Thành Phố Hồ Chí Minh, Tháng 5 năm 2007
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
MỞ ĐẦU
Nơtrinô hạt ẩn nhất trong số các hạt ta biết được trong vũ trụ chúng
cũng những hạt ít được biết đến nhất. . luôn cho ta nhiều bất ngờ. Các tiên
đoán về sự tồn tại của hạt ẩn này về phương diện thuyết đã được Wolfgang
Pauli công bố tnhững m 1930 nhưng mãi đến hơn 25 m sau, năm 1956,
nhóm nghiên cứu của nhà bác học Clyde Cowan mới ghi nhận được sự tồn tại của
hạt này trong thực nghiệm.
Sau sự phát hiện ra hạt ẩn này, các nhà vật đã dành khá nhiều thời gian
để nghiên cứu các tính chất, đặc đim cũng như các ứng dựng của hạt nơtrinô. Hạt
nơtrinô không chỉ được ứng dụng khi quan t các quá trình phóng xạ còn
một trong những tác nhân quan trọng giúp cho các nhà thiên văn vật quan sát
nhân mặt trời. Mặt Trời cũng bức xạ vô số nơtrinô, sinh ra trong các phản ứng
nhiệt hạch trong lòng của mình. Các nơtrinô này được sinh ra chỉ một lọai, nhưng
trong quá trình di chuyển đến Trái Đất, chúng lại biến qua hai loại kia một cách
ẩn.
Hơn nữa, việc thu nhận các bức xạ từ ngoài trụ (trong đó nơtrinô)
một trong những nguồn nghiên cứu của các nhà bác học nhằm m hiểu lịch sử
hình thành vũ trụ cũng như khám phá thêm các bí ẩn về cuộc sống này.
Gần đây, một số nghiên cứu đã công bố một số khám phá mới về hạt nơtrinô. Cụ
thể nơtrinô khối lượng chứ không phải không khối lượng nhưng đã được
tiên đoán. Các nơtrinô khối lượng, nhưng hạt nơtrinô nặng nhất cũng chỉ bằng
một phần triệu khối lượng của hạt tích điện nhnhất. Việc neutrino khối lượng
nhỏ như vậy thể do chúng nhận được khối lượng từ một quy luật vật còn
chưa biết, thể liên quan đến lực thống nhất. Việc khảo sát chi tiết các tính chất
hạt nơtrinô - khối lượng, cách thức chúng biến từ lọai này qua loại kia, chúng
phải phản hạt của chính mình không, v.v… - sẽ cho ta biết nơtrinô có phải
hạt vật chất thông thường không, hay lại là cái gì khác.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
Như vậy, ngành vật lý thêm một hướng mới cũng như thêm một nhiệm
vụ mới, giải thích sự tồn tại khối lượng của hạt này trong các hình trụ.
Ngoài ra, Các nhà khoa học cần suy tính tới việc các quá trình vật trước đây có
sự thay đổi hay không khi xuất hiện hạt nơtrinô có khối lượng?
Trong tiều luận này, việc nghiên cứu hạt nơtrinô chỉ nhằm mục đích có thêm
nhiều thông tin vhạt này. Do đó, tiểu luận bao gồm những nội dung chính sau
đây:
- Lịch sử khám phá ra hạt nơtrinô
- Các đặc tính của hạt nơtrinô
- Các nguồn phát nơtrinô chủ yếu
- Việc thu nhận hạt nơtrinô trong các phòng thí nghiệm trên thề giới
I. Lịch sử khám phá ra hạt nơtrinô
1. Giai đoạn trước nơtrinô
Lịch sử khám phá ra hạt nơtrinô gắn liền với quá trình phóng xạ vì vậy
trước hết cần điểm qua vài móc lịch sử trước khi con người m ra nơtrinô.
Năm 1896 Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ từ các muối
Urani, sau đó vchồng nhà bác học Pierre Marie Curie đã tách được
Radi nguyên chất, một nguyên tố phóng xạ mạnh hơn Urani. Năm 1899
Rutherford đã chỉ ra hai loại phóng xạ alpha beta, đến m 1900
Villard đã tìm ra loại thứ ba gọi phóng xạ gamma. m 1902, vchồng
Pierre Marie Curie đã xác nhận chum phóng xạ beta thực chất chùm
electron, liên tiếp bản chất các chùm phóng xạ alpha cũng được xác nhận là
các hạt nhân của He, phóng xạ gamma là những photon mang năng
lượng lớn (vài MeV).
Chùm phóng xạ beta (là các electron) được tiên đoán chỉ chùm
electron được giải phóng đáng phải gtrị năng lượng phù hợp với
định luật bảo toàn. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu lưỡng, nhóm khoa học
Lise Meitner, Otto Hahn, Wilson and von Baeyer, James Chadwick đã chỉ
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
ra rằng năng lượng của c electron nằm trong miền liên tục. Việc tiếp tục
tin vào định luật bảo toàn năng lượng hay không một vấn đề được bàn
cãi thời bấy giờ. Nhà bác học Niels Bohr vẫn tin vào định luật tổng quát
này nhưng phải đợ đến m 1930, Wolfgang Pauli mới đưa ra lời giải cho
bài toán này.
2. Giai đoạn 1930 – 1940: khai sinh ra nơtrinô
Hiện tại, chúng ta được biết hạt nơtrinô đã từng 15 tỉ m về trước,
sau khi vũ trụ ra đời. Từ lúc đó,trụ lien tục giãn nở, lạnh đi các nơtrinô
bắn theo mọi hướng. Về phương diện thuyết, các nơtrinô này hiện nay rất
nhiều và chúng tham gia cấu thành bức xạ nền vũ trụ (nhiệt độ khoảng 1.9K).
Ngoài ra các hạt nơtrinô khác cũng được sinh ra trong các ngôi sao hay trong
các vụ nỗ.
Tuy nhiên, ý tưởng về nơrinô chỉ xuất hiện vào m 1930, khi Pauli
đang ra sức bảo v định luật bảo toàn năng lượng. Ngày 4 tháng 12 m
1930, tại hội thảo Tubingen, Pauli đã đọc tham luận của mình trong đó
nêu ra ý tưởng về hạt mới. Năm 1932, J. Chadwick phát hiện ra hạt nơtron,
tuy nhiên nơtron nặng khong phù hợp với các tiên đoán của Pauli. Năm
1933, tại hội nghỉ ở Bruxelles, Pauli mô tả hạt này như sau:
“Khối lượng của chúng nhẹ hơn nhiều rất lần khối lượng electron. Để
phân biệt với hạt nơtron, ông Fermi đã đề nghị gọi nơtrino (neutrinos).
Khối lượng của chúng cò thề bằng không, tôi chắc rằng spin bằng 1/2. Chúng
ta không biết về tương tác của chúng với những hạt vật chất khác với
photon. Giả thiết chúng có thể có momen từ.”
Năm 1933, F.Perrin chỉ ra rằng khối lượng của nơtrinô phải nhỏ rất nhiều
khôi lưởng của electron. Trong năm đó, Anderson khám phá ra hạt positron,
phản hạt đầu tiên của vật chất đã được Dirac tiên đoán thuyết. Khám phá
này càng làm cho thuyết về nơtrinô của Pauli Fermi thêm đảm bảo.
Cuối năm 1933, Frederic Joliot-Curie phát hiện ra phóng xạ beta cộng (phát
ra positron), trong khi đó Enrico Fermi đã ng già thiết về nơtrinô để xây
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.
dựng thuyết vhiện tượng phân bêta (trong tương tác yếu). Cuộc truy
tìm hạt nơtrinô bắt đầu nhưng mọi người vẫn chưa thật sự quyết tâm đến khi
Hans Bethe Rudolf Peierls chỉ ra tiết diện tán xạ của nơtrinô với vật chất
rất nhỏ: nhỏ hơn một tỉ lần so với tương tác của electron. vậy, hạt nơtrnô
tương tác quá yếu nên thể đi xuyên qua trái đất không bị lệch
hướng.
3. Giai đoạn 1935 – 1956
Đến cuối những m 40, các nhà vật đã nổ lực để quan sát sự tán
xạ ngược của nuclon trong suốt quá trình phân rả beta của nó. Tất cả các
đại lượng đo đượng đều phù hợp với giả thiết chỉ một loại nơtrinô được
phát ra từ electron. Tuy nhiên, không một phương quan sát nào thể ghi
nhận được do xác suất tương tác quá nhỏ. Các nhà bác học cần một nguồn
rất lớn các hạt nơtrinô các thiết bị thăm cũng rất lớn, rất nhạy. m
1939, Luis Alvarez cho thấy Triti ồng vị hydro) tính phóng xạ, đến
bây giờ nguồn phóng xạ beta tTriti vẫn được sử dụng cho giá trị khối
lượng nơtrinô tốt nhất.
Năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên phát nổ các nhà bác học
đã nhận ra một nguồn năng lượng đáng kể t nơtrinô. Frederick Reines,
đang m việc tại Los Alamos, trao đổi với Fermi về dự án đặt máy
nơtrinô gần khu vực bom nổ. Năm 1952, Reines gặp Clyde Cowan đã
đồng ý sử dụng một nguồn nơtrinô an toàn hơn, dự án hạt nhân của
Hanford, Washington. Các máy thăm lặp tức được xây dựng cho kết
quả vào mùa m 1953. Tuy nhiên, tín hiệu cho ra không thuyết phục.
Họ đã cố gắng thực hiện lại các thí nghiệm cho đến m 1956 gần sông
Savannah, Bắc Carolina. Các cải tiến lần này nhằm giảm tín hiệu nền và đã
cho kết quả mĩ mãn. Các tín hiệu có thể thấy rõ qua máy dò trên nền bức xạ
vũ trụ.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.