intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Các vi sinh vật gây nhiễm trùng tiết niệu

Chia sẻ: Trần Thị Xinh Tươi | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

60
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài giảng Các vi sinh vật gây nhiễm trùng tiết niệu" với mục tiêu giúp người học mô tả các vi sinh vật, đặc điểm cơ bản về vi sinh vật, đường lây truyền bệnh các vi sinh vật gây nhiễm trùng đường tiết niệu; trình bày được các đặc trưng về tính chất gây bệnh, chẩn đoán phòng thi nghiệm và nguyên lý về phòng và điều trị các vi sinh vật gây nhiễm trùng tiết niệu thường gặp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Các vi sinh vật gây nhiễm trùng tiết niệu

  1. CÁC VI SINH VẬT GÂY NHIỄM TRÙNG TIẾT NIỆU Mục tiêu học tập: 1. Mô tả các vi sinh vật, đặc điểm cơ bản về vi sinh vật, đường lây truyền bệnh các vi  sinh vật gây nhiễm trùng đường tiết niệu. 2. Trình bày được các đặc trưng về tính chất gây bệnh, chẩn đoán phòng thí nghiệm và  nguyên lý về phòng và điều trị các vi sinh vật gây nhiễm trùng tiết niệu thường gặp I. KHÁI NIỆM VỀ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU  Nhiễm trùng đường tiểu theo vị  trí người ta chia nhiễm trùng đường tiểu dưới gồm   viêm niệu đạo, viêm bàng quang, viêm tiền liệt tuyến. Nhiễm trùng đường tiểu trên như viêm   đài, bể  thận cấp, nhiễm trùng các vị  trí này có thể  xảy ra cùng lúc hoặc riêng rẽ  và có thể  không có triệu chúng lâm sàng hoặc có triệu chứng rõ.  1. Các vi khuẩn gây bệnh Nhiều vi khuẩn khác nhau có thể gây nhiễm trùng đường tiểu, thường gặp nhất là các  trực khuẩn Gram âm, trong đó E.coli (xem bài các vi sinh vật gây bệnh  ở  đường tiêu hóa)  chiếm gần 80% nhiễm trùng cấp tính  ở  bệnh nhân không có bất thường về  đường tiết niệu  hoặc do sỏi. Các vi khuẩn Gram âm khác gồm Proteus, Klebsiella, enterobacter, serratia và  Pseudomonas (xem các vi khuẩn gây nhiễm trùng ở da và phần mềm) chiếm tỷ lệ thấp hơn  Cầu khuẩn Gram dương có ít vai trò trong nhiễm trùng đường tiểu, các Enterococci và  Staphylococcus aureus (xem các vi khuẩn gây nhiễm trùng da và phần mềm) gây nhiễm trùng  ở   bệnh   nhân   sỏi   thận   hoặc   bệnh   nhân   có   đặt   dụng   cụ   trước   đây.   Khi   phân   lập   có  Staphylococcus aureus, nên nghi ngờ có nhiễm khuẩn máu.  Các virus có thể gây viêm thận bể thận,  ở người cytomegalovirus (CMV) thường tìm   thấy ở nước tiểu mà không có triệu chứng về thận, một số virus adeno gây viêm bàng quang  xuất huyết cấp tính. Candida và các loại nấm khác có thể  tìm thấy trong nước tiểu  ở  bệnh   nhân đặt sond tiểu hoặc ở bệnh nhân đái tháo đường. 2. Chẩn đoán nhiễm trùng đường tiểu Các triệu chứng lâm sàng không có giá trị  chẩn đoán nhiễm trùng đường tiểu và vị trí  nhiễm trùng. Nhiều bệnh nhân tiểu với lượng lớn vi khuẩn nhưng hoàn toàn không có triệu   chứng. Trong viêm bể  thận cấp các triệu chứng như  sốt cao, lạnh run, buồn nôn, mữa, tiêu   chảy có tính chất gợi ý. Cấy định lượng vi khuẩn trong nước tiểu là phương pháp chẩn đoán  có tính chất quyết định và định danh được vi sinh vật gây bệnh. Lấy mẫu nước tiểu ở vị trí bị  nhiễm trùng, tránh nhiễm bẩn từ  bên ngoài. Thường là nước tiểu giữa dòng, nước tiểu qua   sond hay qua chọc trên xương mu. Về vi khuẩn học nhiễm trùng đường tiểu xảy ra khi có vi   khuẩn gây bệnh trong nước tiểu, trong niệu  đạo, thận và tuyến tiền liệt. Trong hầu hết   trường hợp khi cấy nước tiểu có 105 vi khuẩn (CFU) / ml ( CFU = colony forming unit ) nước   tiểu lấy giữa dòng sạch thì được xem là nhiễm trùng đường tiểu. Tuy nhiên có những trường   hợp có nhiễm trùng đường tiểu thực sự nhưng số lượng vi khuẩn trong nước tiểu giữa dòng   chỉ 102 ­104 / ml. Mẫu nước tiểu lấy bằng chọc hút trên xương mu hoặc qua đặt sonde tiểu, số  lượng vi khuẩn 102  ­104  /ml được xem là nhiễm trùng, ngược lại đôi khi số  lượng vi khuẩn   trên 105 vi khuẩn/ ml có thể do nhiễm bẩn. II. CÁC VI KHUẨN GÂY NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU
  2. 2.1. ESCHERICHIA COLI  Escherichia coli (E.coli) thuộc họ  Enterobacteriaceae, là những vi khuẩn ký sinh, bình  thường có ở ruột, nhưng đồng thời cũng là tác nhân gây bệnh khi chúng xâm nhập vào các cơ  quan khác như  đường niệu, đường máu..., và có một số chủng E. coli có khả năng gây bệnh  tiêu chảy như ETEC, EPEC, EIEC...  E.coli là trực khuẩn gram âm, di động do có lông quanh thân, một số chủng  E.coli có  vỏ polysaccharide, không sinh nha bào, là vi khuẩn hiếu khí hoặc kỵ khí không bắt buộc, phát   triển dễ dàng trên các môi trường nuôi cấy thông thường E.coli có rất nhiều typ huyết thanh mà công thức dựa vào sự  xác định kháng nguyên   thân O, kháng nguyên vỏ K và kháng nguyên lông H. Kháng nguyên O: Có khoảng 150 yếu tố khác nhau về mặt huyết thanh. Kháng nguyên K: Được chia ra thành loại L, A hoặc B tùy theo sức đề  kháng đối với   nhiệt. Có chừng 100 kháng nguyên K khác nhau. Kháng nguyên H: Đã xác định đượ c  khoảng 50 yếu tố H. 2.1.1. Các E.coli gây bệnh tiêu chảy ở người:  2.1.1.1. Enterotoxigenic E.coli (ETEC) Là loại E.coli sinh độc tố  ruột. ETEC là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy nặng   giống triệu chứng do Vibrio cholerae 01 gây ra ở người. Cơ chế gây bệnh: ETEC vào ruột sẽ gắn vào niêm mạc ruột nhờ các yếu tố bám dính,   đồng thời sản sinh ra độc tố  ruột tác động lên tế  bào niêm mạc ruột gây xuất tiết ra một số  lượng lớn một chất dịch đẳng trương với huyết tương. Bệnh nhân nôn, tiêu chảy liên tục,   phần lớn có đau nhức bắp cơ, đau bụng và sốt nhẹ. Có hai loại độc tố  ruột đã đượ c  nghiên cứu kỹ  về  tính chất sinh lý, sinh hóa và tính  truyền bằng plasmid đó là: Độc tố  ruột LT (Heat­ labile) và độc tố  ruột ST (Heat ­ stable).  Những chủng ETEC có thể sinh ra 1 hoặc 2 loại độc tố ruột tùy thuộc vào plasmid mà chúng   mang. LT là loại độc tố  ruột bị hủy bởi nhiệt, có cấu tạo và cơ  chế gây bệnh tương tự  như  độc tố ruột của vi khuẩn tả.  ST là loại độc tố ruột kháng nhiệt, là một phân tử có trọng lượng thấp nhất và không  có tính kháng nguyên. Thụ thể dánh cho ST khác với thụ thể LT. Sau khi đã gắn với thụ thể,  ST sẽ  hoạt hóa guanyl cyclase trong tế  bào niêm mạc ruột. Hiện tượng này dẫn tới sự  tăng   guanosin monophosphat vòng (GMP vòng) và do đó xảy ra tình trạng tăng tiết dịch ở ruột. 2.1.1.2. Enteropathogenic E.coli (EPEC :  EPEC hiện nay  đượ c   biết gồm một số  typ huyết   thanh thường gây bệnh tiêu chảy cấp (bệnh viêm dạ  dày ­ ruột)  ở  trẻ  em lứa tuổi nhỏ  (trẻ  dưới một tuổi), có thể gây thành dịch. Các vụ dịch do EPEC thường hay gặp trong bệnh viện,   cơ chế gây bệnh của EPEC chưa đượ c  biết rõ.  2.1.1.3.Enteroinvasive E.coli (EIEC): Là loại E.coli gây bệnh bằng cơ  chế  xâm nhập tế  bào  biểu mô niêm mạc ruột, gây tiêu chảy ở người lớn và trẻ em với những triệu chứng bệnh lý   giống Shigella: nghĩa là đau bụng quặn, mót rặn, đi tiêu nhiều lần, phân có nhiều mũi nhầy và   máu. 2.1.1.4. Enteroadherent E.coli (EAEC : Là loại E.coli bám dính đường ruột gây bệnh do bám  vào niêm mạc và làm tổn thương chức năng ruột. 2.1.1.5. Enterohemorrhagic E.coli (EHEC ) : EHEC là một trong những tác nhân gây tiêu chảy  có thể  dẫn tới viêm đại tràng xuất huyết và hội chứng tan máu ­ ure huyết. EHEC là những  
  3. chủng E.coli có khả  năng sản xuất một độc tố  gây độc tế  bào Vero (Verocytotoxin), gọi là   VT. 2.1.2. Chẩn đoán vi sinh vật Chủ yếu là chẩn đoán trực tiếp phân lập vi khuẩn từ bệnh phẩm. Trong bệnh tiêu chảy do  E.coli  thì cấy phân để  phân lập vi khuẩn. Giữa các nhóm   E.coli   không thể  phân biệt đượ c  bằng các thử  nghiệm sinh vật hóa học. Đối với EPEC thì  xác định typ huyết thanh bằng các kháng huyết thanh mẫu. Đối với ETEC thường  đượ c  xác  định bằng các thử nghiệm tìm khả năng sinh độc tố ruột thông thường nhất là tìm độc tố ruột   bằng thử nghiệm ELISA. Đối với EIEC cần xác định tính xâm nhập, có thể dùng thử nghiệm   Sereny để xác định. Đối với EHEC tìm khả năng sinh verocytotoxin. 2.2. TRỰC KHUẨN MỦ XANH (Pseudomonas aeruginosa) Pseudomonas aeruginosa  thường tìm thấy trong đất, trong nước hoặc trên cơ thể người   và động vật. Trực khuẩn mủ xanh là tác nhân chính của nhiễm trùng bệnh viện và các nhiễm   trùng cơ hội.  2.2.1. Đặc điểm sinh vật học  2.2.1.1. Hình thể Trực   khuẩn   Gram   âm,   kích   thước   thay   đổi   thông   thường   nhỏ   và   mảnh,  1,5 ­ 3  m, thường họp thành đôi và chuỗi ngắn, rất di động, có lông ở  một đầu, hiếm khi   tạo vỏ và không tạo nha bào.  2.2.1.2. Tính chất nuôi cấy  Vi khuẩn hiếu khí, mọc dễ dàng trên các môi trường nuôi cấy thông thường như thạch  dinh dưỡng, thạch máu, canh thang. Nhiệt độ  thích hợp 30 ­ 37  0C, nhưng có thể  phát triển  được ở 410C. pH thích hợp là 7,2­7,5. Khuẩn lạc thường lớn, trong, bờ đều hoặc không đều,   có thể có ánh kim loại, màu xám nhạt trên nền môi trường màu hơi xanh, mùi thơm. Cũng có   thể gặp loại khuẩn lạc xù xì hoặc nhầy.  Tính chất đặc trưng của trực khuẩn mủ  xanh là sinh sắc tố  và chất thơm. Trên môi   trường nuôi cấy có pepton, vi khuẩn có thể tiết ra các loại sắc tố sau : ­Pyocyanin: là loại sắc tố phenazin có màu xanh lơ, tan trong nước và chlorofoc, khuếch   tán ra môi trường nuôi cấy làm cho môi trường và khuẩn lạc có màu xanh. Sắc tố này sinh ra  thuận lợi trong môi trường tiếp xúc nhiều với không khí. Chỉ có trực khuẩn mủ xanh sinh sắc   tố pyocyanin. ­Pyoverdin: là loại sắc tố  huỳnh quang, phát màu xanh khi chiếu tia cực tím có bước   sóng 400 nm, tan trong nước nhưng không tan trong chlorofoc. Ngoài trực khuẩn mủ xanh còn  có một số loài Pseudomonas khác tạo thành sắc tố này. ­Pyorubrin: sắc tố màu hồng nhạt, chỉ 1% số chủng trực khuẩn mủ xanh sinh ra sắc tố  này. ­Pyomelanin: sắc tố  màu nâu đen, chỉ  1­2% số  chủng trực khuẩn mủ  xanh sinh sắc tố  này. Có khoảng 5­10% số chủng trực khuẩn mủ xanh không sinh sắc tố.  2.2.1.3. Tính chất sinh hoá Trực khuẩn mủ  xanh có oxydase dương tính, làm lỏng gelatin, khử  NO 3  thành N2. Sử  dụng   carbohydrat   bằng   hình   thức   oxy   hoá   có   sinh   axit   như   glucose,   mannitol,   glycerol,   arabinose...Lactose âm tính, Citrat simmon dương tính, ADH dương tính; Urease âm tính, indol  âm tính, H2S âm tính.
  4. 2.2.1.4. Kháng nguyên Vi khuẩn có kháng nguyên lông H không bền với nhiệt và kháng nguyên O chịu nhiệt.   Dựa vào kháng nguyên O, tới nay người ta chia trực khuẩn mủ xanh làm 16 type huyết thanh.   Cũng có thể định type phage nhưng thường định typ bacterioxin (pyocin) trong các vụ dịch. Cũng như  các trực khuẩn đường ruột, kháng nguyên O của trực khuẩn mủ  xanh mang   nội độc tố  bản chất gluxit­lipit­ protein. Nhưng trong cơ  chế  sinh bệnh quan trọng hơn là   ngoại độc tố. Trong 3 loại ngoại độc tố do vi khuẩn tạo thành ngoại độc tố A đượ c  xem như  là nhân tố  chủ  yếu về  độc lực, nó không bền với nhiệt, giết chết chuột nhắt, chuột lớn và   cản trở sự tổng hợp protein tương tự như độc tố bạch hầu. 2.2.2. Khả năng gây bệnh  Trực khuẩn mủ xanh là loại vi khuẩn gây bệnh có điều kiện. Vì vậy hiếm gặp nhiễm   trùng  Pseudomonas aeruginosa  ở  người bình thường trừ  nhiễm trùng thứ  phát như  viêm tai   ngoài mạn. Nhiễm trùng thường xảy ra ở những người mà cơ chế bảo vệ bị tổn thương như  sử dụng corticoid hoặc kháng sinh dài ngày, bỏng nặng hoặc tiêm tĩnh mạch ma túy...  Vị trí nhiễm trùng thông thường là đường tiểu và vết thương hở (nhất là vết bỏng). Tại   chỗ  xâm nhập chúng gây viêm có mủ  (mủ  có màu xanh),  ở  cơ  thể  suy giảm sức đề  kháng   chúng có thể  xâm nhập vào sâu hơn trong cơ  thể  và gây viêm các phủ  tạng như  các nhiễm   trùng nung mủ và những áp xe  ở những phần khác nhau  ở  cơ thể người. Những trường hợp   viêm màng trong tim, viêm phổi, viêm màng não tuy hiếm nhưng cũng xảy ra hoặc gây bệnh  toàn thân (như nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn ở trẻ mới đẻ hoặc đẻ non thường bệnh rất   trầm trọng). Nhiễm khuẩn máu thường gây chết xảy ra ở người suy nhược. Những năm gần đây nhiễm trùng trực khuẩn mủ xanh trở nên quan trọng do :điều trị  và phòng ngừa những nhiễm trùng khác bằng những kháng sinh mà nó đề kháng, sử dụng các   thuốc corticoit, thuốc chống chuyển hoá và thuốc giảm miễn dịch đã làm cho giảm sút sức đề  kháng của cơ  thể, sử  dụng các dụng cụ  thăm khám như   ống thông và các dụng cụ  khác để  thăm dò chưa được khử khuẩn tốt, sử dụng ngày càng rộng rãi máu và các sản phẩm của máu  mà ta không thể  khử khuẩn được trong khi các chất này có thể  bị nhiễm Pseudomonas. Trực  khuẩn mủ  xanh là một tác nhân nhiễm trùng bệnh viện đáng lưu ý: nhiễm trùng sau mổ  và  bỏng nặng. Nhiễm trùng trực khuẩn mủ xanh trong những trường hợp đó có thể gây chết. Tỷ  lệ tử vong do nhiễm trùng máu có thể vượt quá 80%. 2.2.3. Sinh lý bệnh học Một số tác giả đã chứng minh rằng trực khuẩn mủ xanh gây bệnh được là do: ­   Một   độc   tố   tạo   thành   từ   một   hỗn   hợp   chất   độc   gồm:   dung   huyết   tố,   protease,  lexitinase. ­ Kháng nguyên nhầy  ở  xung quanh vi khuẩn gồm một ADN gắn với gluxit­ lipit ­   protein của kháng nguyên O (nội độc tố) của vi khuẩn. Kháng nguyên đóng vai trò quan trọng  trong độc lực của vi khuẩn (có thể so sánh với vai trò của nội độc tố). 2.2.4. Chẩn đoán vi sinh vật Bệnh phẩm là mủ  của các vết thương bị  bội nhiễm, chất dịch phế quản, nước tiểu,   dich màng phổi... Trong chẩn đoán dịch tễ  học: dịch chuyền, dịch rửa vết thương, dụng cụ  ngoại khoa... là mẫu nghiệm.  Mẫu nghiệm được cấy lên môi trường thông thường như  thạch dinh dưỡng hoặc môi  trường có chất ức chế như môi trường Cetrimide. Ủ ở 37 0C trong khí trường thường.
  5. Chọn khuẩn lạc dẹt, lớn, bờ  không đều, bề  mặt có ánh kim loại, tạo sắc tố  hòa tan  nhuộm xanh khuẩn lạc và nhuộm xanh môi trường xung quanh khuẩn lạc. Xác định vi khuẩn  dựa vào trực khuẩn Gram âm, không sinh nha bào, oxidase dương tính, chuyển hoá đường theo   kiểu oxy hoá, đặc biệt khuẩn lạc có mùi thơm và sinh sắc tố  nhuộm màu môi trường xung  quanh khuẩn lạc. Đối với các chủng không sinh sắc tố cần cấy vào các môi trường tăng sinh  sắc tố như: King A (tăng sinh pyocyanin) và King B (tăng sinh pyoverdins). Người ta có thể sử  dụng những kỹ thuật khác nhau để  xác định được nguồn gốc của các chủng trực khuẩn mủ  xanh trong các nhiễm trùng bệnh viện. 2.2.5. Phòng ngừa và điều trị   Nhiễm trùng do Pseudomonas aeruginosa khó điều trị vì đề kháng với nhiều kháng sinh.  Những chủng thường gặp cho thấy vi khuẩn thường kháng với 3 kháng sinh hoặc hơn. Trong   điều trị phải làm kháng sinh đồ. Hiện nay thường sử dụng tobramycin, amikacin, carbenicillin,   cefaperazon, ceftazidim. Gần đây miễn dịch liệu pháp hoạt động và thụ động đượ c  sử dụng ở  bệnh nhân bỏng với kết quả khá tốt. Nhiễm trùng tại chỗ có thể rửa với 1% axít  axetic hoặc  bôi thuốc mỡ Colistin hoặc Polymycin B. 2.3. KLEBSIELLA PNEUMONIAE Klebsiella pneumoniae hay còn gọi là phế  trực khuẩn Friedlander là loại vi khuẩn rất   phổ biến trong thiên nhiên (nước, đất), nó ký sinh ở đường hô hấp trên của người, là tác nhân   “gây bệnh cơ hội”. 2.3.1. Đặc điểm sinh vật học 2.3.1.1. Hình thể   Trong bệnh phẩm K. pneumoniae có hình trực khuẩn ngắn, gram âm, bắt màu đậm  ở  hai cực, vi khuẩn này có nhiều hình thể, có khi như  cầu khuẩn, có khi lại hình dài, có vỏ,   không di động, không sinh nha bào. 2.3.1.2. Tính chất nuôi cấy  Vi khuẩn dễ mọc trên môi trường nuôi cấy thông thường. Trên thạch dinh dưỡng hay   thạch máu, khuẩn lạc lầy nhầy, màu xám. Trong canh thang, vi khuẩn mọc nhanh và đục đều,   ở đay ống có lắng cặn. 2.3.1.3. Tính chất sinh vật hóa học Lên men nhiều loại đường sinh  acid và hơi như  : Glucose, lactose, manit. Phản  ứng   indol âm tính, phản  ứng đỏ  metyl âm tính, phản  ứng VP dương tính, phản  ứng citrat dương   tính, urease dương tính, H2S âm tính. 2.3.1.4. Cấu trúc kháng nguyên  Kháng nguyên thân O : Có 5 type Kháng nguyên vỏ K : Bản chất là polysaccharide, mang tính chất đặc hiệu type, có 72   type, trong đó type 1 và type 2 hay gặp nhất trong nhiễm khuẩn đường hô hấp. 2.3.2. Khả năng gây bệnh cho người  Klebsiella pneumoniae  là loại vi khuẩn gây bệnh có điều kiện gọi là “gây bệnh cơ  hội”. Những “nhiễm trùng cơ  hội” xảy ra chủ  yếu  ở  môi trường bệnh viện và trên những   bệnh nhân bị  suy kiệt, suy giảm miễn dịch. Những điều kiện để  các “nhiễm trùng cơ  hội”  xuất hiện là : ­ Ngày càng có nhiều loại kháng sinh phổ rộng, việc sử  dụng kháng sinh rộng rãi và   thiếu thận trọng làm mất thế  quân bình của vi khuẩn chí bình thường, đồng thời làm cho vi   khuẩn được chọn lọc bởi kháng sinh và tạo nên sức đề kháng đối với kháng sinh.
  6. ­ Các thủ  thuật như  nội soi, thông tim... được phát triển và áp dụng ngày càng nhiều   trong các bệnh viện. Khi áp dụng các thủ  thuật này có thể đưa vi khuẩn vào cơ thể qua ống   thông... ­ Những bệnh nhân mà sức đề kháng giảm sút nghiêm trọng do mắc các bệnh làm suy   giảm miễn dịch (ví dụ: K máu, suy tủy...) Klebsiella pneumoniae có thể gây ra : Nhiễm trùng đường hô hấp dưới như  viêm phổi, viêm phế  quản phổi thứ  phát sau  cúm, sau sởi, sau ho gà hoặc  ở  các bệnh nhân đang hồi sức hô hấp (đang dùng máy hô hấp   nhân tạo). Nhiễm trùng máu : Thường gặp ở những bệnh nhân bị suy kiệt như xơ gan, ung thư  máu, suy tủy... Ngoài ra còn có thể  gây nhiễm trùng đường tiết niệu, đường mật hoặc đường sinh   dục, viêm màng não, viêm tai, viêm xoang và viêm nội tâm mạc. 2.3.3. Chẩn đoán vi sinh vật  Chủ yếu dựa vào chẩn đoán trực tiếp, phân lập vi khuẩn từ các bệnh phẩm đàm, máu   v.v... tùy theo thể  bệnh. Nuôi cấy lên các môi trường thích hợp để  phân lập và xác định vi   khuẩn dựa vào hình thể, tính chất nuôi cấy đặc biệt (khuẩn lạc nhầy, dính), tính chất sinh vật   hóa học, khả  năng gây bệnh thực nghiệm. Xác định type bằng phản  ứng ngưng kết hoặc   phản ứng phình vỏ với kháng huyết thanh đặc hiệu type. 2.3.4. Phòng bệnh và chữa bệnh 2.3.4.1. Phòng bệnh   Chưa có vaccine phòng bệnh đặc hiệu. Chủ  yếu là tránh những điều kiện thuận lợi   cho nhiễm trùng cơ  hội xuất hiện bằng cách nâng cao sức đề  kháng của người bệnh và dự  phòng tốt các nhiễm trùng bệnh viện. 2.3.4.2. Chữa bệnh   Dựa   vào   kết   quả   của   kháng   sinh   đồ   để   chọn   kháng   sinh   công   hiệu.  Klebsiella   pneumoniae thường có sức đề kháng cao với kháng sinh. 2.4. PROTEUS Mục tiêu học tập Giống Proteus ký sinh ở ruột và các hốc tự  nhiên của người (ví dụ  : ở  ống tai ngoài).  Chúng là loại vi khuẩn “gây bệnh cơ hội” 2.4.1. Đặc điểm sinh vật học  2.4.1.1. Hình thể   Trực khuẩn gram âm, rất di động. Vi khuẩn có nhiều hình thể  thay đổi trên các môi  trườ ng  khác nhau, từ dạng trực khuẩn đến dạng hình sợi dài. 2.4.1.2. Tính chất nuôi cấy   Vi khuẩn mọc dễ dàng trên các môi trườ ng  nuôi cấy thông thường. Trên môi trườ ng  thạch dinh dưỡng, khuẩn lạc có một trung tâm lan dần ra, từng đợt, từng đợt , mỗi đợt là một   gợn sóng và có mùi thối đặc biệt. Trên môi trườ ng  có natri deoxycholate: Proteus mọc thành khuẩn lạc tròn, riêng biệt  không gợn sóng, có một điểm đen ở trung tâm, xung quanh màu trắng nhạt. 2.4.1.3. Tính chất sinh vật hóa học
  7.  Không lên men lactose. Đa số Proteus : H2S dương tính và urease dương tính. Dựa vào  tính chất sinh vật hóa học người ta phân loại giống Proteus thành các loài: Proteus mirabilis,  Proteus vulgaris, Proteus myxofaciens, Proteus penneri.  2.4.1.4. Cấu trúc kháng nguyên   Cấu trúc kháng nguyên của Proteus rất phức tạp và không đượ c  vận dụng vào công  tác thực tế hàng ngày. Người ta thấy có một mối tương quan đặc biệt giữa kháng nguyên O   của một số chủng Proteus (đượ c  gọi là OX2 ; OX19; OXK) và Rickettsia. Vì vậy, người ta dùng  các chủng này để  làm kháng nguyên trong chẩn đoán huyết thanh bệnh do   Rickettsia  (phản  ứng Weil ­ Felix). 2.4.2. Khả năng gây bệnh   Proteus là một loại vi khuẩn "gây bệnh cơ hội". Chúng có thể gây ra : ­ Viêm tai giữa có mủ ­ Viêm màng não thứ phát sau viêm tại giữa ở trẻ còn bú. ­ Nhiễm khuẩn đường tiết niệu ­ Nhiễm khuẩn huyết ... 2.4.3. Chẩn đoán vi sinh vật  Phân lập vi khuẩn từ các bệnh phẩm như : mủ tai, nước tiểu, máu ... tùy theo thể bệnh   lâm sàng. Đặc điểm của các tổn thương và mủ  do Proteus gây ra có mùi thối như trong hoại  thư  do vi khuẩn kị  khí gây nên. Nuôi cấy trên các   môi trườ ng   thông thường. Xác định vi  khuẩn dựa vào hình thái khuẩn lạc gợn sóng, mùi thối đặc biệt trên dĩa môi trườ ng  và trực  khuẩn Gram âm urease dương tính và một số tính chất sinh vật hóa học khác. Muốn   phân   lập   thành   khuẩn   lạc   riêng   rẽ   thì   nuôi   cấy   trên  môi   trườ ng   có   Natri  desoxycholat, Proteus sẽ mọc thành khuẩn lạc riêng biệt có chấm đen ở giữa sau 48 giờ. 2.4.4. Phòng bệnh và chữa bệnh  2.4.4.1. Phòng bệnh   Nâng cao thể trạng người bệnh, khi áp dụng các thủ  thuật thăm khám phải tuyệt đối  vô trùng dự phòng tốt các nhiễm trùng bệnh viện... 2.4.4.2. Chữa bệnh   Sử dụng kháng sinh dựa vào kết quả của kháng sinh đồ. Vi khuẩn này thường có sức  đề kháng cao với kháng sinh. 2.5. CAC LIÊN CẦU RUỘT Hai loại liên cầu khuẩn chính của đường ruột ( Enterococus faecalis và E. faecium) là  các vi khuẩn hoại sinh có ở trên da, trong họng và thành phần vi khuẩn chí trong ruột. Các vi   khuẩn này ngày càng kháng lại các kháng sinh và thường là nguyên nhân của nhiễm khuẩn ở  bệnh viện. Trước đây, các liên cầu khuẩn đường ruột được xếp vào liên cầu khuẩn nhóm D. 2.5.1. Các tính chất sinh vật học: tương tự  như  Liên cầu (Streptococci), tham khảo thêm  ở  bài Các vi sinh vật gây nhiễm trùng hô hấp. 2.5.2. Tính chất gây bệnh ­ Nhiễm khuẩn đường tiết niệu: nhiễm khuẩn bệnh viện do dụng cụ  hay do bệnh gây tắc  nghẽn đường niệu. ­ Nhiễm khuẩn sau mổ các vết thương và viêm phúc mạc sau phẫu thuật ở bụng. ­ Nhiễm khuẩn huyết tự phát, rất có thể là từ dạ  dày ruột ở bệnh nhân suy giảm miễm dịch   hay bị giảm bạch cầu hạt trung tính. ­ Viêm màng trong tim cấp tính và bán cấp do vi khuẩn (5­20% số trường hợp)
  8. ­ Bội nhiễm ở bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh. Các thể lâm sàng chủ yếu được thấy ở bệnh nhân lớn tuổi hay bị suy kiệt. 2.4.3. Chẩn đoán phòng xét nghiệm Chủ yếu là phân lập và định danh vi khuẩn từ các loại bệnh phẩm như mủ, nước tiểu, máu… tuỳ theo loại nhiễm trùng. Xác định vi khuẩn bằng các tính chất về hình thể, nuôi cấy, sinh vật hoá học. 2.4.4. Dự phòng và điều trị Chủ yếu là dự phòng chung, kiểm soát tốt nhiễm khuẩn bệnh viện. Chú ý dụng cụ, phương  tiện can thiệp và các thao tác, quy trình can thiệp đúng quy định.  Điều trị: Sử  dụng kháng sinh nhóm Beta lactamin, các chủng Liên cầu ruột kháng các loại  kháng sinh này đang ngày càng tăng. III. CÁC VIRUS GÂY BỆNH LIÊN HỆ ĐẾN ĐƯỜNG TIẾT NIỆU 3.1. ADENOVIRUS Năm 1953, Rowe và cộng sự  phân lập được các chủng  Adenovirus  đầu tiên từ  mô sùi  vòm họng và hạch hạnh nhân của  người. Vì chúng gây thoái hóa tế bào nên được gọi là virus  A.D ( Adenoid degenerative). Sau đó những virus tương tự  được phân lập từ  người lành và   người   bệnh   với   các   tên   gọi   khác   nhau   như   :   virusAPC   (Adeno   Pharyngeal   Conjunctival),   virusARD (Acute Respiratory Diseases)...Năm 1956, tên Adenovirus được đặt cho nhóm này và  tên này được dùng cho đên ngày nay. Adenovirus thuộc họ  Adenoviridae. Có hai giống được  công   nhận   là  Aviadenovirus  (chim)   và  Mastadenovirus  (người   và   động   vật   có   vú).   Các  Adenovirus người gồm có 41 typ huyết thanh khác nhau, trong đó có nhiều typ huyết thanh có  thể gây bệnh cho người. 3.1.1. Các tính chất của virus   3.1.1.1. Cấu trúc hạt virus  Adenovirus là những virus chứa DNA hai sợi, kích thước virus từ  70 đến 80 nm đường   kính, không có vỏ bọc, capsid có đối xứng hình khối và virus có hình đa giác đều tạo nên bởi   252 capsome. Có hai loại capsome chính là: 240 capsome gọi là Hexon nằm trên 20 mặt hình  đa giác đều và 12 capsome gọi là penton nằm  ở  12 đỉnh của hình đa giác đều. Mỗi penton   mang một sợi nhô ra bên ngoài và tận cùng bởi một khối hình cầu nhỏ. Lõi ADN 2 sợi có   trọng lượng phân tử 20x106 đến 25x106 Dalton. 3.1.1.2. Cấu trúc kháng nguyên  Cấu trúc Adenovirus
  9. Adenovirus có cấu trúc kháng nguyên phức tạp. Có 3 loại kháng nguyên cấu trúc capsid đó là :  ­ Hexon mang tính đặc hiệu nhóm, thứ nhóm và typ. ­ Penton mang tính đặc hiệu nhóm và thứ nhóm. ­ Sợi mang tính đặc hiệu thứ nhóm và typ  Hoạt tính ngưng hết hồng cầu liên quan đến kháng nguyên penton và sợi. Adenovirus có  khả năng ngưng kết hồng cầu khỉ và chuột cống. 3.1.1.3. Sức đề kháng của virus Adenovirus đề kháng với ete, bền vững trong phạm vi pH rộng từ 2 ­ 10.  Adenovirus có  thể  tồn tại và không giảm hoạt tính xâm nhiễm khi  ở  40  C trong nhiều tuần hoặc  ở  ­250C  trong nhiều tháng. 3.1.1.4. Sự nhân lên của virus Adenovirus nhân lên tốt trong tế bào của người ( tế bào ối, tuyến giáp, thận) và các dòng  tế bào thường trực HeLa, KB, Hep  ­ 2. Virus nhân lên và chín trong nhân tế bào túc chủ. Các tế  bào nhiễm virus tròn lại, trong nhân xuất hiện những hạt vùi. Thời gian cho một chu kỳ nhân   lên trung bình là 30 giờ. 3.1.2. Khả năng gây bệnh cho người Adenovirus người lưu hành rộng rãi khắp nơi trên thê giới. Chúng có khả  năng gây ra  nhiều bệnh  ở  đường hô hấp,  ở  mắt và  ở  đường tiêu hóa trẻ  em và người lớn. Bệnh lây  truyền chủ yếu theo đường hô hấp, virus có ở họng trong những ngày đầu của bệnh, rồi theo  phân ra ngoài trong nhiều tuần lễ và tồn tại nhiều năm ở hạch hạnh nhân. Adenovirus người  có thể gây các hội chứng lâm sàng sau : 3.1.2.1. Nhiễm virus cấp tính ở đường hô hấp trên Adenovirus  có hướng tính đặc biệt với đường hô hấp trên, gây các vụ  dịch đường hô  hấp cấp tính trong một tập thể. Thời gian ủ bệnh 6­8 ngày triệu chứng nổi bật đầu tiên là sốt   kèm theo nhức đầu, sốt kéo dài 2 đến 4 ngày, các triệu chứng đường hô hấp tồn tại khoảng 1  đến 2 tuần lể, bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Hội chứng này thường do các typ 3, 4, 7 gây ra.  Người ta còn gặp thêm các Adenovirus typ 1, 2, 5 và 6 gây dịch ở địa phương ở trẻ em..   3.1.2.2. Viêm phổi   Thời kỳ nung bệnh từ 6 ­ 8 ngày. Bệnh đột ngột với sốt cao 390C, ho, chảy nước mũi và  các dấu hiệu tổn thương thực thể ở phổi, các tổn thương này lan rộng và kéo dài.  Bệnh viêm phổi cấp do Adenovirus typ 3,4,7 và 14 gây ra và thường xuyên xảy ra trong   các tập thể  thanh thiếu niên, đặc biệt typ7 thường xảy ra  ở  viêm phổi nặng, chủ  yếu  ở  trẻ  em, tỷ lệ tử vong cao, khi khỏi để lại di chứng ở phổi. 3.1.2.3. Sốt, viêm thanh quản và kết mạc Thời kỳ  nung bệnh từ  4 ­ 5 ngày. Bệnh có ba triệu chứng đặc biệt là sốt 380C, viêm  thanh quản cấp tính có ban đỏ khó nuốt và viêm kết mạc ở một hoặc hai bên. Hội chứng này   thường do Adenovirus typ 3 gây ra. 3.1.2.4. Viêm giác mạc ­ kết mạc thành dịch Viêm kết mạc do Adenovirus gây ra có thể là một biểu hiện lâm sàng riêng biệt hay là   kết hợp với hội chứng đường hô hấp. Thời kỳ  nung bệnh từ 5 ­ 7 ngày, bệnh khởi đầu đột   ngột, kết mạc đỏ  và các tổ  chức tế  bào quanh mắt bị phù thũng. Bắt đầu chỉ  có một mắt bị  viêm, khoảng 3 ­ 7 ngày sau lan sang mắt thứ hai.  Ở xung quanh tai có hạch và giác mạc có   những khỏang mờ tròn, nhỏ và nông. Các thương tổn này xuất hiện trong vòng 2 ­ 4 tuần lễ,   hầu hết bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Gây ra bởi Adenovirus typ 8, 19, 37.
  10. 3.1.2.5. Viêm dạ dày, ruột  Các Adenovirus là một tác nhân virus thường gặp trong bệnh viêm dạ dày ­ ruột cấp tính   không do vi khuẩn. Adenovirus chiếm vị trí thứ 2 sau Rotavirus trong bệnh tiêu chảy do virus  ở  trẻ  nhỏ. Thời kỳ   ủ  bệnh từ  3 ­ 10 ngày. Bệnh nhân tiêu chảy tóe nước kéo dài khoảng 7   ngày, có kèm theo sốt, nôn, hội chứng đường hô hấp và viêm kết mạc. Bệnh thường do  Adenovirus typ 40, 41 và 31 gây ra. 3.1.2.6. Nhiễm virus thể ẩn Một   số   lớn   các   nhiễm   trùng  Adenovirus  là   ở   thể   ẩn.   Một   người   có   thể   nhiễm  Adenovirus nhiều lần nhưng đều bị bỏ qua vì không có dấu hiệu lâm sàng, chỉ phát hiện được  khi nuôi cấy phân lập virus. Adenovirus có thể sống âm ỉ trong hạch hạnh nhân và trong ruột  người lành trong nhiều tuần. 3.1.3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm 3.1.3.1. Chẩn đoán nhanh Dùng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp để  chẩn đoán trong các thể phổi nặng   bằng cách phát hiện kháng nguyên virus trong các tế  bào biểu mô đường hô hấp trên (bệnh  phẩm) bằng kháng huyết thanh mẫu có gắn chất màu huỳnh quang. Trong trường hợp ỉa chảy   do Adenovirus, có thể xét nghiệm phân bằng kính hiển vi điện tử và đơn giản hơn là dựa vào   kỹ thuật ngưng kết hạt latex có gắn kháng thể để phát hiện Adenovirus trong phân. 3.1.3.2. Phân lập virus Lấy bệnh phâm tùy theo hội chứng lâm sàng, có thể  là chất tiết của mũi hầu hay mắt,  hay nước rửa cổ  họng, hay phân... Nuôi cấy bệnh phẩm vào các nuôi cấy tế  bào thích hợp   như  nuôi cấy tế  bào HeLa, Hep­2..., phát hiện hiệu  ứng tế  bào bệnh lý, sự  hủy hoại tế  bào   nuôi cấy xảy ra sau 2 ­ 4 ngày. 3.1.3.3. Chẩn đoán huyết thanh Có thể dùng phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu, phản  ứng kết hợp bổ thể, phản  ứng   trung hòa để phát hiện các kháng thể có trong huyết thanh bệnh nhân. Khi hiệu giá kháng thể  tăng lên ở máu lấy lần thứ 2, thì có giá trị chẩn đoán. 3.1.4. Phòng bệnh và điều trị 3.1.4.1. Phòng bệnh Các biện pháp phòng bệnh chung giống như phòng bệnh các virus đường hô hấp khác.   Đang nghiên cứu vaccine sống giảm độc. 3.1.4.2. Điều trị Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Cần đề  phòng bội nhiễm vi khuẩn đặc biệt ở  trẻ suy  dinh dưỡng. Tuy nhiên, các biến chứng do nhiễm khuẩn thứ phát rất hiếm. 3.2. Cytomegalovirus (CMV): tác nhân nhiễm trùng có thể ảnh hưởng tất cả cơ quan  trong cơ thể người 3.2.1. Tính chất virus học: Cytomegalovirus (CMV) có thể gặp bất kỳ nơi nào trên thế giới,  tồn tại khắp nơi nhiễm trùng trên người, tùy theo quần thể  điều tra có thể  tìm thấy tỷ  lệ  40%­100% và còn thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội; nhiễm trong trong cuộc đời sớm hơn là  một đặc trưng tại các quốc gia đang phát triển, trong đó đến 50% người trẻ  có huyết thanh   âm tính.
  11. Theo một số tài liệu cho thấy khoảng 80­100% dân số châu Phi, 60­70% dân số Mỹ và  Tây Âu; 90­100% trẻ em và người lớn các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế  thấp (+) với huyết thanh chẩn đoán CMV.  Cytomegalovirus là   một   giống   virus   được   biết   đến   có   tên   thuộc   họ Herpesviridae hoặc Herpesviruses. Tên virus thường viết tắt là CMV.  Cytomegalovirus (CMV) là một loại virus chứa DNA 2 sợi, virus và là một thành viên   của họ Herpesviridae nên capsid có đối xứng khối.  3.2.2. Dịch tễ học và khả năng gây bệnh:  Phương thức lây truyền: Đường miệng và đường hô hấp là đường lây nhiễm CMV   nổi bật nhất. Ngoài ra, CMV còn lây truyền từ  người sang người qua nước bọt, nước tiểu,   tinh dịch, sửa, dịch tiết của tử cung âm đạo; Truyền máu, ghép phủ tạng của người nhiễm CMV; Quan hệ tình dục với người nhiễm CMV cũng là đường lây truyền đặc biệt quan tâm. CMV thường gây nên tình trạng nhiễm trùng không triệu chứng; tiếp sau đó là nó vẫn  tồn tại một cách tiềm tàng trong cơ thể người suốt cuộc đời và có thể  tái hoạt động. Nhiễm   trùng được xác định khi phân lập CMV, các protein virus của chúng hoặc nucleic acid từ bất   kỳ  một mô nào hoặc dịch cơ  thể  nào. Trên các cá nhân suy giảm miễn dịch, mắc bệnh có  triệu   chứng   thường   biểu   hiện   như   một   bệnh   hay   hội   chứng   tăng   bạch   cầu   đơn   nhân  (mononucleosis syndrome), lần đầu tiên mô tả trên những người trưởng thành vào năm 1965.  Bệnh do CMV có ý nghĩa về  mặt lâm sàng (sự tái hoạt của nhiễm trùng tiềm tàng trước đó  hoặc nhiễm phải mới đây) thường phát triển trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch bởi  nhiễm HIV, ghép các cơ  quan hoặc bệnh nhân có tình trạng cấy ghép tủy xương cũng như  đang dùng thuốc steroids liều cao, các thống antagonists cho hoại tử  khối u, hoặc đang dùng  các thuốc  ức chế  miễn dịch trong bệnh lý Lupus ban đỏ  hệ  thống (SLE), viêm khớp dạng  thấp, bệnh Crohn, vảy nến. Trên các bệnh nhân đồng nhiễm với HIV, thì nhiễm trùng CMV   dẫn đến tiến tới giai đoạn AIDS và thậm chí tử  vong, ngay cả  những người đang dùng liều  thuốc chống virus sao chép ngược hoạt tính cao (highly active antiretroviral therapy_HAART). Bệnh do CMV có triệu chứng trên các cá nhân suy giảm miễn dịch có thể  ảnh hưởng   đến hầu hết mỗi cơ  quan trong cơ  thể, dẫn đến sốt không rõ nguyê nhân, viêm phổi, viêm   gan, viêm não, viêm tủy, viêm đại tràng, viêm mống mắt, kết mạc và bệnh lý thận. Những cá nhân có nguy cơ  tăng nhiễm CMV gồm các đối tượng làm việc trong môi   trường trung tâm chăm sóc, truyền máu, có nhiều bạn tình và nhiễm CMV từ  việc nhận các   cơ  quan hoặc cấy ghép tủy xương. CMV truyền từ  người sang người thông qua con đường  tiếp xúc với các cá nhân đang bài tiết virus. Tác nhân gây bệnh có thể lây qua nhau thai và sữa  mẹ, truyền máu và cấy ghép cơ quan. Bệnh cũng có thể lan rộng qua con đường quan hệ tình  dục. Bệnh có thể  gặp bất kỳ nơi nào trên thế  giới. Theo một số tài liệu cho thấy khoảng   80­100% dân số  châu Phi, 60­70% dân số  Mỹ  và Tây Âu; 90­100% trẻ  em và người lớn các  nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế thấp (+) với huyết thanh chẩn đoán CMV. Viêm thận do CMV (Cytomegalovirus nephritis) Viêm thận do CMV xác định khi phát hiện có sự phối hợp với sinh thiết thận chỉ ra có  sự  thay đổi liên quan đến CMV trên các bệnh nhân suy thận. Làm PCR đối với CMV không  đủ chẩn đoán, đáng chú ý là việc phát hiện CMV trong nước tiểu bệnh nhân suy thận không  
  12. hội đủ  tiêu chuẩn chẩn đoán đối với trường hợp là viêm thận do CMV. Tồn tại CMV trong   máu có liên quan đến tổn thương cầu thận cấp. 3.2.3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm Chẩn đoán trực tiếp Cytomegalovirus (CMV) trên nuôi cấy (nguyên bào sợi  ở người),   PCR hoặc thử nghiệm tìm kháng nguyên virus trong mẫu nghiệm. Chẩn đoán gián tiếp bằng xét nghiệm huyết thanh học. Nồng độ  IgM tăng trên các  bệnh nhân có nhiễm CMV gần đây, hoặc có tăng gấp 4 lần nồng độ  và hiệu giá kháng thể  IgG. Kết quả CMV IgM dương tính giả có thể nhìn thấy trên các bệnh nhân nhiễm EBV hoặc  HHV­6, cũng như trên các bệnh nhân có nồng độ yếu tố thấp (RF) cao. Một số thử nghiệm nhạy đủ  để  phát hiện kháng thể  kháng CMV IgM sớm trong giai   đoạn đầu của bệnh (kháng nguyên nhân CMV sớm, kháng nguyên CMV virus capsid) và trong  khi có sự tái hoạt của CMV. Một loại xét nghiệm kháng thể đơn dòng với kháng nguyên sớm  qua trung gian chống lại CMV hiện đang sẵn có. Phản ứng này với protein sớm và có thể phát  hiện nhiễm CMV 3 giờ trong khi nhiễm. Nhuộm thấy đậm độ của hạt nội nhân đáng chú ý. 3.2.4. Dự phòng và điều trị Dự phòng chung là kiểm soát NKBV, kiểm soát NK trong ghép cơ quan… Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị triệu chứng.  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2