
Áp-xe phổi Thông tin cơ bản
THÔNG TIN CƠ BẢN
Định nghĩa
Áp-xe phổi là tình trạng tụ mủ khu trú trong phổi dẫn đến hình thành hang, thường có thành dày.[1] [2] Áp-xe thường xảy
ra nhất khi tình trạng nhiễm khuẩn gây hoại tử nhu mô phổi, hình thành 1 hoặc nhiều hang. Sự thông thương giữa các
hang này với cây phế quản dẫn đến ho khạc đờm mủ và xuất hiện các mức khí - dịch trên CXR.[3]
Dịch tễ học
Tỷ lệ mắc mới và tỷ lệ tử vong do áp-xe phổi đã giảm đáng kể trong vài thập kỷ qua do sử dụng rộng rãi thuốc kháng
sinh và sự sẵn có các lựa chọn điều trị khác. Tỷ lệ mắc mới cũng giảm vào cuối những năm 1940 đến những năm 1950,
sau khi thực hành phẫu thuật răng miệng và cắt bỏ amiđan ở tư thế ngồi đã bị chấm dứt, vì rõ ràng rằng điều này có thể
dẫn đến hình thành áp-xe phổi.[6]
Đã có báo cáo về chiều hướng thay đổi bệnh tật ở các nước phát triển trong đó áp-xe phổi thứ phát do các tình trạng bệnh
lý tiềm ẩn, như khối u ác tính hoặc tình trạng ức chế miễn dịch, đang trở nên ngày càng phổ biến.[7] [8] Tại Pháp, đã
quan sát thấy tỷ lệ mắc mới viêm phổi có biến chứng tràn mủ màng phổi hoặc áp-xe phổi tăng ở nhóm đối tượng trẻ em
từ năm 1999 đến năm 2003.[9] Có 4,0 cho đến 5,5 trên 10.000 ca nhập viện mỗi năm tại Hoa Kỳ là do áp-xe phổi.[10]
Áp-xe phổi xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường gặp nhất từ sáu mươi đến tám mươi tuổi và thường thấy ở nam
giới.[8] [11] [12] [13]
Bệnh căn học
Áp-xe phổi thường là do nhiễm nhiều loại vi sinh vật. Vi khuẩn kỵ khí xuất hiện rất nhiều trong khe lợi, cụ thể là khi
mắc bệnh nha chu và đây là các mầm bệnh chính. Các vi sinh vật thường được phân lập nhiều nhất là peptostreptococci,
Bacteroides, Prevotella species và Fusobacterium species. Liên cầu khuẩn ưa vi khí là các tác nhân gây bệnh chính ở bệnh
nhân có sức đề kháng bình thường, và liên cầu khuẩn viridans cũng thường có mặt.[14] [15] [16] [17] [18] [19] Ở bệnh
nhân đái tháo đường, cần coi Klebsiella pneumoniae là tác nhân gây bệnh cùng với vi sinh vật kỵ khí.[5] Đã có báo cáo
về tụ cầu vàng dương tính với Panton-Valentine leukocidin là nguyên nhân gây ra nhiều ca áp-xe phổi.[20] [21] Ngoài ra,
đã có báo cáo là loài Gemella cũng là các mầm bệnh quan trọng.[22] Hơn nữa, việc xác định Actinomyces và Nocardia là
quan trọng để xác định thời gian dùng thuốc kháng sinh phù hợp.[22]
Áp-xe xảy ra dưới dạng biến chứng của viêm phổi thường do một loại vi sinh vật và do vi khuẩn hiếu khí như S aureus, K
pneumoniae, Haemophilus influenzae, Pseudomonas aeruginosa, Escherichia coli, Pasteurella multocida, Burkholderia, loài
Legionella, Streptococcus pneumoniae và liên cầu khuẩn nhóm A.[18] [23]S aureus và P aeruginosa thường được phân lập
trong trường hợp áp-xe phổi mắc phải trong bệnh viện hoặc viêm phổi hoại tử sau khi các vi sinh vật này xâm nhập vào
miệng - hầu.
Áp-xe phổi ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thường do nhiều mầm bệnh, mặc dù các vi sinh vật kỵ khí không được
phân lập ở các mẫu bệnh phẩm từ các bệnh nhân này.[24] Ở những bệnh nhân suy giam miễn dịch qua trung gian tế bào,
áp-xe phổi gây nên do các mầm bệnh cơ hội như mycobacteria, Nocardia, Aspergillus và Rhodococcus. Ở bệnh nhân giảm
bạch cầu, vi khuẩn hiếu khí (S aureus, P aeruginosa và loài Haemophilus) và nấm (ví dụ: Aspergillus và nấm tiếp hợp) là
các mầm bệnh quan trọng.
Vi sinh vật gram âm, như P aeruginosa, được cho là có liên quan đến áp-xe phổi xảy ra dưới dạng biến chứng của viêm
phổi hoặc ở bệnh nhân bị ức chế miễn dịch, áp-xe phổi mắc phải tại bệnh viện, hoặc viêm phổi hoại tử sau khi các vi sinh
vật này xâm nhập vào miệng - hầu.[25]
4Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này
dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: Mar 28, 2018.
Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và
bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải
tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2018. Giữ mọi bản quyền.