Bài giảng
“GIÁO DỤC TRUYỀN THÔNG MÔI TRƢỜNG”
1
CHƢƠNG 1. MỞ ĐẦU
I. GIÁO DỤC MÔI TRƢỜNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Khái nim Giáo dục môi trường (GDMT) được hình thành nước Anh,
do giáo Sir Patrick Geddes một nhà thực vật học ngưi Scotland. Ông
người tiên phong trong lĩnh vực quy hoạch thị trấn nông thôn. Ông đã chỉ ra
mi liên hệ quan trng giữa chất lượng môi trường với chất lượng giáo dục tnăm
1892. Geddrs cũng người đi đầu trong việc giảng dạy những chiến lược tạo
hội cho người học tiếp xúc với môi trường xung quanh.
Sau khi mối quan hệ giữa chất lượng giáo dục và chất lượng môi trường
được thừa nhận vào cuối thế kỷ XVIII, khái niệm GDMT đã phát triển rất nhanh,
với nhiều cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm, cách thực hiện kết quả của
GDMT.
Trước những m 1960, lĩnh vực gần gũi nhất vi GDMT là các nghiên
cứu thiên nhiên, nghiên cu nông thôn điều tra hiện trường. o thời gian y
việc nghiên cứu các loài được thực hiện riêng lẻ để tìm hiểu về đặc điểm riêng,
hành vi nhu cầu của chúng. Sau đó, khái niệm Sinh thái ra đời, mối quan hệ
tương tác giữa các loài với nhau cũng như giá trị của các hsinh thái bắt đầu được
đánh giá đúng.
m 1972, tại hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về môi trường được tổ chức
tại Stockholm (Thụy Điển), khái nim GDMT chính thức ra đời. Sự ra đời của
GDMT góp phần giúp con người nhận thức hơn tác động của mình đối với môi
trường. Tiếp theo hội nghị Stockholm, một shội nghị quốc tế khác vGDMT đã
dược nhóm họp, trong đó hi nghị Belgrade (1975). Tại đây, định nghĩa đầu
tiên về GDMT được đề xuất. m 1977, Hội nghị liên chính phủ về GDMT tổ
chức Tbilisi (Nga) đã chính thức đưa ra định nghĩa các nguyên tắc của
GDMT.
2
m 1980, Chiến lược Bảo tồn thế gii nhấn mạnh bản chất tương hỗ
của tất ccác hợp phần trong sinh quyển, trong đó cả hội loài người. Theo
đó, mỗi hành vi quyết định phát triển của con người đều liên quan trực tiếp tới
tương lai các hệ thống hỗ trợ cuộc sống trên hành tinh. Chiến ợc y kêu gọi một
đạo đức” mi trong hội loài người. Nghĩa là con người hãy chung sống i hòa
với thế gii tự nhiên mà con người vốn phải phụ thuộc để sinh tồn và phát trin.
Xét cho cùng, chỉ thể đạt được các mc tiêu bảo tồn nếu toàn thể
hội li người thay đổi cách ng xử vi môi trường. Nhiệm vụ của GDMT là nuôi
dưỡng, củng cố những thái độ và hành vi phù hợp với đạo đức mới” (IUCN, 1980).
m 1987, Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về GDMT tổ chức Maxcova
thừa nhận rằng nhiều ng kiến GDMT trong số những sáng kiến đầu tiên đã thất
bại. Một trong các nguyên nhân GDMT được dạy như một môn học riêng trong
chương trình đào tạo, chúng nặng về thuyết và thiếu thực hành. Sau hội nghị,
các hoạt động hiện trường bùng nổ. Các hiệp hội được thành lập nhiều nước
mi nỗ lực đều đi theo định hướng suy nghĩ cấp toàn cầu nh động cấp
địa phương”.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil,
năm 1992, các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới đã xây dựng và nhất trí về chiến c
chung nhằm định hướng phát trin bền vững cho quốc gia của mình, nghĩa là “phát
triển để thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại không nh hưởng đến khả ng
thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Hội nghị cũng nhất trí rằng bảo vệ i
trường phát triển kng chỉ gây ra nhiều xung đột tn thực tế còn quan
hệ tương tác lẫn nhau tn mọi phạm vi, từ cấp địa phương, cấp quốc gia, cấp vùng
đến cấp toàn cầu. Điều này làm cho GDMT bao hàm tm nội dung liên quan đến
phát triển”.
m 2002, Hội nghị Thượng đỉnh Thế gii về phát triển bền vững được
tổ chức tại Johannesbug, Nam Phi. Tại hi nghị, c đại biểu đã nhất trí rằng bản
3
chất của việc phấn đấu để đạt được phát triển bền vững một quá trình học hi.
Để phát triển bền vững, cần có những ng dân năng động, kiến thức, đồng thời
cần có những người ra quyết định nhiệt huyết, được tng tin đầy đủ khả
năng đưa ra quyết định đúng đắn về những vấn đề phức tạp, liên đới mà hội
đang phải đối mặt như kinh tế, xã hội môi trường. N vậy, mục đích của
GDMT là một phần mục đích của tất cả các hoạt động giáo dục.
2. Định nghĩa GDMT.
Hội nghị quốc tế về GDMT trong Cơng trình đào tạo của trường học
do IUCN/UNESCO tổ chức tại Nevada (Mỹ) năm 1970 đã tng qua định nghĩa v
GDMT như sau:
GDMT quá trình nhận ra các giá trị và m khái niệm để xây dựng
những knăng thái độ cần thiết, giúp hiểu biết đánh giá đúng mối tương
quan giữa con người với nền n hóa môi trường vật xung quanh. GDMT
cũng tạo hội cho việc thực hành để ra quyết định tự hình thành quy tắc ng
xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường” (IUCN, 1970).
Định nghĩa này cho thấy GDMT đã được xem xét góc độ mang tính
hợp gắn kết với phát triển. o thời điểm định nghĩa này được phát biểu,
người ta thường chỉ xem xét môi trường các vấn đề v môi ttrường khía cạnh
sinh.
Thuật ngữ GDMT” cũng đã được sử dụng trong Hội nghị toàn cầu lần
thứ nhất về i trường nhân văn tại Stokholm năm 1972, nhưng chỉ đến Hội nghị
Belgrade, GDMT mới được định nghĩa trên quy tn cầu. Kể tđó, cộng
đồng quốc tế thừa nhận định nghĩa về GDMT “quá trình nhằm phát triển một
cộng đng n nhn thức ràng quan m đến môi trường cũng như các
vấn đề liên quan, có kiến thức, kỹ năng, động cơ sẵn sàng m việc độc lập hoặc
phối hp nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề hiện tại và phòng chng các vấn
đề có thể ny sinh trong tương lai”.
4
Từ đó đến nay, ý nghĩa khái nim GDMT đã nhiu thay đổi. Ban
đầu, nội dung của GDMT rất hạn chế, chỉ tập trung vào dạy học các vn đề môi
trường địa phương, kể cả môi trường tự nhiên và nhân tạo. Nội dung giáo dục cũng
chỉ tập trung vào những mặt sinh học và địa lý khi nghiên cứu môi trường.
Hội nghị Liên chính phủ lần thứ nht về GDMT tại Tbilisi (Liên cũ)
năm 1977 đã kêu gọi đại biểu đưa ra một cách tiếp cận mi mang tính toàn diện
liên ngành hơn. Tại hội nghị này, cộng đồng quốc tế đã khẳng định và nhất trí với
định nghĩa về GDMT trên, đồng thời nhất trí về các mục tiêu của GDMT như
hin nay.
Những khuynh hướng mi trong GDMT thừa nhận rằng các hành vi i
trường không chỉ bnh hưởng bởi kiến thức còn bchi phối bởi cách nhìn
nhận về giá trmôi trường, phương án lựa chọn, knăng những nhân tố thúc
đẩy khác. GDMT hin đại, như định nghĩa của Hiệp hội GDMT Bắc Mỹ năm 1993
là “mt quá trình giúp người học tiếp thu kiến thức, kỹ năng và những kinh nghiệm
môi trường tích cực để thể pn tích vấn đề, đánh giá lợi ích rủi ro, đưa ra
những quyết định được thông tin đầy đủ, và thực hiện những hành động trách
nhim nhằm đạt được và duy trì chất lượng môi trường”.
Khi cách nhìn nhận về môi trường thay đổi, kvọng về thành tu của
giáo dục cũng thay đổi. Nhiều câu hỏi cũng đã được đặt ra đối với giáo dục như:
*. Trường học phải m gì để chuẩn bcho những người trẻ tuổi, giúp họ
được thông tin đầy đthể tham gia một cách hiệu quả vào cộng đồng hi
trên toàn thế giới?
*. Làm thế nào để giáo viên có thể giúp đỡ tốt nhất cho việc xây dựng s
hiu biết chung trên quy toàn cầu cho những người strưởng thành vào thế k
XXI, mt viễn cảnh lý thú nhưng cũng nhiều thách thức?