
ÐÁP ỨNG MIỄN DỊCH CHỐNG
NHIỄM TRÙNG
(Kỳ 6)
Việc thử vaccine như trên cũng đã nêu lên một khó khăn chung của vaccine
gồm có 1 peptide tổng hợp đóng vai trò là epitope đặc hiệu cho tế bào B được để
kết hợp với 1 protein tải không liên quan là giải độc tố uốn ván đó là: mặc dù tạo
ra được kháng thể chống peptit tổng hợp nhưng đáp ứng của tế bào T thì lại chống
protein tải giải độc tố uốn ván. Vì vậy vaccine này không sinh ra được tế bào T có
trí nhớ miễn dịch đặc hiệu với Plasmodium. Ðiều cần thiết là vaccine phải có cả
epitope đặc hiệu cho tế bào B lẫn epitope đặc hiệu cho tế bào T. Người ta đã thử
tìm epitope đặc hiệu cho tế bào B trong kháng nguyên CS bằng cách dùng một
vaccine đậu bò tái tổ hợp có biểu hiện kháng nguyên CS để gây miễn dịch cho
chuột thuần chủng. Thử nghiệm được tiến hành trên các dòng thuần chủng khác
nhau nhưng chỉ có các dòng chuột nhắt mang các kháng nguyên hòa hợp mô lớp II
là IAb và IAk mới có khả năng sản xuất nhiều kháng thể kháng kháng nguyên CS,
điều này gợi ý rằng phân tử hòa hợp mô lớp II IAb và IAk đã trình diện các peptit
của kháng nguyên CS cho các tế bào Th và bởi vậy gây ra sự hoạt hóa tế bào B.

Ðể phát hiện các epitope đặc hiệu cho tế bào T trên kháng nguyên CS đã
được nhận dạng bởi chuột có phân tử IAk người ta đã phân tích các đoạn peptit
thẳng của kháng nguyên CS bằng chương trình máy tính để tìm ra các peptpit có
các vòng xoắn ( có biểu hiện amphipathic rõ rệt. Những peptit này thể hiện cả hai
bề mặt ái nước và kỵ nước, chúng được được giả thiết là gắn với các phân tử hòa
hợp mô và các thụ thể tế bào T. Ðoạn pepetit ký hiệu là Th2R có chỉ số
amphipathic cao nhất. Người ta đã dùng các peptit tổng hợp chứa epitope đặc hiệu
cho tế bào B có chứa peptit Th2R để gây miễn dịch cho chuột IAk thì thấy chuột
có đáp ứng kháng thể cao. Tiếp tục quá trình này người ta hy vọng sẽ tìm ra được
các epitope đặc hiệu cho tế bào T và có thể chế ra được một vaccine hữu hiệu bằng
cách kết hợp epitope đặc hiệu cho tế bào B với epitope đặc hiệu cho tế bào T.
Kháng nguyên CS hình như có tính sinh miễn dịch thấp đối với tế bào T
của người. Ví dụ khi nuôi Lympho bào máu ngoại vi của người sống trong vùng
dịch tễ sốt rét với sự có mặt của các peptit tổng hợp gối lên nhau để có chiều dài
bằng với phân tử kháng nguyên CS thì nhận thấy 40% số người này không có
phản ứng tăng sinh lympho bào để đáp ứng với bất kỳ một peptit nào. Trong số
các peptit gây phản ứng tăng sinh ở 60% mẫu tế bào có 2 peptit là peptit 20
(Th2R) và peptit 24 có chỉ số amphipathic cao nhất. Khi so sánh sự thay đổi thứ tự
của các peptit CS người ta nhận thấy hai peptit trên có sự thay đổi trình tự các acid
amin, vì vậy gây ra sự thay đổi kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét làm cho ký

sinh trùng sốt rét có thể thoát khỏi đáp ứng miễn dịch. Vì vậy cần phải sàng lọc để
tìm ra các các đoạn peptit ít có sự thay đổi.
Sự biến đổi của các epitope đặc hiệu cho tế bào T nằm trong phân tử kháng
nguyên CS là một giới hạn chính trong việc sinh ra đáp ứng miễn dịch qua trung
gian tế bào chống ký sinh trùng sốt rét. Nhiều tài liệu đã chứng minh rằng đáp ứng
miễn dịch qua trung gian tế bào hoạt động phối hợp với các kháng thể hoặc hoạt
động một cách độc lập có vai trò quan trọng trong sốt rét. Chuột nhắt khi đã được
gây miễn dịch bằng thoa trùng chiếu tia X thì có thể kháng lại sự nhiễm thoa trùng
sống khi thử thách. Tuy nhiên, nếu sử dụng kháng thể kháng CD8 tiêm cho những
chuột đã miễn dịch này thì khả năng miễn dịch chống thoa trùng bị mất đi. Ngoài
ra những tế bào T phân lập từ những chuột đã miễn dịch này có thể gây ra được
đáp ứng miễn dịch vay mượn trên những chuột khác. Ðáp ứng miễn dịch qua trung
gian tế bào chống sốt rét được thực hiện cả bằng hai kiểu: kiểu quá mẫn muộn và
kiểu gây độc bởi tế bào Tc. Tế bào TCD4 có thể nhận biết các kháng nguyên thoa
trùng đã kết hợp với phân tử hòa hợp mô lớp II ở trên bề mặt tế bào Kupffer. Ðích
tấn công của tế bào TCD8+ là những kháng nguyên thoa trùng được trình diện bởi
các phân tử hòa hợp mô lớp I trên các tế bào gan bị nhiễm. Thoa trùng có thể thoát
khỏi các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào và làm xuất hiện một lượng lớn
thể phân liệt vì vậy làm giảm khả năng loại bỏ Plasmodium bằng hệ thống miễn
dịch. Bảng dưới đây nói lên ảnh hưởng của việc loại bỏ các tế bào TCD4 hoặc

TCD8 lên đáp ứng miễn dịch chống Plasmodium ở chuột đã được gây miễn dịch
bằng vaccine thoa trùng chiếu tia X.
Ðáp ứng miễn dịch chống các bệnh giun sán
Khác với các đơn bào, vi sinh vật chỉ có 1 tế bào và thường cư trú bên trong
tế bào của người, giun sán là những vi sinh vật lớn gồm nhiều tế bào không cư trú
bên trong tế bào và thường cũng không nhân lên ở trong cơ thể người. Mặc dù
giun sán dễ tiếp cận với hệ thống miễn dịch của người hơn là những đơn bào và
phần lớn các cá thể chỉ bị nhiễm ít loại giun sán. Vì lý do đó hệ thống miễn dịch
cũng không đáp ứng mạnh và mức độ đáp ứng miễn dịch sinh ra cũng yếu. Các
loài giun sán gây ra rất nhiều bệnh ở cả người và động vật. Hơn một tỷ người bị
nhiễm giun đũa, một loại giun tròn cư trú ở ruột non; hơn 300 triệu người bị nhiễm
Schistosoma, một loại sán sống trong máu gây ra trạng thái nhiễm mạn tính. Nhiều
loại giun sán gây bệnh cho gia súc và xâm nhập vào người qua đường ăn uống đó
là sán lợn, sán bò hoặc giun xoắn.
Chúng ta lấy một bệnh do giun sán gây ra làm ví dụ để phân tích đáp ứng
miễn dịch đối với loại này đó là bệnh do sán máng (Schistosomiasis). Có một số
loại Schistosoma gây ra các bệnh mạn tính làm suy yếu cơ thể và có thể gây chết
người. Có 3 loại Schistosoma chủ yếu gây bệnh ở người là S. mansoni, S.
japonicum và S. haematobium. Bệnh phổ biến ở Châu Phi, Trung Ðông, Nam Mỹ,
Vùng biển Caribê, Trung Quốc, Ðông Nam Á và Philipin. Những năm gần đây số

người nhiễm Schistosoma tăng lên song hành với việc sử dụng tràn lan nguồn
nước có loài ốc nước ngọt, một loài vật chủ trung gian của Schistosoma, sinh
sống. Nhiễm Schistosoma xẩy ra khi tiếp xúc với ấu trùng bơi tự do trong nước do
ốc giải phóng ra với tốc độ 300 - 3.000 ấu trùng/ ngày. Khi ấu trùng tiếp xúc với
da người chúng sẽ tiết ra một enzyme để chúng chui qua da sau đó mất đuôi và
chuyển thành dạng Schistosomule. Schistosomule chui vào mao mạch rồi di
chuyển đến phổi, tới gan và cuối cùng tới vị trí cư trú chủ yếu tùy theo từng loại:
S. mansoni và S. japonicum sống ở các tĩnh mạch mạc treo ruột còn S.
haematobium sống ở tĩnh mạch bàng quang. Khi đã cư trú ở vị trí cuối cùng các
Schistosomule sẽ trở thành con cái và con đực, chúng giao phối với nhau và con
cái đẻ ra khoảng 3.000 trứng/ ngày. Khác với đơn bào, Schistosoma và các loài
giun sán không sinh sôi nẩy nở trong túc chủ có nghĩa là trứng của chúng sẽ không
nở thành giun sán ở người mà phần lớn được thải ra ngoài qua phân hoặc nước
tiểu để rồi nhiễm vào vật chủ trung gian. Số lượng của Schistosoma tăng lên chỉ
khi túc chủ tiếp xúc lại với các ấu trùng bơi tự do trong nước, vì vậy phần lớn các
cá thể chỉ bị nhiễm một lượng ít Schistosoma.