Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong tiến trình dân chhóa tại Việt Nam
Đặt vấn đề
Dân chvà pháp quyền là những đề tài truyền thống giành được nhiều sự
quan tâm chú ý ca các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà hoạt động xã hội, đặc
biệt trong các lĩnh vực chính trị, triết học, luật học và nhân quyền. Trong nền khoa
học pháp thế giới, đã một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa dân chủ và
pháp quyền cũng như chế phát huy hiệu quả mối quan hệ này nhằm đem lại sự
ổn định, thịnh vượng và phát triển bền vững cho toàn hội. Bài nghiên cứu này
stập trung phân tích mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời giữa dân chủ và
quá trình hình thành, xây dựng, phát triển nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời
đề xuất c giải pháp thúc đẩy vai trò của hai thành tnày nhằm đảm bảo sổn
định và phát triển tại Việt Nam. thể nói, cốt lõi của một nền dân chủ chính là
việc bảo vệ phát huy ng lực tự thân của các nhân trong xã hội, trong khi
đó, yêu cầu bảo vệ các nhân cũng như sự phát triển của họ lại chính là một
trong những chức năng bản của Nhà nước pháp quyền XHCN. Vì vậy, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đã đang trở thành một trong
những điều kiện đảm bảo tiên quyết cho sự phát triển của nền dân chủ XHCN tại
Việt Nam.
1. Dân ch
1.1. Một số cách tiếp cận trên thế giới
Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng người Hy Lạp cổ là chnhân sáng
tạo nền dân chủ và các thiết chế dân chủ xét từ cả phương diện luận và thực
tiễn.[1] thnói, tư tưởng dân chủ, đặc biệt là văn hóa dân chcủa người Hy
Lạp cổ đã để lại những ảnh hưởng hết sức sâu sắc trong nền văn minh nhân loại
sau này. Trong tác phm Chính th đại diện” xuất bản m 1861, triết gia nổi
tiếng người Anh J.S. Mill đã đánh giá cao những hình mẫu thiết chế dân chủ trong
giai đoạn này như kiểu tòa án dicastery (có s tham gia của hàng trăm thẩm phán
lấy từ 6.000 thẩm phán là công dân tình nguyện tham gia, bản án được biểu quyết
theo đa số) hay kiểu hội nghecclesia tại quảng trường của c đô thị Hy Lạp c
(dân chúng được phát biểu, thảo luận các công việc chung của cộng đồng và quyết
định được đưa ra dựa trên đa sbiểu quyết bằng giơ tay). Các thiết chế này đã để
lại cho nền văn minh nhân loại những khuôn mẫu điển hình nhất về thiết chế dân
chvà thực thi dân chủ trong thực tiễn.[2] Trong tác phm chính trị pháp nổi
tiếng “Bàn vKhế ước xã hội, J.J.Rousseau cũng đã bày tsnỡng mộ và
ngợi ca sự lôi cuốn của nền văn hóa dân chủ thời cổ đại bằng cách nhắc đi nhắc lại
hình ảnh các vị thập đại pháp quan của nền cộng hòa La được dân chúng bầu
ra để xây dựng luật thường nói với n chúng: “Những điều chúng tôi đề nghị ra
đây chỉ biến thành luật chừng nào dân chúng đã đồng ý thông qua. Hỡi công dân
La Mã, các bạn hãy làm ra luật để bảo đảm lấy hạnh phúc của mình”.[3]
Ngày nay, dân chđang trở thành mt vấn đề cơ bản và cấp thiết, một loại “môi
trường sinh thái” không thể thiếu cho sự phát triển của tất cả các quốc gia - tcác
quốc gia phát triển cho đến các quốc gia đang phát triển. Xét vbản chất, dân ch
chính quyền tự do nhân, là stôn trọng từng nhân con người như một
thành viên bình đẳng trong xã hội, được lắng nghe được thể hiện quan điểm, là
quyền được tham gia các hoạt động của đời sống chính trị, xã hội của đất nước,
tham gia quản xã hội và xây dựng các quyết sách thông qua c chế khác
nhau trên sở đồng thuận xã hội. thể nói, tính hấp dẫn của dân chủ trước hết
chính kh năng tạo ra chế đáp ứng được nhu cầu tự thể hiện của con người,
động lực cho sự năng động, tính tự chủ và tinh thần sáng tạo của từng nhân
trong cộng đồng.[4]
Trên thế giới, phụ thuộc vào chế độ chính trị, các giá trị văn hóa, truyền
thống, tính cách n tộc định hướng phát triển kinh tế - hội của từng quốc
gia các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách tiếp cận định nghĩa khác nhau
về dân chủ. Nói một cách m tắt, chúng ta ba cách tiếp cận cơ bản về dân chủ,
tương ứng với chúng là ba định nghĩa khác nhau về dân chủ:
(1) Cách tiếp cận nguồn gốc quyền lực: Dân chlà chính quyn của nhân
dân, nhân dân chính cội nguồn của quyền lực (government by people), quan
điểm này được hình thành từ thời Hy Lạp cổ đại.
(2) Cách tiếp cận từ mục đích của dân chủ: Dân chlà chính quyền hành
động nhân danh và lợi ích nhân dân, đây là kiểu mẫu dân chủ của Hoa Kỳ với
thông điệp Gettysburg m 1863 của tổng thống Abraham Lincohn: Chính quyền
dân chlà chính quyền của dân, do dân, vì n (Government of the people, by the
people, for the people).
(3) Cách tiếp cận từ thủ tục thành lập chính phủ: Dân chlà chính ph
được thành lập theo phương thức cạnh tranh (Democracy as government
established by competition). Luận điểm này được luật gia nổi tiếng người Áo Hans
Kelsen phân tích và trình bày khá cthể trong tác phẩm “S hình thành của các
nền dân chủ”.[5] Cho đến nay, luận đim này đã trthành một quan điểm phổ
biến và được chia sẻ rộng rãi bi các tổ chức quốc tế và chính phnhiều quốc gia
trên thế giới.
Như vậy, thể nói, từ bình diện quốc tế, dân chủ không chỉ thuần túy là
hình thức tổ chức chính trị của xã hội dựa trên s công nhận nhân dân như
nguồn gốc của quyền lực, dựa trên quyền lực của nhân dân trong việc tham gia
giải quyết những vấn đề của quốc gia. Dân chủ còn tập hợp các tư tưởng và
nguyên tắc nhằm đảm bảo và phát huy mạnh mẽ quyền tự do của các nhân, là
biện pháp giới hạn và chế ước quyền lực của chính phủ, tránh việc hình thành một
chế độ độc tài, phục vụ cho lợi ích một nhóm người. Tuy nhiên, dân chchỉ được
đảm bảo thực thi một cách hiệu quả khi chúng ta xây dựng được một chế
chặt chẽ, một hệ thống thực thi, giám sát nhằm đảm bảo cho công dân được thực
sự tham gia và kiểm soát quyền lực nhà nước.
1.2. Cách tiếp cận tại Việt Nam
tưởng dân chủ theo truyền thống phương Tây được truyền và tiếp nhận vào
Việt Nam khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành các cuộc đấu tranh chống lại
ách cai trthực dân, giành độc lập n tộc và xây dựng đất nước theo con đường
XHCN. Trên sở phê phán những hạn chế về tính ước lệ, hình thức, nửa vời,
không triệt để của nền dân chủ sản nói chung, của chế độ dân chủ đại nghị nói
riêng, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những luận cứ khoa
học và thực tiễn khẳng định rằng dân ch luôn mang tính giai cấp và dân ch
sản là một chế độ dân chủ ưu việt vì nó phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ
đối với quần chúng lao động, cho phép toàn thquần chúng nhân dân tham gia
thực sự bình đẳng và rng rãi vào công việc của nhà nước. Theo đó, nhà nước
sản phải được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, phương pháp dân
chvà phấn đấu vì mục tiêu dân chủ. Hiến pháp các đạo luật của nhà nước
sản phải chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo các nguyên tắc này.[6]
Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế ngày ng sâu rộng, cách tiếp cận vvấn đề
dân chtại Việt Nam cũng từng bước được mở rộng trên sở tiếp thu chọn
lọc hệ thống c thuyết v dân chủ và kinh nghiệm y dựng các nền dân chủ
trong lịch sử văn minh nhân loại. Những nghiên cứu gần đây cho thấy khái niệm
dân chtại Việt Nam hàm chứa một sự phản ảnh phong phú với nhiều khía cạnh
khác nhau:
(1) Quyền lực nhà nước không phải do c thế lực siêu nhiên tạo thành mà do
chính con người sống thành hi tạo ra. Người dân mới chính là chnhân đích
thực và tối thượng đối với quyền lực nhà nước,
(2) Dân chlà nguyên tắc bản trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN, mặc dù
nguyên tắc hoạt động của nhà nước XHCH đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào
một số quan nhưng quyền lực tối thượng đối với nhà nước phải thuộc về nhân
dân,
(3) Nhấn mạnh đến chế độ dân ủy quyền cho các đại biểu, những cán bộ được ủy
quyền phải là công cphục vụ cho lợi ích của nhân dân chứ không phải là một
tầng lớp cai trị, dân ủy quyền chứ không mất quyền và dân quyền bãi miễn
người lạm quyền,
(4) Dân chlà u cầu bảo vệ các quyền tự nhiên của cả cộng đồng và nhân
như quyền được sống, quyền được lao động, học hành, chăm sóc y tế,
(5) Dân ch là một chế độ mà quyền lực nhà nước bị kiểm soát chặt chẽ bởi người
dân,
(6) Dân chủ đòi hỏi lợi ích và quyền lực của người dân được luật hóa, các cơ quan,
viên chức nhà nước phải tôn trọng việc thực hiện các đạo luật này,
(7) Trong quan h giữa nhà nước nhân dân, nhân dân người ch của nhà
nước,
(8) Dân chphương thức bản để đoàn kết dân tộc, tạo dựng sức mạnh dân
tộc cho sự phát triển,
(9) Dân chlà triết nhân văn sâu sắc của người phương Đông trong đó coi con
người là trung m trong các hoạt động chính trị dân vi quí, tắc thứ chi, quân
vi khinh”.[7]
1.3. Tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam