đôi
khi, trong quan hệ này còn có thể xuất hiện thêm bên nhận quyền thứ hai. Theo đó, bên nhận quyền thứ
hai là bên nhận lại quyền kinh doanh thương mại của bên nhượng quyền từ bên nhận quyền thứ nhất.
Trong trường hợp này, các bên lại phải có những thoả thuận, ứng xử phù hợp với quyền và lợi ích hợp
pháp của tất cả các bên, nhất là bên nhượng quyền. Như vậy, dưới góc độ pháp luật, bên nhượng quyền
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên
nhượng quyền thứ nhất và bên nhượng lại quyền. Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương
mại để khai thác, kinh doanh, bao gồm cả bên nhận quyền thứ nhất (bên nhận quyền sơ cấp) và bên
nhận quyền thứ hai (bên nhận quyền thứ cấp).
Pháp luật thương mại Việt Nam cũng chỉ ra các đối tượng có thể trở thành chủ thể của một quan hệ
nhượng quyền thương mại , bao gồm: bên nhượng quyền, bên nhận quyền, bên nhượng quyền thứ cấp,
bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp (Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 3, Nghị định số
35/2006/NĐ-CP). Theo đó, hoạt động nhượng quyền thương mại có thể được thực hiện dưới nhiều hình
thức: ở hình thức cơ bản nhất, tồn tại các bên nhượng quyền và bên nhận quyền; ở hình thức phức tạp
hơn, các bên nhận quyền sơ cấp có thể được thực hiện việc nhượng lại quyền thương mại cho các bên
nhận quyền thứ cấp và trở thành bên nhượng quyền thứ cấp. Quy định này đáp ứng được tính đa dạng
với rất nhiều biến thể mà hoạt động nhượng quyền thương mại chứa đựng.
Ngoài ra, pháp luật về nhượng quyền thương mại của Việt Nam cũng có những quy định cụ thể về điều
kiện đặt ra đối với các thương nhân thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại , đó cũng chính là
những điều kiện về mặt chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại . Theo Điều 5, Điều 6 Nghị
định 35/2006/NĐ-CP thì thương nhân nhượng quyền thương mại chỉ được phép cấp quyền thương mại
khi đáp ứng đủ các điều kiện:
- Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động được ít nhất 01 năm (nếu thương
nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó
phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến
hành cấp lại quyền thương mại);
- Đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật (Sở Thương mại, Sở Thương mại – du lịch cấp tỉnh đối với hoạt động nhượng quyền thương mại
mang tính nội địa; Bộ Thương mại đối với hoạt động nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài);
- Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại (không thuộc danh mục hàng
hoá cấm kinh doanh; nếu thuộc danh mục hàng hoá kinh doanh có điều kiện thì phải đáp ứng đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật).
Theo các quy định này thì điều kiện đặt ra đối với thương nhân nhượng quyền khá khắt khe và phức tạp.
Trong khi đó, đối với thương nhân nhận quyền, điều kiện chủ thể này dường như đơn giản hơn và nhiều
khi, pháp luật chỉ quy định thương nhân nhận quyền được phép nhận quyền thương mại khi có đăng ký
ngành nghề kinh doanh phù hợp với hoạt động nhượng quyền thương mại .
Trên thực tế, pháp luật của một số nước đưa ra những yêu cầu khá khắt khe đối với bên nhượng quyền,
hầu hết những quy định này tập trung vào khả năng tài chính, thời gian hoạt động, số lượng các cơ sở
kinh doanh đã có… Thực chất mục đích của các yêu cầu khắt khe được đặt ra đối với bên nhượng

quyền là để cho bên nhận quyền, ở một mức độ nhất định nào đó, tránh khỏi nguy cơ phải đối mặt với
các rủi ro trong kinh doanh. Dưới góc độ kinh tế, trong quan hệ nhượng quyền thương mại , bên nhượng
quyền bắt buộc phải có một hệ thống và cơ sở kinh doanh có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Hệ thống
kinh doanh này phải có sự trải nghiệm thị trường đủ để tạo ra một giá trị “quyền thương mại” hợp lý và
tạo niềm tin cho bên nhận quyền. Với lợi thế có sẵn đó, trong quan hệ với bên nhận quyền, bên nhượng
quyền sẽ nhận được một khoản vốn không nhỏ thu được từ khoản phí nhượng quyền mà bên nhận
quyền phải trả. Chính vì vậy mà đến lượt mình, pháp luật thương mại cần thiết phải thiết kế một hệ
thống các điều kiện cơ bản mà một doanh nghiệp nhượng quyền phải đáp ứng khi muốn kinh doanh
theo phương thức nhượng quyền thương mại . Những yêu cầu về mặt pháp lý đối với bên nhượng quyền
thông thường được nhấn mạnh ở các vấn đề: thứ nhất, về hình thức doanh nghiệp tham gia ký kết hợp
đồng nhượng quyền thương mại với tư cách là bên nhượng quyền: pháp luật của hầu hết các nước đều
yêu cầu tư cách thương nhân đối với bên này. Có nghĩa là, các đối tượng thuộc diện được trở thành bên
nhượng quyền trong một hợp đồng nhượng quyền không giới hạn ở hình thức tồn tại của thương nhân,
mà chỉ cần có dấu hiệu của một loại chủ thể đặc biệt được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại. Luật
Thương mại năm 2005 của Việt Nam và các nghị định hướng dẫn thi hành luật này không có quy định
nào đặt ra các điều kiện về mặt hình thức tồn tại của thương nhân đối với bên nhượng quyền thương mại
. Tuy nhiên, ở một số nước, ví dụ như Trung Quốc, nước này yêu cầu bên nhượng quyền bắt buộc phải
là doanh nghiệp, mọi hình thức tồn tại khác của thương nhân đều không được coi là có quyền thực hiện
việc nhượng quyền thương mại [4]. Thứ hai, thời gian hoạt động của bên nhượng quyền trong lĩnh vực dự
định sẽ nhượng quyền là một khoảng thời gian luật định. Khoảng thời gian này dài hay ngắn phụ thuộc
vào cách nhìn của pháp luật từng nước về sự phức tạp và tính chứa đựng rủi ro của hoạt động nhượng
quyền thương mại . Thông thường, thời gian tối thiểu mà pháp luật thương mại các nước quy định đối với
hoạt động của bên nhượng quyền trước khi thực hiện nhượng quyền là một năm (ví dụ như pháp luật
Việt Nam). Ngoại lệ, cũng có những quốc gia quy định một khoảng thời gian dài hơn là ba năm hoặc
năm năm. Tuy nhiên, có thể nói, việc quy định khoảng thời gian “thử thách” đối với bên nhượng quyền là
bao lâu không ảnh hưởng nhiều đến mức độ thành công hay rủi ro trong hoạt động bằng phương thức
nhượng quyền của bên nhận quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại đã được ký kết. Quy
định này chỉ mang tính chất dẫn đường, củng cố thêm niềm tin và hỗ trợ cho sự lựa chọn thông minh và
an toàn của bên nhận quyền. Khoảng thời gian một năm theo quy định của pháp luật Việt Nam là tương
đối ngắn. Trong khoảng thời gian này, tên thương mại và các công nghệ đặc trưng của thương nhân
không phải lúc nào cũng đã được hình thành một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, với tư cách là một lĩnh vực
hoạt động thương mại mới mẻ, nhượng quyền thương mại phải được tạo mọi điều kiện để phát triển một
cách tương đối tự do và nhanh chóng. Vì vậy, quy định khoảng thời gian ngắn để nhận biết giá trị “quyền
thương mại” của bên nhượng quyền cũng là một trong những cách thức tiếp cận có ý nghĩa của pháp
luật thương mại Việt Nam.
Bên nhận quyền phải có tư cách độc lập về mặt pháp lý, tài chính và đầu tư; đồng thời chấp nhận rủi ro
đối với vốn bỏ ra để thực hiện việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của bên nhượng quyền. Luật
pháp cũng yêu cầu bên nhận quyền phải là bên có đủ khả năng tiến hành các hoạt động kinh doanh sau
khi nhận quyền kinh doanh của bên nhượng quyền. Cụ thể, bên nhận quyền thường phải đáp ứng các
yêu cầu về ngành nghề kinh doanh, giấy phép kinh doanh, thậm chí là chứng chỉ hành nghề khi tham
gia vào quan hệ nhượng quyền thương mại nhất định. Thông thường, pháp luật thương mại của các nước
đều đặt ra những yêu cầu nhất định đối với các đối tượng sẽ trở thành bên nhận quyền trong một quan
hệ nhượng quyền thương mại , bao gồm: Một là, bên nhận quyền phải tồn tại dưới một tên thương mại
riêng, xác định một tư cách pháp lý hoàn toàn độc lập với bên nhượng quyền, mặc dù để bán hàng hoá
và cung ứng dịch vụ tới người tiêu dùng, bên nhận quyền phải sử dụng các dấu hiệu tập hợp khách

hàng, nhận biết thương nhân, trong đó bao gồm cả tên thương mại, của bên nhượng quyền. Khi xem xét
về hợp đồng nhượng quyền thương mại , pháp luật thương mại Austria cũng đã nhấn mạnh về đặc trưng
chủ thể của bên nhận quyền, đó là bên hành động dưới tên thương mại riêng và trực tiếp chịu rủi ro với
hoạt động kinh doanh do bên này tiến hành (acting in his own name and at his own risk)[5]. Như vậy,
bên nhận quyền là bên được xác định dưới một tư cách chủ thể pháp lý hoàn toàn độc lập với bên
nhượng quyền, chịu mọi rủi ro trong hoạt động kinh doanh của chính mình, không phụ thuộc vào bên
nhượng quyền. Một khi điều kiện này được đáp ứng, sự lạm dụng hợp đồng nhượng quyền thương mại
vào các mục đích khác của doanh nghiệp như thuê mướn lao động mà không phải ký hợp đồng lao động
và trả tiền bảo hiểm sẽ được ngăn chặn một cách hiệu quả nhất. Hai là, bên nhận quyền phải tồn tại
dưới một hình thức pháp lý nhất định. Để đảm bảo cho hệ thống nhượng quyền có thể phát triển và
không bị phá vỡ bởi bất kỳ một bên nhận quyền nào trong một loạt các bên nhận quyền đã ký kết hợp
đồng nhượng quyền thương mại, pháp luật một số nước quy định bên nhận quyền phải có đủ năng lực
chủ thể mà một trong những dấu hiệu nhận biết chủ thể nhận quyền có đủ năng lực pháp lý, đó là chủ
thể này phải tồn tại dưới hình thức doanh nghiệp. Xét cho đến cùng, mức độ rủi ro của bên nhượng
quyền khi tham gia ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại là khá cao. Bên nhượng quyền sẽ có khả
năng phải đối mặt với nguy cơ mất công nghệ, bí quyết kinh doanh. Mặt khác, bên nhượng quyền còn có
khả năng phải hứng chịu những tổn thất do sự đổ vỡ hệ thống nhượng quyền mà nguyên nhân chỉ xuất
phát từ sự thất bại của một bên nhận quyền duy nhất. Chính vì vậy, việc quy định những điều kiện nhất
định đối với bên nhận quyền cũng chính là một trong những biện pháp hạn chế rủi ro cho bên nhượng
quyền. Pháp luật thương mại Việt Nam không đề cập tới điều kiện bắt buộc về mặt hình thức tồn tại cho
bên nhận quyền. Điều này có phần phù hợp với điều kiện của Việt Nam bởi trên thực tế, hầu hết các
“quyền thương mại” được nhượng ở Việt Nam chủ yếu chỉ được thiết lập dưới các dạng nhà hàng, quán
ăn nhanh với quy mô tương đối nhỏ hẹp, nằm trong khả năng có thể điều khiển được của hộ kinh doanh
cá thể, thậm chí là cá nhân kinh doanh. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, một quốc gia có cái nhìn tương đối
khắt khe với các chủ thể của quan hệ nhượng quyền thương mại , pháp luật yêu cầu bên nhận quyền
cũng phải là doanh nghiệp. Trong cách tiếp cận coi doanh nghiệp là một loại thương nhân có quy mô
tương đối lớn so với các thương nhân khác như cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể thì việc quy
định bên nhận quyền phải là doanh nghiệp rõ ràng giúp cho các bên trong quan hệ nhượng quyền có thể
thành công hơn trong hoạt động thương mại mới mẻ và phức tạp này.
Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại , hợp đồng nhượng quyền thương mại là
một dạng hợp đồng đặc biệt trong lĩnh vực thương mại do tính chất phức tạp của nó như đã phân tích ở
trên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các khía cạnh của hợp đồng nhượng quyền thương
mại , nhất là chủ thể của loại hợp đồng này để từ đó chỉ ra những phương hướng, biện pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại là một trong những công việc cần
thiết trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay của Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho pháp luật thương mại
của Việt Nam trở nên gần gũi và tương thích hơn với pháp luật của các nước khác trên thế giới, giúp cho
quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới có thể tiến những bước nhanh hơn,
chắc chắn hơn và hiệu quả hơn.
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu
bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá.
1. Cơ sở pháp lý:
- Luật Thương mại năm 2005.