MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................... 3 PHẦN MỘT: CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN................................................4 CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CHUNG...................................................................4 1.1. KHÁI NIỆM CƠ GIỚI HOÁ NÔNG NGHIỆP...........................................4 1.1.1. Khái niệm cơ giới hóa nông nghiệp...........................................................4 1.1.2. Mức độ cơ giới hoá nông nghiệp và trình độ cơ giới hoá nông nghiệp...............4 1.2. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI LIÊN HỢP MÁY......................................4 1.2.1. Khái niệm...................................................................................................4 1.2.2. Phân loại liên hợp máy..............................................................................5 1.3. NHỮNG TÍNH CHẤT SỬ DỤNG CỦA LIÊN HỢP MÁY.......................6 1.4. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA LIÊN HỢP MÁY......6 1.4.1. Năng suất của liên hợp máy.......................................................................6 1.4.2. Chi phí lao động.........................................................................................7 1.4.3. Chi phí nhiên liệu.......................................................................................8 CHƯƠNG II: CÁC MÁY ĐỘNG LỰC DÙNG TRONG NÔNG NGHIỆP....10 2.1. ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG..........................................................................10 2.1.1. Nhiệm vụ, phân loại và cấu tạo chung của động cơ đốt trong.................10 2.1.2. Một số khái niệm chung..........................................................................11 2.1.3. Chu trình làm việc của động cơ đốt trong...............................................13 2.1.4. Một số đặc tính làm việc và phạm vi ứng dụng của các loại động cơ đốt trong. 17 2.2. MÁY KÉO NÔNG NGHIỆP......................................................................18 2.2.1. Công dụng và phân loại máy kéo dùng trong nông nghiệp.....................18 2.2.2. Tính năng kỹ thuật và phạm vi ứng dụng của máy kéo nông nghiệp..............19 2.2.3. Các phần chính của một máy kéo nông nghiệp.......................................19 2.3. ĐỘNG CƠ ĐIỆN........................................................................................20 2.3.1. Các loại động cơ điện và phạm vi sử dụng..............................................20 2.3.2. Động cơ điện một chiều...........................................................................20 2.3.3. Động cơ điện xoay chiều.........................................................................21 2.3.4. An toàn lao động khi sử dụng điện..........................................................28 PHẦN HAI: HỆ THỐNG MÁY NÔNG NGHIỆP..............................31 CHƯƠNG III: MÁY LÀM ĐẤT......................................................................31 3.1. MÁY CÀY..................................................................................................31 3.1.1. Cày lưỡi diệp và phạm vi sử dụng...........................................................32 3.1.2. Cày đĩa và phạm vi sử dụng....................................................................39 3.1.3. Điều chỉnh và chuẩn bị cho máy cày làm việc........................................40 3.2. MÁY BỪA.................................................................................................43 3.2.1. Máy bừa có bộ phận làm việc chuyển động tịnh tiến..............................43 3.2.2. Máy bừa có bộ phận làm việc chuyển động quay....................................46 3.3. MÁY PHAY ĐẤT......................................................................................48 3.3.1. Cấu tạo máy phay đất..............................................................................48 3.3.2. Nguyên tắc làm việc của máy phay đất...................................................49 CHƯƠNG IV: MÁY GIEO CẤY.....................................................................51 4.1. MÁY GIEO HẠT......................................................................................51 4.1.1. Các phương pháp gieo hạt.......................................................................51 1

4.1.2. Yêu cầu đối với máy gieo hạt..................................................................51 4.1.3. Phân loại máy gieo...................................................................................52 4.1.4. Cấu tạo máy gieo hạt...............................................................................52 4.1.6. Chuẩn bị máy gieo làm việc....................................................................58 4.2. MÁY CẤY LÚA........................................................................................62 4.2.1. Yêu cầu kỹ thuật và phân loại máy cấy...................................................62 4.2.2. Cấu tạo và nguyên lý làm việc.................................................................63 CHƯƠNG V: MÁY CHĂM SÓC BẢO VỆ CÂY TRỒNG.............................67 5.1. MÁY BÓN PHÂN......................................................................................67 5.1.1. Các hình thức bón phân, yêu cầu kỹ thuật và phân loại máy bón phân...67 5.1.2. Máy bón phân hữu cơ..............................................................................67 5.2.2. Máy bón phân vô cơ................................................................................70 5.2. MÁY XỚI...................................................................................................73 5.2.1. Nhiệm vụ và phân loại máy xới...............................................................73 5.2.2. Cấu tạo và nguyên lý làm viêc của máy xới............................................73 5.3. MÁY PHUN THUỐC BẢO VỆ CÂY TRỒNG........................................75 5.3.1. Yêu cầu kỹ thuật......................................................................................75 5.3.2. Phân loại máy phun thuốc trừ sâu............................................................76 5.3.3. Máy phun thuốc nước theo nguyên tắc áp suất........................................77 5.3.4. Máy phun thuốc nước theo nguyên tắc thổi.............................................79 5.3.5. Một số lưu ý khi sử dụng máy phun thuốc..............................................80 5.4. MÁY BƠM NƯỚC....................................................................................81 5.4.1. Máy bơm kiểu Pít-tông............................................................................81 5.4.2. Máy bơm kiểu ly tâm..............................................................................82 5.5. MÁY PHÁT THỰC BÌ..............................................................................84 5.5.1. Nhiệm vụ và phân loại.............................................................................84 5.5.2. Cấu tạo và nguyên tắc làm việc của máy phát thực bì loại cầm tay..............84 5.5.3. Một số lưu ý khi sử dụng máy phát thực bì loại người mang..................85 CHƯƠNG VI: MÁY THU HOẠCH NÔNG NGHIỆP.....................................86 6.1. MÁY GẶT LÚA.........................................................................................86 6.1.1. Yêu cầu đối với máy thu hoạch...............................................................86 6.1.2. Phân loại máy gặt.....................................................................................86 6.1.3. Cấu tạo chung và nguyên tắc làm việc....................................................86 6.1.4. Các bộ phận chính của máy gặt...............................................................87 6.2. MÁY THU HOẠCH NGÔ.........................................................................90 6.2.1. Cấu tạo chung và nguyên lý làm việc của máy thu hoạch ngô................90 6.2.2. Các bộ phận chính của máy thu hoạch ngô.............................................90 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................97

2

MỞ ĐẦU

Đất nước ta đang trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việc sử dụng các loại máy vào sản xuất tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá đang là xu thế của mọi ngành nghề. Nằm trong xu thế chung của các ngành nghề, việc sử dụng các loại máy móc trong sản xuất nông nghiệp đang ngày càng trở nên phổ biến. Để sử dụng các loại máy nông nghiệp một cách hiệu quả và đảm bảo an toàn, những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cần có những kiến thức nhất định về các loại máy đó. Môn học Máy nông nghiệp đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào khung chương trình đào tạo của nhiều ngành học nông lâm nghiệp ở nhiều hệ và cấp độ đào tạo khác nhau.

Mục tiêu của môn học là trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết về hiệu qủa của cơ giới hoá nông nghiệp và các kiến thức cơ bản về các loại máy nông nghiệp; rèn luyện tác phong công nghiệp, an toàn trong sản xuất nông nghiệp.

Tập bài giảng Máy nông nghiệp được bố trí thành 2 phần:

- Phần một: Các kiến thức cơ bản. Phần này cung cấp cho học sinh một số khái niệm và kiến thức cơ bản về cơ giới hoá nông nghiệp và cấu tạo, hoạt động của các loại nguồn động lực được dùng phổ biến trong nông nghiệp. Nội dung phần I gồm 2 chương:

Chương I: Khái niệm chung Chương II: Các máy động lực dùng trong nông nghiệp

- Phần hai: Hệ thống máy nông nghiệp. Phần này giới thiệu cho học sinh cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống máy phục vụ nông nghiệp, bao gồm: các máy làm đất, các máy thu hoạch, các máy chăm sóc và bảo vệ cây trồng; các quy định về an toàn lao động trong sản xuất nông nghiệp. Nội dung phần II gồm 4 chương:

Chương III: Máy làm đất Chương IV: Máy gieo cấy Chương V: Máy chăm sóc và bảo vệ cây trồng Chương VI: Máy thu hoạch nông nghiệp

Đối với học sinh hệ trung cấp học chương I, chương II, chương III và

chương V; hệ cao đẳng, đại học học toàn bộ các chương.

Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng tập bài giảng sẽ không tránh được những thiếu sót, tác giả rất mong muốn nhận được những đóng góp quý báu từ phía đồng nghiệp và đọc giả để tập bài giảng được hoàn thiện hơn.

Tác giả

3

PHẦN MỘT: CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN

CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CHUNG

1.1. KHÁI NIỆM CƠ GIỚI HOÁ NÔNG NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm cơ giới hóa nông nghiệp Cơ giới hoá nông nghiệp theo cách hiểu thông thường là việc đưa máy

móc, thiết bị thay thế cho con người trong sản xuất nông nghiệp.

Cơ giới hoá nông nghiệp theo nghĩa rộng là đưa và đổi mới động lực,

công cụ và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Vị trí của cơ giới hoá nông nghiệp: là nội dung quan trọng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; góp phần công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

%100

m

1.1.2. Mức độ cơ giới hoá nông nghiệp và trình độ cơ giới hoá nông nghiệp Mức độ cơ giới hoá nông nghiệp là tỷ lệ (phần trăm) giữa khối lượng công việc được làm bằng máy và tổng khối lượng công việc phải làm của một khâu công việc nào đó.

(1.1) Công thức xác định mức độ cơ giới hoá: CV m CV

Trong đó: m - Mức độ cơ gới hoá,

CVm - Khối lượng công việc được làm bằng máy,

CV - Tổng khối lượng công việc phải làm.

Ví dụ: Nói mức độ cơ giới hoá khâu làm đất đạt 70% có nghĩa là công việc làm đất bằng máy chiếm 70% đơn vị diện tích trong số 100 đơn vị diện tích đất canh tác (hay trong 100 đơn vị diện tích đất canh tác có 70% đơn vị diện tích đất canh tác bằng máy).

Ngoài ra, người ta còn xác định mức độ cơ giới hoá thông qua tỷ lệ giữa tổng số máy móc, thiết bị được sử dụng và tổng diện tích đất canh tác hoặc một vùng lãnh thổ (tham khảo: CNH nông nghiệp các nước Á châu và Việt Nam).

Trình độ cơ giới hoá nông nghiệp bao gồm mức độ cơ giới hoá nông

nghiệp và mức độ hiện đại của máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI LIÊN HỢP MÁY 1.2.1. Khái niệm Liên hợp máy là tổ hợp gồm máy động lực, cơ cấu truyền lực và máy

công tác để thực hiện một công việc cụ thể.

Máy động lực là loại máy phát ra nguồn động lực để truyền cho các máy

công tác: các loại động cơ, máy kéo, ô tô…

Máy công tác là loại máy mà tự bản thân nó không tạo ra được nguồn động lực, nó nhận nguồn động lực từ máy động lực để thực hiện một công việc cụ thể: máy cày, máy cấy, máy bừa, máy phay, máy trồng cây, máy xới…

4

Ví dụ: liên hợp máy cày được thành lập từ máy kéo, máy cày và bộ phận

liên kết máy cày với máy kéo để thực hiện công việc cày đất.

1.2.2. Phân loại liên hợp máy a. Phân loại liên hợp máy theo nhiệm vụ công việc cần hoàn thành:

- Liên hợp máy làm đất:

Liên hợp máy cày Liên hợp máy bừa Liên hợp máy phay Liên hợp máy khoan hố …

- Liên hợp máy gieo cấy:

Liên hợp máy cấy Liên hợp máy gieo Liên hợp máy trồng cây…

Liên hợp máy phun thuốc trừ sâu Liên hợp máy tưới thuốc trừ sâu ... - Liên hợp máy bảo vệ cây: (Phòng trừ sâu bệnh)

- Liên hợp máy chăm sóc cây:

Liên hợp máy tưới Liên hợp máy sới Liên hợp máy phát cỏ dại Liên hợp máy bón phân …

b. Các cách phân loại khác: * Phân loại theo cách máy công tác liên kết với máy động lực: - Liên hợp máy kiểu móc: máy công tác liên kết với máy động lực nhờ bộ phận móc nối. Loại này khi di chuyển máy công tác phải có các bánh xe riêng của nó.

- Liên hợp máy kiểu treo: máy công tác liên kết với máy động lực nhờ bộ phận treo của máy động lực. Loại này khi di chuyển máy công tác được nâng lên khỏi mặt đất nên không cần các bánh xe.

- Liên hợp máy kiểu nửa treo: máy công tác liên kết với máy động lực qua bộ phận treo của máy công tác và máy động lực ( như liên hợp máy kiểu treo). Tuy nhiên do khích thước của máy công tác cồng kềnh hoặc khối lượng máy công tác quá nặng, để đảm bảo tính ổn định và khả năng làm việc đúng yêu cầu kỹ thuật của liên hợp máy người ta lắp thêm cho các máy công tác những bánh xe. Như vậy, với liên hợp máy kiểu nửa treo, khi chuyển động có lúc máy công tác được nâng nên khỏi mặt đất có lúc di chuyển trên các bánh xe của nó.

* Phân loại theo khả năng di chuyển:

- Liên hợp máy di động:

Liên hợp máy cày Liên hợp máy bừa Liên hợp máy cấy Liên hợp máy phun thuốc…

5

- Liên hợp máy tĩnh tại: Liên hợp máy bơm nước Liên hợp máy xay xát ...

* Phân loại theo tính chuyên môn hoá: - Liên hợp máy chuyên dùng: dùng cho một loại công việc cụ thể. - Liên hợp máy đa năng: có khả năng dùng cho nhièu loại công việc khác nhau.

1.3. NHỮNG TÍNH CHẤT SỬ DỤNG CỦA LIÊN HỢP MÁY Những tính chất sử dụng của liên hợp máy bao gồm những tính chất của

máy công tác, máy động lực và cơ cấu nối máy công tác với máy động lực.

Những tính chất sử dụng của liên hợp máy được chia ra: tính nông học, tính năng lượng, tính cơ động, tính kỹ thuật, tính kinh tế - kỹ thuật và tính thuận tiện trong sử dụng.

- Tính nông học của liên hợp máy là khả năng hoàn thành công việc đảm bảo được chất lượng đúng yêu cầu về kỹ thuật nông học. Tính chất này đóng vai trò quan trọng khi chọn máy nông nghiệp cần thiết hoặc khi thành lập một liên hợp máy để thực hiện một công việc đã định trong điều kiện sử dụng nhất định.

- Tính chất năng lượng của liên hợp máy bao gồm khả năng sử dụng

năng lượng cơ khí (lực cản máy nông nghiệp), khả năng phát huy công suất.

Trong quá trình thành lập liên hợp máy, tính năng lượng có ý nghĩa quan trọng khi xác định số lượng máy công tác trong liên hợp máy và khi chọn chế độ làm việc của liên hợp máy (đáng quan tâm là chế độ vận tốc và chế độ tải trọng ...) - Tính cơ động của liên hợp máy là khả năng quay vòng, khả năng vượt chướng ngại vật, khả năng chuyển động ổn định và khả năng thích ứng với công việc trong điều kiện cụ thể của sản xuất nông nghiệp.

- Tính kỹ thuật của máy và của liên hợp máy chủ yếu là độ tin cậy của chúng (tuổi thọ cao, dễ sửa chữa, dễ bảo quản, không hư hỏng đột xuất…) đồng thời tính kỹ thuật của máy được đặc trưng bởi những chỉ tiêu kỹ thuật khác như: trọng lượng, hình dáng…

Những tính chất này cần được đặc biệt chú ý khi tổ chức chăm sóc, phục

vụ kỹ thuật máy.

- Tính kinh tế - kỹ thuật của liên hợp máy đó là năng suất máy, chi phí

lao động, nhiên liệu, dầu mỡ, chi phí sản xuất trực tiếp…

- Tính thuận tiện của máy và của liên hợp máy là đảm bảo điều kiện vệ

sinh lao động, dễ dàng phục vụ, an toàn lao động…

1.4. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA LIÊN HỢP MÁY 1.4.1. Năng suất của liên hợp máy a. Định nghĩa Năng suất liên hợp máy là khối lượng công việc máy mà liên hợp máy

hoàn thành trong một đơn vị thời gian.

6

Khối lượng công việc hoàn thành được có thể được tính bằng diện tích,

thể tích hoặc khối lượng.

Đơn vị thời gian có thể là giờ, ngày, vụ, năm…

b. Phân loại năng suất Theo cách phân loại phổ biến người ta chia năng suất thành hai loại sau: - Năng suất lý thuyết là năng suất của liên hợp máy với bề rộng làm việc, cấu tạo, vận tốc lý thuyết và thời gian làm việc hoàn toàn (không kể thời gian máy chạy không và thời gian máy dừng do nhiều nguyên nhân).

- Năng suất thực tế là năng suất tính theo điều kiện làm việc thực tế của liên hợp máy. Năng suất thực tế bao giờ cũng nhỏ hơn năng suất lý thuyết vì bề rộng làm việc thực tế, vận tốc là việc và thời gian làm việc thực tế bao giờ cũng nhỏ hơn các giá trị lý thyết.

 1,0Wlt

c VB  lt

c. Tính toán năng suất cho liên hợp máy - Tính toán năng suất lý thuyết: Công thức tính:

(ha/h) (1.2)

Trong đó: Wlt - Năng suất lý thuyết của liên hợp máy tính theo giờ (ha/h);

Bc - Bề rộng cấu tạo của liên hợp máy (m); Vlt - Vận tốc lý thuyết của liên hợp máy (km/h).



lv VB1,0Wtt lv

- Tính toán năng suất thực tế: Công thức tính:

(ha/h) (1.3)

Trong đó: Wtt - Năng suất thực tế của liên hợp máy tính theo giờ (ha/h);

Blv - Bề rộng làm việc của liên hợp máy (m); Vlv - Vận tốc làm việc (thực tế) của liên hợp máy (km/h);

 - Hệ số sử dụng thời gian.

1.4.2. Chi phí lao động a. Xác định chi phí lao động Chi phí lao động là một chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện hiệu quả kinh tế

của việc sử dụng liên hợp máy.

n c

f

H

h

Công thức tính:

n  ttW

(người.h/ha) (1.4)

7

Trong đó: Hh - Chi phí lao động trong một giờ (người.h/ha);

nc - Số công nhân chính (người); nf - Số công nhân phụ (người); Wtt - Năng suất thực tế giờ (ha/h).

b. Biện pháp làm giảm chi phí lao động Từ công thức tính chi phí lao động ta thấy: Để giảm chi phí lao động thì ta cần

tăng năng suất liên hợp máy, giảm số công nhân phụ và tăng năng suất cây trồng.

Biện pháp tăng năng suất liên hợp máy: Đảm bảo công suất máy; nâng cao độ tin cậy trong sử dụng máy; chăm sóc, phục vụ kỹ thuật máy tốt; thành lập liên hợp máy đúng; chọn vận tốc chuyển động hợp lý; tăng hệ số sử dụng thời gian…

Biện pháp giảm công nhân phụ: Dùng liên hợp máy phù hợp với điều kiện

địa hình, thổ nhưỡng; cơ giới hoá các công việc phụ; cải tiến quá trình sản xuất…

Biện pháp tăng năng suất cây trồng: Năng suất máy cao nhưng lại làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng thì sẽ làm tăng chi phí lao động. Vì vậy, để tăng năng suất cây trồng cần chọn chế độ làm việc của máy cho phù hợp.

1.4.3. Chi phí nhiên liệu Chi phí nhiên liệu đặc trưng cho tính tiết kiệm của động cơ và liên hợp

máy nói chung.

(kg/ha)

 

a. Tính toán chi phí nhiên liệu chính Công thức tính toán:

G h W tt

(1.5)

Trong đó:  - Cchi phí nhiên liệu của máy trên một ha (kg/ha);

ca

G T G T  ck

lv

lv

G T  d d

(kg)

G h

Gk - Chi phí nhiên liệu giờ của máy (kg); Wtt - Năng suất thực tế giờ (ha/h); Chi phí nhiên liệu giờ của máy được tính như sau:

G h ca

ck h ca

(1.6)

Trong đó: Gca - chi phí nhiên liệu trong một ca của máy (kg);

hca - tổng số giờ trong một ca (h); Glv - chi phí nhiên liệu trong một giờ khi máy làm việc (kg); Gck - chi phí nhiên liệu trong một giờ khi máy chạy không (kg); Gd - chi phí nhiên liệu trong một giờ khi máy dừng nhưng động cơ vẫn là việc (kg); Tlv - thời gian máy làm việc thuần tuý (h); Tck - thời gian máy chạy không (h); Td - thời gian máy dừng nhưng động cơ vẫn làm việc (h).

8

b. Chi phí dầu mỡ Chi phí dầu mỡ được tính theo phần trăm mức chi phí nhiên liệu dùng cho máy kéo. Mức chi phí dầu mỡ phụ thuộc vào thời gian quy định cho thêm dầu mỡ và thời gian thay dầu. Đối với dầu các-te động cơ còn phụ thuộc vào lượng dầu bị cháy trong thời gian động cơ làm việc.

Dầu cho vào các-te động cơ chi phí nhiều nhất. Đối với động cơ chế hoà khí khoảng 60 giờ máy làm việc phải thay dầu một lần, còn đối với động cơ điêzen là 240 giờ. Mức dầu trong các-te động cơ điêzen trong quá trình làm việc giảm dần vì một phần bị đốt cháy, một phần bị nóng quá bốc thành hơi, còn động cơ chế hoà khí thì ngược lại mức dầu trong các-te tăng lên trong quá trình làm việc vì một phần nhiên liệu chảy xuống các-te qua khe hở giữa Pít-tông và xi-lanh. Mức chi phí dầu nhờn trong các-te động cơ (tính theo % nhiên liệu

Q

V [

(

v

]

%100

)1 

điêzen) tính theo công thức:

d

T t

 . lvGT

(1.7)

Trong đó: Qd - Mức chi phí dầu mỡ (%);

V - Thể tích dầu nhờn chứa trong Các-te động cơ (lít); v - Thể tích dầu đổ thêm (lít); T - Thời gian quy định thay dầu (h); t - Thời gian quy định đổ thêm dầu (h);  - Trọng lượng riêng của dầu (kg/dm3); Glv - Chi phí nhiên liệu điêzen trong một giờ (kg).

Chất lượng dầu nhờn ảnh hưởng đến độ bền và thời gian phục vụ (tuổi thọ) của máy. Dùng dầu nhờn phù hợp, kịp thời đổ thêm dầu, thay dầu là điều kiện cần thiết trong sử dụng máy.

c. Biện pháp giảm chi phí nhiên liệu Từ những công thức tính toán chi phí nhiên liệu ta thấy, để giảm chi phí nhiên liệu cần: duy trì động cơ, máy kéo và máy nông nghiệp ở tình trạng tốt; thành lập liên hợp máy đúng; cho máy làm việc ở điều kiện đất đai phù hợp (độ ẩm, mức nước, mức bùn thích hợp … ); loại trừ các chi phí thời gian và chi phí nhiên liệu vô ích (tổn thất nhiên liệu khi vận chuyển, chi cung cấp cho máy và khi bảo quản … ).

Câu hỏi ôn tập: 1. Trình bày khái niệm cơ giới hóa và mức độ cơ giới hóa nông nghiệp. 2. Trình bày các cách phân loại liên hợp máy. 3. Trình bày công thức xác định chi phí lao động và biện pháp giảm chi

phí lao động.

4. Trình bày các công thức xác định chi phí nhiên liệu, dầu mỡ và biện

pháp giảm chi phí nhiên liệu, dầu mỡ.

9

CHƯƠNG II: CÁC MÁY ĐỘNG LỰC DÙNG TRONG NÔNG NGHIỆP

2.1. ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG

2.1.1. Nhiệm vụ, phân loại và cấu tạo chung của động cơ đốt trong a. Nhiệm vụ Động cơ đốt trong có nhiệm vụ chuyển nhiệt năng do phản ứng cháy của nhiên liệu tạo ra thành cơ năng làm quay trục cơ trồi truyền qua hệ thống truyền lực đến bánh xe chủ động của ô tô, máy kéo làm cho nó chuyển động hay đến các máy công tác khác.

b. Phân loại Căn cứ vào các đặc điểm chung của động cơ đốt trong, người ta phân

loại động cơ đốt trong như sau:

- Theo số chu trình làm việc, có thể chia động cơ làm hai loại: + Động cơ 4 kỳ; + Động cơ 2 kỳ. - Theo phương pháp tạo thành hỗn hợp đốt, có thể chia động cơ đốt

trong thành hai loại:

+ Động cơ tạo thành hỗn hợp đốt bên ngoài xi-lanh là những loại động

cơ có bộ chế hoà khí (thường là động cơ xăng),

+ Động cơ tạo thành hỗn hợp đốt trong xi-lanh là những động cơ có vòi

phun nhiên liệu trực tiếp vào xi-lanh (thường là động cơ điêzen).

- Theo phương pháp đốt cháy hỗn hợp đốt, người ta chia động cơ đốt

trong làm ba loại:

+ Động cơ đốt cháy hỗn hợp bằng tia lửa điện xuất hiện ở bu-zi; + Động cơ đốt cháy hỗn hợp nhờ bầu nhiệt (là một bộ phận đốt nóng); + Động cơ hỗn hợp đốt tự bốc cháy do bị nén dưới áp suất và nhiệt độ cao. - Theo loại nhiên liệu dùng cho động cơ, người ta chia động cơ đốt trong

làm hai loại:

+ Động cơ dùng nhiên liệu lỏng (động cơ xăng, động cơ điêzen… ) + Động cơ dùng nhiên liệu khí (động cơ khí than … ). - Theo số xi-lanh có trong động cơ, có thể chia ra động cơ làm 2 loại: + Động cơ một xi-lanh + Động cơ nhiều xi-lanh (2, 4, 6 … xi lanh) . - Theo cách phân bố xi-lanh, có thể chia động cơ đốt trong làm hai loại: + Động cơ có xi-lanh xếp thẳng hàng + Động cơ có xi-lanh xếp thành hình chữ V.

10

c. Cấu tạo chung Về cấu tạo chung thì một động cơ đốt trong bao gồm các cơ cấu với các

nhiệm vụ khác nhau như sau:

- Cơ cấu biên tay quay làm nhiệm vụ thực hiện chu trình làm việc của động cơ, biến chuyển động tịnh tiến của pít-tông thành chuyển động quay của trục khuỷu ở kỳ sinh công và ngược lại biến chuyển động quay của trục khuỷu thành chuyển động tịnh tiến của pít-tông ở những kỳ phụ của chu trình làm việc trong xi-lanh.

- Cơ cấu phân phối khí có tác dụng mở đóng kịp thời các van xu-pap và cùng với cơ cấu biên tay quay phân phối hỗn hợp đốt vào từng xi-lanh cũng như xả khí đã cháy ra khỏi xi-lanh.

- Cơ cấu giảm áp cho phép giảm áp suất trong xi-lanh để đảm bảo quay dễ dàng trục khuỷu khi khởi động động cơ và khi điều chỉnh các bộ phận khác của động cơ.

- Hệ thống cung cấp: có nhiệm vụ cung cấp không khí và nhiên liệu đã được lọc sạch vào trong xi-lanh động cơ đúng lúc với một liều lượng nhất định tuỳ theo chế độ làm việc của động cơ.

- Hệ thống bôi trơn cung cấp dầu bôi trơn cho các bề mặt làm việc của

- Bộ điều tốc có nhiệm vụ thay đổi lượng cung cấp nhiên liệu điêzen (với động cơ điêzen) hoặc hỗn hợp khí đốt (với động cơ xăng) tuỳ theo tải trọng của động cơ. các chi tiết máy với liều lượng cần thiết ở nhiệt độ và áp suất nhất định.

- Hệ thống làm mát có nhiệm vụ giữ chế độ nhiệt động cơ làm việc thích hợp nhất, nó dẫn nhiệt độ thừa từ các chi tiết ra bộ phận truyền nhiệt cho không khí xung quanh.

- Hệ thống đánh lửa (chỉ có ở động cơ các-bua-ra-tơ) tạo ra tia lửa điện ở

thời điểm cần thiết để đốt cháy hỗn hợp đốt.

- Hệ thống khởi động của động cơ có nhiệm vụ đảm bảo cho động cơ

khởi động được dễ dàng.

2.1.2. Một số khái niệm chung Để hiểu dễ dàng một số khái niệm chung về động cơ đốt trong, ta xem

xét sơ đồ động cơ một xi-lanh như hình 2.1:

- Các điểm chết: trong qúa trình làm việc pít-tông chuyển động tịnh tiến

trong xi-lanh giữa hai điểm gọi là điểm chết trên và điểm chết dưới.

Điểm chết trên là vị trí của pít-tông mà tại đó khoảng cách từ nó đến tâm

trục khuỷu là lớn nhất.

Điểm chết dưới là vị trí của pít-tông mà tại đó khoảng cách từ nó đến tâm

trục khuỷu là nhỏ nhất.

- Hành trình pít-tông là khoảng cách đo dọc trục của xi-lanh từ điểm chết

trên đến điểm chết dưới, ký hiệu là S.

- Thể tích làm việc của xi-lanh là thể tích giới hạn giữa điểm chết trên và

điểm chết dưới, ký hiệu là Vlv.

11

S

Thể tích làm việc của xi-lanh được tính theo công thức:

Vlv

2 d  4

(lít) (2.1)

Trong đó: d - đường kính xi-lanh;

S - hành trình của pít-tông.

- Thể tích buồng đốt của xi-lanh là phần thể tích giới hạn bởi mặt trong

nắp xi-lanh và đáy pít-tông khi pít-tông ở điểm chết trên, ký hiệu là Vd.

- Thể tích toàn phần của xi-lanh là tổng thể tích buồng đốt và thể tích

làm việc của xi-lanh, ký hiệu là Vtp.

Hình 2.1: Sơ đồ động cơ đốt trong một xi-lanh 1 - van nạp ; 2 - van xả; 3 - pít-tông; 4 - xi-lanh; 5 - các-te; 6 - thanh truyền; 7 - tay quay; 8 - trục khuỷu. Vd - thể tích buồng đốt; Vlv -thể tích làm việc; Vtp - thể tích toàn phần; ĐCT - điểm chết trên; ĐCD - điểm chết dưới; S - hành trình pít-tông.

Như vậy: Vtp = Vlv - Vd (2.2)

-Tỷ số nén của động cơ là tỷ số giữa thể tích toàn phần và thể tích buồng

V d

V lv

; (

1  

1) 

đốt của động cơ:

V tp V d

 V d

V lv V d

(2.3)

- Khí mới nạp là hỗn hợp khí (với động cơ tạo thành hỗn hợp bên ngoài xi-lanh) hoặc không khí (với động cơ tạo thành hỗn hợp trong xi-lanh) được nạp vào xi-lanh ở thời kỳ nạp.

- Hỗn hợp cháy là hỗn hợp của không khí và nhiên liệu được làm tơi đảm

bảo cho sự cháy trong xi-lanh.

- Khí còn lại là khí còn sót lại trong xi-lanh sau khi cháy. - Hỗn hợp khí làm việc bao gồm hỗn hợp cháy và khí còn lại.

12



- Hệ số thừa không khí là tỷ số giữa lượng không khí cần thiết theo tính toán (lý thuyết) và lượng không khí cần thiết thực tế để đốt cháy hoàn toàn một kg nhiên liệu.

L 0L

(2.4)

Trong đó: L - lượng không khí cần thiết thực tế đưa vào xi-lanh để đốt cháy một kg nhiên liệu. L0 - lượng không khí cần thiết tính toán đưa vào xi-lanh để đốt cháy một kg nhiên liệu.

 là thông số đánh giá chất lượng hỗn hợp cháy,

 = 1 hỗn hợp khí cháy bình thường;

 > 1 hỗn hợp khí cháy nghèo (loãng);

 < 1 hỗn hợp khí cháy giầu (đặc). - Chu trình làm việc của động cơ: động cơ đốt trong làm việc nhờ các quá trình xảy ra liên tục theo một trình tự nhất định trong xi-lanh: nạp đầy khí mới nạp vào xi-lanh, nén khí mới nạp trong xi-lanh, đốt cháy hỗn hợp làm việc (còn gọi là quá trình nổ hay quá trình sinh công) và xả khí đã làm việc ra khỏi xi-lanh. Bốn quá trình đó tạo thành một chu trình làm việc của động cơ. Các chu trình liên tiếp được thực hiện tạo thành quá trình làm việc của động cơ.

- Thời kỳ (hay còn gọi tắt là kỳ) là một phần chu trình xảy ra trong thời gian pít-tông chuyển động từ điểm chết này đến điểm chết khác (pít-tông thực hiện một hành trình) gọi là một thời kỳ (gọi tắt là kỳ).

- Động cơ 2 kỳ là động cơ có chu trình làm việc được thực hiện trong một vòng quay của trục khuỷu, tức là pít-tông đi lại hai lần (pít-tông thực hiện hai hành trình).

- Động cơ 4 kỳ là động cơ có chu trình làm việc được thực hiện trong hai vòng quay của trục khuỷu, tức là pít-tông đi lại bốn lần (pít-tông thực hiện bốn hành trình).

Hình 2.2: Sơ đồ cấu tạo động cơ

4 kỳ một xi-lanh 1 - van nạp ; 2 - van xả; 3 - pít-tông; 4 - xi-lanh; 5 - bánh đà; 6 - thanh truyền; 7 - tay quay; 8 - trục khuỷu

2.1.3. Chu trình làm việc của động cơ đốt trong a. Chu trình làm việc của động cơ (xăng và điêzen) 4 kỳ * Sơ đồ cấu tạo của động cơ 4 kỳ (hình 2.2):

13

Đặc điểm cấu tạo nổi bật của động cơ 4 kỳ là có hai van phân phối,

thường đặt ở nắp xi-lanh phía đầu động cơ.

* Chu trình làm việc của động cơ 4 kỳ được thực hiện qua 4 hành trình của pít-tông, tương ứng với hai vòng quay của trục khuỷu, chu trình đó như sau:

- Kỳ nạp (hình 2.3):

Hình 2.3: Minh hoạ kỳ nạp của động cơ 4 kỳ

Hình 2.4: Minh hoạ thời kỳ nén của động cơ 4 kỳ

Ở đầu kỳ nạp, van nạp mở còn van xả đóng. Trục khuỷu quay làm pít-tông chuyển dịch từ điểm chết trên đến điểm chết dưới, áp suất trong khoảng trống phía trên giảm, khí mới nạp (là hỗn hợp khí cháy với động cơ xăng và là không khí sạch đối với động cơ điêzen) được nạp vào xi-lanh qua van nạp do chênh lệch áp suất giữa trong và ngoài xi-lanh, cuối thời kỳ nạp van nạp bắt đầu đóng lại.

Hình 2.5: Minh hoạ thời kỳ nổ của động cơ 4 kỳ

- Kỳ nén (hình 2.4): Ở đầu kỳ nén, cả hai van nạp và xả đều đóng. Trục khuỷu tiếp tục quay làm pít-tông chuyển dịch từ điểm chết dưới đến điểm chết trên. Do lúc này cả hai van nạp và xả đều đóng nên khoảng không gian phía trong xi-lanh kín, làm cho khí đã nạp đầy trong xi-lanh bị nén lại trong xi-lanh dưới một áp suất cao. Đối với động cơ xăng, khi pít-tông gần đến điểm chết trên bu-ri bật tia lửa điện làm hỗn hợp khí bị nén trong xi-lanh bốc cháy. Đối với động cơ điêzen, khi pít-tông gần đến điểm chết trên vòi phun bắt đầu phun nhiên liệu để trộn với không khí bị nén trong xi-lanh thành hỗn hợp cháy, dưới tác dụng của áp suất cao hỗn hợp khí đó sẽ tự bốc cháy.

- Kỳ nổ (hình 2.5): Ở đầu kỳ nổ (còn gọi là kỳ giãn nở - sinh công), van nạp và xả vẫn đóng. Sau khi quá trình cháy xảy ra, nhiệt độ trong xi-lanh tăng lên rất nhanh, khí trong xi-lanh giãn nở mạnh làm cho áp suất trong xi-lanh tăng cao. Dưới tác dụng của áp suất cao, pít-tông bị đẩy từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới. Chuyển động đó của pít- tông qua hệ thống thanh truyền và tay quay sẽ làm trục khuỷu quay. Thời kỳ này nhiệt năng được chuyển hoá thành cơ năng nên thường được gọi là thời kỳ sinh công, đây cũng chính là thời kỳ làm việc chủ yếu của động cơ.

14

Hình 2.6: Minh hoạ thời kỳ xả của động cơ 4 kỳ

- Kỳ xả (hình 2.6): Đầu thời kỳ xả, van nạp đóng vào còn van xả mở ra. Dưới tác dụng của lực quán tính do bánh đà sinh ra (bánh đà là một khối nặng được gắn cứng với trục khuỷu), pít-tông được đẩy từ điểm chết dưới đến điểm chết trên, khí đã cháy trong xi-lanh được dồn ra ngoài qua cửa xả, hoàn thành một chu trình làm việc của động cơ.

Sau thời kỳ xả, pít-tông lại chuyển dịch từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới và các quá trình của chu trình tiếp theo lại lần lượt được thực hiện.

b. Chu trình làm việc của động cơ 2 kỳ * Về cấu tạo, xi-lanh của động cơ 2 kỳ có 2 cửa (một cửa nạp, một cửa xả) và một lỗ thông (hình 2.7). Cửa nạp thông bộ chế hoà khí với buồng các-te để nạp khí mới nạp vào buồng các-te. Cửa xả thông buồng đốt với ống xả để xả khí đã cháy ra ngoài. Cửa thổi thông buồng các-te với buồng đốt để đưa khí từ buồng các-te lên buồng đốt.

Hình 2.7: Kỳ làm việc thứ nhất của động cơ xăng 2 kỳ

* Chu trình làm việc của động cơ xăng 2 kỳ: - Kỳ làm việc thứ nhất (hình 2.7):

Giả thiết rằng khi pít-tông ở điểm chết dưới trong xi-lanh của động cơ đã được nạp đầy khí mới nạp và còn một số khí còn lại. Pít-tông đi từ điểm chết dưới lên điểm chết trên (hành trình thứ nhất), sau khi đóng kín các cửa sẽ nén hỗn hợp khí làm việc ở phần thể tích phía trên đáy pít-tông. Đến khi pít-tông đến gần điểm chết trên thì bu-ri bật tia lửa điện, đốt cháy hỗn hợp khí, quá trình cháy bắt đầu xảy ra. Đồng thời lúc đó cửa nạp được mở ra, hỗn hợp khí cháy sẽ qua cửa nạp vào buồng các-te.

- Kỳ làm việc thứ hai (hình 2.8):

Ngay sau khi bu-ri bật tia lửa điện quá trình cháy xảy ra mãnh liệt, nhiệt độ và áp suất tăng nhanh. Dưới tác dụng của áp suất cao, pít-tông bị đẩy từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới (hành trình sinh công). Trong quá trình pít-tông đi xuống, cửa xả được mở ra, phần khí cháy được xả ra ngoài. Pít-tông tiếp tục đi xuống, sau khi đóng dần cửa nạp sẽ nén sơ bộ khí trong buồng các-te. Đến khi pít-tông đóng hẳn cửa nạp và mở cửa thổi thì hỗn hợp khí trong các-te sẽ trào lên nạp vào buồng đốt, đồng thời đẩy một phần khí đã cháy còn lại ra ngoài.

15

Hình 2.8: Kỳ làm việc thứ hai của động cơ xăng 2 kỳ

Sau khi hỗn hợp khí cháy được nạp vào buồng đốt, pít-tông tiếp tục đi từ

điểm chết dưới lên điểm chết trên thực hiện các hành trình của chu trình tiếp theo.

Hình 2.9: Kỳ làm việc thứ nhất của động cơ điêzen 2 kỳ

* Chu trình làm việc của động cơ điêzen 2 kỳ - Kỳ làm việc thứ nhất (hình 2.9):

Cũng giả thiết (như đối với động cơ xăng 2 kỳ) rằng khi pít-tông ở điểm chết dưới trong xi-lanh của động cơ đã được nạp đầy khí mới nạp (với động cơ điêzen là không khí sạch) và còn một số khí còn lại. Pít-tông đi từ điểm chết dưới lên điểm chết trên (hành trình thứ nhất), sau khi đóng kín các cửa sẽ nén không khí sạch ở phần thể tích phía trên đáy pít-tông. Đến khi pít-tông đến gần điểm chết trên thì vòi phun bắt đầu phun nhiên liệu (điêzen) để trộn với không khí tạo thành hỗn hợp cháy, dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất cao sẽ làm hỗn hợp cháy tự bốc cháy, quá trình cháy bắt đầu xảy ra. Đồng thời lúc đó cửa nạp được mở ra, hỗn hợp khí cháy sẽ qua cửa nạp vào buồng các-te.

- Kỳ làm việc thứ hai (hình 2.10):

Ngay sau khi hỗn hợp cháy tự bốc cháy, quá trình cháy xảy ra mãnh liệt, nhiệt độ và áp suất trong buồng đốt tăng nhanh. Dưới tác dụng của áp suất cao, pít-tông bị đẩy từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới (hành trình sinh công). Trong quá trình pít-tông đi xuống, cửa xả được mở ra, phần khí đã cháy được xả ra ngoài. Pít-tông tiếp tục đi xuống, sau khi đóng dần cửa nạp sẽ nén sơ bộ khí trong buồng các-te. Đến khi pít-tông đóng hẳn cửa nạp và mở cửa thổi thì không khí sạch trong các-te sẽ trào lên nạp vào buồng đốt, đồng thời đẩy một phần khí đã cháy còn lại ra ngoài.

16

Hình 2.10: Minh hoạ kỳ làm việc thứ hai của động cơ điêzen 2 kỳ

Sau khi không khí sạch được nạp vào buồng đốt, pít-tông tiếp tục đi từ điểm

chết dưới lên điểm chết trên thực hiện các hành trình của chu trình tiếp theo.

2.1.4. Một số đặc tính làm việc và phạm vi ứng dụng của các loại

động cơ đốt trong

Nếu động cơ 2 kỳ và 4 kỳ có cùng số lượng xi-lanh với kích hước bằng nhau và số vòng quay trục khuỷu bằng nhau thì động cơ 2 kỳ có nhiều ưu điểm hơn: chạy đều hơn, ít rung động hơn, có công suất lớn hơn; vì muốn hoàn thành một chu trình làm việc trục khuỷu của động cơ 2 kỳ chỉ phải quay một vòng trong khi trục khuỷu của động cơ 4 kỳ phải quay 2 vòng cho nên số lần giãn nở sinh công của động cơ 2 kỳ gấp đôi của động cơ 4 kỳ. Mặt khác, cũng do đó mà trên động cơ 2 kỳ, người ta có thể lắp bánh đà nhẹ hơn.

Về mặt cấu tạo và sử dụng, động cơ 2 kỳ đơn giản hơn động cơ 4 kỳ vì

không có cơ cấu phân phối khí.

Tuy vậy, động cơ 2 kỳ có nhược điểm là tính tiết kiệm thấp hơn so với động cơ 4 kỳ. Nếu động cơ 2 kỳ và động cơ 4 kỳ có cùng số lượng xi-lanh với kích thước như nhau số vòng quay trục khuỷu, bằng nhau thì theo lý thuyết, công suất của động cơ 2 kỳ phải gấp đôi công suất của động cơ 4 kỳ, nhưng thực tế chỉ tăng 60 đến 70%, vì động cơ 2 kỳ xả khí đã làm việc không hết, đồng thời nạp khí mới nạp không đầy vào xi-lanh và tiêu hao công suất cho việc thổi khí đã nạp từ các-te lên xi-lanh. Đặc biệt đối với động cơ có bộ chế hoà khí 2 kỳ, tính tiết kiệm rất thấp vì luồng thổi là hỗn hợp khí đốt bị theo khí đã làm việc (đã cháy) thoát ra ngoài xi- lanh (khí đốt thoát ra ngoài có thể lên đến 30%).

Xuất phát từ ưu, nhược điểm của động cơ 2 kỳ và 4 kỳ mà trong thực tế động cơ có công suất nhỏ thường là động cơ 2 kỳ như động cơ mô tô, xe máy, máy lai… còn động cơ công suất lớn thường là động cơ 4 kỳ.

Nếu so sánh động cơ điêzen với động cơ xăng thì động cơ điêzen có nhiều ưu điểm hơn: hiệu suất chỉ thị lớn hơn, chi phí nhiên liệu thấp hơn (do

17

động cơ điêzen có độ nén lớn hơn), nhiên liệu rẻ tiền và ít nguy cơ hoả hoạn hơn, hệ thống cung cấp nhiên liệu ít hư hỏng…

Bên cạnh đó, động cơ điêzen cũng có những nhược điểm so với động cơ xăng, đó là: chế tạo khó khăn vì phức tạp nên giá thành cao, cồng kềnh, khối lượng riêng lớn, khởi động khó khăn…

Vì những lý do trên mà động cơ điêzen thường đặt trên các loại máy kéo và ô tô có tải trọng lớn, còn các loại động cơ xăng thường được đặt trên các loại mô tô, ô tô có tải trọng nhỏ…

2.2. MÁY KÉO NÔNG NGHIỆP 2.2.1. Công dụng và phân loại máy kéo dùng trong nông nghiệp a. Công dụng Trong sản xuất người ta thường dùng hai loại động lực là động lực di động và động lực tĩnh tại. Máy kéo nói chung và máy kéo sử dụng trong nông nghiệp nói riêng là một loại động lực di động. Động lực di động là động lực chuyển động được trong quá trình làm việc.

Như vậy, máy kéo là nguồn động lực chuyển động được trong quá trình làm việc, đồng thời có khả năng di chuyển trên những địa hình phức tạp và có lực kéo lớn.

Máy kéo có công dụng rất lớn trong sản xuất nông nghiệp, dùng để kéo máy nông nghiệp loại treo và móc, trục thu công suất của máy kéo truyền chuyển động quay cho các bộ phận làm việc của máy nông nghiệp, dùng để làm đất, gieo trồng, chăm sóc và bảo vệ cây trồng; thu hoach, vận chuyển nông – lâm sản, bón phân, san ủi, cải tạo ruộng đồng… Máy kéo còn được dùng làm nguồn động lực truyền động cho những máy tĩnh tại như máy bơm nước, xay xát, đập lúa…

b. Phân loại *Căn cứ vào công dụng máy kéo, người ta chia máy kéo làm ba loại: - Máy kéo công dụng chung - Máy kéo vạn năng - Máy kéo chuyên dùng * Căn cứ vào loại động cơ đặt trên máy kéo người ta chia máy kéo ra 3 loại: - Máy kéo dùng động cơ điện - Máy kéo dùng động cơ đốt trong - Máy kéo dùng động cơ đốt ngoài - động cơ hơi nước * Căn cứ vào cấu tạo hệ thống chuyển động máy kéo có các loại: - Máy kéo xích; nửa xích - Máy kéo bánh (bánh hơi, bánh sắt) - Máy kéo bánh lồng - Máy kéo thuyền phao * Căn cứ vào cấu tạo thân máy, người ta chia máy kéo ra các loại: - Máy kéo toàn khung - Máy kéo nửa khung

18

2.2.2. Tính năng kỹ thuật và phạm vi ứng dụng của máy kéo nông nghiệp - Máy kéo công dụng chung dùng để cày, bừa, gieo, xới, thu hoạch cây trồng và làm những công việc nặng nhọc khác. Loại máy kéo này có động cơ công suất lớn, có khả năng bám đất tốt, nhờ vậy tăng được lực kéo khá lớn. Máy kéo loại này có đặc điểm là gầm thấp.

- Máy kéo vạn năng có khả năng làm nhiều việc trong nông nghiệp, nhưng khác với máy công dụng chung nó còn được dùng trong việc chăm sóc cây trồng do máy này có đặc điểm là: gầm cao, có khả năng chạy qua các hàng cây, chiều rộng hai vết bánh có thể thay đổi được cho phù hợp với khoảng cách các hàng cây, bán kính quay vòng nhỏ, có nhiều số truyền.

- Máy kéo chuyên dùng được dùng để thực hiện một loại công việc nhất định nào đó, như máy kéo làm việc trong vườn cây ăn quả, vườn rau, trong trại chăn nuôi, trên đồng ruộng lầy thụt, trên đồi dốc… Loại máy kéo này cũng được tạo nên trên cơ sở máy kéo có công dụng dùng chung và máy kéo vạn năng nhưng việc sử dụng có hạn chế hơn và có cấu tạo đặc biệt chủ yếu ở hệ thống di động với trang bị riêng.

- Với máy kéo xích, do được đặt trên hai dải xích có diện tích tiếp xúc với đất lớn hơn nhiều so với máy kéo bánh. Vì vậy, máy kéo xích có độ bám đất tốt hơn, có thể làm việc trên đất có độ ẩm cao mà máy kéo bánh không di chuyển được. Máy kéo bánh nhẹ hơn máy kéo xích cùng công suất, có thể dùng cho việc vận chuyển nhưng lực kéo nhỏ hơn máy kéo xích.

Hình 2.11: Sơ đồ đơn giản biểu diễn các bộ phận của máy kéo a - máy kéo bánh; b - máy kéo xích. 1 - động cơ; 2 - côn; 3 - hộp giảm tốc; 4 - trục các đăng; 5 - truyền lực chính 6 - hộp vi sai; 7 - bán cầu chủ động; 8 -bánh xe chủ động; 9 - côn chuyển hướng; 10 - truyền lực chính; 11 - bánh sao chủ động; 12 - xích.

2.2.3. Các phần chính của một máy kéo nông nghiệp Cấu tạo của máy kéo gồm: động cơ, hệ thống truyền lực, hệ thống truyền động, cơ cấu điều khiển, các trang bị làm việc và trang bị phụ khác (hình 2.11). Động cơ là nguồn năng lượng của máy kéo, biến đổi hoá năng lượng của nhiên liệu được đốt cháy, biến nhiệt năng thành cơ năng và truyền cơ năng đó cho hệ thống truyền lực và hệ thống chuyển động.

19

Hệ thống truyền lực là những cơ cấu có nhiệm vụ truyền mô-men quay của động cơ đến các bánh chủ động của máy kéo bánh hơi hoặc bánh sao chủ động của máy kéo xích, thay đổi mô-men quay và vận tốc của bánh xe.

Cơ cấu điều khiển tác động đến hệ thống chuyển động, thay đổi hướng chuyển động của máy kéo và giữ cho máy kéo đứng tại chỗ. Cơ cấu điều khiển bao gồm cơ cấu quay vòng (cơ cấu lái hoặc ly hợp chuyển hướng) và cơ cấu phanh.

Những trang bị làm việc của máy kéo gồm có hệ thống nâng hạ thuỷ lực,

cơ cấu móc, truc thu (trích) công suất.

Những trang bị phụ như quạt gió, hệ thống sưởi, bộ phận nén khí.

2.3. ĐỘNG CƠ ĐIỆN

2.3.1. Các loại động cơ điện và phạm vi sử dụng a. Phân loại động cơ điện Theo tính chất của nguồn điện động cơ sử dụng, ta có máy điện một chiều và máy điện xoay chiều. Máy điện một chiều là máy điện sử dụng nguồn điện một chiều, còn máy điện xoay chiều là máy điện sử dụng nguồn điện xoay chiều.

Theo số pha của nguồn điện động cơ sử dụng, ta có máy điện một pha,

máy điện hai pha và máy điện ba pha.

Máy điện xoay chiều có hai loại là máy điện đồng bộ và máy điện di bộ.

b. Phạm vi sử dụng của các loại động cơ điện Động cơ điện không đồng bộ có cấu tạo và vận hành không phức tạp, giá thành rẻ, làm việc tin cậy nên được sử dụng nhiều trong sản xuất và sinh hoạt. Động cơ điện không đồng bộ bao gồm các loại một pha, hai pha và ba pha. Các động cơ điện không đồng bộ có công suất lớn (trên 600W) thường là những động cơ ba pha. Còn các động cơ không đồng bộ có công suất nhỏ (dưới 600W) thường là những động cơ một pha hoặc hai pha.

Động cơ đồng bộ được sử dụng khi truyền động công suất lớn, có thể đạt đến vài chục MW. Trong công nghiệp luyện kim, khai thác mỏ, thiết bị lạnh, động cơ điện đồng bộ được sử dụng để truyền động cho các máy bơm, nén khí, quạt gió… với vận tốc không đổi. Động cơ đồng bộ công suất nhỏ được sử dụng trong các thiết bị như đồng hồ điện, thiết bị lập chương trình, thiết bị điện sinh hoạt…

ư

Động cơ điện một chiều được sử dụng ở những nơi yêu cầu mô-men mở máy lớn hoặc yêu cầu điều chỉnh tốc độ ổn định trong phạm vi rộng; sử dụng trong các thiết bị của ô tô, máy bay, tầu thuỷ; sử dụng làm cơ cấu chấp hành của thiết bị tự động…

2.3.2. Động cơ điện một chiều

Động cơ điện một chiều là loại động cơ sử dụng nguồn điện một chiều,

làm việc theo nguyên lý cảm ứng điện từ.

Về cấu tạo, động cơ điện một chiều có cấu tạo gồm ba phần chính: stato

với các cực từ, rôto với dây quấn và cổ góp với chổi địên.

Stato còn gọi là phần cảm hay phần tĩnh, nó vừa là mạch từ vừa là vỏ

máy, trên đó có các cực từ chính với các dây quấn kích từ.

20

Rôto còn gọi là phần ứng hay phần động gồm lõi thép (là các lá thép kỹ

thuật ghép lại) và dây quấn phần ứng đặt trên các rãnh của lõi thép.

Hình 2.12: Sơ đồ nguyên lý hoạt động của động cơ điện một pha

Hình 2.12 mô tả nguyên lý làm việc của động cơ điện một chiều. Khi cho điện áp một chiều U vào hai chổi điện C1 và C2, trong dây dẫn phần ứng (rôto) có dòng điện chạy từ C1 qua a, b, c, d rồi về C2. Các thanh dẫn ab và cd có dòng điện nằm trong từ trường (của phần cảm) sẽ chịu tác dụng của lực từ làm cho rôto quay. Chiều của lực từ xác định theo quy tắc bàn tay trái (hình 2.12a).

Khi phần ứng quay được nửa vòng, vị trí các thanh dẫn ab và cd đổi chỗ cho nhau, khi đó dòng điện từ C1 qua d, c, b, a rồi về C2. Ta thấy, trong bản thân khung dây thì chiều dòng điện đã đổi ngược lại, nhưng so với phần cảm thì chiều dòng điện là không đổi nên chiều của lực tác dụng là không đổi. Vì vậy, chiều quay của khung dây là không đổi (hình 2.12b).

Như vậy, khi cấp cho chổi điện trên stato một dòng điện sẽ làm cho rôto quay, trục của động cơ gắn cứng trên rôto quay theo tạo nên sự làm việc của động cơ một chiều.

2.3.3. Động cơ điện xoay chiều

Một pha

ĐCĐXC đồng bộ:

Động cơ điện xoay chiều:

(ĐCĐXC) Ba pha Một pha

ĐCĐXC không đồng bộ:

Ba pha

Trong sản xuất nông nghiệp người ta chủ yếu sử dụng động cơ điện

không đồng bộ ba pha và một số động cơ điện đồng bộ ba pha.

a. Động cơ điện không động bộ ba pha Động cơ điện không đồng bộ ba pha là loại động cơ sử dụng nguồn điện xoay chiều ba pha, làm việc theo nguyên lý cảm ứng điện từ, có tốc độ quay của rôto (tốc độ quay của máy) nhỏ hơn tốc độ của từ trường. * Cấu tạo của động cơ điện không đồng bộ ba pha

21

Hình 2.13: Cấu tạo của động cơ điện không đồng bộ ba pha a - stato; b - rôto; c - mặt cắt ngang trục động cơ 1- lõi thép rôto; 2 - lõi thép stato; 3 - dây quấn rôto; 4 - rãnh đặt dây quấn trên rôto; 5 -rãnh đặt dây quấn trên stato; 6 - dây quấn stato

Cấu tạo của máy điện không đồng bộ ba pha được vẽ trên hình 2.13, gồm hai bộ phận chủ yếu là stato (hình 2.13a) và rôto (hình 2.13b), ngoài ra còn có vỏ máy và nắp máy. Hình 2.13c vẽ mặt cắt ngang trục máy, cho ta thấy rõ các lá thép của stato và rôto.

- Stato là phần tĩnh của động cơ, gồm hai bộ phận chính là lõi thép và

dây quấn, ngoài ra có vỏ máy và nắp máy.

Lõi thép stato có hình trụ, được tạo thành từ những lá thép kỹ thuật điện. Các lá thép này được dập rãnh bên trong và ghép lại với nhau tạo thành các rãnh theo hướng trục. Lõi thép được ghép vào trong vỏ máy.

Dây quấn stato làm bằng dây dẫn bọc cách điện (dây điện từ) được đặt

bên trong các dãnh của lõi thép.

Dòng điện xoay chiều ba pha chạy trong ba dây quấn stato sẽ tạo ra từ

trường quay.

Vỏ máy làm bằng nhôm hoặc bằng gang dùng để giữ chặt lõi thép và cố định động cơ trên bệ. Hai đầu vỏ có các nắp động cơ, ổ đỡ trục. Vỏ máy và nắp máy còn có tác dụng bảo vệ máy.

- Rôto là phần đông (phần quay) của động cơ, cấu tạo gồm dây quấn, lõi

thép và trục máy.

Lõi thép cuả rôtô gồm các lá thép kỹ thuật được dập rãnh bên ngoài ghép

lại, tạo thành các rãnh theo hướng trục, ở giữa có lỗ để lắp trục.

Dây quấn rôto của máy điện không đồng bộ có hai kiểu: rôto ngắn mạch (còn gọi là rôto lồng sóc) và rôto dây quấn. Loại rôto lồng sóc có công suất trên 1000KW, trong các rãnh của lõi thép rôto đặt các thanh đồng, hình 2.14b, hai đầu nối ngắn mạch bằng hai vòng đồng, hình 2.14a, tạo thành lồng sóc.

Ở động cơ công suất nhỏ, lồng sóc được chế tạo bằng cách đúc nhôm vào các rãnh lõi thép rôto, tạo thành thanh nhôm, hai đầu đúc vòng ngắn mạch

22

Hình 2.14: Các kiểu rôto của động cơ điện không đồng bộ ba pha a - vòng đồng của rôto lồng sóc kiểu khung; b - rôto lồng sóc kiểu khung; c - rôto lồng sóc kiểu đúc

và cánh quạt làm mát, hình 2.14c. Động cơ điện có lồng sóc được gọi là động cơ không đồng bộ lồng sóc.

Loại rôto dây quấn, trong rãnh lõi thép rôto đặt dây quấn ba pha. Dây quấn ba pha thường được nối sao, ba đầu ra nối với ba vòng tiếp xúc bằng đồng, cố định trên trục rôto và được cách điện với trục, hình 2.15a.

Hình 2.15: Rôto loại dây quấn

Nhờ ba chổi than tỳ sát vào ba vòng tiếp xúc, dây quấn rôto được nối với ba biến trở bên ngoài để mở máy hay điều chỉnh tốc độ, hình 2.15b. Loại động cơ này được gọi là động cơ không đồng bộ ba pha dây quấn.

Động cơ lồng sóc là loại rất phổ biến, động cơ rôto dây quấn có ưu điểm về mở máy và điều chỉnh tốc độ song giá thành đắt và vận hành kém tin cậy, nên chỉ được dùng khi động cơ lồng sóc không đáp ứng được yêu cầu về truyền động.

* Từ trường quay của dây quấn ba pha

Để thấy rõ sự hình thành từ trường, khi vẽ từ trường ta quy ước chiều dòng điện như sau: dòng điện pha nào dương có chiều từ đầu đến cuối pha, đầu được ký hiệu bằng hình tròn có dấu nhân ở giữa (⊗), còn cuối được ký hiệu bằng hình tròn có dấu chấm ở giữa (◉). Dòng điện pha nào âm có chiều và ký hiệu ngược lại, đầu ký hiệu bằng ◉, cuối ký hiệu bằng ⊗.

23

Hình 2.16: Quy luật biến đổi từ trường trong động cơ điện không đồng bộ ba pha

Giả thiết trong dây quấn ba pha có dòng điện ba pha đối xứng chạy qua,

ta có:

iA = Imax.sin(t); iB = Imax.sin(t - 1200); iC = Imax.sin(t - 2400).

Hình 2.17: Quy luật biến đổi của dòng điện ba pha

(2.5) (2.6) (2.7) Quy luật biến đổi của dòng điện có dạng như hình 2.16:

Xét từ trường ở các thời điểm khác nhau: - Thời điểm pha t = 900: ở thời điểm này dòng điện pha A cực đại và dương (xem hình 2.17a), dòng điện pha B và C âm. Theo quy định trên, dòng điện pha A dương nên đầu A ký hiệu là ⊗ cuối X ký hiệu là ◉; dòng điện pha B và C âm nên đầu B và C ký hiệu là ◉, cuối Y và Z ký hiệu là ⊗, hình 2.16a. Dùng quy tắc vặn nút chai ta xác định được chiều đường sức từ trường do các dòng điện sinh ra, (hình 2.16a), ta thấy từ trường tổng có một cực S và một cực N, ta gọi là từ trường một đôi cực (p = 1). Trục của từ trường tổng trùng với trục của dây quấn pha A - là pha có dòng điện cực đại.

24

- Thời điểm pha bằng 900 - 1200: là thời điểm sau thời điểm đã xét một phần ba chu kỳ. Ở thời điểm này, dòng điện pha B cực đại và dương, các dòng điện pha A và C âm (hình 2.16b). Dùng quy tắc vặn nút chai xác định được chiều đường sức từ trường do các dòng điện sinh ra. Ta thấy từ trường tổng đã quay đi một góc 1200 so với thời điểm trước. Trục của từ trường tổng trùng với trục của dây quấn pha B - là pha có dòng điện cực đại.

- Thời điểm pha bằng 900 - 2400: là thời điểm chậm sau thời điểm đầu hai phần ba chu kỳ. Ở thời điểm này, dòng điện pha C cực đại và dương, các dòng điện pha A và B âm (hình 2.16c). Dùng quy tắc vặn nút chai ta xác định được chiều đường sức từ trường do các dòng điện sinh ra. Ta thấy từ trường tổng đã quay đi một góc 2400 so với thời điểm đầu. Trục của từ trường tổng trùng với trục của dây quấn pha C - là pha có dòng điện cực đại.

Như vậy, từ trường tổng của dòng điện ba pha là từ trường quay. Từ trường quay móc vòng với cả hai dây quấn stato và rôto, đó là từ trường chính của động cơ điện, tham gia vào quá trình biến đổi năng lượng.

Với cách cấu tạo dây quấn như trên, ta được từ trường quay có một đôi cực.

Nếu thay đổi cách cấu tạo dây quấn ta được từ trường 2, 3 hay 4… đôi cực từ.

* Đặc điểm của từ trường quay

Từ trường quay của hệ thống điện ba pha có ba đặc điểm quan trọng: - Tốc độ từ trường quay: Tốc độ từ trường quay phụ thuộc vào tần số dòng điện stato (f) và số đôi cực từ (p). Ở hình 2.16 ta thấy rằng khi dòng điện biến thiên một chu kỳ, từ trường quay được một vòng, do đó trong một phút dòng điện stato biến thiên 60f chu kỳ thì từ trường quay được 60f vòng. Vậy khi từ trường có một đôi cực thì tốc độ của từ trường quay là n1 = 60f vòng/phút. Khi từ trường có hai đôi cực, dòng điện biến thiên một chu kỳ thì từ trường quay được 1/2 vòng, do đó tốc độ quay của từ trường là n2 = 60f/2 vòng/phút.

Một cách tổng quát, khi từ trường có p đôi cực thì tốc độ quay của từ

f

n

trường (còn gọi là tốc độ đồng bộ) là:

.60 p

(vòng/phút) (2.8)

- Chiều của từ trường: Chiều quay của từ trường phj thuộc vào thứ tự pha của dòng điện. Muốn đổi chiều quay của từ trường ta thay đổi thứ tự hai pha cho nhau.

max

p

max

- Biên độ từ thông của từ trường quay: Từ trường quay sinh ra từ thông  xuyên qua mỗi dây quấn. Từ thông này biến thiên theo quy luật hình sin và có biên độ bằng 3/2 từ thông cực đại của một pha:

3  2

(2.9)

max

  p

max

Trong đó: pmax là từ thông cực đại của một pha.

m 2

Đối với dây quấn m pha thì: (2.10)

* Nguyên lý làm việc

25

Khi ta cho dòng điện ba pha tần số f vào dây quấn stato, sẽ tạo ra từ trường quay p đôi cực, quay với tốc độ là n 1 = 60f/p vòng/phút. Từ trường quay cắt các thanh dẫn của dây quấn rôto, cảm ứng các sức điện động. Vì dây quấn rôto nối ngắn mạch, nên sức điện động cảm ứng sinh ra dòng điện trong các dây dẫn rôto. Lực tác dụng tương hỗ giữa từ trường quay của máy với thanh dẫn mang dòng điện rôto, kéo rôto quay cùng chiều quay của từ trường với vận tốc n.

Để minh họa, trên hình 2.18 vẽ từ trường quay tốc độ n1, chiều sức điện

động và dòng điện cảm ứng trong thanh dẫn rôto, chiều các lực điện từ Fđt.

Hình 2.18: Mô tả nguyên lý làm việc của động cơ không đồng bộ ba pha Chiều lực điện từ xác định theo quy tắc bàn tay trái, trùng với chiều quay n1. Tốc độ quay n của trục động cơ nhỏ hơn tốc độ quay của từ trường n 1, vì nếu tốc độ bằng nhau thì không có sự chuyển động tương đối, trong dây quấn rô to không có sức điện động và dòng điện cảm ứng, lực điện từ bằng 0.

Khi xác định chiều sức điện động cảm ứng theo quy tắc bàn tay phải, ta căn cứ vào chiều chuyển động tương đối của thanh dẫn đối với từ trường. Nếu coi từ trường đứng yên, thì chiều chuyển động tương đối của thanh dẫn ngược với chiều n1, từ đó áp dụng quy tắc bàn tay phải, xác định được chiều sức điện động như hình vẽ, (dấu ⊗ chỉ chiều đi từ ngoài vào trong, dấu ◉ chỉ chiều đi từ trong ra ngoài).

Độ chênh lệch giữa tốc độ từ trường quay và tốc độ động cơ gọi là tốc độ

trượt n2:

n2 = n1 – n (2.11)

s

1 

Hệ số trượt của tốc độ là :

n 2 n 1

n n 1

(2.12)

Khi rôto đứng yên (n = 0), hệ số trượt s = 1; khi rôto quay định

f

n

s

)

1(

s

).

n 1(1

mức s = 0.2  0.6, tốc độ động cơ là:

.60 p

(2.13)

26

b. Động cơ điện đồng bộ ba pha Động cơ điện đồng bộ ba pha là loại động cơ sử dụng nguồn điện xoay chiều ba pha. Làm việc theo nguyên tắc cảm ứng điện từ, nhưng có tốc độ quay của rôto (tốc độ quay của máy) bằng tốc độ của từ trường quay.

* Cấu tạo động cơ đồng bộ ba pha

Hình 2.19: Mặt cắt ngang trục động cơ đồng bộ 1 - dây quấn stato; 2- lõi thép stato; 3 - lõi thép rôto; 4 - dây quấn rôto.

Cấu tạo của động cơ đồng bộ ba pha gồm 2 bộ phận chính là stato và rôto, hình 2.19. - Stato của động cơ đồng bộ ba pha vẽ trên hình 2.20a, giống như stato của động cơ không đồng bộ, gồm hai bộ phận chính là lõi thép stato và dây quấn stato, dây quấn stato gọi là dây quấn phần ứng.

Hình 2.20: Cấu tạo stato và rôto động cơ điện đồng bộ a - stato; b - rôto cực ẩn; c, d - rôto cực lồi.

- Rôto động cơ điện đồng bộ có các cực từ và dây quấn kích từ. Có hai loại: rôto cực ẩn và rôto cực lồi. Hình 2.20b vẽ rôto cực ẩn, hình 2.20c,d vẽ rôto cực lồi.

27

Rôto cực lồi dùng ở các máy có tốc độ chậm, có nhiều đôi cực. Rôto cực ẩn thường dùng ở các máy có tốc độ cao (3000v/p), có một đôi cực. Để có suất điện động hình sin từ trường của cực từ rôto phải phân bố hình sin dọc theo khe hở không khí giữa stato và rôto, ở đỉnh các cực từ có từ cảm cực đại.

Đối với rôto cực ẩn, dây quấn kích từ được đặt trong rãnh. Đối với rôto

cực lồi, dây quấn kích từ được đặt xung quanh thân cực từ.

Hai đầu của dây quấn kích từ đi luồn trong trục và nối hai vòng trượt đặt

ở đầu trục, thông qua hai chổi điện để nối với nguồn kích từ.

* Nguyên lý làm việc của động cơ đồng bộ ba pha Cho dòng điện ba pha iA, iB và iC vào dây quấn stato, dòng điện này sinh ra từ trường quay có tốc độ n1 = 60.f/p (v/p).

Hình 2.21: Mô tả nguyên lý làm việc của động cơ đồng bộ ba pha

Khi cho dòng điện một chiều vào dây quấn rôto, rôto trở thành một nam châm điện.

Tác dụng tương hỗ giữa dòng từ trường stato và từ trường rôto sẽ có lực tác dụng lên rôto. Khi từ trường stato quay với vận tốc n1, lực tác dụng đó sẽ kéo rôto quay với vận tốc n = n1.

2.3.4. An toàn lao động khi sử dụng điện a. Tác dụng của dòng điện đối với con người Con người khi bị đặt trong một điện thế sẽ bị tác dụng của dòng điện đi qua cơ thể. Tuỳ theo độ lớn của điện thế mà mức độ nguy hại sẽ khác nhau như: tê liệt thần kinh, điện phân máu…

Trị số của cường độ dòng có mức độ tác động đến con người như sau: Làm tê tay Bị giật Khó rút tay ra khỏi dây điện, nhức khớp xương Con người bị tê liệt Ngừng hô hấp Không quá một giây tim ngừng đập I = 0.6 ÷ 1.5 mA I = 2 ÷ 3 mA I = 12 ÷ 15mA I = 20 ÷ 25 mA I = 50 ÷ 80 mA I > 100 mA

Khi cơ thể con người chạm vào dây dương của đường dây thì trên cơ thể xuất hiện một dòng điện lớn hoặc nhỏ thì ngoài sự phụ thuộc vào điện thế lớn hoặc nhỏ còn phụ thuộc vào điện trở của con người. Tuỳ theo đặc điểm, trạng thái và môi trường, điện trở của mỗi người khoảng 40 đến 100.000Ω.

Nếu chạm tay vào một pha (điện thế uf = 220V), có dòng điện 0,004 ampe chạy qua người. Nếu chạm hai tay vào hai pha (điện thế uf = 380V), có

28

dòng điện 0,0876 ampe chạy qua người. Các trường hợp trên đều gây nguy hiểm cho con người.

b. Các hiện tượng điện giật Bị giật do chạm mát Chạm mát là hiện tượng tiếp xúc của dây dương (dây pha) tại một điểm nào đó với vỏ máy. Bị giật do chạm mát là trường hợp người bị tác động của dòng điện đi qua vỏ máy bị chạm mát. Hiện tượng chạm mát dễ xảy ra do tác hại của môi trường. Bụi bẩn, độ ẩm không khí… làm giảm điện trở cách điện của những vật liệu cách điện hoặc làm mất hoàn toàn khả năng cách điện của vật liệu. Thường thì những trường hợp bị chạm mát sẽ bị mất đi sau khi động cơ làm việc và nóng lên nhưng cũng có những trường hợp rất nguy hiểm.

Ta xét hai trường hợp chạm mát: Giả sử con người tiếp xúc vào vỏ máy của động cơ điện bị chạm một pha vào vỏ, mà vỏ máy không nối đất. Trường hợp này, con người phải chịu hoàn toàn điện thế cao nguy hiểm.

Nếu ta nối một dây dẫn từ vỏ máy xuống đất, gọi là nối đất cho máy. Thì con người chỉ là một phân mạch song song của dòng điện chung mà thôi. Điện trở phân mạch người rất lớn so với điện trở dây nối đất (vì bản thân điện trở người đã lớn lại cộng thêm điện trở tiếp xúc giữa cơ thể người với vỏ máy, giữa cơ thể người với đất), do đó, dòng điện chạy qua cơ thể người rất nhỏ, không gây nguy hiểm.

Bị giật do điện thế bước: Khi dây nóng của mạch tiếp xúc với đất tạo ra xung quanh nó những “vòng tròn điện thế”. Bán kính vòng nguy hiểm khoảng 20 mét. Người đi trong vùng này sẽ bị một điện thế chênh lệch giưa hai vòng tròn điện thế chứa hai chân (vì thế gọi là điện thế bước).

Càng gần điểm dây nóng chạm đất thì sự chênh lệch giữa điện thế hai

vòng tròn bước chân càng lớn và càng nguy hiểm.

Nếu hai chân người cùng nằm trong một vòng tròn điện thế thì không bị

điện giật.

c. Các biện pháp đảm bảo an toàn Để đảm bảo an toàn khi sử dụng điện cần phải tuân thủ những quy định,

biện pháp sau đây:

- Các chỗ nối trên đường dây trong nhà phải quấn băng cách điện và

ghép cẩn thận bằng sứ cách điện.

- Đường dây trần phải cách mặt đất và nơi sinh hoạt đúng theo tiêu chuẩn quy

định. Hộp cầu dao phải treo trên tường cách mặt đất ít nhất 1,5m và có nắp khoá.

- Phải dùng dây chảy đúng trị số và lắp đúng nơi quy định theo yêu cầu

kỹ thuật an toàn, không được thay dây chảy khác loại hoặc khác trị số.

- Các vỏ máy bằng kim loại phải được nối đất, dây nối đất phải đảm bảo

đúng kỹ thuật và thường xuyên kiểm tra.

- Không được sửa chữa, thay thế, lắp ráp trong khi máy móc, thiết bị

đang đấu vào lưới điện.

29

- Không được sửa chữa mạng điện khi không có thiết bị đảm bảo an toàn

và đối với người không có chuyên môn.

Câu hỏi ôn tập:

1. Trình bày sơ đồ cấu tạo và chu trình làm việc của động cơ 2 kỳ.

2. Trình bày sơ đồ cấu tạo và chu trình làm việc của động cơ 4 kỳ.

3. Trình bày cấu tạo và hoạt động của động cơ điện một chiều

4. Trình bày cấu tạo và hoạt động của động cơ điện xoay chiều đồng bộ.

5. Trình bày cấu tạo và hoạt động của động cơ điện xoay chiều không đồng bộ.

6. Cho biết các hiện tượng điện giật và biện pháp đảm bảo an toàn trong quá trình sử dụng máy điện.

30

PHẦN HAI: HỆ THỐNG MÁY NÔNG NGHIỆP

Ngày nay, cơ giới hoá, tự động hoá là xu thế chung của mọi ngành sản xuất. Sản xuất nông nghiệp nước ta đang ở giai đoạn cơ giới hoá. Trong tiến trình cơ giới hoá nông nghiệp sẽ dần hình thành hệ thống máy nông nghiệp, bao gồm tất cả các loại máy phục vụ trong sản xuất nông nghiệp: máy canh tác nông nghiệp, máy thu hoạch nông nghiệp, máy phục vụ chăn nuôi… Theo chương trình ngành học trồng trọt và nông lâm tổng hợp, trong phần này của bài giảng sẽ giới thiệu các loại máy của hai nhóm chính là nhóm các máy canh tác và nhóm các máy thu hoạch sử dụng trong nông nghiệp.

CHƯƠNG III: MÁY LÀM ĐẤT

Làm đất là một khâu quan trọng không thể thiếu trong quá trình canh tác, nhằm mục đích nâng cao độ phì của đất, tạo điều kiện cho sự phát triển của hạt giống, cây trồng.

Nhiệm vụ của việc làm đất: - Làm tơi nhỏ lớp đất bề mặt với đất khô và làm nhuyễn với đất ngập nước. - Diệt trừ cỏ dại và sâu bệnh. - Chuẩn bị cho việc gieo trồng: làm phẳng, xẻ rãnh, vun luống… Phương pháp làm đất: - Làm đất cục bộ: là phương pháp mà đất chỉ được làm cục bộ tại những

nơi cần thiết.

- Làm đất toàn diện: là phương pháp mà đất được làm toàn phần tổng

diện tích bề mặt đất canh tác.

Theo quan điểm công nghệ, phương pháp làm đất còn được chi ra: - Làm đất qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu làm cho lớp đất mặt có dạng

thỏi lớn, giai đoạn sau mới làm cho đất tơi, nhỏ đến mức cần thiết.

- Làm đất qua một giai đoạn: Đồng thời tác động để tạo ra lớp đất tơi,

xốp, nhuyễn theo yêu cầu.

Làm đất là một công việc nặng nhọc nên người ta đã sớm tiến hành cơ giới hoá khâu công việc này bằng cách sử dụng các loại máy làm đất vào sản xuất thay cho sức người. Máy làm đất bao gồm các loại: máy cày, máy bừa, máy phay. Tuỳ theo nhiệm vụ và phương pháp làm đất khác nhau mà trên một thửa đất người ta có thể chỉ sử dụng một loại máy hay phối hợp một nhóm máy để làm đất theo yêu cầu.

3.1. MÁY CÀY Nhiệm vụ của cày là cày một lớp đất trên mặt đồng với độ sâu theo yêu cầu. Thỏi đất được cày có thể bị lật úp hoặc không lật, có thể được làm vỡ sơ bộ hoặc không. Trong nông nghiệp nước ta phổ biến là cày lật đất.

Theo cách phân loại phổ biến nhất, máy cày gồm hai loại: cày lưỡi diệp

và cày đĩa.

31

3.1.1. Cày lưỡi diệp và phạm vi sử dụng a. Những bộ phận chính của máy cày lưỡi diệp Những bộ phận chính hay những bộ phận làm việc của máy cày lưỡi diệp

Hình 3.1: Máy cày lưỡi diệp 1 - thân cày chính; 2 - dầm làm cứng khung; 3 - trục vít bánh tựa; 4 - thanh treo giữa; 5 - thanh treo xiên; 6 - giá đỡ trái; 7 - vít điều chỉnh; 8 - trục bộ phận treo; 9 - thanh dọc; 10 - thân cày phụ; 11 - giá đỡ phải 12 - bánh tựa; 13 - dao đĩa

gồm có: thân cày chính, thân cày phụ, dao cày và thân cày sâu thêm.

Hình 3.2: Thân cày chính 1 - lưỡi cày; 2 - tấm tựa; 3 - diệp cày; 4 - cánh diệp; 5 - ngực diệp; 6 - trụ cày.

- Thân cày chính: là bộ phận làm việc chủ yếu của máy cày, có nhiệm vụ cắt thỏi đất ở đáy luống, nâng thỏi đất lên, chuyển sang một bên và lật úp thỏi đất xuống. Trong quá trình làm việc, thân cày chính chuyển động tịnh tiến, làm biến dạng thỏi đất, nếu là đất khô sẽ làm nứt vỡ sơ bộ thỏi đất.

Kết quả làm việc của cày phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất của đất đai, cấu tạo và tình trạng làm việc của thân cày, chế độ làm việc (như độ cày sâu, tốc độ chuyển động).

Thân cày chính gồm có lưỡi cày, diệp cày, thanh tựa đồng. Các bộ phận

này cùng lắp vào trụ cày.

32

- Lưỡi cày có nhiệm vụ cắt thỏi đất ở đáy rồi nâng lên cho diệp cày, lưỡi cày là bộ phận chịu tải nặng, chịu đến 50% toàn bộ lực cản tác dụng lên thân cày, vì thế lưỡi cày được nhiệt luyện ở bề mặt và cạnh sắc.

Lưỡi cày có hai loại được sử dụng phổ biến là lưỡi cày hình thang và lưỡi cày mũi đục:

Lưỡi cày hình thang dùng trong các máy cày làm việc ở loại đất nhẹ và trung bình. Mặt sau của lưỡi dọc theo cạnh sắc có phần thép dự trữ để phục hồi sau khi bị mòn.

Hình 3.3: Các loại lưỡi cày a - lưỡi hình thang; b - lưỡi múi đục

Lưỡi cày dạng mũi đục dùng trong các máy cày làm việc ở đất trung bình và đất nặng. Mũi đục có phần dài thêm và nhô ra để ăn sâu thêm vào đáy luống để cày không bị trượt, đảm bảo độ cày sâu và bề rộng xá cày. Lưỡi cày bị mòn nhiều ở mũi lưỡi, vì thế khi cày đất nặng mũi lưỡi đục có mòn thì phần nhô ra vẫn làm việc được. Cũng như lưỡi cày hình thang, mặt sau lưỡi cày mũi đục cũng có lớp thép dự trữ để hồi phục lưỡi khi lưỡi mòn quá qui định.

Ở một số cày, để tiện cho việc sửa chữa, người ta chế tạo mũi đục riêng có hai đầu đối xứng và lắp vào phần chính của lưỡi bằng bu-lông đặc biệt để khi bị mòn có thể tháo ra, đổi chiều và lại lắp chặt vào thân chính.

Cạnh sắc của của lưỡi cày được lắp nghiêng so với thành luống một góc 0, để cạnh sắc cắt đất có trượt, giảm lực cắt đất. Cày làm việc ở chế độ bình thường thì 0 = 35 đến 400, nhưng cày làm việc ở chế độ cao hơn thì 0 = 30 đến 350.

Cạnh sắc của lưỡi cày được mài sắc, góc mài bằng 200 đến 400. Tuỳ theo

loại đất, độ cày sâu, lực kéo… mà chiều rộng của bề mặt lưỡi cày có khác nhau.

Thông thường khi cày được 12 đến 15ha thì phải tu sửa lại lưỡi để phục hồi lại kích thước và hình dáng ban đầu của lưỡi. Lưỡi cày đã mòn được phục hồi lại bằng công nghệ rèn, dập, luyện kim.

- Diệp cày Diệp cày có nhiệm vụ làm tiếp công việc mà lưỡi cày đã làm, tức là tiếp tục nâng đất, tách đất sang bên, làm nứt vỡ và cuối cùng lật úp thỏi đất. Như vậy, ta thấy diệp cày có nhiệm vụ rất quan trọng, quyết định đến chất lượng cày đất. Bề mặt cong của lưỡi cày chủ yếu là do diệp cày tạo lên. Tuỳ theo điều kiện đất đai, yêu cầu kỹ thuật mà diệp cày có dạng cong khác nhau.

Bề mặt diệp cày có thể chia làm hai phần: ngực diệp là phần ở phía trước

và cánh diệp là phần ở phía sau, hình 3.2.

Thỏi đất khi di chuyển trên bề mặt bị nứt vỡ, mà bị nứt vỡ nhiều nhất là lúc qua phần ngực diệp. Phần cánh diệp được uốn cong nhiều hơn ngực diệp,

33

nhờ vậy nó có tác dụng lật úp thỏi đất nhanh. Ở một số máy cày, người ta còn lắp thêm các cánh phụ vào cánh diệp để tăng khả năng lật úp của cày.

Hình 3.4: Dạng bề mặt diệp cày  - góc nâng;  - góc lật;  - góc tách.

Bề mặt làm việc của diệp cùng với bề mặt làm việc của lưỡi cày tạo thành bề mặt làm việc của thân cày. Bề mặt làm việc của thân cày sẽ nâng, tách và lật thỏi đất, quá trình đó diễn ra liên tục khi cày làm việc, vì vậy bề mặt đó phải cong liên tục và hợp lý, độ nhẵn bóng bề mặt làm giảm lực cản làm việc của lưỡi cày, giảm chi phí năng lượng cho cày.

Căn cứ vào dạng bề mặt của diệp cày người ta chia diệp cày ra làm bốn loại:

• Diệp cày dạng hình trụ • Diệp cày dạng đất thuộc • Diệp cày dạng nửa xoắn • Diệp cày dạng hình xoắn Phần đầu và phần ngực diệp có độ xoắn nhỏ để thỏi đất được nâng lên dễ dàng, giảm lực cản, còn phần cánh diệp có độ xoắn biến thiên nhanh và xoắn nhiều nên thỏi đất được lật úp triệt để. Loại diệp này rất thích hợp để cày ruộng nước, nhiều cỏ rác.

- Thanh tựa đồng (hình 3.2) Khi làm việc do tác động của lực cản từ đất, lưỡi diệp và trụ cày bị quay theo chiều tác dụng của lực cản đó. Thanh tựa đồng có tác dụng khắc phục hiện tượng này.

Thanh tựa đồng là một tấm kim loại, có bề dày tuỳ thuộc vào kích thước thân cày, bề rộng đó thường nhỏ hơn độ cày sâu trung bình của cày. Thanh tựa đồng được lắp vào trụ cày sao cho đuôi của nó nghiêng với thành luống và đáy luống một góc 0 đến 30. Như vậy, chỉ có phần đuôi của nó tỳ vào thành và đáy luống, làm cho cày chuyển động ổn định. Phần cuối của thanh tựa chịu mài mòn do ma sát trượt. Vì vậy, nó được chế tạo bằng thép có khả năng chống mài mòn.

Ở cày có nhiều thân cày, thanh tựa đồng của thân cuối cùng chịu phản lực nhiều nhất so với các thanh tựa của những thân cày trước nó. Vì thế, người ta thường lắp vào phần cuối của thanh tựa đồng này một chi tiết gọi là gót cày. Gót cày được chế tạo bằng vật liệu chịu mòn. Khi gót cày này bị mòn đến mức hết tác dụng, ta có thể điều chỉnh được vị trí của gót hoặc thay gót mới một cách dễ dàng mà không cần phải thay thế cả thanh tựa đồng.

- Trụ cày (hình 3.2) Đầu dưới của trụ cày dùng để lắp lưỡi cày, diệp cày và thanh tựa đồng, cong đầu trên của trụ dùng để lắp vào khung. Tuỳ theo loại cày sâu hay cày nông, cày đất nặng hay cày đất nhẹ mà trụ cày có cấu trúc phức tạp

34

hay đơn giản, cao hay thấp. Trụ cày có thể chỉ đơn giản là một thanh thép tiết diện chữ nhật hoặc chữ I, được uốn cong hợp lý để chịu lực và lắp ghép. Để cày đất nặng và cày sâu trụ cày có thể đặc hoặc rỗng (rỗng hình chữ nhật hoặc rỗng hình tam giác). Lưỡi diệp được lắp vào đầu dưới của trụ cày bằng những bu-lông đầu chìm, còn đầu trên của trụ được lắp vào khung nhờ quai và ngàm (bu-lông vòng).

- Thân cày phụ Thân cày phụ có nhiệm vụ hớt một lớp đất mặt cùng cỏ rác với độ sâu nhỏ hơn độ cày sâu của thân cày chính. Bề rộng thỏi đất do thân cày phụ hớt bằng hai phần ba bề rộng làm việc của thân cày chính và hất xuống đáy luống do thân cày trước tạo nên. Tiếp sau đó, thân cày chính cày và lật phần đất còn lại úp xuống, nhờ vậy mà cỏ rác được vùi lấp kín hơn. Người ta chỉ dùng thân cày phụ khi yêu cầu thân cày chính phải cày sâu hơn 18cm.

Thân cày phụ bao gồm: lưỡi, diệp và trụ. Lưỡi cày có dạng hình thang hoặc mũi đục. Dạng cong của bề mặt làm việc thường là dạng nửa xoắn. Trụ cày loại đơn giản có tiết diện cắt ngang dạng hình chữ nhật hoặc chữ I.

Cách lắp lưỡi và diệp vào trụ, trụ vào khung của thân cày phụ tương tự như đối với thân cày chính. Vị trí của thân cày phụ so với thân cày chính được biểu thị trên hình 3.6:

1 2

60

3

Hình 3.5: Thân cày phụ

Hình 3.6: Vị trí tương đối giữa thân cày chính, thân cày phụ và dao cày

4 5

- Dao cày Dao cày có nhiệm vụ cắt thỏi đất theo chiều thẳng đứng, dọc theo thành luống, làm cho thành luống được phẳng không bị vỡ nham nhở, thỏi đất được lật gọn, đáy luống phẳng và sạch sẽ. Riêng đối với thân cày sau cùng cần thiết phải có dao cày vì trong quá trình làm việc thì bánh sau và bánh luống của cày móc và hai bánh xe bên phải của máy kéo bánh hơi lăn trên đáy luống. Nếu đáy luống không thẳng, phẳng và sạch thì các bánh xe sẽ không chuyển động ổn định, lắc lư, dẫn đến độ sâu cày không đảm bảo (không đều), thỏi đất lật không gọn, lực cản kéo cày tăng.

Dao cày được lắp trước mỗi thân cày chính. Nếu cày đất ít cỏ thì chỉ cần

lắp một dao cày trước thân cày chính cuối cùng.

35

Dao cày có hai loại là dao thẳng và dao đĩa: • Dao thẳng Dao thẳng có cấu trúc đơn giản (hình 3.7). Dao có phần cán dao để lắp vào khung cày và phần lưỡi dao có cạnh sắc để cắt đất. Lưỡi dao có dạng hình nêm, cạnh sắc được tôi cứng để giữ độ sắc và chống mòn. Dao có thể lắp vào khung cày theo hai cách: lắp cho cạnh sắc cắt đất từ dưới lên hoặc từ trên xuống.

Hình 3.7: Dao thẳng 1 - dao; 2 - ngàm; 3 - quai ngàm; 4 - đai ốc

Hình 3.8: Dao đĩa 1 - nỉa; 2 - đệm giới hạn; 3 - trụ dao; 4 - ngàm; 5 - đầu vuông; 6 – thanhb dọc khung; 7 -đĩa dao; 8 - may ơ; 9 - nắp; 10 - đai ốc; 11 - vòng điều chỉnh; 12 - vòng bít kín bằng cao su; 13 - trục

Dao thẳng dùng cho nhưng loại đất lẫn đá sỏi vụn. Đối với đất có nhiều cỏ rác, rễ cây dao thẳng làm việc không tốt vì dao dễ bị vướng, gây ùn tắc làm tăng lực cản kéo.

• Dao đĩa Dao đĩa của một máy cày thông dụng là một đĩa thép tròn (hình 3.8).

Mép đĩa của dao đĩa được mài từ hai phía và được tôi cứng.

Đĩa được lắp trên trục qua các gối đỡ con lăn, trục đĩa được lắp vào nỉa, nỉa lắp vào trụ dao và trụ dao được lắp vào khung. Trong quá trình làm việc, dao có khả năng quay quanh trục của nó và nỉa có khả năng quay quanh trụ một góc 200 làm cho đĩa cũng quay theo để tránh những vật cản làm hỏng đĩa. Khi không có vật cản, đĩa tự định vị và lăn theo hướng chuyển động của cày. Trụ dao được lắp vào khung nhờ ngàm và bu-lông vòng.

Dao đĩa thường được lắp ở các máy cày thông dụng, dùng để cày

đất có cỏ rác và nhiều mùn. Ở đất có đá vụn dao đĩa làm việc không tốt.

- Thân cày sâu thêm Thân cày sâu thêm gồm có một trụ được lắp lưỡi xới tơi (lưỡi xới sẽ được trình bày ở phần máy xới), hình 3.9. Thân cày sâu thêm được lắp ngay sau thân cày chính, dùng để cày một lớp đất sâu chừng 3  15cm tiếp theo độ sâu của thân cày chính, nhưng không thay đổi vị trí của tầng đất.

36

Cày sâu thêm được dùng ở những loại đất có lớp đất canh tác mỏng, đất bạc mầu, đất nhiễm mặn ở dưới… Lớp đất được làm tơi sâu thêm có tác dụng tăng lớp đất trồng trọt.

Hình 3.9: Thân cày sâu thêm

Bề rộng làm việc của thân cày sâu thêm bằng ba phần năm bề rộng làm việc của thân cày chính. Độ sâu cày của cày sâu thêm điều chỉnh được nhờ những lỗ ở trụ của thân cày sâu thêm.

- Khung cày Khung cày của máy cày có cấu tạo khá đơn giản, thường được làm từ những thanh thép rỗng ghép lại với nhau bởi các mối hàn và các mối ghép bu lông (hình 3.10). Ở mỗi cày treo, số thanh dọc bằng số thân cày chính, các thanh dọc được định vị bằng các thanh ngang hoặc xiên.

Hình 3.10: Khung cày treo 1 - thanh tăng cường; 2 - thanh dọc bên trái; 3 - thanh dọc giữa; 4 - thanh ngang bên trái; 5 - thanh ngang giữa; 6 - ổ lắp thanh xiên bộ phận treo.

Để tăng thêm độ vững chắc của khung cày, người ta còn lắp thêm các thanh tăng cường. Thanh tăng cường thường được có dạng ống tiết diện hình vuông.

Ở một số máy cày người ta chỉ dùng một thanh xiên như thanh tăng cường, trên đó lắp các thân cày và các bộ phận khác.

b. Những bộ phận phụ trợ của máy cày lưỡi diệp Nói chung, những bộ phận làm việc của cày lưỡi diệp loại móc và loại treo đều giống nhau, còn những bộ phận phụ trợ của hai loại cày này thì khác nhau. Loại cày lưỡi diệp sử dụng phổ biến ở nước ta hiện nay là loại cày treo, vì vậy trong phần này chỉ trình bày những bộ phận phụ trợ của máy cày lưỡi diệp kiểu treo.

Những bộ phận phụ trợ của máy cày loại treo gồm có bộ phận treo và

bánh xe có bộ phận điều khiển độ cày sâu.

- Bộ phận treo Bộ phận treo dùng để treo cày vào cơ cấu treo thuỷ lực máy kéo. Khi liên hợp máy cày treo ở thế vận chuyển (đi đường hoặc quay vòng ở đầu luống) thì

37

cày có thể treo (không tiếp xúc với mặt đường hoặc mặt đồng), vì vậy đường đi và bán kính quay vòng của máy cày treo chỉ cần tính cho máy kéo.

Bộ phận treo của máy cày treo có hai loại: bộ phận treo không điều chỉnh

được và bộ phận treo điều chỉnh được.

Hình 3.12: Bộ phận treo loại điều chỉnh được 1 - thanh xiên; 2 - thanh trụ; 3,4 - bu-lông điều chỉnh; 5 - giá đỡ bên trái; 6 -trục ngang; 7 - giá đỡ bên phải; 8 - bu-lông chân; 9 - ngàm

Hình 3.11: Bộ phận treo không điều chỉnh được. 1 - thanh trụ; 2 - thanh xiên; 3,4 - chốt treo.

Bộ phận treo không điểu chỉnh được (hình 3.11), dùng để liên hợp với máy kéo loại xích. Bộ phận treo gồm có hai thanh trụ (1) và một thanh xiên (2). Đầu dưới hai thanh trụ được lắp chặt vào khung, tương ứng với hai vị trí này có hai chốt để lắp vào hai khớp cầu ở hai đầu thanh treo dưới của cơ cấu nâng thuỷ lực của máy kéo. Thanh xiên (2) có đầu dưới được lắp vào khung cày còn đầu trên được lắp chụm vào hai đầu trên của hai thanh xiên, ở đây có lỗ để tạo lên điểm treo trên của cày, treo vào điểm treo của cơ cấu treo thuỷ lực máy kéo. Với loại bộ phận treo này việc điểu chỉnh vị trí của cày được tiến hành ở cơ cầu treo thuỷ lực của máy kéo.

Bộ phận treo loại điều chỉnh được (hình 3.12), dùng để liên hợp với máy kéo bánh bơm, gồm có hai thanh trụ (2), một thanh xiên (1) và trục ngang (6). Ở trục ngang (6) có hai chốt ở hai đầu là hai điểm treo dưới, hai điểm treo này có thể dịch chuyển được trong mặt phẳng nằm ngang để điều chỉnh phương chuyển động của các thanh dọc khung cày trùng với phương chuyển động của liên hợp máy. Khi tiến hành điều chỉnh chúng ta thay đổi vị trí của bu-lông điều chỉnh (3) và (4).

- Bánh xe tựa và bộ phận điều chỉnh độ sâu cày Khi tách rời khỏi máy kéo, đặt cày ở một nơi nào đó thì bánh sẽ tạo nên điểm tựa làm cho cày có thể vững chắc. Khi cày ngoài ruộng khô, bánh xe tựa lên mặt đồng tạo nên thế ổn định cho cày, đồng thời giữ cho cày làm việc ở độ sâu cần thiết. Lúc này xi-lanh nâng hạ của cơ cấu treo thuỷ lực ở trạng thái tự do. Ở độ ẩm cao, lớp mặt đồng mềm nhũn, bánh xe chuyển động luôn luôn bị lún nên không có tác dụng làm điểm tựa và đảm bảo được độ sâu cày nữa, lúc này xi-lanh nâng hạ được đặt ở thế cố định (trung hoà) để đảm bảo độ cày sâu. Trong trường hợp này có thể sử dụng thuyền trượt thay cho bánh xe tựa.

38

Hình 3.13: Bánh xe tựa của cày treo 1,3 - đệm; 2 - vòng bi; 4 - vòng khít; 5 - trục ; 6 - giá đỡ; 7 - thanh trụ; 8 - đai ốc; 9 - trục vít; 10 - thanh khung; 11 - vành bánh xe; 12 - may-ơ; 13 - bạc định vị; 14 - nắp; 15 – vú mỡ; 16 – đai ốc

Bánh xe tựa (hình 3.13) gồm có vành bánh xe làm bằng thép có những nan hoa cứng, bánh xe quay trên hai ổ bi (2), ở nắp (14) của may-ơ bánh xe có vú mỡ (15) để bơm mỡ bôi trơn ổ bi. Trục (5) của bánh xe gắn chặt với trụ thẳng đứng (7), trụ này trượt được trong ổ trượt (6) bắt chặt với khung cày. Đầu trên của trụ có lắp chặt đai ốc (8) và đầu dưới có đai ốc giữ nó với giá đỡ (6), bánh xe được nâng lên, hạ xuống khi ta điều chỉnh độ cày sâu.

3.1.2. Cày đĩa và phạm vi sử dụng Cày đĩa, bừa đĩa, máy xới loại đĩa có thể được goi chung là máy làm đất loại đĩa. Về cấu tạo và nguyên tắc làm việc chúng có những điểm giống nhau và những điểm khác nhau. Ở phần này sẽ giới thiệu những đặc điểm đặc trưng của máy cày đĩa, còn những điểm chung sẽ được trình bày trong phần máy bừa đĩa.

Cày đĩa thích hợp với loại đất có độ chặt trung bình, nhẹ, có rễ cây cỏ, có

thể cày sâu tới 30cm.

Cày đĩa có hai loại: loại mỗi đĩa lắp ở một trục và loại tất cả các đĩa lắp vào cùng một trục. Một cày đĩa có thể có (2), (3) đĩa đến (7), (8) đĩa; cày đĩa có thể là loại móc cũng có thể là loại treo.

Bộ phận làm việc của cày đĩa là những đĩa chỏm cầu bằng thép, được

mài sắc ở mép đĩa.

Các thông số cấu tạo đĩa là bán kính hình cầu R tạo nên đĩa chỏm cầu, đường kính d của hình tròn cạnh sắc của đĩa - nằm trong mặt phẳng cạnh sắc, bề dày của đĩa và góc sắc mép đĩa.

Cạnh sắc của đĩa cày lăn theo phương y lệch đi so với phương chuyển động của cày một góc  (hình 3.15) gọi là góc tiến của cày,  = 30  450. Mặt phẳng đĩa (mặt phẳng cạnh sắc) nghiêng so với phương thẳng đứng z một góc  gọi là góc đặt của đĩa (hình 3.14). Đối với cày mỗi đĩa một trục  = 0  200, đối với cày các đĩa lắp trên một trục  = 00.

Tuỳ theo độ cày sâu yêu cầu và tính chất của đất (nặng, trung bình, nhẹ)

mà các thông số trên thay đổi cho phù hợp.

39

Thông thường khi cày tương đối sâu thì đường kính đĩa có thể đến 600  800mm và số lượng đĩa của một cày không nhiều (chừng 3  4 đĩa). Khi thiết kế cày có các thông số  và  thì người ta cấu tạo mỗi đĩa một trục riêng lắp vào một trụ riêng.

z y

α

α β v

x

Hình 3.14: Các góc lắp đặt đĩa cày

Hình 3.15: Các góc định vị đĩa cày

y

Khi thiết kế cày có cấu trúc các đĩa lắp cùng một trục thẳng thì cày giống như ở bừa, chỉ khác là ở cày có một hàng đĩa còn ở bừa có nhiều hàng đĩa. Để làm sạch bề mặt đĩa, chống dính đĩa và tăng thêm khả năng lật đất, làm tơi đất người ta lắp kèm theo mỗi đĩa những tấm làm sạch đĩa. Để cho cày chuyển động ổn định, chống lại lực cản của đất làm xoay cày về phía đồng người ta lắp bánh xe ở phía cuối cày, bánh xe có thể được cấu tạo như một con dao đĩa, có góc tiến ngược với góc tiến của các đĩa cày. Để điều chỉnh độ sâu cày, ta sử dụng một bánh tựa. Bánh tựa còn giữ cho cày làm việc và là điểm đỡ khi đặt cày trên mặt sàn.

Khi làm việc, lực kéo của máy kéo và lực cản của đất làm cho đĩa quay trong trục y (hình 3.15), đồng thời nó bị kéo chuyển động tịnh tiến theo hướng x. Do vậy đĩa cắt đất, quay, nâng đất lên rồi lật úp thỏi đất về phía luống nhờ mặt cong của đĩa. Với chế độ làm việc thích hợp cày đất có khả năng làm tơi đất khá hơn cày lưỡi diệp.

3.1.3. Điều chỉnh và chuẩn bị cho máy cày làm việc Chuẩn bị cho cày nhằm mục đích để khi cày đảm bảo được các yêu cầu

nông học, giảm được lực cản kéo, nâng cao năng suất, tuổi thọ của cày…

Khi chuẩn bị cho cày làm việc, ta treo cày vao máy kéo, đưa cả liên hợp máy lên một mặt phẳng, hạ cày xuống mặt sàn và tiến hành các công việc kiểm tra kỹ thuật, các phép điều chỉnh và chăm sóc.

a. Kiểm tra tình trạng kỹ thuật cày Các chi tiết cấu thành cày phải đảm bảo độ bền, đúng kích thước và hình dáng, đặc biệt là những bộ phận làm việc, nếu không đảm bảo phải chỉnh sửa hoặc thay thế.

Sau đó tiến hành kiểm tra tình trạng lắp ghép các chi tiết, các bộ phận. Cụ thể như đối với thân cày chính thì diệp cày và lưỡi cày phải lắp khít với nhau tạo thành bề mặt cong liên tục. Khe hở tiếp giáp giữa lưỡi và diệp cày không được quá 1mm, cho phép lưỡi cao hơn diệp không quá 1mm, ngược lại

40

không được phép để diệp cao hơn lưỡi. Cạnh đồng của lưỡi và diệp phải trong cùng một mặt phẳng, mặt phẳng này nghiêng so với mặt phẳng thành luống về phía luống. Điểm trên cùng của cạnh đồng phải có khoảng cách thích hợp với mặt phẳng thành luống. Khoảng cách giữa diệp cày và trụ cày không được vượt quá giới hạn cho phép, ở phần giữa của trụ khe hở ấy không được vượt quá 3mm và ở phần trên không được vượt quá 5mm. Ở đầu bu-lông lắp ghép không được nhô lên cao hơn bề mặt làm việc của thân cày và thanh tựa đồng, cho phép chìm thấp hơn bề mặt làm việc.

Khi lắp lưỡi cày mũi đục, điểm cuối thanh tựa đồng và điểm cuối cạnh sắc lưỡi cày không cao quá mặt phẳng tựa 10mm. Khi lắp lưỡi hình thang, cạnh lưỡi cày và điểm cuối thanh tựa đồng phải nằm trong cùng mặt phẳng tựa. Cuối thanh tựa đồng và mũi đục hình thang phải nằm trong mặt phẳng cạnh đồng của thân cày. Cuối thanh tựa đồng được phép lệch về phía luống không quá 5mm.

Nếu cày treo có lắp thân cày phụ thì việc kiểm tra kỹ thuật cũng tương tự như đối với thân cày chính. Các thân cày lắp vào khung cày phải đảm bảo các mũi lưỡi từ thân đầu đến thân cuối cùng nằm trên cùng một đường thẳng nối từ mũi thứ nhất đến mũi cuối cùng cho phép lệch về hai phía trái và phía phải trong giới hạn 6mm, lắp sao cho các thân cày có độ chập từ 1 đến 3cm.

Hình 3.16: Liên hợp máy cày treo và máy kéo bánh hơi 1,2,3,4 - lỗ để lắp thanh treo trên; 5, 9 - thanh treo trên; 6 -thanh nâng; 7 - vòng tựa; 8 - thanh treo giữa; 10 - bánh tựa của máy cày; 11 - thanh gỗ kê; 12, 13 - bu-lông điều chỉnh; 14 - trục ngang bộ phận treo; 15 - bu-lông chặn; 16 - tâm quay tức thời

Kiểm tra, lắp đúng vị trí của thân cày phụ (nếu có), vị trí dao thẳng hoặc dao đĩa như đã trình bày ở phần trước. Sau khi đã đảm bảo được cày ở tình trạng kỹ thuật tốt ta tiến hành các công việc tiếp theo.

b. Kiểm tra tình trạng kỹ thuật máy kéo - Lắp lại vị trí bánh sau máy kéo bánh hơi. - Khi làm việc, hai bánh phải của máy kéo lăn dưới đáy luống cày, thấp hơn mặt phẳng lăn của hai bánh trái một lượng bằng độ cày sâu trừ đi độ lún của bánh. Như vậy, trọng lượng sử dụng của máy kéo phân bố lên hai bánh sau của máy kéo 41

sẽ khác nhau. Điều đó làm cho lực bám của hai bánh chủ động khác nhau, độ trượt của hai bánh khác nhau. Để khắc phục điều đó cần lắp lại vị trí của hai bánh sau với trục đối so với trục đối xứng dọc của máy kéo sao cho Xph >Xtr (hình 3.16). Tuỳ theo loại máy kéo mà giá trị Xph và Xtr khác nhau.

- Lắp thanh treo trên vào những vị trí thích hợp (nếu có) tuỳ thuộc vào độ chặt của đất để tăng lực bám cho máy kéo. Điều chỉnh vị trí trục ngang của bộ phận treo của cày để đảm bảo thân cày trước làm việc hoàn toàn.

c. Điều chỉnh độ cày sâu Để đặt máy cày đúng độ sâu, cần nâng cày lên cho hai bánh xe bên trái của máy kéo nằm trên tấm gỗ dầy bằng độ sâu cày trừ đi độ lún của bánh xe sau đó hạ cày xuống mặt nền, đặt tay điều khiển thuỷ lực ở thế bơi, kê bánh xe tựa lên cao bằng độ sâu cày trừ đi độ lún của bánh xe tựa, điều chỉnh sao cho các mũi lưỡi cày tỳ sát mặt nền, các cạnh sắc song song với mặt nền.

d. Các điều chỉnh khác - Điều chỉnh xích căng để đảm bảo bề rộng làm việc của thân cày thứ

nhất và tránh sự dao động lắc qua lắc lại quá mức của cày (khi quay vòng).

- Điều chỉnh các thanh dọc của khung cày song song với hướng chuyển

động của liên hợp.

- Công việc cuối cùng cho việc chuẩn bị trước khi đưa máy ra đồng là

xiết chặt các mối ghép, định vị và bôi trơn các ổ đỡ.

- Điều chỉnh đường cày đầu tiên: Khi ra đồng, lúc đầu chưa có luống cày, bốn bánh của máy kéo cùng lăn trên mặt đồng. Nếu cho máy cày làm việc ngay thì độ sâu cày sẽ không đảm bảo, tạo thành sống trâu của luống cày. Để khắc phục, ta cần nới dài thanh nâng bên phải ra một đoạn bằng nửa độ cày sâu. Khi hết đường cày đầu tiên, trả lại thanh nâng ở vị trí cũ.

Việc chuẩn bị cày treo liên hợp với máy kéo xích có một số điểm khác so với liên hợp cày treo máy kéo bánh hơi (hình 3.17). Cơ cấu treo của máy kéo lắp theo phép treo hai điểm. Điều chỉnh các xích căng hai thanh treo dưới để các thanh dọc của khung cày nằm đúng hướng chuyển động. Điểm cuối của cạnh sắc lưỡi thân cày thứ nhất (ứng với thành luống) có khoảng cách với mép ngoài của dải xích bên phải. Những công việc khác thì chuẩn bị như liên hợp cày treo máy kéo bánh hơi.

Hình 3.17: Liên hợp máy cày treo và máy kéo bánh xích

Riêng đối với liên hợp cày máy kéo xích thì hoàn toàn không dùng tấm hạn chế hạ pít-tông xi-lanh lực, vì vậy cần tháo lỏng nó và đưa lên tận cùng cần pít-tông và hãm lại, liên hợp cày treo máy kéo bánh xích khi làm việc pít-tông xi-lanh lực ở thế bơi tự do.

42

Đối với liên hợp cày treo máy kéo xích cũng vì lúc đầu chưa có luống cày nên ta cũng cần điều chỉnh đường cày đầu tiên như đối với liên hợp cày treo máy kéo bánh hơi.

3.2. MÁY BỪA Nhiệm vụ của máy bừa là làm tơi nhỏ đất đối với ruộng khô, làm nhuyễn đất đối với ruộng nước, san bằng mặt ruộng, diệt trừ cỏ dại và sâu bệnh. Yêu cầu kỹ thuật là phải làm tơi nhỏ, nhuyễn đều, không lỏi theo bề mặt và theo độ sâu, dễ sử dụng năng suất cao và giá thành rẻ.

Thông thường máy bừa được phân loại như sau: - Theo loại ruộng: bừa ruộng khô và bừa ruộng nước. - Theo cấu tạo của bộ phận làm việc: bừa răng và bừa đĩa. - Theo phương pháp liên kết với máy kéo: bừa treo cà bừa móc. - Theo chuyển động của bộ phận làm việc: máy bừa chuyển động tịnh

tiến và máy bừa chuyển động quay.

3.2.1. Máy bừa có bộ phận làm việc chuyển động tịnh tiến a. Bộ phận làm việc của máy bừa chuyển động tịnh tiến Bộ phận làm việc của loại bừa này phần lớn là các loại răng, loại lưỡi (hình

3.18).

Hình 3.18: Các bộ phận làm việc của bừa tịnh tiến

a – răng dạng đinh; b – răng dạng dao; c – răng dạng lưỡi; d,e,g – răng bừa lưới

Loại răng có thể là răng hình trụ tròn, răng tiết diện hình vuông, hình thoi hay hình ê-líp cũng có thể là dạng chữ nhật hẹp (dao). Răng tiết diện hình vuông có cấu trúc khỏe nên được dùng để bừa đất trung bình và nặng. Răng có tiết diện ê-líp, tròn dùng để bừa đất nhẹ. Khi làm việc, các răng chuyển động va chạm vào đất, nén ép làm vỡ đất. Đầu răng có thể được lắp vuông góc với mặt đất, xiên ra phía trước hoặc xiên ra phía sau tuỳ theo loại đất, yêu cầu của việc làm đất.

Nhờ vậy, ngoài tác dụng làm tới vỡ, nhuyễn đất máy bừa còn có tác dụng san phẳng mặt ruộng, xốc cỏ rác lên trên mặt đồng hoặc nén, vùi cỏ rác vào đất.

Với dạng dao làm việc theo nguyên tắc cắt vỡ đất, đầu răng thường được

lắp xiên ra sau nên có tác dụng dìm cỏ rác vào đất.

Răng dạng lưỡi (dạng lưỡi xới sẽ được trình bày ở phần sau) làm vỡ đất

nhờ hai cạnh sắc. Răng bừa lắp vào khung cứng thành một hàng hoặc nhiều hàng. Ngoài ra, còn được nối khớp với nhau tạo thành mảng bừa có thể lượn trên mặt đồng không bằng phẳng. Nhờ vậy mà làm tơi vỡ đất đều trên mặt đồng.

43

Bố trí răng bừa trên khung cần phải đáp ứng các yêu cầu sau: khi làm việc mỗi răng chỉ vạch nên mặt đồng một vết riêng (vết do các răng tạo lên trên mặt đồng không trùng nhau), khoảng cách giữa các vết liên tiếp nhỏ và đều (hình 3.19), khoảng cách giữa các răng liên tiếp ở một hàng ngang phải đủ lớn để không bị kẹt các thỏi đất và vướng cỏ rác, gây ra ùn tắc thường xuyên khi bừa làm việc.

V

IV

III

II

I

Hình 3.20: Bừa dích dắc 1 - khung; 2 - răng; 3 - bộ phận móc

Hình 3.19: Sơ đồ phân bố răng bừa dích dắc

1 4 3 2 5 1 4 3 2 5 1 4 3 2 5 1 4 3 2 5

b. Một số bừa chuyển động tịnh tiến - Bừa dích dắc Đây là loại bừa răng khung cứng, các răng được phân bố ở 5 thanh ngang và các thanh dọc. Răng được lắp ở giao điểm của các thanh ngang và thanh dọc (hình 3.20).

Hình 3.21: Bừa lưới 1 - mảng răng to; 2 - mảng răng dạng dao; 3 - mảng răng sắc nhọn; 4 - xích; 5 - cái móc; 6 - thanh kéo; 7 - thanh ngang của móc.

- Bừa lưới Ở bừa lưới (hình 3.21) các răng bừa bằng thép có tiết diện được uốn gấp khúc thành ba nhánh tương ứng với ba nút (khớp quay), ba nhánh được gấp khúc theo ba trục của không gian ba chiều, nhờ vậy mà ta có thể định vị trí của các răng bừa luôn luôn cắm vào mặt đất (mặc dù mặt đất lượn sóng). Nhờ có ba khớp quay có cấu tạo như vậy mà các răng bừa có thể quay quanh hai trục vuông góc nằm ngang (song song với mặt ruộng), do đó có thể lượn theo mặt đồng gồ ghề để làm tơi đất diệt cỏ, phá vỡ lớp đất đóng váng cứng ở trên mặt, lấp hạt giống sau khi gieo, lấp phân bón.

44

Hình 3.22: Bừa trang ruộng khô 1 - thanh ngang móc chữ A; 2 - tay điều chỉnh góc nghiêng của dao; 3 - dao; 4 - răng; 5 - tấm trang phẳng.

- Bừa trang Bừa trang có công dụng chủ yếu là để san phẳng mặt ruộng. Sau khi cày và bừa, mặt ruộng còn gồ ghề bởi những mô đất, những luống, rãnh nhỏ, bừa trang tiếp tục làm nhỏ và san phẳng những mô đất đó.

Đối với ruộng khô, phần làm việc của bừa trang gồm có ba bộ phận (hình 3.22): bộ phận cắt phá những mô đất, bộ phận làm tơi nhỏ và bộ phận san phẳng. Những bộ phận này liên kết với nhau và với máy kéo qua bộ phận móc hoặc treo.

Bừa trang ruộng nước có cấu tạo đơn giản (hình 3.23), gồm có thuyền trượt 1 được chế tạo bằng kim loại, bằng gỗ hoặc bằng chất dẻo. Phía trước thuyền trượt có dạng cong có tác dụng dồn ép bùn đất vào phần thân làm phẳng, bộ phận treo gồm có thanh xiên (2), hai thanh trụ (3), điểm treo trên (4) (một điểm) và điểm treo dưới (5) (hai điểm).

Hình 3.23: Bừa trang ruộng nước 1 - thuyền trượt; 2 - thanh treo xiên; 3 - thanh trụ;4 - điểm treo trên;5 - điểm treo dưới

Áp lực của thuyền trượt ép lên mặt ruộng tuỳ thuộc vào trọng lượng của bừa, có thể điều chỉnh được. Cũng có thể dùng tay điều khiển hệ thống treo thuỷ lực của máy kéo để điều khiển nhằm điều chỉnh vị trí của thuyền trượt để san phẳng mặt ruộng. Cũng có thể cấu tạo thêm những hàng răng ở phía trước thuyền trượt để làm nhỏ nhuyễn đất và dìm cỏ rác trước khi thuyền trượt san phẳng, lấp kín.

45

3.2.2. Máy bừa có bộ phận làm việc chuyển động quay a. Bộ phận làm việc của bừa chuyển động quay Bộ phận làm việc của bừa loại này có thể là loại răng hoặc loại đĩa: Bộ phận làm việc loại răng có dạng đinh, dạng móng hay dạng đuôi cá. Nếu răng thẳng từ chân đến đỉnh và lắp vào trục quay theo phương trùng với phương bán kính của trục thì răng sẽ lăn và đâm nát đất. Nhưng nếu đầu răng có dạng cong thì tuỳ theo góc nghiêng của răng so với bán kính trục mà va đập, làm vỡ, xới đất lên hay nén đất xuống.

Bộ phận làm việc loại đĩa được sử dụng phổ biến trong các máy cày có

bộ phận làm việc chuyển động quay.

Hình 3.24: Các thông số của bừa đĩa D - đường kính đĩa; R - bán kính đĩa;  - nửa góc ở tâm; i - góc mài;  - góc cắt; b - bề rộng đĩa.

(b) (a)

Bộ phận làm việc loại đĩa có hai dạng: đĩa dạng trơn phẳng và đĩa dạng chỏm cầu. Đĩa dạng trơn phẳng có khả năng cắt đất tốt nhưng làm tơi đất kém. Loại này thường được lắp ở các bừa trâu kéo. Khi làm việc đĩa lăn theo phương chuyển động của bừa để cắt thỏi đất, cấu tạo như vậy lực cản nhỏ. Đối với đĩa chỏm cầu (hình 3.24a), khi bừa, đĩa lăn theo trong mặt phẳng nghiêng so với phương chuyển động của bừa một góc  gọi là góc tiến của bừa. Do chuyển động như vậy mà đĩa cắt đất, nâng đất lên ở phía mặt lõm của đĩa, uốn, làm tơi, đảo trộn và lật đất. Đĩa được chế tạo bằng thép chịu mòn, mép đĩa được mài ở phía lồi thành các cạnh sắc (hình 3.24). Đĩa có lỗ vuông 3 được lồng vào trục có tiết diện vuông (1), ở đầu trục đĩa được đỡ bởi đệm (2). Đĩa được định vị trên trục nhờ ống suốt (4), trục quay trong những bạc 6, bạc được đặt trong vỏ đỡ (5) có đệm (9).

Hình 3.25: Cấu tạo bừa đĩa chỏm cầu

Tuỳ theo loại bừa, loại đất được bừa và nguồn động lực mà số đĩa của một bừa có thể khác nhau. Trên một trục như vậy có thể lắp 4, 6, 8… đĩa, mỗi trục tạo thành một bộ đĩa, các bộ đĩa được lắp với nhau thành hàng. Một bừa có thể có một hàng hoặc một số hàng lắp đặt theo những kiểu khác nhau.

46

Máy bừa đĩa chỏm cầu thường có hai hàng đĩa: một hàng trước và một hàng sau. Hướng lõm của đĩa ở hàng trước ngược chiều với sau để đảm bảo cho đất được trộn đều và mặt ruộng được phẳng. Vết lăn của đĩa trên mặt đồng của hàng trước so le với hàng đĩa sau để bừa không bị lỏi.

Khi máy bừa làm việc ở đồng ruộng chưa có cây trồng, các hàng đĩa thường được lắp theo sơ đồ hình chữ X (hình 3.26a). Với cách bố trí như vậy các đĩa đối xứng nhau qua trục dọc theo hướng chuyển động của máy kéo và của bừa về số lượng đĩa bừa cũng như về hướng lồi lõm của đĩa chỏm cầu. Do đó, hợp lực của các lực cản của đất tác dụng lên các đĩa bừa sẽ cùng phương và ngược chiều với lực kéo của máy kéo, liên hợp máy sẽ được cân bằng tốt, làm việc ổn định.

Hình 3.26: Sơ đồ phân bố đĩa bừa. a - sơ đồn hình chữ X; b - sơ đồ hình chữ V

a b

Khi máy bừa làm việc trong các vườn cây, các hàng đĩa được bố trí thành hình chữ V nằm ngang (hình 3.36b). Cách bố trí như vậy cho phép lắp bừa lệch đi so với trục đối xứng dọc của máy kéo để có thể đưa bừa vào làm việc gần gốc cây trong khi máy kéo vẫn đi cách gốc cây xa hơn để không làm tổn hại đến hàng cây. Lắp như vậy thì việc cân bằng lực của liên hợp máy không hợp lý như lắp theo kiểu hình chữ X, nhưng ở đây mục đích trước hết là bừa làm việc được giữa các hàng cây mà không làm phương hại gì cho cây.

b. Cấu tạo chung của các loại bừa đĩa chỏm cầu Các loại bừa đĩa chỏm cầu thường được treo sau máy kéo và có cấu tạo

như hình 3.27.

Hình 3.27: Cấu tạo máy bừa đĩa chỏm cầu a - máy bừa đĩa chỏm cầu dạng hình chữ X; b - máy bừa đĩa chỏm cầu dạng chữ V

(b) (a)

47

48

3.3. MÁY PHAY ĐẤT Để đáp ứng nhu cầu làm nhỏ, nhuyễn đất, diệt trừ cỏ dại… ở những loại đất có thành phần cơ giới, có độ ẩm, có độ chặt thích hợp người ta dùng máy phay đất thay cho cả việc cày và bừa hoặc phay đất sau khi đã cày. Dùng phay không qua cày và bừa sẽ giải quyết được công việc làm đất nhanh hơn so với phương pháp làm đất bằng cày và bừa. Ở ruộng nước nếu dùng phay thì số lần đi lại của liên hợp máy trên ruộng sẽ ít hơn so với cày và bừa nên giữ được lớp nền cứng dưới lớp đất mầu. Hơn nữa lực cản của đất tác dụng lên phay cùng chiều với hướng chuyển động của máy, nhờ vậy việc đi lại của liên hợp máy được dễ dàng.

Phay có rất nhiều loại, có loại chuyên phay ruộng khô, có loại chuyên phay ruộng nước. Tuỳ theo đặc điểm, kích thước thửa ruộng, nguồn động lực mà có loại phay cỡ nhỏ, cỡ lớn. Phay thường được liên kết với nguồn động lực nhờ bộ phận treo, ngoài việc kéo phay chuyển động, nguồn động lực còn truyền động làm cho các lưỡi phay quay để làm nhỏ, nhuyễn đất ở độ sâu cần thiết (hình 3.29).

3.3.1. Cấu tạo máy phay đất Những loại máy phay như đã kể có cấu tạo tương tự như nhau. Bộ phận làm việc của máy phay là các lưỡi phay. Tuỳ theo loại đất, yêu cầu làm đất mà lưỡi phay có hình dáng cụ thể và kích thước khác nhau. Lưỡi phay có phần cạnh sắc và phần chuôi, cạnh sắc dùng để cắt đất, cỏ cây, đảo trộn đất hất về phía sau, còn chuôi để lắp đất vào trục hoặc trống phay.

Lưỡi phay dạng dao thẳng (hình 3.28a) dùng để cắt, đập vỡ đất: loại này bền hơn các loại khác, dùng ở loại đất cứng. Lưỡi phay dạng dao cong phải và cong trái (hình 3.28b) khi làm việc cắt được những miếng đất lớn hơn dao thẳng. Loại này thông dụng hơn và thường được dùng ở những loại đất có độ chặt trung bình và nhẹ với độ ẩm thích hợp. Lưỡi phay dạng móng (hình 3.28c) dùng để phay ở những đất chứa khoáng chất. Trừ dạng móng, còn các loại khác đều có cạnh sắc, góc mài cạnh sắc thường từ 30  35o. Các lưỡi phay được lắp trực tiếp vào một trục, phân bố đều theo chu vi trục, chiều cong của lưỡi phay đối xứng qua mặt cắt giữa của chiều dài trục. Lưỡi phay có thể liên kết với trục phay qua một số chi tiết trung gian như các chi tiết được lắp vào các đĩa, các đĩa lại được lồng vào trục có đường kính gân hoặc được ép nhờ những lò xo. Tuỳ theo loại đất và yêu cầu làm đất mà đường kính của vòng tròn ứng với điểm mũi lưỡi phay kể từ tâm trục phay, dao động trong giới hạn 30cm đến 80cm. So với cày bừa thì độ sâu làm đất của phay nhỏ hơn.

Trục trống phay được tựa và quay trong hai ổ đỡ lắp trên khung máy và được làm kín để tránh bụi đất, chuyển động của trục hoặc trống phay khi làm việc được truyền từ máy kéo qua trục các đăng, hộp xích hoặc hộp bánh răng. Trục phay hoặc trống phay được bọc bởi vỏ thép đủ bền ở phía trên và phía sau để bảo đảm an toàn cho người sử dụng, đồng thời vỏ bao, đặc biệt là phần bao phía sau còn có tác dụng tránh cục đất đập vào và làm đất tơi thêm.

Để đảm bảo độ sâu phay đất và điều chỉnh khi cần người ta lắp vào

khung phay những tấm trượt hoặc bánh xe.

49

(b) (c) (a)

Hình 3.28: Các dạng lưỡi phay a - Lưỡi phay dạng dao thẳng; b - Lưỡi phay dạng dao cong; c - Lưỡi phay dạng móng

Để liên kết máy phay với máy kéo người ta sử dụng bộ phận treo - treo ba điểm ở khung máy phay hoặc lắp trục phay ăn khớp trực tiếp với hộp truyền động như ở máy kéo Bông Sen.

3.3.2. Nguyên tắc làm việc của máy phay đất Khi phay đất, lưỡi phay đi vào đất, cắt đất thành từng cục, hất về phía sau làm tơi nhuyễn đất. Lúc đó một điểm bất kỳ của lưỡi phay - điểm mũi lưỡi phay A chẳng hạn (xem hình 3.29) tham gia vào hai chuyển động: một chuyển động tịnh tiến theo máy kéo và một chuyển động quay quanh trục phay.

Phân bố các lưỡi phay trên trống phay phải đảm bảo để những lực cản tác động lên phay tương đối ổn định nhằm đảm bảo độ bền cho lưỡi, trục phay và máy chuyển động ổn định. Muốn vậy, lưỡi phay được phân bố trên đường xoắn ốc, sao cho các lưỡi phay lần lượt đi vào cắt đất với những khoảng cách góc bằng nhau.

Hình 3.29: Sơ đồ làm việc của lưỡi phay

Để đất không bị kẹt ở trống phay, khoảng cách góc giữa các lưỡi phay ở hai đĩa liên tiếp nhau cần đủ lớn.

Hình 3.30: Cấu tạo chung của máy phay đất 1,15 - vòng hãm; 2,14 - vòng bi; 3,4 - vòng bi; 5 - lưỡi phay;6 - ổ lắp lưỡi phay; 7 - bu lông; 8 - đệm; 9 - đai ốc; 10 - trục phay; 11 - lưỡi phay trái; 12 - lưỡi phay phải; 13 - đệm; 16- xích truyền động; 17 - đĩa xích

Các lưỡi phay lắp đối xứng nhau qua mặt phẳng thẳng đứng dọc đi qua điểm giữa trục lắp lưỡi phay, do đó chúng đồng thời tác động vào đất tạo nên hợp lực làm cho máy phay chuyển động thẳng, trên hình 3.30 là hình ảnh chung của một máy phay đất.

50

Câu hỏi ôn tập

1. Cho biết nhiệm vụ của việc làm đất và các phương pháp làm đất

trong nông nghiệp?

2. Cấu tạo các bộ phận chính của máy cày lưỡi diệp gồm những chi

tiết nào?

3. Cho biết nhiệm vụ của các chi tiết cấu tạo nên thân cày chính của

máy cày lưỡi diệp.

4. Trình bày cấu tạo và hoạt động của máy bừa.

5. Trình bày cấu tạo và hoạt động của máy phay.

51

CHƯƠNG IV: MÁY GIEO CẤY

4.1. MÁY GIEO HẠT 4.1.1. Các phương pháp gieo hạt Trong nghề nông, gieo hạt giống cây trồng là đặt hạt vào trong đất ở những độ sâu khác nhau, với độ ẩm thích hợp, bằng những phương pháp khác nhau.

Dưới đây là một số phương pháp gieo hạt: Phương pháp gieo vãi: là phương pháp mà hạt giống được phân bố tương đối đều ở mặt ruộng, việc lấp hạt có thể không cần sâu và kín. Phương pháp này thường được áp dụng để gieo những giống cây ngắn ngày, như lúa, cỏ, rau…

Hình 4.1: Sơ đồ các hình thức gieo hạt a - Phương pháp gieo hàng; b - Phương pháp gieo giải; c,d - Phương pháp gieo hốc Phương pháp gieo hàng (hình 4.1a) được dùng phổ biến nhất để gieo các loại hạt cây trồng như lúa, ngô, các loại đậu và nhiều loại cây trồng khác. Hạt giống được phân bố thành từng hàng, khoảng cách giữa các hàng là b, tuỳ theo loại cây trồng và điều kiện đất đai mà khoảng cách giữa các hàng có khác nhau, ở nước ta với gieo lúa thì hàng thường là 15 đến 20cm, gieo ngô khoảng cách hàng là 30 đến 40cm, lạc khoảng cách hàng là 30, 35 hoặc 40cm.

d) b) c) a)

Gieo dải là phương pháp gieo mà hạt được phân bố thành từng giải mà mỗi dải bao gồm một số hàng hẹp (khoảng cách hàng nhỏ) còn khoảng cách giữa các dải thì lớn hơn (hình 4.1b). Ở nước ta phương pháp này thường được áp dụng để gieo một số loại rau, đậu.

Phương pháp gieo hốc: Ở đây hạt được phân bố thành từng hốc (cụm), mỗi hốc có một số hạt. Đặc trưng của phương pháp này là khoảng cách giữa các hốc, và khoảng cách giữa các hàng hốc, các hốc kề nhau tạo thành những ô vuông hoặc không vuông (hình 4.1c,d).

4.1.2. Yêu cầu đối với máy gieo hạt Khi gieo các loại hạt cây giống, máy kéo cần đảm bảo những yêu cầu sau: Đảm bảo an toàn hạt, đảm bảo phân bố hạt đều trên diện tích, theo hàng hay theo hốc, khoảng cách hàng phải đều, hạt giống được lấp ở độ sâu đều. Phải gieo đúng định mức hạt giống cho đơn vị diện tích (số kg/ha hay tạ/ha). Khi đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật nông học nêu trên thì ta đã tao ra cho mỗi cây trồng có một diện tích, một không gian dinh dưỡng hợp lý và tiết kiệm nhất.

52

Sai số về khoảng cách phân bố hạt, phân bố hốc, khoảng cách hàng,… phải trong phạm vi cho phép, ví dụ hàng gieo phải thẳng và cách đều nhau, sai số về độ sâu lấp hạt không quá 0,5 đến 1cm, sai số về định mức gieo không quá 4 đến 5% mức gieo quy định.

Cấu tạo máy gieo phải có khả năng điều chỉnh để đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật nông học đặt ra như điều chỉnh lượng hạt gieo, điều chỉnh khoảng cách hàng, khoảng cách hốc, điều chỉnh độ sâu lấp hạt.

Ngoài ra có khi máy gieo còn cần đáp ứng những yêu cầu khác như gieo kết hợp bón phân, tưới nước, phun thuốc trừ sâu bệnh, máy phải cho năng suất cao, chi phí năng lượng thấp, sử dụng, chăm sóc và bảo quản thuận tiện.

4.1.3. Phân loại máy gieo Máy gieo được phân loại theo những căn cứ khác nhau. Căn cứ vào phương pháp gieo ta có máy gieo vãi, máy gieo hàng, máy gieo hốc. Việc phân loại máy gieo hàng và hốc chỉ là tương đối, vì có những máy gieo có thể gieo hàng, lại có thể gieo hốc, gieo ô.

Căn cứ theo nhiệm vụ ta có máy gieo lúa, ngô, đậu… máy gieo và bón phân... Tuy nhiên, cách phân loại này cũng là tương đối vì có những loại máy gieo có thể gieo nhiều loại hạt cây trồng khác nhau. Mặc dù vậy, người ta cũng gọi tên chúng theo loại hạt chính mà máy gieo thực hiện.

Theo nguồn động lực, ta có máy gieo trâu, bò, ngựa kéo, máy gieo kéo,

máy gieo có động cơ và truyền lực để tự chạy.

Theo cách liên hợp với máy kéo ta có máy gieo móc và máy gieo treo. Việc chế tạo máy gieo hạt trên thế giới ngày càng đi vào hướng đa năng hoá và tiêu chuẩn hoá, để một máy gieo có thể làm được nhiều việc, ngày càng có nhiều chi tiết hoặc cụm chi tiết của những máy gieo khác nhau có thể thay thế cho nhau.

4.1.4. Cấu tạo máy gieo hạt Các loại máy gieo hạt có cấu trúc phức tạp, nhiều bộ phận, gia công chế tạo và lắp ghép đòi hỏi độ chính xác cao, có như vậy máy mới đảm đương được yêu cầu gieo. Các bộ phận cấu thành máy gieo có thể chia thành hai loại là những bộ phận làm việc và những bộ phận phụ trợ. Sau đây là cấu tạo những bộ phận làm việc của máy.

a. Bộ phận gieo Những bộ phận làm việc của máy gieo gồm: thùng đựng hạt, bộ phận gieo, ống dẫn hạt, bộ phận rạch hàng và bộ phận lấp hạt. Tuỳ theo hình thức gieo mà một máy gieo có tất cả hoặc một số bộ phận nêu trên. Ví dụ: máy gieo vãi thì không có ống dẫn hạt, bộ phận rạch hàng…

Bộ phận gieo hạt làm nhiệm vụ lấy hạt từ thùng chứa hạt đưa đi gieo, nó quyết định các chỉ tiêu về yêu cầu gieo như đúng lượng hạt gieo, gieo đều, an toàn cho hạt. Để đáp ứng những phương pháp gieo khác nhau, tương ứng có

53

những bộ phận gieo khác nhau như bộ phận gieo loại trục quay có lắp các bàn chải, bộ gieo rung động hay li tâm dùng để gieo vãi.

Bộ phận gieo loại trục có cánh và rãnh - trục quốn, loại đĩa có lỗ để gieo hàng, gieo hốc; bộ phận gieo loại khí áp, dùng lực hút của không khí để lấy hạt và chuyển hạt có khả năng đảm bảo an toàn cho hạt rất tốt…

Sau đây trình bày một số bộ phận gieo được dùng phổ biến hiện nay. - Bộ phận gieo loại rung (hình 4.2):

Bộ phận gieo này gồm có máng rung 4 được luồn vào trong đáy thùng chứa hạt 1, bề mặt máng ở phía ngoài thùng thấp hơn ở trong thùng.

Hình 4.2: Bộ phận gieo loại rung 1 - thùng chứa; 2,3,7 - các khâu truyền dẫn; 4 - máng rung; 5 - ống dẫn hạt; 6 - lò xo; 8 - cam gây rung

Cơ cấu rung gồm có bánh xe có các cam gây rung 8, các khâu truyền dẫn 2, 3, 7, các khớp quay di động và cố định, lò xo giữ 6. Cơ cấu gây rung làm cho máng rung động liên tục, tần số và biên độ rung được tính toán và điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu gieo từng loại hạt. Hạt giống sẽ di chuyển đều đặn, liên tục ra ngoài. Bộ phận gieo loại này có thể dùng để gieo vãi, đảm bảo an toàn cho hạt.

Hình 4.3: Bộ phận gieo trục cuốn 1 - tấm chắn trên; 2 - thành thùng; 3 - thành bên trái hộp gieo; 4 - ổ lắp tấm rãnh hoa; 5 - tấm rãnh hoa; 6 - trục cuốn; 7 - chổi; 8 - trục mở đáy hộp gieo; 9 - ngón đỡ; 10 - cánh cửa đáy hộp gieo; 11 - thành bên phải hộp gieo; 12 - ống chắn; 13 - đệm; 14 - đáy hộp gieo

- Bộ phận gieo loại trục cuốn (hình 4.3): Bộ phận gieo loại trục cuốn có cấu tạo như sau:

Trục cuốn được chế tạo bằng kim loại hoặc chất dẻo, trong lòng rỗng để lắp vào trục quay, bề mặt ngoài của trục là những cánh (tai khế) xen kẽ những

54

rãnh. Trục cuốn được đặt vào trong những hộp nhỏ được gọi là hộp gieo, phía trên hộp thông với đáy thùng đựng hạt, phía dưới có cửa ra hạt, độ mở của cửa này và cửa phía trên hộp gieo có thể điều chỉnh được. Trục cuốn được định vị trên trục quay nhờ chốt 7, ống chắn 12 và vòng đệm 13. Phần chiều dài của trục cuốn 6 nằm ở phía trong hộp gieo có tác dụng lấy hạt để gieo, khi trục cuốn quay, hạt ở thùng được cuốn vào các rãnh của trục và được cuốn theo về phía cửa ra 10. Có hai loại bộ phận gieo loại trục cuốn. Loại thứ nhất, phần chiều dài trục cuốn trong hộp giống có thể thay đổi được, còn loại thứ hai cố định. Có thể điều chỉnh được lượng hạt gieo bằng hai cách: thay đổi số vòng quay của trục cuốn và thay đổi chiều dài trục cuốn nằm trong hộp gieo.

- Bộ phận gieo loại đĩa: Bộ phận gieo loại đĩa gồm có đĩa gạt 1, đĩa gieo 2, đệm 3, tấm che 5 và vòng đáy 4, tất cả được đặt ở đáy thùng đựng hạt hình trụ. Đĩa gieo có các đĩa kiểu rãnh ở mép đĩa hoặc ở trong đĩa (hình 4.4). Có nhiều bộ đĩa với kích thước lỗ và độ dầy đĩa khác nhau để gieo các loại hạt có kích thước và hình dáng khác nhau. Thay cho chế tạo thêm các bộ đĩa người ta chế tạo các bộ tấm che 5 vừa có tác dụng đệm vào tấm gieo 2 vừa là tấm che một số lỗ để điều chỉnh lượng hạt gieo ra và thay đổi bề dầy tổng cộng cho phù hợp với bề dầy hạt giống. Vòng đáy 4 vừa là giá đỡ để lắp đặt vòng đệm, đĩa gieo, các tấm đệm, vừa có lỗ để hạt rơi xuống ống dẫn hạt. Nắp 1 với lưỡi gạt hạt đặt trên đĩa gieo 2, cố định cùng với thùng đựng hạt. Nó dẫn đường cho hạt giống chỉ có thể rơi vào lỗ đồng thời không cho khối hạt xáo trộn kéo theo đĩa khi đĩa quay để giữ an toàn cho hạt. Khi hạt đã rơi vào lỗ được đĩa quay đưa đến vị trí cần rơi, thì lưỡi ấn làm việc, hạt rơi xuống ống dẫn hạt, nhờ vật mà hạt không bị kẹt ở lỗ đĩa, việc gieo hạt không bị sót.

Đĩa gieo được truyền động từ bánh xe lấp hạt qua cơ cấu bánh răng hình nón và bộ truyền xích.

Muốn điều chỉnh lượng gieo hạt ta có thể thay đổi tốc độ quay của đĩa gieo bằng cách thay đổ tỷ số truyền từ bánh xe lấp hạt.

Việc thay đổi lượng gieo còn được thực hiện bằng cách thay đổi số lỗ ở đĩa gieo nhờ tấm che 5 che bớt đi một số lỗ trên đĩa.

Hình 4.4: Bộ phận gieo loại đĩa 1 - nắp bộ phận gieo; 2 - đĩa; 3 - đệm; 4 - vòng đáy; 5 - tấm che

- Bộ phận gieo khí áp:

Có hai loại bộ phận gieo khí áp: loại trống và loại đĩa, trong đó loại đĩa

được dùng phổ biến hơn cả.

Bộ phận gieo khí áp loại đĩa gồm có đĩa gieo 8 với hàng lỗ ở gần mép đĩa (hình 4.5), kích thước và cách phân bố lỗ phụ thuộc vào loại hạt giống và yêu cầu gieo…, kích thước lỗ phải luôn nhỏ hơn kích thước hạt để cho hạt không

55

chui qua lỗ. Đĩa gieo được lắp khớp vào trục quay và lắp sát vào buồng cung cấp của thùng đựng hạt 6. Mặt đĩa phía buồng cung cấp tiếp xúc trực tiếp với khối hạt giống. Diện tích vành khăn có gia công lỗ của mặt kia của đĩa tiếp xúc với rãnh giảm áp 3. Rãnh giảm áp 3 không thông suốt 360o mà ở phần dưới - phần thấp nhất bị ngắt quãng, không có giảm áp. Rãnh 3 được thông với ống hút 4, ống này lại nối với quạt hút không khí. Áp suất vào mặt đĩa gieo phía buồng cung cấp hạt là đĩa khuấy hạt 9 bằng chất dẻo có các cánh khuấy. Đĩa xích 2 được truyền động từ các bánh xe lấp hạt. Cần 5 có tác dụng để điều chỉnh số lượng hạt khi đĩa gieo làm việc (gạt bớt hạt lại khi lượng hạt ra nhiều hơn yêu cầu).

1 - buồng cung cấp; 2 - đĩa xích;; 3 - rãnh giảm áp;; 4 - ống hút; 5 - cần gạt; 6- thùng chứa;; 7 - đĩa gieo; 8 - đường danh giới; 9 - bánh cao su tung hạt; 10 - hạt gieo Hình 4.5: Bộ phận gieo loại khí áp

Khi gieo hạt, quạt hút làm việc, đĩa gieo 7 quay, do có giảm áp nên hạt giống được hút vào các lỗ đĩa ở phía phần buồng cung cấp và đưa hạt quay theo. Đến vùng không còn giảm áp, hạt tự rơi xuống đất do trọng lượng của nó. Khi đĩa gieo quay thì các cánh khuấy quay theo làm cho khối hạt không kết dính với nhau và đẩy hạt tới vùng có lỗ của đĩa gieo.

Khi ta thay đổi tốc độ quay của đĩa bằng cách thay đổi tỷ số truyền từ bánh xe lấp hạt tới đĩa, sẽ thay đổi được lượng hạt gieo, thay đổi được khoảng cách giữa các hạt trên hàng gieo. Cũng có thể thay đổi đĩa có số đĩa khác nhau để điều chỉnh lượng hạt gieo theo yêu cầu.

b. Bộ phận dẫn hạt Bộ phận dẫn hạt thường là các ống dẫn hạt, chúng có nhiệm vụ dẫn hạt từ bộ phận gieo đến rãnh mà bộ phận rạch hàng đã rạch và phân bố đều lại dòng hạt khi cần thiết.

Ở những máy gieo loại móc, ống dẫn hạt có khả năng co dãn, uốn cong để có thể nâng hạ dễ dàng bộ phận rạch hàng liên kết với ống dẫn hạt. Trong trường hợp bộ phận gieo thấp thì không cần bộ phận dẫn hạt. Ống dẫn loại lá thép xoắn được lắp ở các máy gieo lúa (hình 4.6c). Loại này rung động và co dãn tốt, khó bị han rỉ, khi biến dạng khó phục hồi. Nó được sử dụng rộng rãi ở các máy gieo lúa.

56

Ống dẫn loại cao su gấp nếp (hình 4.6b). Loại này có khả năng rung động kém hơn loại trên nhưng chịu được ăn mòn hoá chất, nên thường được dùng làm ống dẫn hạt lẫn phân.

Ống dẫn loại phễu xếp chồng lên nhau (hình 4.6d), loại này rung động tốt, có ưu điểm nổi bật là tháo lắp, thay thế, tạo ống dài, ngắn dễ dàng, loại này cũng thường dùng ở máy gieo có bón phân. So với ống, kim loại xoắn thì ống bằng cao su gấp nếp bền hơn và khả năng cho hạt qua tốt hơn. Ngoài những loại trên người ta còn dùng loại ống cao su dài hình côn (hình 4.6d), ống trụ lồng vào nhau bằng chất dẻo (hình 4.6e) và ống lò xo (hình 4.6f).

Hình 4.6: Các loại bộ phận dẫn hạt a - kiểu lá thép xoắn; b - kiểu ống cao su gấp nếp; c - kiểu phễu chồng lên nhau; d - kiểu ông cao su hình côn; e - kiểu ống trụ chất dẻo; f - kiểu ống lò xo Mỗi ống dẫn hạt gồm có hai phần, phần miệng ống ở phía trên nối với hộp gieo và phần dẫn hạt chiếm gần hết độ dài của ống. Đầu dưới của bộ phận dẫn hạt được lắp với bộ phận rạch hàng. Để đảm bảo yêu cầu dẫn hạt cho phép lắp ống dẫn hạt nghiêng đi một góc so với phương thẳng đứng (không quá 250).

(a) (b) (c) (d) (e) (f)

c. Bộ phận rạch hàng Bộ phận rạch hàng có nhiệm vụ tạo ra rãnh trong đất để hạt giống gieo vào đó và hướng cho hạt rơi xuống đúng đáy của rãnh. Yêu cầu đặt ra đối với bộ phận rạch hàng là tạo được rãnh đất có bề rộng và chiều sâu đều, không vướng cỏ rác.

Bộ phận rạch hàng có nhiều loại, nhưng được dùng phổ biến là loại đĩa

và loại dao cong.

- Bộ phận rạch hàng loại đĩa: Bộ phận rạch hàng loại này có loại này có loại một đĩa và loại hai đĩa,

trong đó loại hai đĩa được dùng phổ biến hơn.

Trên hình 4.7 là bộ phận rạch hàng loại hai đĩa, gồm có đĩa phải và đĩa trái là những đĩa thép tròn (đường kính khoảng 350mm, dày khoảng 2,5mm), mép đĩa được mài sắc và được lắp chặt vào mâm 4. Ống bạc trong 3 có dạng

57

a - hình cắt; b - dạng chung của lưỡi rạch; 1 - đĩa rạch; 2 - thân; 3,5 - bu lông; 4 - nắp; 5 - vòng bít kín; 6 - vòng bịt kín; 7 - vòng lò xo; 8 - bu lông phải; 9 - tấm hướng hạt; 10 - tấm gạt đất; 11 - vú mỡ

Hình 4.7: Lưới rạch hàng loại hai đĩa

một bu-lông đặc biệt có bề mặt làm việc hình côn, bạc trong được vặn chặt vào trụ 12. Khe hở giữa bạc trong và bạc ngoài 2 được điều chỉnh bằng cách vặn bạc trong 3 vào trụ. Bôi trơn bề mặt làm việc của hai bạc này bằng mỡ, mỡ được bơm từ vú mỡ 11. Bu lông 5 đảm bảo kín sát cho ổ bạc khỏi bụi bẩn, ngoài ra còn có vòng bịt kín 6 được giữ bởi lò xo 7 để tránh đất bụi chui vào làm mòn ổ quay của đĩa. Mặt phẳng của hai đĩa được lắp chụm lại ở phía trước tạo thành góc từ 100 đến 230. Ở trụ có ống để lắp thông với ống dẫn hạt, phía dưới có thêm tấm dẫn hướng hạt 9. Ngoài ra còn có tấm gạt đất 10 không cho đất dính vào đĩa khi đĩa làm việc.

Quá trình làm việc của bộ phận rạch hàng như sau: khi được kéo, đĩa 1 cùng mâm 4 và bạc ngoài 2 quay tự do trên bạc trong 3, hai đĩa quay có tác dụng cắt đất từ trên xuống và đẩy đất ra hai bên mà tạo thành rãnh đất, khi đó hạt từ ống dẫn hạt rơi vào ống của trụ theo tấm dẫn hướng 9 và rơi xuống đáy rãnh đất. Do nguyên tắc chuyển động quay cắt đất từ trên xuống với góc chụm thích hợp, lại có tấm gạt không cho đất dính vào đĩa nên bộ phận rạch hàng loại đĩa đáp ứng tốt được những yêu cầu rạch hàng. Ưu điểm nổi bật của nó là làm việc được ở những loại đất có độ ẩm khá cao.

Ở một số bộ phận rạch hàng loại đĩa khác, người ta lắp ổ quay là vòng bi

làm cho đĩa quay được nhẹ nhàng hơn.

- Bộ phận rạch hàng loại dao cong: Bộ phận rạch hàng loại dao cong (hình 4.8) gồm lưỡi dao, cánh dao và ống dẫn hạt. Lưỡi dao và cánh dao được chế tạo bằng thép, phần lưỡi ở phía trước và phần cánh ở phía sau, cánh dao được tách ra làm 2 có tác dụng tách đất tạo rãnh. Ống dẫn hạt được lắp ở phía sau để cung cấp hạt giống ngay sau khi rãnh được tao thành.

58

Hình 4.8: Bộ phận rạch hàng dao cong 1 - ống dẫn hạt; 2 - lưỡi cắt; 3 - cánh gạt

Hình 4.9: Bộ phận rạch hàng loại sống tàu 1 - sống tàu; 2 - ống dẫn hạt; 3 – vòng nối; 4 - tấm dẫn hạt

Khi làm việc, dao chuyển động tịnh tiến, cạnh sắc của dao cắt đất từ trên xuống, hai tấm tách 3 ở phía sau tách đất ra hai bên tạo khoảng trống cho hạt rơi xuống đáy rãnh nhờ trọng lượng bản thân. Loại bộ phận rạch hàng dao cong chuyển động ổn định, không đưa đất ẩm lên trên, hoạt động tốt ở đất khô, cứng. Tuy nhiên lại bị hạn chế ở đất có độ ẩm cao và đất có cỏ rác.

- Bộ phận rạch hàng loại sống tàu (thuyền): Trên hình 4.9 trình bày bộ phận rạch hàng loại sống tàu gồm có lưỡi rạch 1, ống dẫn hạt 2, vòng nối 3, tấm dẫn hạt 4. Giống như tầu thuỷ chuyển động trong nước, lưỡi rạch chuyển động rạch đất từ trên xuống và tách ép đất sang hai bên tạo thành rãnh. Bộ phận rạch hàng loại này không gây mất ẩm. Nếu đất làm không kỹ, còn nhiều cục to, đất cứng thì chuyển động kém ổn định so với loại dao cong.

d. Bộ phận lấp hạt Sau khi hạt đã được đặt vào đáy rãnh đất, việc lấp đất lên hạt có thể thực hiện bằng nhiều cách. Cách đơn giản là dùng những dải xích, mảng bừa răng, bừa trang kéo theo sau để lấp (ở các máy gieo lúa) hoặc dùng bánh xe hai vành để lấp và nén đất (ở các máy gieo ngô).

4.1.6. Chuẩn bị máy gieo làm việc Chuẩn bị máy gieo làm việc nhằm mục đích: - Đảm bảo máy gieo làm việc đúng yêu cầu kỹ thuật nông học: mức gieo,

khoảng cách hàng, độ sâu gieo…

- Đảm bảo máy làm việc liên tục, năng suất cao. Nội dung công việc chuẩn bị máy gieo: a. Kiểm tra tình trạng kỹ thuật máy Máy gieo phải hoàn chỉnh, tức là đầy đủ các chi tiết, các bộ phận, chất lượng lắp ghép được đảm bảo. Các chi tiết, các cụm máy và cơ cấu phải đúng tiêu chuẩn. Các mối nối, chi tiết phải đảm bảo độ bền, đúng vị trí làm việc… Nếu có hiện tượng hỏng hóc phải tiến hành điều chỉnh, sửa chữa hoặc thay thế

59

kịp thời. Sau đó, tiến hành bôi trơn, xiết chặt các mối nối để có được máy gieo ở tình trạng kỹ thuật tốt. Cuối cùng tiến hành các điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật gieo.

b. Điều chỉnh máy gieo - Điều chỉnh khoảng cách hàng bằng cách điều chỉnh vị trí lắp các

nhánh, bộ phận rạch hàng ở thanh khung chính.

- Điều chỉnh độ sâu gieo: Gọi độ sâu gieo là a cm, độ lún của bánh xe lấp

hạt là L cm. Chuẩn bị một tấm kê có chiều cao là C = a - L, tiến hành:

Điều chỉnh ở nhà: Đưa liên hợp máy lên một bãi đất bằng phẳng, nới lỏng các ốc bắt cơ cấu điều chỉnh, kê các bánh xe lấp hạt lên C cm, điều chỉnh cho các lưỡi rạch hàng tỳ sát mặt sàn phẳng, sau đó xiết chặt các chi tiết nối ghép.

Điều chỉnh ngoài đồng: Đưa máy ra đồng, cho liên hợp máy gieo thử trên đồng một đoạn ngắn. Dừng máy và bới đất đến vị trí hạt đã được gieo, dùng thước đo độ sâu từ mặt đồng đến vị trí đó. So sánh với yêu cầu và điều chỉnh lại nếu cần thiết.

- Điều chỉnh bộ phận gieo: Mục đích của việc điều chỉnh độ sâu gieo nhằm đảm bảo máy gieo đều và đúng lượng gieo quy định. Những bộ phận gieo có cùng nguyên tắc cấu tạo và làm việc thì áp dụng chung những nguyên tắc điều chỉnh lượng gieo. Ở đây đề cập đến cách điều chỉnh ba loại bộ phận gieo phổ biến.

- Điều chỉnh bộ phận gieo loại trục cuốn: Ở bộ phận gieo loại này có hai thông số cần kiểm tra và điều chỉnh đó là độ đồng đều giữa các bộ phận gieo và lượng gieo theo quy định. Trước khi điều chỉnh để máy gieo đúng lượng gieo theo quy định, phải kiểm tra, điều chỉnh để các bộ phận gieo của máy phải gieo những lượng hạt đều nhau.

• Điều chỉnh độ gieo đều giữa các bộ phận gieo: Để kiểm tra và điều chỉnh độ gieo đều giữa các bộ phận gieo ta cần kê

khung máy gieo lên để có thể quay dễ dàng các bánh xe của máy gieo.

Trước tiên, kiểm tra các cửa ở đáy hộp gieo xem đã để ở các vị trí như nhau chưa (đã cùng độ mở chưa). Tuỳ theo loại hạt gieo mà cửa mở ở vị trí trên, giữa hay dưới. Lắp hệ thống truyền động từ bánh xe máy gieo đến bộ phận gieo cho phù hợp với sơ đồ gieo trên (dùng để gieo loại hạt to và dễ chảy) hay gieo dưới (với những hạt có kích thước nhỏ như lúa mỳ, lúa mạch…). Đặt các bộ phận gieo ở các vị trí để gieo lượng hạt theo yêu cầu (làm theo tài liệu chỉ dẫn về máy). Đưa các bao chứa vào đầu ra của ống dẫn hạt, đổ hạt vào thùng hạt, đổ khoảng 1/3 đến 2/3 thùng. Gài cơ cấu truyền động cho bộ phận gieo và bắt đầu quay các bánh xe máy gieo 3 đến 5 vòng để hạt giống đi vào đầy hộp gieo, hạt gieo sẽ qua ống dẫn để vào bao dẫn, lúc này máy ở tình trạng đang gieo hạt. Đổ hết hạt ở các bao chứa ra và lại đưa bao chứa vào cửa ra của các ống dẫn, đánh số tương ứng giữa các bao và các bộ phận gieo, bằng cách quay đều bánh xe (như tốc độ làm việc trên đồng ruộng) một số vòng (khoảng 30 vòng). Dừng máy, lấy hạt ở các bao chứa đã đánh số, đem cân lượng hạt gieo ra của từng bộ phận gieo.

60

Để đánh giá độ đồng đều của các bộ phận gieo ta tính toán sai số của mỗi

bộ phận gieo, công thức tính như sau:

100% (4.1) i = (Qi – QTB) QTB

Trong đó: i - sai số của bộ phận gieo thứ i

Qi - lượng hạt ra của bộ phận gieo thứ i QTB - lượng hạt ra trung bình của các bộ phận gieo

Sau khi tính toán nếu bộ phận gieo nào có sai số  vượt quá  3% thì

điều chỉnh lại bộ phận gieo đó.

• Điều chỉnh theo lượng gieo yêu cầu: Đây mới là việc điều chỉnh chính thức máy gieo. Các bước tiến hành như sau: tính toán lượng hạt mà máy gieo được sau n vòng quay của bánh xe theo công thức:

(kg) (4.2) Qt =

.D.n.B.Q 10000 Trong đó: Qt - lượng hạt máy gieo được sau n vòng, kg

Q - lượng hạt gieo theo yêu cầu, kg/ha D - đường kính bánh xe máy gieo, m n - số vòng quay bánh xe máy gieo (n ≥ 15 vòng) B - bề rộng làm việc của máy gieo, m.

Ở những máy gieo mà mỗi bánh chỉ chuyển động cho một nửa số bộ phận gieo thì khi điều chỉnh chỉ cần tính toán và kiểm tra điều chỉnh cho một nửa, nửa còn lại sẽ đặt đúng như nửa đã điều chỉnh, khi đó thì:

.D.n.B.Q Qt = (kg) (4.3) 2.10000

Đổ hạt vào thùng đầy từ 1/3 đến 2/3 thể tích thùng. Dùng bao tải hứng hạt ở những bộ phận gieo cần kiểm tra. Gài cơ cấu chuyển động cho bộ phận gieo, quay bánh xe một số vòng cho hạt ra chảy xuống bao tải, dừng máy lấy tất cả hạt ở các bao tải ra, rồi lại hứng bao tải trở lại. Quay bánh xe n vòng với tốc độ đều và phù hợp với tốc độ làm việc trên đồng của liên hợp máy gieo. Đổ hạt ra cân ta được khối lượng hạt gieo Qt. So sánh Qt với Q, nếu sai khác quá 2% thì tiến hành điều chỉnh lại đồng thời tất cả các bộ phận gieo bằng cơ cấu điều khiển. Công việc lặp lại cho đến khi nào đạt được điều kiện:

Qt – 0,02Qt ≤ Q ≤ Qt - 0,02Qt (kg) (4.4)

Những máy gieo đã được kiểm tra và điều chỉnh theo phương pháp trên đây khi ra đồng làm việc buộc phải kiểm tra lần nữa ở trên đồng. Khi cần thiết phải điều chỉnh lại bộ phận gieo. Việc kiểm tra trên đồng tiến hành như sau:

Tính toán lượng gieo lý thuyết cần gieo ở đoạn đường S1 của máy theo

công thức:

61

’ =

S1.B.Q Q1 (kg) (4.5) 2.10000

Đưa máy gieo đến dừng trước vạch bắt đầu của vạt đất thử, dùng một tấm ván vuông vắn và phẳng, làm phẳng lớp hạt ở trong thùng máy, dùng phấn hoặc bút màu đánh dấu mức hạt đó vào thành đựng hạt. Tiếp theo, đổ lượng hạt Q1 lên trên, cho máy làm việc trên đoạn S 1 đó, khi máy chạy hết đoạn S1 thì dừng. San phẳng lớp hạt trong thùng và xác định độ chính xác của lượng hạt gieo. Nếu mức hạt còn lại trùng với đường vạch mức trước đó thì quá trình điều chỉnh là chính xác. Nếu mức hạt còn lại trong thùng cao hơn hoặc thấp hơn mức đã đánh dấu thì phải tiến hành điều chỉnh lại các bộ phận gieo. Bằng cơ cấu điều chỉnh tiến hành điều chỉnh toàn bộ hoặc một nửa bộ phận gieo, sao đó lặp lại cách làm trên cho đến khi gieo đúng mức gieo quy định thì dừng, cố định vị trí cơ cấu điều chỉnh và cho liên hợp máy làm việc chính thức trên đồng. - Điều chỉnh bộ phận gieo loại đĩa Ở bộ phận gieo loại đĩa, lượng hạt gieo phụ thuộc vào số lỗ ở đĩa gieo và

tốc độ quay của đĩa.

Đối với máy gieo loại đĩa, đĩa gieo quay được là nhờ truyền động từ

bánh xe lấp thông qua hệ thống truyền động.

Tính toán số hạt phải gieo sau một vòng quay của đĩa gieo Gọi tỷ số truyền từ bánh xe lấp hạt đến đĩa gieo là i, khoảng cách giữa các hốc hay khoảng cách giữa các hạt là c (cm), đường kính bánh xe lấp hạt là D (cm), số lỗ trên đĩa gieo là m. Khi đó:

m

• Nếu gieo hàng thì số hạt phải gieo sau một vòng quay của đĩa gieo là:

. D ci .

(hạt) (4.6)

• Nếu gieo hốc thì số hạt phải gieo được tính như sau: Tính số hốc phải gieo sau một vòng quay của bánh xe lấp hạt theo

n 1

công thức:

. D  c

(hốc) (4.7)

n

2

Tính số hốc phải gieo sau một vòng quay của đĩa gieo theo công thức:

. D  ci .

n 1 i

(hốc) (4.8)

a 

naM . 2 

Suy ra, số hạt phải gieo sau một vòng quay của đĩa gieo (M) là:

. D  ci .

(hạt), với a là số hạt trong một hốc (4.9)

Nếu đã chọn được đĩa có số lỗ và kích thước lỗ phù hợp với hạt giống thì ta thay đôi đĩa xích hoặc bánh răng của cơ cấu truyền động để có tỷ số truyền i phù hợp. Hoặc nếu đã có tỷ số truyền i thích hợp thì ta có thể chọn đĩa có số lỗ phù hợp, sao cho lượng gieo đạt yêu cầu.

62

- Điều chỉnh cần rạch tiêu Để khoảng cách giữa các hàng tiếp giáp của các đường gieo liền nhau bằng khoảng cách giữa các hàng trong một đường gieo và những hàng đó song song nhau, người ta dùng cần rạch tiêu. Cần rạch tiêu rạch thành vết rãnh. Người lái máy ở đường chạy tiếp theo sẽ lái cho bánh xe bên phải phía trước hoặc mép của dải xích bên phải đi đúng vết đó. Cũng có thể lái cho điểm giữa của liên hợp máy gieo đi theo vết đó (đối với máy gieo liên hợp với máy kéo 3 bánh). Trên hình 4.10 là sơ đồ 3 đường gieo liên tiếp. Ở đường thứ nhất cần rạch tiêu bên phải tạo ra vết với chiều dài cần là lp.

(c) (a) (b)

Hình 4.10: Xác định chiều dài cần rạch tiêu

Ở đường gieo thứ hai, cần rạch tiêu bên trái tạo vết với chiều dài là lt. Chiều dài cần rạch tiêu tính bằng khoảng cách từ mũi rạch ở đầu cần (đĩa chỏm cầu) đến lưỡi rạch ngoài cùng của máy gieo, tính theo mặt phẳng ngang, theo sơ đồ ta có: Lp = 0,5.(B - b1 – C) (4.10) l = 0,5.(B - b1 - C) (4.11)

Trong đó: B là bề rộng làm việc của máy gieo; b1 là khoảng cách hai hàng biên của hai đường gieo liên tiếp (ta có thể lấy b1 bằng khoảng cách giữa các hang gieo b của một đường gieo), C là khoảng cách giữa hai bánh trước của máy kéo bánh hơi hoặc khoảng cách giữa hai mép trong của hai dải xích của máy kéo xích. Trong trường hợp máy gieo liên hợp với máy kéo ba bánh (hai bánh sau, một bánh trước) hoặc người lái máy lấy đích ngắm là điểm giữa của máy kéo thì lúc đó C = 0 và công thức tính chiều dài cần rạch tiêu sẽ là:

lp = lt = l = 0,5.(B - b1) (4.12)

Sau khi đã tính được lp, lt ta hạ cần rạch tiêu xuống cho đĩa rạch tỳ xuống mặt ruộng và điều chỉnh theo các số liệu đã được tính toán. Cố định các chiều dài đã điều chỉnh, dựng đứng cần rạch tiêu lên, khi làm việc sẽ hạ xuống.

4.2. MÁY CẤY LÚA 4.2.1. Yêu cầu kỹ thuật và phân loại máy cấy a. Yêu cầu kỹ thuật - Mật độ cấy đều và đúng qui định - Cấy đúng độ sâu - Khả năng di chuyển trên ruộng bùn tốt - Dễ sử dụng, năng suất cao

63

b. Phân loại máy cấy - Theo nguyên lý làm việc của máy cấy, ta có: máy cấy loại kẹp cây và máy cấy loại chải cây. - Theo nguồn động lực, ta có: máy cấy người kéo và máy cấy có động cơ. - Theo loại mạ, ta có: máy cấy mạ dài cây và máy cấy mạ non.

4.2.2. Cấu tạo và nguyên lý làm việc Thông thường một máy cấy lúa gồm một số bộ phận sau: bộ phận chứa và cung cấp mạ; bộ phận cấy, hệ thống truyền lực và di động, cơ cấu điều khiển, điều chỉnh, hướng dẫn.

a. Bộ phận chứa và cung cấp mạ

Hình 4.11: Một số kiểu thùng chứa mạ

a - thùng chứa ở máy cấy kẹp 1 - thùng chứa; 2 - thanh khung ngang; 3 - tấm ván cửa ra mạ

b - thùng chứa ở máy cấy chải 1 - thùng chứa; 2 - hàng rèm; 3 - hàng lông

a) b)

Thùng chứa mạ chứa một lượng mạ cần thiết phù hợp với loại mạ và công suất máy cấy: với mạ dài thùng chứa mạ có thành cao, với mạ ngắn (mạ non, mạ gieo trên sàn cứng, mạ gieo trên khay) thùng chứa có thành thấp. Thùng chứa mạ có hai loại: loại chứa mạ chung cho tất cả các bộ phận cấy và loại chứa riêng cho từng bộ phận cấy. Đặc điểm cấu tạo đáng chú ý của thùng chứa là đáy thùng phải có độ cong thích hợp và được bố trí nghiêng so với phương ngang một góc α nào đó để thuận tiện cho việc cung cấp mạ.

Bộ phận cung cấp mạ có nhiệm vụ cung cấp (theo hướng ngang và dọc) mạ cho bộ phận cấy, lượng mạ cung cấp đúng bằng lượng mạ bộ phận cấy đã lấy đưa xuống ruộng. Việc cung cấp mạ phải được tiến hành đồng bộ với hoạt động của bộ phận cấy, tức là sau mỗi lần bộ phận cấy lấy mạ đi thì bộ phận cung cấp phải bù vào chỗ trống đó. Cung cấp mạ theo hướng ngang được thực hiện bằng cách di chuyển thùng chứa mạ theo chiều ngang (vuông góc với hướng chuyển động của máy, hình 4.12).

64

Hình 4.12: Sơ đồ các kiểu cung cấp mạ theo hướng ngang a - loại chốt - rãnh trục xoắn hai chiều; b - loại cung răng - thanh vít đảo chiều; c - loại thanh răng - ngón đấy 1 - thùng mạ; 2 - chốt; 3 - trục răng xoắn; 4 - thanh răng; 5 - cung vít; 6 - ngón đẩy; 7 - thanh răng

a) b) c)

Mạ còn được cung cấp theo hướng dọc (hướng chuyển động của máy

cấy). Cung cấp dọc được thực hiện về phía cửa ra của thùng chứa mạ.

Sơ đồ nguyên tắc cấu tạo và làm việc của các loại bộ phận cung cấp dọc được trình bày ở hình 4.13. Ở những máy cấy đơn giản (loại người kéo), người ta áp dụng những bộ phận cung cấp dọc đơn giản như là dùng vật nặng đè lên trên (hình 4.13a) để ép dồn mạ theo hướng dọc, có cơ cấu kiểu búa tác động lên vật nặng sau mỗi lần bộ phận cấy lấy mạ. Có thể dùng cần đẩy trực tiếp tác động vào gốc khối mạ qua tấm rèm ở đáy thùng chứa mạ theo kiểu ngón đẩy (hình 4.13b). Với mạ non mà được đưa vào máy cấy ở những dạng thảm mạ, việc cung cấp mạ được thực hiện bởi những đĩa răng được lắp vào trục quay đặt dưới đáy thùng chứa thảm mạ, tiếp xúc với thảm mạ qua những khe hở ở đáy thùng (hình 4.13c).

Hình 4.13: Sơ đồ các kiểu cung cấp mạ theo hướng dọc a - loại vật đè; b - loại ngón đẩy; c - loại bánh sao 1,3,5 - các bộ phận chứa mạ; 2,4,6 - các bộ phận cung cấp mạ

a) b) c)

b. Bộ phận cấy Bộ phận cấy có nhiệm vụ lấy đúng số cây mạ từ thùng chứa, đưa xuống bùn, để lại đó với đúng độ sâu, đứng cây, gọn khóm, an toàn cho mạ. Có hai loại bộ phận cấy là loại kẹp cấy và loại chải cấy.

Bộ phận cấy loại kẹp hoạt động như thao tác của hai ngón tay người khi cấy lúa (hình 4.14). Mỗi bộ phận cấy gồm có răng cố định 1 và răng di động 3 được lắp trên các thanh 2 và 4. Việc cấy mạ trải qua hai động tác chính: động tác kẹp mạ và động tác nhả mạ. Kẹp được mở ở độ mở cần thiết, được đưa vào 65

cửa ra mạ ở phần gốc khối mạ, kẹp lấy một số cây mạ đưa xuống bùn ở độ sâu cần thiết, đến đây kẹp nhả mạ, để khóm mạ ở lại bùn trong tư thế đứng. Việc đóng mở kẹp được thực hiện nhờ dịch chuyển răng di động, răng di động được truyền động từ thanh kéo - đẩy 5 và thanh truyền 6. Độ mở và lực ép giữa khóm mạ của kẹp có thể điều chỉnh thông qua việc điều chỉnh hành trình của thanh kéo - đẩy 5, sao cho lấy được đúng số cây mạ cho mỗi khóm mà không làm dập nát mạ.

Hình 4.15: Bộ phận cấy kiểu chải 1 - rèm che ở thùng mạ; 2 - hàng lông; 3 - tấm vuốt mạ; 4 - răng chải; 5 - thanh lắp răng chải; 6 - máng đỡ

Hình 4.14: Bộ phận cấy kiểu kẹp 1 - răng cố định; 2 - thanh cố định; 3 - răng di động; 4 - thanh di động; 5 - thanh kéo; 6 - thanh truyền Quá trình làm việc của bàn chải như sau: bàn chải 4 chuyển động theo một quỹ đạo thích hợp, đi vào thùng mạ với tốc độ và góc độ hợp lý, các răng bấu lấy rễ ở gốc cây mạ, đưa chúng xuống bùn ở độ sâu cần thiết, để khóm mạ ở đó và răng chải rút lên theo một quỹ đạo thích hợp sao cho không lôi khóm mạ đó lên. Ở một số máy cấy, phía dưới cửa ra mạ còn bố trí máng đỡ và vuốt thêm để cho khóm lúa cấy được đứng thẳng.

Bộ phận lấy mạ loại chải (hình 4.15) gồm các chi tiết chính là răng chải 4 làm băng thép, ở đầu thường có 3 răng nhọn và cong, răng 4 được lắp và thanh ngang di động hoặc vào các thanh của guồng quay. Khoảng cách giữa các răng trên thanh ngang là khoảng cách giữa các hàng cây lúa kề nhau. Rèm che ở cửa ra mạ 1 là những sợi thép song song mà phía dưới tự do. Rèm cho phép răng chải có thể thọc sâu vào khối cây mạ ở phía gốc để lấy mạ. Ở đáy thùng mạ còn có hàng lông dầy 2 để đỡ mạ cho bàn chải lấy mạ dễ dàng.

Quá trình cấy lúa bằng răng chải đơn giản hơn so với cấy lúa bằng kẹp. Tuy nhiên, độ chính xác về số cây mạ trong một khóm không bằng kẹp nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Việc cơ giới hoá cấy bằng chải dễ hơn, các cơ cấu chuyển động ổn định hơn so với cấy bằng kẹp. Cấy bằng chải cho khả năng tăng vận tốc làm việc, do đó tăng năng suất cấy.

c. Bộ phận truyền lực và di động Những máy cấy thủ công, đơn giản có thể dùng sức người để điều chỉnh và di chuyển. Ngày nay, người ta thường dùng động cơ đốt trong làm nguồn động lực cho máy cấy. Thường máy cấy làm việc với vận tốc chậm nên mặc dù

66

có động cơ người ta vẫn thiết kế để người điều khiển lội theo máy để máy làm việc được nhẹ, di chuyển dễ dàng. Bánh xe chuyển động ở bùn nước thường có mấu bám. Máy cấy tựa trên mặt bùn nước nhờ có thuyền phao bằng chất dẻo hoặc bằng gỗ.

Ngoài những bộ phận như đã trình bày, trên máy cấy còn có bộ phận điều khiển cho máy chạy không hoặc cấy với các tốc độ khác nhau, cơ cấu điều khiển độ sâu cấy, cần rạch tiêu hướng dẫn cho người lái máy…

Câu hỏi ôn tập: 1. Trình bày các phương pháp gieo hạt, yêu cầu kỹ thuật đối với máy

giao và phân loại máy gieo.

2. Trình bày cấu tạo và hoạt động của bộ phận gieo loại rung. 3. Trình bày cấu tạo và hoạt động của bộ phận gieo loại trục cuốn. 4. Trình bày cấu tạo và hoạt động của bộ phận gieo loại đĩa. 5. Trình bày cấu tạo và hoạt động của bộ phận gieo loại khí áp. 6. Trình bày cấu tạo và hoạt động của bộ phận rạch hàng loại dao cong. 7. Cho biết yêu cầu đối với máy cấy và phân lọa máy cấy. 8. Trình bày cấu tạo các bộ phận chính của máy cấy. 9. Trình bày hoạt động của mộ phận cấy loại kẹp

67

CHƯƠNG V: MÁY CHĂM SÓC BẢO VỆ CÂY TRỒNG

5.1. MÁY BÓN PHÂN 5.1.1. Các hình thức bón phân, yêu cầu kỹ thuật và phân loại máy

bón phân

a. Các hình thức bón phân - Bón phân rải đều trên toàn bộ mặt đồng là hình thức thường áp dụng sau khi cày, trước khi bừa (thường gọi là bón lót). Dưới tác động của bừa, phân được trộn lẫn vào trong đất. Cũng có khi người ta rắc phân toàn mặt đồng sau khi cấy, sau đó xới cỏ vun đất vào gốc cây. Phương pháp bón phân trên toàn mặt đồng đòi hỏi máy có cấu trúc đơn giản, năng suất cao song lượng phân cây hấp thụ không hết thường bị bay hơi hoặc rửa trôi theo nước. - Bón phân theo hàng là hình thức được thực hiện đồng thời hoặc sau khi gieo cấy, thường kết hợp bón với gieo hoặc xới. Khi bón phân theo hàng, phân theo lưỡi rạch xuống rãnh với độ sâu nhất định, sau đó có bộ phận phủ đất kín để phân ít bị bay hơi vào không khí. Cách bón phân theo hàng so với bón phân trên toàn bề mặt tiết kiệm được phân bón song đòi hỏi máy có cấu trúc phức tạp hơn.

- Bón phân theo hốc thường được tiến hành như sau: Phân được trộn ẩm, viên lại thành viên và dúi sâu xuống đất gần gốc cây. Với hình thức này rễ cây hấp thụ phân với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, do năng suất thấp nên chỉ được sử dụng đối với loại phân dễ phân huỷ và đắt tiền.

b. Các yêu cầu kỹ thuật - Bón đều: tức là khi bón lượng phân phải được rải đều trên bề mặt; hoặc nếu bón theo hàng, theo hốc thì khoảng cách hàng, khoảng cách hốc phải đều nhau.

- Bón đúng mức phân qui định đối với loại cây và thời kỳ bón. - Dễ sử dụng, năng suất cao. - Các chi tiết máy có khả năng chịu đựng sự ăn mòn, phá hoại của phân.

c. Phân loại máy bón phân

- Căn cứ theo loại phân ta có:

Máy bón phân hữu cơ Máy bón phân vô cơ Máy bón phân nước

- Căn cứ theo hình thức bón phân ta có:

Máy bón phân toàn bề mặt Máy bón phân theo hàng Máy bón phân theo hốc

5.1.2. Máy bón phân hữu cơ Phân hữu cơ thường lẫn với cỏ rác, chộn không đều, độ ẩm phân lớn dễ bị dính bết. Để đảm bảo yêu cầu về bón phân, bón phân hữu cơ được thực hiện qua hai giai đoạn:

68

Gai đoạn 1: trộn đều phân với đất bột hoặc phân vô cơ như lân, kali,

vôi… để phân tơi, không bị dính bết.

Giai đoạn 2: chuyển phân ra đồng và bón phân.

a. Máy trộn phân hữu cơ Thông thường một máy trộn phân gồm các bộ phận sau, (hình 5.1): - Bộ phận ủi: bộ phận ủi được lắp xiên góc với trục dọc máy kéo. Khi làm việc tấm tựa 4 được tỳ lên mặt nền để đỡ phân ủi và giới hạn độ hạ của lưỡi ủi. Bộ phận ủi được nâng hạ nhờ xi-lanh thuỷ lực 1, kéo khung 5 của lưỡi ủi quay quanh khớp của thân máy kéo.

Khi không làm nhiệm vụ ủi dồn phân thì bộ phận ủi có thể làm nhiệm

vụ san nền.

- Bộ phận trộn và làm tơi phân: gồm hai trống phay 8 và 9 quay ngược chiều nhau. Trống phía dưới có vận tốc lớn hơn vận tốc của trống trên. Khi làm việc hai trống vừa quay vừa tiến vào đống phân; các lưỡi phay có tác dụng vơ phân vào khe hở giữa hai trống. Do hai trống quay với tốc độ khác nhau nên có tác dụng xé làm tơi phân.

Hình 5.1: Máy trộn phân 1 - xi-lanh thuỷ lực; 2 - diệp ủi; 3 - lưỡi ủi; 4 - tấm tựa; 5 - khung bộ phận ủi; 6 - máy kéo; 7 - khung máy trộn; 8 - trống phai dưới; 9 - trống phay trên; 10 - nắp che; 11 - băng truyền; 12 - đĩa phay; 13 - rơ moóc.

- Bộ phận chuyển phân là băng truyền nghiêng kiểu xích - thanh gạt 11. Nó có tác dụng đưa phân đã trộn lên rơ moóc 13 đi cạnh máy hoặc đổ thành dải song song với đường làm việc.

- Khung 7 của bộ phận trộn lắp khớp với máy kéo nâng hạ được nhờ xi-

lanh thuỷ lực phía sau.

Trước khi trộn cần ủi phân thành đống vuông vắn sau đó cho máy lùi vào

đống phân với vận tốc hợp lý (0,5 - 1.1km/phút) để trộn.

69

b. Máy tung phân hữu cơ Máy tung phân có nhiệm vụ chở phân đã được đánh tơi và tung phân rải đều trên khắp mặt đồng. Khi không bón phân có thể tháo bộ phận tung phân ra khỏi máy, thùng đựng phân sẽ trở thành chiếc rơ moóc để vận chuyển nông sản.

Máy tung phân gồm các bộ phận: - Thùng đựng phân, có hình khối chữ nhật, phía dưới thành thùng có khe hở để xích tay gạt đi qua đưa phân ra ngoài. Phía thành sau để trống để đặt hai trục tung phân.

- Bộ phận cung cấp phân có nhiệm vụ đưa phân từ trong thùng tới bộ phận tung, có cấu tạo là thanh truyền kiểu xích – thanh gạt. Bộ phận tung phân gồm trục chủ động 7, trục bị động 3, ba dải xích 4 và các thanh gạt 5 nối giữa các dải xích; ngoài ra còn có bộ phận căng xích là bu lông 2.

Hình 5.2: Máy tung phân 1 - thùng chứa phân; 2 - bộ phận căng xích; 3 - trục bị động; 4 - xích cung cấp; 5 - thanh gạt; 6 - đáy thùng; 7 - trục chủ động; 8, 9 - các trục tung

- Bộ phận tung phân: gồm trục 8 và 9 là các trục thép rỗng, trên trục có hàn các cánh tung phân được đặt nghiêng so với đường tâm một góc α (thường α = 450) sao cho phân tung ra hai phía làm tăng bề rộng làm việc của máy và độ bón đều.

Trục 8 và 9 quay cùng chiều, cánh của trục trên hất phân ngược về thùng có tác dụng làm tơi phân và làm bằng mặt phân ở cửa ra, cánh của trục dưới hất phân tung xuống ruộng. Tốc độ quay của hai trục trong quá trình làm việc bằng nhau và không đổi. Hệ thống truyền động cho xích cung cấp và trục tung từ trục thu công suất của máy kéo qua trục các đăng, hộp giảm tốc, bánh răng nón, một nhánh qua xích tới trục tung, một nhánh qua cơ cấu culít – bánh cóc tới trục cung cấp phân. Cơ cấu culít – bánh cóc có sơ đồ như trên hình 5.3. Khi tay quay 1 quay tròn quanh tâm O, khoảng cách AD thay đổi đo vậy thanh lắc 4 và 7 lắc qua, lắc lại quanh điểm D có tác động đẩy cá 3 và 8 lần lượt tác động vào răng nghiêng

70

một chiều của bánh cóc làm bánh cóc quay. Trục chủ động của xích cung cấp gắn liền với bánh cóc nên cũng được quay theo làm xích cung cấp hoạt động.

Hình 5.3: Cơ cấu dẫn động cho băng truyền cung cấp 1 - tay quay; 2,9 - biên; 3,8 - cá đẩy; 4,7 - thanh gạt; 5 - bánh cóc; 6 - cá hãm; 10 - xích cung cấp.

5.2.2. Máy bón phân vô cơ a. Máy bón phân vô cơ trên toàn bề mặt * Cấu tạo chung: Máy bón phân vô cơ trên toàn bề mặt có cấu tạo chung gồm các bộ phận sau: - Thùng đựng phân dùng để chứa phân có sức chứa phù hợp với loại máy và mức bón. Thùng chứa được làm bằng vật liệu chống gỉ hoặc có sơn một lớp sơn chống gỉ.

- Bộ phận làm tơi: có tác dụng làm tơi phân trước khi phận được đưa vào

bộ phận bón.

- Bộ phận bón phân gồm có bộ phận cung cấp và tung phân, là bộ phận làm việc chính của máy. Bộ phận bón phân có nhiều loại với nguyên tác làm việc khác nhau.

- Hệ thống truyền động cho bộ phận bón: Bộ phận bón phân thường được truyền động từ bánh xe của máy kéo hoặc máy bón phân để đảm bảo mật độ bón. Cũng có loại nhận truyền động từ trục thu công suất của máy kéo; với loại này lực truyền lớn, song khi máy thay đổi tốc độ sẽ ảnh hưởng đến mật độ bón.

Trong các bộ phận trên thì bộ phận bón phân là bộ phận quan trọng nhất,

dưới đây chúng ta sẽ xem xét bộ phận này:

* Bộ phận bón phân: Có ba loại bộ phận bón phân vô cơ là: bộ phận bón phân loại trục tung,

bộ phận bón phân loại đĩa tung và bộ phận bón phân loại xích gạt.

- Bộ phận bón phân loại trục tung, hình 5.4: Thùng chứa phân 1 có khoét các lỗ hình bán nguyệt thông với đĩa cung cấp 2. Thành phía trước thùng có tấm làm tới 6. Khi làm việc các tấm 6 sẽ dịch chuyển qua lại làm tơi phân.

Đĩa cung cấp 2 có một nửa thông với đáy thùng phân, một nửa nằm phía ngoài. Khi làm việc, đĩa quay có tác dụng cung cấp phân từ trong thùng phân ra nửa ngoài của đĩa qua cửa ra phân 3. Phía trên đĩa cung cấp có trục tung phân 71

4. Trên trục này có lắp các cụm cánh tung phân, khi các cánh này quay phân sẽ được tung từ đĩa cung cấp ra mặt đồng.

Tấm dẫn phân 7 có tác dụng dồn phân từ tâm đĩa ra vành đĩa để phân được tung hết. Tấm chắn 5 ngoài nhiệm vụ đập làm tơi phân còn che chắn để máy có thể làm việc tốt hơn trong điều kiện mưa gió.

Mức bón phân được điều chỉnh bằng cách thay đổi tốc độ quay của đĩa cung cấp và độ mở cửa ra phân. Tốc độ quay của đĩa cung cấp phải nhỏ hơn tốc độ tự chảy của phân.

Hình 5.4: Bộ phận bón phân vô cơ loại trục tung

1 - thùng chứa phân 2 - đĩa cung cấp phân 3 - cửa điều chỉnh 4 - trục tung 5 - tấm chắn 6 - tấm làm tơi (tấm rung) 7 - tấm dẫn

- Bộ phận bón phân loại đĩa tung, hình 5.5: Thùng đựng phân có đáy trước và sau, có khe hở để xích cung cấp đi qua kéo phân ra cửa 3 theo máng dẫn phân 4 tới đĩa tung phân 5. Khi làm việc hai đĩa tung phân quay ngược chiều nhau (như hình vẽ), phân được tung ra nhờ lực ly tâm. Để phân văng ra xa hơn người ta hàn thêm các đường gân trên đĩa. Việc hàn thêm các đường gân trên đĩa dẫn đến hiện tượng phân tung ra thành nhiều hình vành khăn đồng tâm làm giảm độ đồng đều của phân.

Để tung phân ra đều, người ta tính toán tốc độ quay của đĩa cung cấp cho

phù hợp. Trong suốt quá trình tung phân, tốc độ quay của đĩa không đổi.

Hình 5.5: Bộ phận bón phân vô cơ loại đĩa tung 1 - thùng đựng phân; 2 - xích cung cấp phân; 3 - cửa điều chỉnh; 4 - cánh dẫn; 5 - đĩa tung phân

72

Bộ phận bón phân loại đĩa tung tuy mật độ đồng đều của phân trên mặt đồng còn hạn chế song có cấu trúc đơn giản, năng suất cao nên được sử dụng phổ biến trong sản xuất.

- Bộ phận bón phân vô cơ

loại xích gạt, hình 5.6:

Bộ phận bón phân loại xích gạt gồm có xích răng xiên 2, răng xiên được bố trí nghiêng góc so với hướng chuyển động của xich một góc α sao cho phân có thể trượt trên răng qua cửa 3. Do trượt trên răng xiên nên phân được đưa xuống thành từng đợt, không đều. Để làm đều phân người ta đặt tấm chông 4 phía dưới cửa ra phân.

Lượng phân được điều chỉnh nhờ thay đổi tốc độ xích cung cấp và diện tích cửa ra phân.

Hình 5.6: Sơ đồ bộ phận bón phân loại xích gạt 1 - thùng đựng phân; 2 - xích tay gạt; 3 - cửa ra phân; 4 - tấm chông

b. Máy bón phân vô cơ theo hàng Máy bón theo hàng có các bộ phận chính sau: thùng đựng phân, bộ phận làm tơi phân, ống dẫn phân, lưỡi rạch, hệ thống truyền động và cơ cấu điều chỉnh mức phân.

* Bộ phận bón phân kiểu cánh dẫn: Bộ phận bón phân kiểu cánh dẫn (hình 5.7) có thùng chứa phân hình trụ, thành sát đáy thùng là đai dầy để tăng độ cứng của thùng. Hai bên đai khoét hai lỗ vuông làm cửa ra phân. Bên cạnh lỗ ra phân là cánh dẫn phân 4 lắp khớp bản lề với thành đai. Cánh dẫn phân có thể quay quanh khớp bản lề nhờ tay đòn tựa trên cung chia vạch 10 để biết được độ mở của cánh dẫn phân.

Dưới đáy thùng lắp đĩa cung cấp phân 6. Trên đĩa cung cấp hàn que khuấy. Khi làm việc đĩa cung cấp phân quay, que khuấy quay theo làm tơi phân, cánh dẫn phân gạt phân ra cửa ra phân xuống ống dẫn phân. Ống dẫn phân thường dùng dạng phễu, khi hỏng có thể thay thế. Trên thùng có thước báo mức phân giúp người công nhân có thể biết được mức phân còn lại trong thùng và độ bón đều giữa các thùng phân để có điều chỉnh kịp thời.

* Bộ phận bón phân theo hàng kiểu đĩa gạt: Bộ phận bón phân theo hành kiểu đĩa gạt có cấu tạo như hình 5.8. Đĩa cung cấp phân được bố trí một nửa nằm trong thùng, một nửa nằm ngoài thùng. Giữa nửa trong và nửa ngoài thông với nhau nhờ cửa 2. Cửa 2 có thể mở rộng hay thu hẹp để điều chỉnh lượng phân bón. Phía trên nửa đĩa ngoài thùng có đĩa gạt phân xuống ống dẫn được lắp trên trục, đĩa gạt có thể quay quanh trục đó.

73

Bộ phận bón phân kiểu đĩa gạt làm vón phân trong khi làm việc. Tuy nhiên, do có cấu trúc khá phức tạp và đòi hỏi bộ phận truyền động cho đĩa gạt nên giá thành cao, ít được sử dụng.

Hình 5.8: Bộ phận bón phân theo hàng kiểu đĩa gạt 1 - thùng chứa phân; 2 - cửa; 3 - đĩa cung cấp; 4 - đĩa gạt;5 - ống dẫn phân; 6 - tấm hướng dẫn

Hình 5.7: Sơ đồ bộ phận bón phân theo hàng kiểu cánh dẫn 1 - thùng đựng phân; 2 - que báo mức phân; 3 - que khuấy; 4 - cánh dẫn; 5 - ống dẫn phân; 6 - đĩa; 7 - đĩa cố định; 8 - tấm chắn; 9 - tay đòn; 10 - cung chia vạch

5.2. MÁY XỚI 5.2.1. Nhiệm vụ và phân loại máy xới Máy xới là máy làm đất có nhiệm vụ xới cỏ diệt sâu bệnh; làm tơi đất ruộng khô, làm nhuyễn đất, phá váng, làm thoáng khí ruộng nước; xáo trộn phân; làm đứt một số rễ cây để kích thích phát triển rễ mới, kích thích nhánh; vun gốc; Xẻ rãnh thoát nước nếu cần.

Hiện nay có hai loại máy xới là máy xới ruộng nước và máy xới ruộng khô. Hai loại máy này có thể xới toàn bề mặt ruộng trước khi gieo cấy hoặc xới chăm sóc giữa các hàng cây sau khi gieo cấy.

5.2.2. Cấu tạo và nguyên lý làm viêc của máy xới * Cấu tạo chung: Máy xới có cấu tạo gồm nhiều nhánh xới ghép lại với nhau theo phương ngang so với phương chuyển động của máy (hình 5.9). Máy gồm có khung chính tựa trên hai bánh xe máy xới 3. Trên khung có lắp các nhánh xới và lắp các bộ phận bón phân (máy xới bón).

74

Hình 5.9: Cấu tạo một nhánh xới 1 - giá đỡ trước; 2 - thanh điều chỉnh; 3 - thanh kéo; 4 - giá đỡ sau; 5 - ngàm; 6 - giá lắp lưỡi sau; 7 - giá lắp lưỡi bên; 8 - lưỡi xới; 9 - thanh ngang; 10 - giá dọc; 11 - bánh lượn; 12 - thanh dưới cơ cấu hình hình hành

Để xới chăm sóc giữa hàng cây, nhánh xới hiện nay dùng phổ biến là nhánh có cơ cấu hình bình hành và bánh xe. Bánh xe được lắp ngay dưới cơ cấu hình hình hành, phía sau là các lưỡi xới lăp với khung máy nhờ các bu lông.

Lưỡi xới có thể tháo rời khỏi khung máy. Tuỳ theo loại đất, thời kỳ xới ta

lắp các lưỡi xới có công dụng khác nhau.

Bộ phận làm việc của máy xới là các lưỡi xới. Có nhiều loại lưỡi xới

khác nhau (hình 5.10).

- Lưỡi nạo một phía: cấu tạo có cánh và má cánh (hình 5.10a). Cánh có tác dụng cắt đất, diệt cỏ dại, còn má để ngăn đất đổ vào cây. Có hai loại lưỡi nạo: nạo trái và nạo phải. Thông số kỹ thuật của lưỡi xới là góc doãng γ, góc nâng α và góc nghiêng β.

- Lưỡi mũi tên phẳng (hình 5.10b) có cấu tạo gần giống lưỡi nạo nhưng

xới được hai phía và khác nhau về giá trị của các góc γ, α, β.

- Lưỡi mũi tên vạn năng (hình 5.10c) có các góc γ, α, β lớn nên tăng khả

năng làm tơi đất khi xới và có độ sâu xới lớn.

- Lưỡi xới mũi đục (hình 5.10d) có bề rộng nhỏ, có độ cong thích hợp để hướng lực tập trung vào một điểm cách mặt đồng 1/3 độ sâu xới do vậy có sức nén công phá làm tơi đất, cải tạo và chăm sóc đồng cỏ, chống xói mòn.

- Lưỡi mũi dao và mũi nhọn (hình 5.10e) cũng có độ cong thích hợp lại có bề rộng lớn hơn nên sức công phá làm tơi khỏe, thường dùng để xới tơi. Lưỡi mũi nhọn lắp rời còn có thể đổi đầu để tăng thời gian sử dụng của lưỡi xới.

- Lưỡi xới vun có diệp và cánh (hình 5.10f): Lưỡi này gồm mũi diệp đi trước làm cỏ, diệp có độ cong thích hợp làm tơi thêm rồi chuyển sang cánh để vun đất vào gốc cây. Ở các công cụ xới, làm cỏ ruộng nước, bộ phận làm việc có dạng răng đinh hoặc dao.

75

Hình 5.10: Một số loại lưỡi xới a - lưỡi nạo một phía; b - lưỡi mũi tên phẳng; c - lưỡi mũi tên vạn năng; d - lưỡi mũi đục; e - lưỡi mũi nhọn; g - lưỡi mũi đao; h - răng làm tơi; i, k - lưỡi vun hai phía; l - lưỡi vun một phía

* Nguyên lý làm việc: Khi làm việc, máy kéo kéo máy xới chuyển động. Các lưỡi xới có tác dụng xới một lớp đất bề mặt cùng cỏ rác và lật về một hoặc hai phía tuỳ theo loại lưỡi xới. Vị trí tương đối của lưỡi so với điểm dưới cùng của bánh xe theo phương thẳng đứng chính là độ sâu xới, độ sâu xới có thể điều chỉnh được bằng cách dịch chuyển lưới xới lên hoặc xuống.

5.3. MÁY PHUN THUỐC BẢO VỆ CÂY TRỒNG 5.3.1. Yêu cầu kỹ thuật Máy phun thuốc trừ sâu cần đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật sau: - Dung dịch thuốc phòng trừ sâu bệnh phải được phun ra có kích thước nhỏ như sương mù hay mưa bụi phủ kín đối tượng phun. Vì, kích thước hạt càng bé càng dễ bám đều lên mặt lá, kẽ lá, bám chắc, đỡ tốn thuốc và đảm bảo an toàn cho cây. Theo tính toán kích thước hạt giảm đi một nửa thì diện tích bao phủ của màng thuốc tăng gấp đôi.

76

- Thuốc phun ra đúng mật độ và liều lượng trong suốt quá trình phun. - An toàn cho người, gia súc và cây trồng. - Chịu sự ăn mòn của hoá chất. - Dễ sử dụng, năng suất máy cao…

5.3.2. Phân loại máy phun thuốc trừ sâu Có thể phân loại máy phun thuốc trừ sâu như sau: a. Phân loại theo nguồn động lực - Máy phun thuốc loại người mang trang bị bơm tay hoặc động cơ. Máy

có cấu trúc đơn giản, dùng ở diện tích nhỏ hẹp, cây cao dưới 3,5m.

- Loại người đẩy hoặc súc vật kéo có động cơ hoặc không có động cơ. Loại này lượng thuốc mang theo nhiều hơn, năng suất phun cao hơn loại người mang. Được sử dụng để phun thuốc cho các vườn cây ăn quả, cây ven đường giao thông:

- Loại máy kéo: có năng suất phun cao chất lượng phun tốt; có hiệu quả kinh tế, kỹ thuật cao; sử dụng ở những vùng sản xuất qui mô lớn, qui hoạch đường sá đồng ruộng tốt.

- Loại máy bay: có năng suất cao, chất lượng phun tốt, có thể phun được ở những nơi không có đường sá, đồi núi hiểm trở, sình lầy… song chi phí rất lớn. Loại này thường được sử dụng trong lâm nghiệp.

b. Phân loại theo nhiệm vụ - Loại phun thuốc vạn năng: dùng phun thuốc cho cây ngoài đồng, trong

vườn và nhiều đối tượng phun khác.

- Loại chuyên dùng: chỉ phun cho một hay một số đối tượng phun mà nếu sử dụng máy phun vạn năng thì không đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, đòi hỏi máy và vòi phun có cấu trúc riêng biệt.

c. Phân loại theo dạng thuốc - Máy phun thuốc nước: thuốc có thể ở dạng khô, ẩm hoặc nước nhưng được pha chế dưới dạng nước để phun. Loại máy phun thuốc nước hiện nay được dùng phổ biến, an toàn cho người và gia súc, tiết kiệm thuốc. Tuy nhiên, loại máy này có nhược điểm là chi phí lớn và hiệu quả diệt sâu bệnh không cao.

Theo nguyên tắc làm việc, máy phun thuốc nước có thể phân loại thành: + Máy phun theo nguyên tắc áp suất + Máy phun theo nguyên tắc thổi - Máy phun thuốc bột: thuốc ở dạng bột khô được phun phủ lên bề mặt đối tượng phun. Loại này có ưu điểm là hiệu quả diệt sâu bệnh cao, song có nhược điểm là tốn thuốc và kém an toàn.

- Máy phun thuốc phối hợp: có thể phối hợp thuốc nước và bột hoặc

phun bột ẩm để phát huy ưu điểm của hình thức phun trên.

77

Ở nước ta hiện nay sử dụng chủ yếu loại máy phun thuốc nước. Dưới

đây trình bày cấu tạo và nguyên tắc làm việc của loại máy này.

5.3.3. Máy phun thuốc nước theo nguyên tắc áp suất Sơ đồ phun thuốc theo nguyên tắc áp suất được biểu diễn như sau:

Vòi phun Ra ngoài Thùng đựng thuốc Bộ phận tạo áp Bộ phận điều hào áp suất

Quạt Dưới đây xét từng bộ phận cụ thể:

a. Thùng chứa và bộ phận khuấy trộn Tuỳ theo dạng máy mà thùng chứa có dung tích và hình dạng khác nhau. Nói chung thùng chứa phải chứa đủ một lượng chất lỏng để phun hết một diện tích nhất định tiện cho việc lấy thuốc bổ sung.

Trước khi đổ vào thùng chứa, thuốc được lọc sạch bụi bẩn để tránh bị tắc khi phun. Thùng thuốc được trang bị bộ phận báo mức thuốc để thuận tiện cho người sử dụng.

Thùng được làm bằng vật liệu bền vững, có khả năng chống ăn mòn hoá

học. Thường được làm bằng thép có sơn chống gỉ hoặc chất dẻo.

Để khuấy đều thuốc và nước trong thùng, đảm bảo nồng độ thuốc đồng đều người ta sử dụng bộ phận khuấy trộn. Bộ phận này có hai loại: cơ học và thuỷ động.

- Bộ phận khuấy trộn cơ học: + Bộ phận khuấy trộn cơ học kiểu chân vịt: kiểu này khi làm việc chân

vịt quay là xáo trộn đều thuốc và nước trong thùng.

+ Bộ phận khuấy trộn kiểu trục: là một trục có hàn các cánh trên đó, khi làm

việc, trục quay làm các cánh quay theo có tác dụng khuấy đều thuốc vào nước.

+ Bộ phận quấy trộn kiểu rung: lợi dụng sức rung của động cơ hay sự đi

lại của người làm xáo động thuốc trong thùng.

- Bộ phận khuấy trộn thuỷ động: dùng một luồng thuốc nước từ bơm

phun ngược về thùng làm xáo động thuốc và nước trong thùng.

b. Bộ phận tạo áp Bộ phận tạo áp tạo cho chất lỏng một áp suất điều hoà nhất định. Bộ

phận này cấu tạo gồm: bơm và bộ phận điều hoà áp suất.

Bơm có nhiệm vụ cung cấp và tạo áp suất cho thuốc nước. Tuỳ theo loại

máy mà người ta trang bị các loại bơm khác nhau.

- Bơm không khí kiểu pít-tông (hình 5.11): Nguyên tắc làm việc: khi kéo pít-tông từ dưới lên trên, không khí từ

ngoài lọt qua giữa phần bao và phần cần pít-tông vào xi-lanh bơm.

78

Hình 5.11: Bơm không khí kiểu pít-tông 1 - đầu van; 2 - lò xo; 3 - van bi; 4 - pít-tông; 5 - phần bao; 6 - phần tựa; 7 - xi-lanh; 8 - cần pít-tông; 9 - vòng đệm; 10 - cần đựng nước Khi ấn cần bít-tông từ trên xuống, phần tựa tỳ vào phần bao làm kín, không cho khí lọt qua khe hở giữa phần bao và cần pít-tông. Pít- tông chuyển động xuống làm thể tích xi-lanh phía dưới pít-tông bị thu nhỏ lại, dẫn đến làm tăng áp suất. Đến một lúc nào đó, áp suất này thắng lực căng của lò xo 2, van 3 được mở ra, không khí từ xi-lanh được đưa vào thùng chứa thuốc. Khi kéo pít-tông lên, dưới tác dụng của lực lò xo 2, van 3 được đóng lại. Quá trình đó diễn ra liên tục sẽ đưa được khí vào thùng tạo ra sức ép đẩy thuốc qua vòi phun ra ngoài. Loại bơm này thường được dùng trong những máy phun thuốc loại người mang.

- Bơm màng (hình 5.12): Nguyên tắc làm việc: khi tay quay quay ở vị trí kéo màng xuống làm thể tích buồng trên màng tăng lên, dẫn đến áp suất trong buồng này giảm xuống sẽ hút van 5 đóng lại và mở van 4 ra. Van 4 mở, cho thuốc từ thùng vào buồng trên màng.

Tay quay 2 tiếp tục quay đến vị trí đẩy màng từ dưới lên trên. Khi đó, thể tích buồng trên màng giảm làm tăng áp suất. Dưới tác dụng của áp suất đó, van 4 được đóng lại, van 5 được mở ra, thuốc từ buồng trên màng được đẩy qua van 5 vào bình ổn áp 6 và qua ống dẫn 7 đến vòi phun.

Loại bơm màng đơn giản về cấu trúc, sử dụng tiện lợi thường được sử

dụng trong loại người mang.

- Bơm pít-tông: Bơm pít-tông là loại được dùng phổ biến trong các loại máy phun thuốc lắp trên máy kéo. Có các loại bơm pít-tông: bơm pít-tông tác động một chiều, bơm pít-tông tác động hai chiều; bơm vi sai, bơm 3 pít-tông.

Nguyên lý làm việc của loại bơm pít-tông sử dụng trong máy phun thuốc hoàn toàn giống nguyên lý làm việc của bơm pít-tông sử dụng để bơm nước. Vì vậy, nguyên lý làm việc của loại bơm này sẽ được trình bày trong phần máy bơm nước.

Hình 5.12: Bơm màng 1 - màng; 2 - tay quay; 3 - buồng; 4 - van nạp; 5 - van triệt hồi; 6 - bình ổn áp; 7 - ống dẫn

79

c. Bộ phận điều hoà áp suất Bộ phận điều hoà áp suất có nhiệm vụ ổn định và điều chỉnh áp suất

thuốc, đảm bảo chất lượng thuốc phun ra theo từng đối tượng cụ thể.

Về thùng

Đi phun

Bơm đến

Bộ phận điều hoà áp suất cấu tạo gồm: bình ổn áp, van điều chỉnh, van an toàn và áp kế (hình 5.13).

Hình 5.13: Sơ đồ bộ phận điều hoà áp suất 1 - van an toàn; 2 - van điều chỉnh; 3 - bình ổn áp; 4 - áp kế Bình ổn áp là bình thép dày, chịu được áp suất cao hơn mức của van an toàn, phần trên bịt kín, phần dưới có ống dẫn thuốc vào và ra. Trong bình có chứa không khí ở phần trên và nước ở phần dưới, lượng nước bằng ½ thể tích bình. Khi bơm thuốc vào bình, không khí nén lại tạo cho thuốc khi ra khỏi bình tới vòi phun có áp suất ổn định.

Van điều chỉnh có tác dụng điều chỉnh áp suất thuốc phun ra cho phù hợp với từng loại cây trồng. Nhờ vít điều chỉnh ta có thể thay đổi độ nén của lò xo lên van. Khi áp suất thuốc ra vòi phun lớn hơn áp suất của lò xo, van sẽ mở và một phần thuốc sẽ quay trở lại thùng đựng thuốc, đảm bảo áp suất thuốc phun ra đúng yêu cầu.

Van an toàn có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho ống dẫn theo dồn nén của lò xo này. Vì một nguyên nhân nào đó, áp suất thuốc trong ống dẫn vượt quá áp suất an toàn của ống dẫn, van này sẽ mở và một phần thuốc sẽ quay trở về thùng đựng. Ống dẫn thuốc có nhiệm vụ dẫn thuốc từ bơm tới vòi phun. Yêu cầu đối với ống dẫn thuốc là phải chịu được áp suất cao, chịu được ăn mòn hoá học, mềm để có thể hướng vòi phun thay đổi linh hoạt.

5.3.4. Máy phun thuốc nước theo nguyên tắc thổi Sơ đồ phun thuốc theo nguyên tắc thổi được biểu diễn như sau:

Ống dẫn Vòi phun Ra ngoài Thùng đựng thuốc Bơm áp thấp

Quạt

Máy phun thuốc theo nguyên tắc thổi có sơ đồ cấu tạo như hình 5.14: Thùng đựng thường được làm bằng thép có sơn chống gỉ hoặc bằng nhựa. Tại chỗ đổ thuốc vào bình có lưới lọc để lọc sạch tạp chất. Đáy thùng có khoá K1 ra vòi phun, khi không phun thì khoá lại.

Trên thùng có lỗ dẫn khí từ quạt thổi về thùng để áp suất trong thùng cân bằng với cửa thổi của quạt tạo điều kiện cho thuốc chẩy qua vòi phun một cách

80

dễ dàng, đều đặn. Quạt gió 6 làm việc nhờ động cơ, quạt có cửa hút ở tâm quạt, cửa thổi tiếp tuyến với thân quạt và được nối với ống dẫn khí mềm. Phía cuối cửa thổi của quạt có một đường dẫn khí về thùng và một đường dẫn thuốc từ thùng đến vòi phun. Đầu dưới ống dẫn thuốc được cắt vát về phía cửa thoáng gió để gió không thổi thuốc ngược lại. Lượng thuốc phun được điều chỉnh bằng cách thay đổi độ mở của khoá K2 hoặc thay đổi tốc độ di chuyển máy.

Nguyên tắc làm việc: để phun thuốc ta cho động cơ làm việc làm quay quạt gió, luồng gió do quạt thổi ra được dẫn đến cửa ra của máy nhờ các ống dẫn khí. Mở khóa K1 và K2, thuốc sẽ tự chẩy xuống vòi 4, dưới tác dụng của luồng gió tại đây, thuốc nước được đánh tơi thành sương mù (hạt nhỏ), ra ngoài, phủ lên đối tượng phun.

Hình 5.14: Sơ đồ cấu tạo máy phun thuốc theo nguyênt tắc thổi 1 - bình thuốc; 2 - lưới lọc; 3 - ống cân bằng; 4 - vòi; 5 - ống dẫn khí; 6 - quạt Máy phun thuốc theo nguyên tắc thổi có ưu điểm là cấu trúc đơn giản, các chi tiết máy không chịu áp lực lớn, vòi phun chỉ là ống dẫn thuốc đơn giản nên ít bị tắc, kệt, máy không cần dùng đến bình lọc tinh.

Nhược điểm của loại máy này là: máy đòi hỏi phải có động cơ nên giá thành đắt. Vòi phun của máy không linh động (hướng của vòi phun so với máy không thay đổi được) nên khi phun các cây chuyên dùng gặp nhiều khó khăn.

Để khắc phục nhược điểm và phát huy ưu điểm của hai loại máy phun thuốc trên, ngày nay, người ta đã tạo ra được loại máy phun phối hợp nguyên tắc áp suất và nguyên tắc thổi.

5.3.5. Một số lưu ý khi sử dụng máy phun thuốc Trong thực tế ứng dụng biện pháp hoá học để bảo vệ cây trồng, có nhiều trường hợp bị nhiễm độc với những mức độ khác nhau. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tai nạn đó là do sự thiếu hiểu biết về kỹ thuật dùng thuốc và phương pháp phun thuốc của người sử dụng.

Máy phun thuốc trừ sâu là công cụ có cấu tạo khá phức tạp, lại làm việc với hoá chất độc hại nên đòi hỏi người sử dụng máy phải hiểu rõ cấu tạo; nguyên lý làm việc; kỹ thuật chăm sóc, sử dụng và sửa chữa máy phun thuốc.

Ngoài ra, cần đặc biệt lưu ý một số vấn đề về quy tắc sử dụng thuốc sau: - Phải nắm vững nguyên tắc sử dụng thuốc 4 đúng do Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn hướng dẫn:

Dùng đúng thuốc Dùng thuốc đúng lúc

81

Dùng đúng liều lượng, nồng độ Dùng thuốc đúng cách (theo Pháp lệnh bảo vệ thực vật) - Phải nắm vững phương pháp sử dụng công cụ và máy phun thuốc: Các công cụ, máy phun thuốc và các dụng cụ dùng pha chế, đong, đo thuốc phải luôn trong tình trạng sẵn sàng làm việc. Sau mỗi lần phun phải khắc phục ngay những sai lệch kỹ thuật, sửa chữa ngay những hư hỏng đã phát hiện và lau chùi bảo quản máy phun thuốc.

Thường xuyên kiểm tra chất lượng phun thuốc bằng cách đảm bảo đúng chế độ áp suất làm việc của dung dịch (đối với bơm người mang) và đúng số vòng quay của quạt gió (đối với bơm động cơ). Thông qua kiểm tra bằng mắt thường kích thước hạt thuốc và tốc độ bay của hạt thuốc ra khỏi vòi phun.

Thực hiện đúng phương pháp phun thuốc trên đồng: quá trình phun thuốc được thực hiện theo chiều ngược hướng gió, nhưng người tham gia phải đứng ở đầu gió, tránh không cho thuốc phun ra bị gió thổi bay vào người; vỏ chứa thuốc không được vứt bừa bãi mà phải được thu gom vào đúng nơi qui định; không vệ sinh bình phun và các dụng cụ ở nơi đầu nguồn nước...

5.4. MÁY BƠM NƯỚC Trong sản xuất nông nghiệp, máy bơm nước được sử dụng phổ biến để phục vụ tưới, tiêu nước. Công nghệ sản xuất máy bơm hiện nay đã tạo ra được nhiều loại bơm có nguyên tắc làm việc khác nhau. Tuy nhiên, phổ biến hơn cả là các loại bơm pít-tông và bơm ly tâm.

5.4.1. Máy bơm kiểu Pít-tông a. Bơm pít-tông tác dụng một chiều Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm pít-tông tác dụng một chiều như

trên hình 5.15:

q 4

max

q

tb

3 2 1

q

2π φ π

Hình 5.15: Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm pít-tông tác dụng một chiều 1 - pít-tông; 2 - xi-lanh; 3 - van hút; 4 - van đẩy A - buồng áp thấp; B - buồng trung gian; C - buồng cao áp

Khi cơ cấu biên - tay quay hoạt động, pít-tông chuyển dịch từ trái qua phải, thể tích buồng trung gian B tăng làm áp suất trong đó giảm tạo ra lực hút. Dưới tác dụng của lực hút đó van 3 mở, nước được hút vào trong xi-lanh. Khi pít-tông dịch chuyển từ phải qua trái van 3 đóng lại, đồng thời dưới áp lực của nước van 4 mở ra cho nước đi qua đến ống đẩy. Sau đó pít-tông lai chuyển dịch

82

từ phải qua trái, qua trình lại diễn ra tương tự. Cứ như vậy nước được đưa từ dưới lên trên, tạo ra sự làm việc của bơm.

b. Bơm pít-tông tác dụng hai chiều Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm pít-tông tác dụng một chiều như

trên hình 5.16:

4 4* q

max

q

tb

q 3* 3 2 1 π 0 2π φ

Hình 5.16: Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm pít-tông tác dụng một chiều 1 - pít-tông; 2 - xi-lanh; 3 - van hút; 4 - van đẩy A - buồng áp thấp; B - buồng trung gian; C - buồng cao áp

Khi pít-tông đi từ trái qua phải, van 3 và van 4 * mở, van 4 và van 3* đóng, nước từ khoang A qua cửa nạp 3 vào khoang xi-lanh bên trái B1, đồng thời nước từ khoang xi-lanh bên phải B2 qua van 4* đến cửa ra.

Khi pít-tông chuyển dịch từ phải qua trái, van 4 và van 3* mở, van 3 và van 4* đóng nước từ khoang A qua cửa nạp 3* vào khoang xi-lanh bên phải B2, đồng thời nước từ khoang xi-lanh bên trái B1 qua van 4 đến cửa ra.

Như vậy, khi pít-tông chuyển động từ phải qua trái và khi pít-tông chuyển động từ trái qua phải nước đều được đẩy lên cửa ra, do đó được goi là bơm tác động hai chiều. Bơm tác động hai chiều cho ta lưu lượng lớn và ổn định hơn bơm tác động một chiều.

5.4.2. Máy bơm kiểu ly tâm a. Bơm ly tâm tiếp tuyến Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm ly tâm tiếp tuyến như trên hình 5.17: Bộ phận làm việc là bánh công tác 2, bao gồm các cánh nằm kẹp giữa hai đĩa lắp cứng trên trục quay và được đặt trong buồng xoắn của thân 3. Thân 3 có cửa nạp nối với ống hút 4 và cửa ra nôi với ống đẩy 8. Đầu dưới của ống hút có van 1 chiều 5 và lưới chắn rác 6. Phía trên thân bơm có vòi mồi nước 1. Khe hở giữa bánh công tác và thân bơm được làm kín sát, không cho nước và không khí lọt qua.

Trước khi làm việc bánh công tác phải ngập trong nước, nếu không phải mồi nước qua vòi 1 hoặc qua ống đẩy 8. Khi làm việc, bánh công tác quay kéo theo nước quay. Dưới tác dụng của lực ly tâm, nước văng ra cửa 7 với tốc độ cao. Cửa 7 có hình phễu, tại đây, động năng của các phần tử nước sẽ tạo lên lực đẩy đưa nước theo ống 8 lên cao. Đồng thời với quá trình đẩy, vùng tâm bánh công tác phát sinh chân không, làm cho nước được hút qua lưới chắn rác qua van 1 chiều và theo ống hút vào thân bơm. Quá trình hút và đẩy diễn ra đồng thời và liên tục tạo ra dòng chảy từ dưới lên trên.

83

Hình 5.17: Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm ly tâm tiếp tuyến 1 - vòi mồi nước; 2 - bánh công tác; 3 - thân bơm; 4 - ống hút; 5 - van một chiều; 6 - lưới; 7 - cửa ra; 8 - ống đẩy

Bơm ly tâm tiếp tuyến có khả năng đưa nước lên độ cao lớn nhưng lưu

lượng nhỏ.

b. Bơm ly tâm hướng trục Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm ly tâm hướng trục như trên hình 5.18: Bộ phận làm việc là bánh công tác 2, lắp trên trục 5 và nằm trong ống trụ. Bánh công tác có một số cánh xoắn. Khi làm việc, bánh công tác được đặt trong nước, động cơ kéo bánh công tác quay, cánh xoắn đẩy nước lên theo

6

5

4

chiều dọc trục. Các cánh nắn dòng 3 có tác dụng giảm độ xoáy của nước, làm cho dòng chảy thẳng hơn, nhờ đó giảm được tổn thất áp suất và tăng lưu lượng bơm. Đồng thời với việc đẩy nước lên, buồng làm việc của bánh công tác phát sinh chân không, nước sẽ được hút từ ngoài vào buồng qua lưới chắn rác 1. Quá trình hút và đẩy diễn ra đồng thời và liên tục tạo ra dòng chảy từ dưới lên trên. 3

2

1

Khe hở giữa vành ngoài của bánh công tác với mặt trụ trong của buồng làm việc phải nhỏ để đảm bảo lưu lượng và chiều cao đẩy cần thiết. Vì bánh công tác luôn ngập trong nguồn nước nên bơm ty tâm hướng trục không phải mồi khi vận hành.

Bơm ly tâm hướng trục có khả năng cho lưu lượng lớn nhưng độ cao đưa nước lên không lớn. Hình 5.18: Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm ly tâm hướng trục 1 - lưới; 2 - bánh công tác; 3 - cánh nắn; 4 - ống đẩy (thân bơm); 5 - trục; 6 - pu-li

84

5.5. MÁY PHÁT THỰC BÌ 5.5.1. Nhiệm vụ và phân loại * Nhiệm vụ: Máy phát có nhiệm vụ cắt lớp thực bì tạo môi trường thuận lợi cho cây

trồng phát triển hoặc để khai hoang đất.

Hình 5.19: Máy phát thực bì loại cầm tay 1 - Động cơ; 2 - Côn; 3 - Tay cầm điều khiển; 4 - Trục truyền; 5 - Hộp giảm tốc; 6 - Lưỡi cắt

* Phân loại: - Theo nguồn động lực di chuyển máy, ta có: + Máy phát thực bì cầm tay + Máy phát thực bì lắp trên máy kéo + Máy phát thực bì tự hành - Theo chuyển động của bộ phận làm việc, ta có: + Máy phát thực bì có bộ phận làm việc chuyển động quay + Máy phát thực bì có bộ phận làm việc chuyển động quay. 5.5.2. Cấu tạo và nguyên tắc làm việc của máy phát thực bì loại cầm tay a. Cấu tạo Máy phực bì loại cầm tay có cấu tạo như hình 5.19, gồm các bộ phận chính:

- Động cơ: là loại động cơ xăng 2 kỳ - Côn: là côn ly tâm - Trục truyền: là một trục sắt dài, được đặt trong một ống dài và cứng. - Hộp giảm tốc: là hộp giảm tốc kiểu bánh răng côn. Hai trục của hộp giảm tốc được bố trí lệch nhau một góc sao cho khi máy đeo lên người thì lưỡi phát có hướng song song với mặt đất.

- Lưỡi cắt: là bộ phận làm việc của máy, gồm nhiều loại: + Lưỡi phát dạng bản + Lưỡi phát 4 cánh + Lưỡi phát dạng răng cưa + Lưỡi phát dạng dây

85

b. Nguyên tắc làm việc Khi làm việc, động cơ hoạt động, chuyển động quay của trục khửu động cơ được truyền qua côn, trục truyền, rồi đến hộp giảm tốc. Lưỡi phát được lắp trên trục ra (trục bị động) của hộp giảm tốc nên sẽ quay và thực hiện cắt thực bì.

5.5.3. Một số lưu ý khi sử dụng máy phát thực bì loại người mang - Làm tốt công tác chuẩn bị hiện trường làm việc: trước khi phát phải đi kiểm tra nhằm phát hiện và loại bỏ hoặc đánh dấu các vật cản bất ngờ như đá, mô đất, gốc cây….

- Trước khi khởi động máy phải kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng kỹ thuật của

máy, đặc biệt phải siết chặt ốc giữ lưỡi phát (lưu ý, đây là ốc ren trái).

- Khi cho máy phát làm việc, tuyệt đối không cho người đi phía trước và

ngang với lưỡi phát.

- Trong quá trình làm việc, người sử dụng phải chú ý quan sát, phát hiện những vật cản bất ngờ để tránh, đồng thời không cho máy làm tổn thương cây trồng, không cho lưỡi phát sát mặt đất và không phát những loại thực bì có thân quá cứng.

Câu hỏi ôn tập: 1. Cho biết các hình thức bón phân và yêu cầu kỹ thuật đối với máy bón phân. 2. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của máy trộn phân hữu cơ. 3. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của máy tung phân hữu cơ. 4. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của bộ phận bón phân vô cơ loại

trục tung.

4. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của bộ phận bón phân vô cơ loại đĩa

đĩa tung.

6. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của máy xới. 7. Trình bày sơ đồ cấu tạo của máy phun thuốc theo nguyên tắc áp suất.

Cấu tạo hoạt động của bộ phận tạo áp kiểu pít-tông và kiểu màng.

8. Trình bày sơ đồ cấu tạo và hoạt động của máy phun thuốc theo nguyên

tắc thổi.

9. Cho biết những lưu ý trong quá trình sử dụng máy phun thuốc trừ sâu. 10. Trình bày cấu tạo và hoạt động của máy bơm nước pít-tông. 11. Trình bày cấu tạo và hoạt động của máy bơm nước ly tâm kiểu

tiếp tuyến.

12. Trình bày cấu tạo và hoạt động của máy bơm nước ly tâm kiểu

hướng trục.

86

CHƯƠNG VI: MÁY THU HOẠCH NÔNG NGHIỆP

6.1. MÁY GẶT LÚA 6.1.1. Yêu cầu đối với máy thu hoạch - Bộ phận cắt phải đảm bảo cắt không sót cây, không gây hao phí hạt (như cắt vào bông lúa, rơi vãi bông lúa hoặc làm rụng hạt), tổng hao phí không được vượt quá 2%.

- Có khả năng thay đổi chiều cao cắt dễ dàng. - Guồng gặt có thể điều chỉnh được vị trí và tốc độ quay một cách dễ dàng - Ở máy gặt bó, kích thước của bó lúa phải theo một quy cách nhất định.

Lúa hất xuống ruộng phải tập trung lại thành từng đống.

- Ở máy gặt hàng lúa phải được xếp thành dải liên tục, bông lúa không

tiếp xúc với đất.

- Các bộ phận làm việc vững chắc, an toàn. Trang bị của máy tiện lợi cho

người sử dụng.

6.1.2. Phân loại máy gặt Máy gặt được phân loại theo hai cách: * Theo nhiệm vụ hoàn thành công việc và phương pháp thu hoạch gồm có: - Máy gặt người cào đống - Máy gặt tự cào đống - Máy gặt bó - Máy gặt xếp dải * Theo phương pháp liên kết với máy kéo gồm có: - Máy gặt loại treo - Máy gặt loại móc

6.1.3. Cấu tạo chung và nguyên tắc làm việc Sơ đồ cấu tạo chung của máy gặt lúa có dạng sau:

Hình 6.1: Sơ đồ cấu tạo chung của máy gặt 1 - bộ phận cắt; 2 - guồng gặt; 3 - băng truyền lúa; 4 - thanh cân bằng; 5 - thanh giằng; 6 - hộp biến tốc; 7 - giá đỡ; 8 - hộp biến tốc của giá đỡ; 9 - bảng hứng; 10 - kích đỡ; 11 - trục truyền dẫn; 12 - thanh nâng

87

Về cấu tạo, máy gặt bao gồm các bộ phận chính là: guồng gặt, bộ phận cắt, bộ phận chuyển lúa, các bộ phận phụ trợ khác. Các bộ phận đó được lắp ghép với nhau trên khung máy và chuyển động trên các bánh của máy. Khi liên kết với máy kéo, máy gặt được bố trí lệch sơ với máy kéo để máy kéo không đi đè lên lúa trong quá trình gặt. Do máy gặt lắp lệch so với máy kéo nên trong quá trình chuyển động máy gặt bị mất cân bằng, để khắc phục người ta có bố trí bộ phận cân bằng.

Nguyên tắc hoạt động: Máy kéo kéo máy gặt chuyển động tiến vào ruộng lúa, bộ phận rẽ gạt lúa để máy gặt lúa được gọn gàng, không rơi vãi. Guồng gạt quay, cánh gạt sẽ gạt lúa cung cấp cho bộ phận cắt, bộ phận cắt thực hiện việc cắt lúa. Guồng gạt tiếp tục quay, cánh gạt gạt lúa đổ lên băng truyền lúa. Đồng thời lúc này cánh gạt tiếp theo của guồng sẽ gạt lúa đứng vào cho bộ phận cắt. Quá trình đó diễn ra liên tục cho đến khi bảng hứng đầy lúa, máy kéo dừng lại, đổ lúa rồi lại tiếp tục một tuần tự như trên.

6.1.4. Các bộ phận chính của máy gặt a. Guồng gạt lúa Nhiệm vụ của guồng là gạt lúa vào cho bộ phận cắt, giữ lúa để dao cắt và

hất lúa đã cắt lên bộ phận chuyển lúa.

Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, guồng gặt có các cấu trúc như sau: - Guồng gặt thông thường (hình 6.2): Các cánh gạt lắp cố định trên các tia guồng gạt không thay đổi độ nghiêng. Loại guồng gặt này thường lắp trên các máy để thu hoạch lúa có cây đứng hoặc có độ nghiêng cây không đáng kể.

Hình 6.2: Guồng gặt thông thường

- Guồng gặt sai tâm ( hình 6.3): Guồng gặt sai tâm khác với guồng gặt thông thường ở chỗ có thể thay đổi được độ nghiêng của cánh gạt so với phương thẳng đứng, đồng thời ở mọi vị trí các cánh gạt luôn song song với nhau phụ thuộc vào trạng thái của cây lúa. Cấu trúc như thế sẽ thuận lợi khi gặt lúa đổ. Để thực hiện đặc điểm kể trên, guồng gặt sai tâm có thêm một khung phụ đặt lệch tâm so với trục guồng gặt một đoạn đúng bằng độ dài tay quay liên kết khung chính với khung phụ. Cấu trúc này tạo thành cơ cấu hình bình hành (hai cặp cạnh song song là tia khung

88

chính - tia khung phụ và tay quay nối khung chính với khung phụ - khoảng lệch tâm giữa hai khung.

Đối với khung phụ, tay quay lắp tự do nhưng lại liên kết cứng với trục của cánh gạt. Với cấu trúc như thế khi xô lệch cơ cấu hình bình hành sẽ làm cho toàn bộ các cánh gạt xoay đi một góc nào đó. Vị trí đó sẽ không đổi trong quá trình nếu ta giữ cố định vị trí khung con lăn đỡ khung phụ.

Hình 6.3: Guồng gặt sai tâm 1 - khung chính; 2 - thanh lắp cánh gạt (tia guồng); 3 - khung phụ; 4 - con lăn đỡ khung phụ

- Guồng gặt có cấu tạo đặc biệt Tuỳ theo yêu cầu công việc, đòi hỏi phải tạo nên một kiểu guồng gặt đặc biệt có góc nghiêng của cánh gạt tuân theo một qui định đã định trước. Về cấu tạo bên ngoài cũng gần giống như guồng gặt thông thường, nhưng ở một phía của guồng gặt được trang bị một đường lăn cố định. Con lăn trên tay quay của thanh lắp cánh gạt chuyển động trên đường lăn đó. Như vậy, ở vị trí khác nhau cánh gạt có độ nghiêng khác nhau.

b. Bộ phận cắt Có nhiều kiểu bộ phận cắt khác nhau, tuy nhiên hiện nay người ta thường

sử dụng một số kiểu sau đây:

Hình 6.4: Bộ phận cắt kiểu hai dao chuyển động tịnh tiến khứ hồi

Bộ phận cắt có dao chuyển động về một phía (kiểu xích – dao): Các lưỡi cắt được lắp trên xích ống bạc con lăn. Khi làm việc, nhánh lắp dao trên và nhánh lắp dao dưới chuyển động ngược chiều nhau thực hiện việc cắt lúa (tương tự bộ phận cắt kiểu hai dao).

Bộ phận cắt kiểu hai dao chuyển động tịnh tiến khứ hồi: Bộ phận cắt kiểu này có hai loại: loại một dao chuyển động - một dao cố định và loại hai dao chuyển động ngược chiều nhau. Trên dao của bộ phận cắt kiểu này có các răng cắt có dạng tam giác cân, các răng được mài sắc ở hai cạnh (hình 6.4). Nguyên lý cắt của bộ phận cắt kiểu này rất đơn giản: Khi lúa được cánh gặt gạt vào khe hở giữa hai dao, hai dao sẽ cắt lúa theo nguyên lý tông-đơ.

89

Hình 6.5: Bộ phận cắt có dao quay trong mặt phẳng nằm ngang Bộ phận cắt có dao quay trong mặt phẳng nằm ngang: Bộ phận cắt kiểu này có thể là một đĩa tròn hay đĩa vuông, trên chu vi của nó lắp một số lưỡi cắt. Đĩa và lưỡi cắt cùng nằm chung trong mặt phẳng nằm ngang và quay với tốc độ khá lớn đủ để cắt cây. Số lượng lưỡi cắt trên lưỡi tính toán trên cơ sở đảm bảo quá trình cắt không gây ra hiện tượng uốn cây.

c. Bộ phận dẫn động cho dao

Hình 6.6: Bộ phận dẫn động cho dao

Để tạo nên chuyển động tịnh tiến qua lại của dao, thường người ta dùng cơ cấu biên – tay quay, hình 6.6. Khi tay biên quay, thông qua thanh truyền sẽ làm cho bộ phận gắn lưỡi dao chuyển động tịnh tiến. Lưỡi dao lắp trên đó vì thế cũng chuyển động tịnh tiến theo.

d. Bộ phận chuyển lúa Nhiệm vụ của bộ phận chuyển lúa là chuyển khối lúa đã được cắt tới bàn

bó (máy gặt bó) hoặc xếp thành dải lúa trên ruộng (máy xếp dải).

Cấu tạo chung của bộ phận chuyển lúa gồm: hai dải xích hoặc đai phẳng có lắp các thanh ngang bằng gỗ, phía dưới lót bằng vải tẩm cao su nên lúa không bị lọt xuống khoảng giữa hai nhánh băng truyền. Trong điều kiện thu hoạch lúa ẩm thì băng truyền kiểu xích làm việc vững chắc hơn băng truyền kiểu đai phẳng.

Hình 6.7: Băng truyền chuyển lúa của máy gặt

e. Bộ phận rẽ lúa Bộ phận rẽ cây đặt ở hai đầu bộ phận cắt, có nhiệm vụ tách khối lúa đã bị cắt ra khỏi khối cây chưa cắt, đồng thời hướng cây vào bộ phận cắt. Bộ phận rẽ bên đồng chưa gặt gọi là bộ phận rẽ bên trong; bộ phận rẽ bên đồng đã gặt gọi

90

là bộ phận rẽ ngoài. Đối với máy gặt lúa loại treo hoặc loại tự chạy có phần gặt đặt trước, thường bộ phận rẽ lúa hai bên giống nhau. Đối với máy gặt loại móc có phần gặt đặt bên, bộ phận rẽ hai bên khác nhau; thông thường bộ phận rẽ trong có kích thước lớn hơn bộ phận rẽ ngoài.

Hình 6.8: Một số bộ phận rẽ lúa

6.2. MÁY THU HOẠCH NGÔ 6.2.1. Cấu tạo chung và nguyên lý làm việc của máy thu hoạch ngô Máy thu hoạch ngô có cấu tạo chung gồm các bộ phận làm việc chính sau: bộ phận cắt, bộ phận gạt và cung cấp cây, bộ phận tách bắp, bộ phận làm sạch, bộ phận thái. Tùy theo từng loại máy mà số bộ phận làm việc có thể đầy đủ như trên hoặc thiếu một vài bộ phận. Sơ đồ cấu tạo chung của máy thu hoạch ngô như sau:

Hình 6.9: Sơ đồ cấu tạo chung của máy thu hoạch ngô 1 - buồng lái; 2 - động cơ; 3 - bánh lái; 4 - biến tốc; 5 - tiếp nhận; 6 - trục cuốn; 7 - điều khiển trống; 8 - trống - máng; 9 - quạt; 10 - làm sạch; 11 - tiếp nhận hạt; 12 - dây truyền hạt; 13 - thùng chứa; 14 - vít xả; 15 - bộ nhận tẽ; 16 - băng gạt; 17 - băng tiếp nhận

6.2.2. Các bộ phận chính của máy thu hoạch ngô a. Bộ phận cắt Bộ phận cắt của máy thu hoạch ngô có thể chia thành hai nhóm: nhóm bộ phận cắt có đế tựa và nhóm bộ phận cắt không có đế tựa. Trong thực tế người ta phân loại thành: bộ phận cắt loại chuyển động tịnh tiến và bộ phận cắt loại chuyển động quay.

- Bộ phận cắt loại chuyển động tịnh tiến (hình 6.10) thuộc nhóm bộ phận cắt có đế tựa. Cấu tạo bộ phận cắt loại này gồm có sống dao 1, trên đó có lắp các

91

Hình 6.10: Bộ phận cắt loại chuyển động tịnh tiến của máy thu hoạch ngô 1 - sống dao; 2 – giá đỡ bộ phận cắt; 3 - tấm đỡ; 4 - tấm kê bên trái; 5 - lưỡi cắt; 6 - tấm kê bên trái; 7 - tấm ép; 8 - móc giữ; 9,12,18 - đệm; 10 - tấm tựa sống dao; 11 - tấm ép giữa; 13 - thanh tựa; 14 - thanh ép; 15 - đầu dao; 16 - gót dao; 17 - tấm đệm; 19 - khung bộ phận cắt; 20 - tấm đỡ dao; 21 - cơ cấu biên - tay quay; 22 - biên

lưỡi cắt 5. Các tấm kê 4, 6 lắp trên giá đỡ 2. Nhờ có tấm ép 7 dao được ép vào tấm kê. Khi làm việc, dao chuyển động tịnh tiến qua lai và cắt cây đi vào khoảng giữa lưỡi cắt và tấm kê.

- Bộ phận cắt loại quay gồm hai kiểu: kiểu có trục quay đứng và kiểu có

Hình 6.11: Bộ phận cắt có trục quay thẳng đứng

Hình 6.12: Bộ phận cắt có trục quay nằm ngang

trục quay nằm ngang.

- Bộ phận cắt loại quay kiểu trục quay đứng có dạng lưỡi cắt quay trong mặt phẳng nằm ngang. Trên các máy thu hoạch ngô thường dùng loại lắp các lưỡi cắt (hình 6.11) và loại đĩa tròn có mài sắc cạnh (hình 6.12).

- Bộ phận cắt loại quay kiểu trục nằm ngang (dùng cho máy thu hoạch làm thức ăn gia súc) có nhiệm vụ cắt cây, đồng thời thực hiện thái nhỏ cây (hình 6.12).

92

b. Bộ phận gạt và cung cấp cây Cấu trúc bộ phận gạt và cung cấp cây phụ thuộc vào sự bố trí của máy, vị

trí và các thông số của bộ phận phụ trợ.

- Bộ phận gạt cây dùng để gạt các cây không đúng hàng hoặc nâng các

cây ngả vào bộ phận cắt hoặc bộ phận tách bắp, hình 6.13 và 6.14.

Đối với máy thu hoạch ngô theo hàng bộ phận gạt thường là hai xích có lắp các tay gạt nghiêng đi một góc nào đó so với hướng chuyển động của máy. Đối với máy thu hoạch ngô trên toàn bề mặt thì guồng gạt đóng vai trò bộ phận gạt. Cấu trúc guồng gạt tương tự guồng gạt máy thu hoạch lúa nhưng có kích thước lớn hơn.

Hình 6.13: Bộ phận gạt và cung cấp cây của máy thu hoạch ngô trên toàn bộ bề mặt 1 - cây; 2 - guồng gạt (bộ phận gạt); 3 - trục cuốn tiếp nhận; 4 - trục tách bắp; 5 - trục giữ; 6 - băng chuyền cung cấp

Hình 6.14: Bộ phận gạt và cung cấp cây của máy thu hoạch theo hàng a - nhiều dãy xích có tay gạt; b - một dãy xích không có tay gạt

- Bộ phận cung cấp cây có nhiệm vụ tiếp nhận cây ngô đã bị cắt cung cấp cho bộ phận tách bắp (có một số máy bộ phận cung cấp tiếp nhận cây ngô chưa cắt). Căn cứ vào phương pháp cung cấp và cấu tạo của bộ phận này, máy thu hoạch ngô chia làm hai loại: Máy thu hoạch ngô trên toàn bề mặt và máy thu hoạch ngô theo hàng.

Đối với máy thu hoạch ngô trên toàn bề mặt bộ phận cung cấp là một

băng chuyền xích chuyển động trên mặt phẳng nghiêng (hình 6.13).

Đối với máy thu hoạch ngô cắt theo hàng, bộ phận cung cấp thường là các cặp xích ống bạc con lăn, có hai nhánh làm việc ép sát vào nhau nhờ lực ép của lò xo. Các cặp xích nằm trong mặt phẳng thẳng đứng. Số cặp xích cung cấp bằng số hàng cần thu hoạch.

93

c. Bộ phận tách bắp Bộ phận tách bắp có hai loại: loại tách bắp mà thân cây không bị cắt (bộ phận tách bắp kiểu trục cuốn) và loại tách bắp khi cây ngô đã bị cắt (loại máy liên hợp).

Bộ phận tách bắp loại máy liên hợp được phân loại như sau: - Căn cứ vào vị trí trục tách bắp ta có: Bộ phận tách bắp có trục đặt dọc Bộ phận tách bắp có trục nằm ngang Bộ phận tách bắp có trục đặt đứng

- Căn cứ vào phương pháp cung cấp cây cho bộ phận tách bắp, ta có:

Bộ phận tách bắp có cây cung cấp tự do Bộ phận tách bắp có cây cung cấp tự do hạn chế Bộ phận tách bắp có cây cung cấp cưỡng chế - Căn cứ vào quá trình hình thành công việc, ta có:

Bộ phận tách bắp kéo cây qua khe hở đồng thời với việc tách bắp Bộ phận tách bắp kéo cây qua khe hở và tách bắp không đồng thời Bộ phận tách bắp là bộ phận quan trọng nhất của máy thu hoạch ngô. Cấu tạo chung gồm hai trục hình trục đặt cách nhau một khe hở nhỏ hơn đường kính thân cây ngô và quay theo chiều gặp nhau. Trục tách bắp ép cây ngô nhờ lực ma sát và lực rút cây, cây bị kéo qua khe hở giữa hai trục. Bắp ngô có kích thước lớn hơn khe hở nhiều lần nên không lọt qua đó mà được tách ra khỏi cây.

Hình 6.15 - bộ phận tách bắp kiểu trục cuốn 1 - phần côn của trục; 2 - giá đỡ di động; 3 - bánh xe; 4 - phần làm việc; 5 - giá đỡ cố định

Hình 6.16: Bộ phận tách bắp kiểu trục dọc, cây cung cấp tự do hạn chế 1 - bộ phận cắt; 2 - thanh ép cây; 3 - tấm đo; 4 - trục tách bắp; 5,6,7 - xích cung cấp

Dưới đây là một số bộ phận tách bắp trên máy thu hoạch ngô:

94

Hình 6.17: Bộ phận tách bắp có trục đặt ngang, cây cung cấp tự do 1 - băng chuyền cung cấp; 2,3 - trục cuốn tiếp nhận; 4 - trục tách bắp; 5 - cây ngô; 6 - bắp ngô

Hình 6.18: Bộ phận tách bắp có trục thẳng đứng, cây cung cấp cưỡng bức 1 - thanh ép; 2 - nhánh xích cung cấp; 3 - trục tách bắp; 4 - đĩa xích

d. Bộ phận làm sạch bắp Nhiệm vụ của bộ phận làm sạch bắp là làm sạch hoàn toàn vỏ áo, râu của bắp ngô và các tạp chất khác. Bộ phận làm sạch bắp thường bao gồm cơ cấu làm sạch, cơ cấu ép và cơ cấu phân phối, hình 6.19.

Cơ cấu làm sạch có dạng hình trụ, thường bố trí từng đôi một và thường đặt nghiêng so với mặt phẳng nằm ngang. Trục đặt sát nhau, không có khe hở và quay chiều ngược nhau.

Bắp ngô cung cấp vào từ đầu trên của trục, trượt theo chiều trục. Lực ma sát phát sinh giữa bắp ngô và trục sẽ làm cho vỏ áo ngô và các tạp chất khác bị trục kéo qua khe hở xuống dưới.

Hình 6.19: Bộ phận làm sạch bắp ngô 1,2 - trục ngang; 3 - bắp ngô chưa làm sạch; 4 - vỏ áo ngô

Các trục thường được chế tạo bằng các vật liệu khác nhau, do đó hệ số ma sát với bắp ngô sẽ khác nhau dẫn đến bắp ngô được quay tròn nên có khả năng làm sạch hoàn toàn. Đông thời bắp ngô được di chuyển dọc trục, nhờ các đường gân xoắn trên bề mặt của một trục.

e. Bộ phận thái Trên các máy thu hoạch lấy hạt hoặc làm thức ăn cho gia súc đều có

trang bị bộ phận thái thân cây. Theo cấu trúc có thể chia ra:

95

Hình 6.20: Bộ phận thái hướng tâm

Hình 6.21: Bộ phận thái kiểu đĩa trụ 1 - trống; 2 - giá lắp dao; 3 - dao;

1 - dao; 2 - cánh hất; 3 – tấm kê

4 - tấm kê; 5 - ống thoát

- Bộ phận thái kiểu đĩa hướng tâm - Bộ phận thái kiểu đĩa trụ - Bộ phận thái kiểu trống - Bộ phận thái kiểu dao quay Bộ phận thái loại đĩa hướng tâm (hình 6.20). Cấu tạo gồm đĩa tròn có lỗ ở tâm để đặt trục, trên đĩa có lắp các dao cắt 1 và cánh hất 2 theo hướng bán kính của đĩa. Đặt gần đĩa là tấm kê 3. Khi làm việc, thân cây ngô được nạp đầu gốc vào khe hở giữa tấm kê và dao, đĩa dao quay đến khi dao tiếp xuc với cây ngô dao sẽ thực hiện việc thái cây.

Bộ phân thái kiểu đĩa trụ (hình 6.21): Cấu tạo gồm đĩa quay 1, trên trống có các giá lắp dao 2 có chiều song song với trục đĩa, dao được lắp trên các giá đó. Tại cửa nạp có tấm kê làm nhiệm vụ kê cây ngô để dao cắt thực hiện cắt cây. Khi làm việc thân cây ngô được nạp đầu gốc vào khe hở giữa tấm kê và dao, đĩa dao quay đến khi dao tiếp xúc với cây ngô dao sẽ thực hiện việc thái cây.

Hình 6.22: Bộ phận thái kiểu trống 1 - trục; 2 - đĩa ngoài; 3 - mũ ốc; 4 - đĩa giữa; 5 dao xoắn 6 - bu lông hãm; 7 - ổ lăn hướng tâm; 8 - ổ chặn

Bộ phận thái kiểu trống (hình 6.22): Cấu tạo bộ phận thái kiểu này gồm trống dao, trên trống có lắp các lưỡi dao xoắn. Khi trống dao quay sẽ thực hiện việc thái cây.

96

Hình 6.23: Bộ phận thái kiểu dao quay 1 - trục tách bắp; 2 - trục quay; 3 - giá lắp dao; 4 - dao; 5 - gờ; 6, 7 - vỏ; 8 - cửa ra sản phẩm

Bộ phận thái kiểu dao quay (hình 6.23): Bộ phận thái kiểu dao quay có cấu tạo đơn giản, gồm dao thái lắp khớp vào trục quay. Khi làm việc, dao quay với vận tốc đủ lớn để tạo ra một lực chém đứt cây ngô.

Câu hỏi ôn tập: 1. Cho biết yêu cầu kỹ thuật và phân loại máy gặt lúa. 2. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của các kiểu bộ phận gặt lúa 3. Trình bày và cấu tạo và hoạt động của các kiểu bộ phận cắt trong máy

thu hoạch ngô.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Bảng (1991), Cơ khí hoá nông nghiệp (T1,2), NXB Nông

Nghiệp ;

2. Trần Đức Dũng (1999), Giáo trình Máy & thiết bị NN, T1 - Máy

nông nghiệp, NXB Hà Nội;

3. Trần Đức Dũng (1999), Giáo trình Máy & thiết bị NN, T2 - Cơ

giới hóa & Thiết bị chế biến Nông Sản - NXB Hà Nội;

4. Nguyễn Công Hoan (1992), Công cụ và máy lâm nghiệp, Giáo trình

Đại học Lâm nghiệp;

5. Nguyễn Văn Muống (1999), Máy canh tác nông nghiệp, NXB Giáo dục;

6. Chu Thị Thơm (2004), An toàn điện trong nông nghiệp, NXB

Lao Động;

7. Phạm Xuân Vượng, (1999), Máy thu hoạch nông nghiệp, NXB Giáo dục;

8. Nguyễn Quốc Việt, GT Động cơ đốt trong và máy kéo máy NN

(T1,2), NXB Hà Nội.

98