VẤN ĐỀ AN NINH NĂNG LƢỢNG VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ NĂNG LƢỢNG SẠCH
CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƢỢC Ở VIỆT NAM
1
LỜI NÓI ĐẦU
Năng lượng, đã từ lâu, cho đến nay cho mai sau luôn động lực cho phát triển
của hội nhân loại. Lửa” đã đưa con người tiến lên từ thời kỳ đồ đá đến kỷ nguyên
trụ. Chính cũng những nguyên nhân y ra tranh giành quyền lực của các thế
lực trong xã hội loài người.Trữ lượng năng lượng truyền thống ngày càng cạn kiệt, nhu
cầu về càng cao, nên vấn đề an ninh ng lượng càng trở nên cấp bách. Các cuộc
khủng hoảng chính trị đã đẩy giá dầu lên cao, ảnh hưởng nặng nề đến phát triển kinh tế
thế giới, đồng thời kéo theo những mối quan hệ căng thẳng giữa các nước sản xuất dầu
mỏ với các ớc nhập dầu mỏ, giữa các ớc nhập dầu mỏ chính với nhau, đã sinh ra
những cuộc xung đột trang mất an ninh khu vực dễ bùng nổ hiểm hoạ lan rộng
trên toàn thế giới. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào thế giới hiện đại, nền
công nghiệp còn lạc hậu đến hàng mấy thế hệ, ng lượng càng trở nên quan trọng
hơn. Xuất khẩu dầu thô than đá đã đóng góp một phần đáng kể cho ngân sách nhà
nước.Với tầm quan trọng của ng lượng trong công cuộc đổi mới đất nước, Chính
phủ đã đưa ra Chiến lược phát triển điện lực trong giai đoạn 2004 -2010, định hướng
đến năm 2020, với các quan điểm:
- Phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
hội bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân; đảm bảo an ninh ng
lượng quốc gia. Đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải
đảo.
- Bảo đảm chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất lượng ngày càng
cao, giá cạnh tranh. Đặc biệt coi trọng tiết kiệm điện năng từ khâu phát, truyền tải đến
khâu sử dụng.
- Xây dựng giá điện phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu cho phát triển ngành
điện, tăng sức cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực, nhất giá điện
phục vụ sản xuất, tách phần chính sách hội ra khỏi giá điện. chính sách thích
hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi.
- Kết hợp giữa điều hành mạng lưới điện thống nhất trong cả nước với xây dựng
điều hành hệ thống điện an toàn theo từng khu vực nhằm đồng bộ hoá, hiện đại hoá
mạng lưới truyền tải, phân phối điện quốc gia để cung cấp dịch vụ điện đảm bảo chất
lượng, liên tục, an toàn, hiệu quả.
Để giúp bạn đọc thêm thông tin tìm hiểu sâu về lĩnh vực năng lượng, Trung
tâm Thông tin KH&CN Quốc gia biên soạn Tổng luận VẤN ĐỀ AN NINH NĂNG
LƢỢNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ NĂNG LƢỢNG SẠCH THỂ
THỰC HIỆN ĐƢỢC Ở VIỆT NAM”.
Đây một lĩnh vực rất rộng và sâu được hội quan m nên việc biên soạn nội
dung Tổng luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong bạn đọc chia sẻ thông
cảm.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
2
I. AN NINH NĂNG LƢỢNG:
1.1. Vấn đề an ninh năng lƣợng trên thế giới
Nguồn "vàng đen" thế giới đang ngày càng cạn kiệt, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ
năng lượng trên thế giới chưa dấu hiệu giảm bớt, ngược lại gia tăng hơn khi mức
sống người dân của nhiều ớc được cải thiện. Người ta ước tính rằng khi thu nhập
quốc dân tăng lên 1% thì nhu cầu điện năng sẽ tăng lên khoảng 2,1-2,3%. Nguồn điện
cung cấp cho thế giới hiện nay chủ yếu vẫn được sản xuất từ những lọai nguyên liệu
đào dưới lòng đất lên như dầu lửa, than đá khí đốt. Nguồn nhiên liệu y không phải
tận, với mức độ khai thác như hiện nay tdầu mỏ sẽ hết sau 40-50 năm, khí đốt
60 năm, than đá nhiều hơn một chút trên 200 năm, cho nên việc bảo toàn chỉ thể
kéo dài giờ phút cạn kiệt cho đến khi không còn nữa để bảo toàn. Martin Hoeffert,
Giáo Vật Đại học New York, ước tính rằng, trong thế kỷ 21, con người sẽ sử
dụng gấp ba lần lượng điện hiện thời. Không nguồn nhiên liệu mới nào đủ dồi dào
để thay thế dầu lửa, than đá và khí đốt cho đến thời điểm này. Những nguồn nhiên liệu
không đào khoan từ lòng đất thì vẫn đang ngập ngừng những ớc đi dẫm, đầy
chông gai sóng gió.
Trong những m gần đây, các mối lo ngại trên phạm vi toàn cầu liên quan đến
nguồn cung năng lượng được đánh giá rất nghiêm trọng.Về mức độ chung toàn cầu,
an ninh năng lượng liên quan chủ yếu chặt chẽ đến an ninh dầu mỏ, trong đó giá
dầu mỏ nguồn gốc của sự mất an ninh ng lượng. Điều này không chỉ liên quan
đến lượng dầu xuất khẩu của khu vực Trung Đông đầy bất ổn, còn cả tới năng lực
của toàn bộ hệ thống sản xuất, lọc dầu vận chuyển dầu ktrên thế giới. Tiếng
chuông cảnh báo ngày càng được các chuyên gia gióng lên tới các nhà lãnh đạo chính
trị. Trong Báo cáo 2 năm một lần xuất bản ngày 7/11/05, với tiêu đề "Triển vọng năng
lượng thế giới 2004-2030", Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) đã nhấn mạnh đến nguy
an ninh năng lượng thể kịch phát trong thời gian ngắn khả năng nguồn cung
gián đoạn sẽ gia tăng.
Được xem như một giải pháp chính để thay thế dầu lửa, nguồn khí tự nhiên cũng
đang những vấn đề, nhất từ khi nước xuất khẩu khí đốt hàng đầu thế giới, nước
Nga từ đầu năm 2006, đã tạm đình chỉ việc giao chuyển khí đốt cho Ucraina
Grudia, khi hai chính phủ y chiều hướng thân phương y, sau đó cung
cấp lại, nhưng tăng giá giảm cung cấp khí đốt cho Hungari, Áo, Italia giữa mùa
đông giá rét thấu xương năm nay lục dịa châu Âu... Tình trạng rối loạn này đã tới
mức cảnh báo, bởi vấn đề an ninh năng lượng đã trở thành chủ đề trọng tâm tại cuộc
gặp Bộ trưởng các nước G8 diễn ra hồi tháng 2/2006. Trong cuộc họp của các chuyên
gia về năng lượng ngày 15/2 tại Bérlin (Đức), ông Luc Werring, Quan chức cấp cao
EU, cũng đã nhấn mạnh tới lợi ích chiến lược nhằm giảm sự phụ thuộc của châu Âu
đối với nguồn cung dầu mỏ từ Trung Đông Nga, đồng thời cho rằng việc tăng
cường các biện pháp an ninh đã trở thành một vấn đề cơ bản.
Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia luôn luôn một trong những mục tiêu hàng
đầu của các chính sách, chiến lược đối nội đối ngoại của Mỹ. Tổng thống M
3
G.W.Bush từ đầu m tới nay đã nhiều lần nhấn mạnh đến sự cần thiết Mphải
giảm phụ thuộc vào nhập khẩu dầu khí vượt qua cái gọi "nền kinh tế dựa vào
năng lượng", trong đó việc tăng cường đầu phát triển các nguồn năng lượng thay
thế. Động thái trên cũng giải thích hơn tại sao Mỹ hiện nay nỗ lực can dự vào mọi
nơi nguồn dự trữ dầu khí giàu như Trung Đông, Trung Á châu Phi, cũng
như việc các nước xuất khẩu dầu mỏ không do dự tăng sản lượng khai thác để đáp ứng
nhu cầu ng nhanh của thế giới. Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng đã quyết định
lấy chủ đề an ninh năng lượng là trọng tâm của các cuộc đàm phán của nhóm G8 năm
nay, khi nước này nhận chức Chủ tịch Nhóm gần đây đã tuyên bố xoá nợ 700
triệu USD cho các nước nghèo để giải quyết vấn đề năng lượng ở các nước đó. Đối với
EU, với con át chủ bài Năng lượng”, Tổng thống V.Putin không những giảm được
khoản nợ nước ngoài (Hiện mức 50 tỉ USD) còn dùng m chìa khoá mở cửa
thị trường hơn 450 triệu dân của EU. Khi cán cân quyền lực rơi vào tay thân phương
Tây sau sự sụp đổ của Liên phe hội chủ nghĩa. Nga đã vạch ra kế hoạch leo
trở lại đỉnh cao quyền lực không bằng con đường quân sự hay chính trị, bằng sự
kiểm soát năng lượng.
Toàn cảnh ngành dầu khí thế giới đã sự thay đổi sâu sắc trong 3 năm qua. Cuộc
xâm lược của Mỹ vào Irắc năm 2003 đã đẩy nước thành viên quan trọng của Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) này vào tình trạng bị bất ổn liên miên, sản lượng
dầu giảm mạnh từ 2,5 triệu xuống còn 1,5 triệu thùng/ngày, đẩy giá trung bình rổ dầu
thô của OPEC tăng vọt từ 24,36 USD/thùng năm 2002 lên 50,58 USD/thùng năm 2005
và năm nay giá dầu đang tiến dần tới ngưỡng cửa 80 USD/thùng.
Trữ lượng ng lượng thế giới giờ đây còn rất hạn chế. Mặc dù đã nhiều cố gắng
nghiên cứu tìm các nguồn nằng lượng khác, nhưng các loại nhiên liệu hoá thạch vẫn
còn cung cấp tới 80% nhu cầu năng lượng thế giới. Các dạng ng lượng lại không
phân bố đồng đều trên thế giới, nhất là dầu mỏ; Vùng Trung Đông có trữ lượng 65,4%,
nhưng nhu cầu chỉ 6%, trong khi đó các nước phát triển nhu cầu 62%, nhưng trữ
lượng chỉ 9,7%. các nước phát triển phần lớn đều chỉ trữ ợng than đá lớn.
Than y ô nhiễm, nhưng do giá xăng dầu, khí đốt cao, mặc dầu phải trả tiền phạt 20
euro/1 tấn khí thải CO2 (theo Nghị định thư Kyoto), nhưng vẫn lợi nhuận chi phí
chỉ 40 Euro/Mwh, so với 56 Euro/Mwh sử dụng nhiên liệu khí đốt. Do vậy, tại các
nước phát triển, vẫn đẩy mạnh việc sử dụng công nghệ nhiệt điện từ nguồn năng lượng
này.
Ở mức độ chung toàn cầu hiện nay, an ninh năng lượng chủ yếu gắn chặt chẽ với an
ninh dầu mỏ, giá dầu mỏ nguồn gốc của sự mất an ninh năng lượng. Ngược với
sốc dầu lửa vào các năm 1973-1974 1979-1980, sự tăng giá dầu không mong đợi
cùng với mối lo ngại liên quan đến an ninh năng ợng hiện nay không phải kết quả
của một lệnh cấm vận, của việc giảm lượng dầu xuất khẩu, hay việc sử dụng dầu lửa
như một thứ vũ khí của các nước sản xuất. Nó chịu ảnh hưởng của hai loại nhân tố:
- Loại thứ nhất liên quan đến địa-chính trị, nhất là các vụ tấn công và sự bất ổn định
chính trị ở Trung Đông và Nigiêria, căng thẳng hạt nhân giữa Iran với Mỹ và EU.
4
- Loại thứ hai các nhân tố khác tác động trực tiếp tới cân đối cung-cầu. Đó nhu
cầu tiêu thụ dầu mỏ thế giới ngày một tăng. Sau mức tăng trung bình 1,54% trong giai
đoạn 1992-2002, nhu cầu dầu mỏ thế giới đã tăng 1,93% (năm 2003) 3,7% (năm
2004) để đạt mức kỷ lục 82,1 triệu thùng/ngày (2004) sau đó 83,2 triệu
thùng/ngày (năm 2005). Như vậy, chỉ trong vòng 3 năm, nhu cầu dầu lửa đã tăng trung
bình 5,5 triệu thùng/ngày. Nhất tại Trung Quốc, mức cầu dầu lửa đã ng klục, từ
7,6% (2003) lên 15,8% (2004). Theo các số liệu đánh giá của quan năng lượng
quốc tế (IEA) và Bộ Năng lượng Mỹ (DOE), nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ tăng gần 50%
trong vòng 25 năm tới, từ 83,2 triệu thùng/ngày (năm 2005) lên 115,4 triệu thùng/ngày
(năm 2030). Theo Tập đoàn dầu mỏ MChevron Texaco, nếu thế giới trước đây phải
mất 125 năm để tiêu thụ hết 1.000 tỷ tấn dầu đầu tiên, thì nay chỉ cần 30 năm.
Một vấn đề y lo ngại khác từ 20 năm nay, sản lượng dầu thô được hút từ lòng
đất đã vượt mức dầu thô được phát hiện.
Một nguy cơ khác cũng đe dọa thị trường dầu lửa. Đó tình trạng suy giảm sản
xuất trong một số nước xuất khẩu dầu tình trạng phổ biến về việc thiếu đầu
đầu tư không thích đáng cho phát triển năng lực cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng. Do giảm sản lượng dầu thô tăng nhu cầu nội địa, nhiều nước hôm qua
còn nước xuất khẩu dầu lửa, thì nay đã trở thành ớc nhập khẩu (Inđônêxia, Ai
Cập, Tuynidi, Mỹ), hay nguy trở thành những nước nhập khẩu dầu ròng trong
những năm tới nGabông, Ôman, Xyri. Nghiên cứu cho thấy mức suy giảm sản xuất
dầu lửa Mêhicô nhanh hơn dự báo, nhất sản lượng khai thác mỏ Cantarelle, với
2 triệu thùng/ngày, chiếm 60% sản ợng của Mêhicô. Tình trạng ơng tự đang diễn
ra khu vực Biển Bắc, IEA dự báo sản ợng khai thác giảm từ 6,6 triệu thùng/ngày
năm 2002 xuống còn 2,2 triệu thùng/ngày vào năm 2030. Không chắc chắn
ngay cả với khu vực Trung Đông, nơi sản lượng khai thác được dự báo sẽ tăng gấp 2
lần từ nay đến năm 2025 để đáp ứng với nhu cầu gia tăng của thế giới. Tuy nhiên, dự
báo y vẻ phi hiện thực. Chỉ Arập Xêút đang thực hiện chương trình tăng năng
lực sản xuất từ 10,8 triệu thùng/ngày như hiện nay lên 12,5 triệu thùng/ngày vào năm
2009. Triển vọng tương tự khó thể xy ra với Iran, Irắc Côoét-khi cuộc nội
chiến Irắc vẫn còn đang khốc liệt sự căng thẳng giữa Iran Mcùng với các
nước trong khối EU gia tăng. Theo Tờ Thời báo tài chính (Anh) cho rằng châu Âu
Mỹ ngày càng phụ thuộc vào dầu lửa của Trung Đông sẽ trở thành nơi xuất khẩu
sản phẩm dầu đã tinh lọc lớn nhất trong mười m tới. quan năng lượng quốc tế
(IEA) ước tính từ năm 2004 đến m 2030, các ớc Trung Đông sẽ chi 89 tUSD
cho ngành công nghiệp lọc dầu. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), nơi
chiếm 40% tổng khối lượng dầu mỏ cung ứng cho toàn thế giới, dự định sẽ tăng khả
năng lọc dầu thêm khoảng 6 triệu thùng/ngày trong 7 năm tới. Các thành viên của
OPEC, chyếu các nước Trung Đông, hiện chiếm 3/4 trữ lượng dầu mỏ thế giới,
không những dự định xây các nhà máy lọc dầu trong nước, mà còn muốn xây dựng các
nhà máy lọc dầu ở nước ngoài, đặc biệt là ở châu Á. Trong bối cảnh đó, vai trò của các
nước Trung Đông sẽ ngày càng quan trọng hơn, khi họ nắm phần lớn nguồn dầu lửa