NỀN TẢNG PHÂN TÍCH KINH TẾ
ThS Phùng Thanh Bình Đại học Kinh tế TP.HCM Khoa Kinh tế Phát triển Email: ptbinh@ifa.edu.vn
Phân tích Lợi ích Chi phí
Mục tiêu bài giảng
Hạn chế của phân tích tài chính
Rủi ro nếu chỉ dựa vào phân tích tài chính
Tại sao cần phải phân tích kinh tế
Tại sao không thể sử dụng giá thị trường
Chuyển từ phân tích tài chính sang phân tích
kinh tế của một dự án
Hạn chế của phân tích tài chính
Hạn chế của phân tích tài chính
Chính phủ và các cá nhân có thể chỉ theo đuổi các mục tiêu hạn hẹp khi họ chọn dự án trên cơ sở thẩm định tài chính
Trong hầu hết các trường hợp, một phân tích tài chính sử dụng giá thị trường để định giá các nhập lượng và xuất lượng của dự án chỉ cho biết dự án đó có khả thi về mặt tài chính hay không
Hạn chế của phân tích tài chính
Giá thị trường thường bị biến dạng nên
không phản ánh đúng các chi phí hoặc lợi ích thực đối với nền kinh tế của các nhập lượng hoặc xuất lượng (của một dự án)
Như vậy, phân tích tài chính không thể đo lường sự đóng góp thực sự của dự án cho phúc lợi của cộng đồng
Rủi ro của phân tích tài chính
Rủi ro của phân tích tài chính
Hàng hóa tư có tiềm năng gây ô
nhiễm môi trường sẽ được cung cấp
quá mức
Hàng hóa công xã hội mong muốn
sẽ được cung cấp quá ít
Tại sao cần phân tích tài chính cho dự án công?
Tại sao cần phân tích tài chính cho dự án công
Thất bại của nhiều dự án công đã làm thay đổi tư duy thẩm định: chuyển từ cách tiếp cận truyền thống (những năm 1960) sang cách tiếp cận phân tích dự án tích hợp (hiện nay).
Tại sao cần phân tích tài chính cho dự án công
Đảm bảo tính bền vững về mặt tài
chính
Phân tích các tác động phân phối
Phân tích khả năng sinh lợi
(USAID, 2009, pp.6566)
Vai trò của phân tích kinh tế
Vai trò của phân tích kinh tế
Chính phủ thường quan tâm nhiều đến việc các dự án (công) có giúp cải thiện phúc lợi cộng đồng hay không hơn là chỉ nhằm tối đa hóa lợi nhuận tài chính
Nếu đánh giá dự án chỉ dựa trên các mục
tiêu lợi nhuận tài chính hạn hẹp thì phúc lợi của quốc gia có thể sẽ bị suy giảm trong dài hạn
Vai trò của phân tích kinh tế
Thất bại thị trường, thông tin không hoàn hảo,
ngoại tác, thặng dư, can thiệp chính phủ, hàng hóa công, … luôn tồn tại, nên nếu chính phủ thực sự muốn cải thiện phúc lợi cộng đồng, thì chính phủ “phải” chọn dự án trên cơ sở phân tích kinh tế vì phân tích kinh tế sử dụng giá ẩn vốn phản ánh tốt hơn giá trị kinh tế thực của các nhập lượng và xuất lượng của dự án
Tại sao không thể sử dụng giá thị trường?
Vì các ngoại tác kinh tế
Trong một thế giới ‘lý tưởng’, giá tài chính (thị trường) và giá kinh tế của các nhập lượng và xuất lượng của dự án sẽ như nhau. Và khi đó sẽ không có sự khác biệt giữa thẩm định tài chính và thẩm định kinh tế của một dự án đầu tư.
Vì các ngoại tác kinh tế
Các ngoại tác kinh tế (economic
externalities) tồn tại khi giá trị kinh tế (economic value) của một sản phẩm khác với giá tài chính (financial price) của nó.
Các ngoại tác kinh tế tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau
Vì các ngoại tác kinh tế
Phân tích kinh tế
Phân tích tài chính
CÔNG TY
Tỷ giá hối đoái
Người tiêu dùng
Cộng đồng
Chính phủ
Các công ty khác
Thất bại của các thị trường hàng hóa nội địa
Thất bại của thị trường hàng hóa nội địa
Giá trị kinh tế thực của một hàng hóa do dự án sản xuất, có thể được gọi là “lợi
ích xã hội biên” – nghĩa là nó đóng góp
thêm bao nhiêu cho phúc lợi xã hội –
được đo bằng giá “sẵn lòng trả” (WTP)
của người tiêu dùng
Thất bại của thị trường hàng hóa nội địa
Giá thị trường sẽ là thước đo tốt của giá sẵn
Không có kiểm soát giá
Không có thặng dư tiêu dùng
Không có độc quyền mua
lòng trả nếu thỏa 3 điều kiện sau:
Nếu không thỏa 1 trong 3 điều kiện này, thì
cần phải tính giá ẩn để phản ánh đúng hơn lợi ích xã hội biên
Thất bại của thị trường hàng hóa nội địa
Nguyên liệu thô như dầu, các dịch vụ công
Kiểm soát giá thấp hơn giá cân bằng:
Cơ sở hạ tầng như điện, nước, vận chuyển
cộng như nước và vận tải công cộng
đường sắt, …
Cũng có một trường hợp kiểm soát giá cao hơn
giá cân bằng
Gia ù
S
Pm
d
Pmf
D
Löôïng
Qs
Qd
Bi n d ng th tr
ng hàng hóa - Ki m soát giá
ế ạ
ị ườ
ể
Can thiệp vào thị trường hàng hóa ngoại thương
Thuế quan và các hạn ngạch nhập khẩu làm chêch lệch giữa giá thị trường nội địa và giá thế giới
Nếu dự án sử dụng giá nội địa (gồm thuế quan, hạn ngạch) để định giá hàng ngoại thương sẽ “định giá quá mức” chi phí xã hội của nhập lượng nhập khẩu
Can thiệp vào thị trường hàng hóa ngoại thương
Tương tự, lợi ích của một xuất lượng thay thế hàng nhập khẩu không thể được đo lường theo giá nội địa nếu giá của nó đã bao gồm thuế quan bảo hộ. Lợi ích kinh tế đối với quốc gia từ việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu chỉ là lượng ngoại tệ tiết kiệm được do giảm nhập khẩu
Gia ù
S
Pm
d
Sw
Pw
D
ngượ L nh p kh u ẩ ậ
H n ng ch ạ ạ nh p kh u, ẩ Qf ậ
ng hàng ngo i th
ng - H n ng ch nh p
ế ạ
ị ườ
ạ
ươ
ạ
ậ
ạ
Bi n d ng th tr kh uẩ
Thất bại của thị trường các yếu tố sản xuất
Giới thiệu
Chi phí kinh tế thực đối với nền kinh tế
của một nhập lượng của dự án, chi phí xã hội biên, sẽ được đo bằng chi phí cơ hội kinh tế đối với người cung cấp
Giá thị trường của một nhập lượng chỉ bằng chi phí cơ hội xã hội của nó nếu thỏa 3 điều kiện sau:
Giới thiệu
Không có kiểm soát giá và thuế trong các thị trường
yếu tố sản xuất như lương tối thiểu, kiểm soát lãi suất, kiểm soát giá nguyên liệu thô, hay thuế đánh trên thu nhập cá nhân, thuế đánh trên các khoản tiết kiệm và lợi nhuận, nguyên liệu, thiết bị hoạc các đầu vào khác của dự án, …
Không có thặng dư sản xuất trong giá thị trường của
nhập lượng
Không có độc quyền mua
Can thiệp vào thị trường lao động
Hai hình thức can thiệp hay gặp:
Lương tối thiểu
Lương cơ bản cố định ở khu vực nhà
nước
Đối với lao động có trình độ đôi khi lương cố định dưới mức cân bằng thị trường dẫn đến thiếu hụt “giả tạo”
Löông
S
Wf
Wd=Ws=We
D0
0
Nls
N0
Löôïng lao ñoäng
Quy ñònh löông toái thieåu
Can thiệp vào thị trường vốn
Xác định mức lãi suất thấp nhằm kuyến
khích đầu tư
Dư cầu
Phân phối số tín dụng sẵn có cho nhóm
vay ưu đãi
Chính phủ thường đánh thuế lên cả người đi
vay và người cho vay
S
Lãi su tấ
id=is=ie
imf
D0
0
IFs
L
ngượ v n ố
IFd
Bi n d ng th tr
ng v n – lãi su t c đ nh
ế ạ
ị ườ
ấ ố ị
ố
Can thiệp vào thị trường ngoại hối
Trong hầu hết các trường hợp, nội tệ được đánh giá quá cao, tỷ giá (VND/USD) thấp hơn tỷ giá cân bằng, làm dư cầu ngoại tệ
Khoảng “thiếu hụt” ngoại tệ do tỷ giá “bị đánh giá quá cao này” làm cho hàng nhập khẩu có vẻ rẻ tương đối so với hàng sản xuất trong nước nên cầu nhập khẩu tăng và ngược lại không khuyến khích xuất khẩu
ER VND/$
Sfe
Shadow ER
R’
OER
Dfe
Qfed
Qfes
Bi n d ng th tr
ng ngo i h i - t
giá c đ nh
ế ạ
ị ườ
ạ ố
ỷ
ố ị
Ngoại tác và hàng hóa công
Giới thiệu
Ngoại tác và hàng hóa công thường không có giá thị trường để có thể đo lợi ích và chi phí đối với xã hội và những những lợi ích và chi phí này không được đưa vào ngân lưu tài chính của dự án
Phân tích tài chính dự án có sử dụng hoặc tạo ra các hàng hóa công hay ngoại tác sẽ không phản ánh đầy đủ tác động của dự án lên phúc lợi cộng đồng
Ngoại tác
Có thể được tạo ra trong quá trình sản xuất, phân phối hay tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ
Là các ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực của hàng hóa và dịch vụ mà không được cảm nhận trực tiếp bởi người sử dụng nên không được phản ánh trong giá mà người ta sẵn lòng trả cho nó
Ngoại tác
Ô nhiễm môi trường là một ngoại tác tiêu
cực trong quá trình sản xuất nhiều loại hàng hóa và dịch vụ
Ô nhiễm có thể được đo lường bằng nhiều phương pháp khác nhau để đưa vào ngân lưu dự án như một hạng mục chi phí để đánh giá đầy đủ tác động của dự án lên phúc lợi cộng đồng
Ngoại tác
Đánh giá các tác động xấu lên môi
trường của một dự án được thực hiện theo hai bước:
Một, các biện pháp làm giảm hoặc loại bỏ
tác động phải là một phần của dự án và chi phí của các biện pháp này phải được đưa vào tính trong cả phân tích tài chính và kinh tế của dự án (sử dụng giá khác nhau)
Ngoại tác
Hai, nếu các tác động lên môi trường không được loại bỏ hoàn toàn, thì các thiệt hại này cần được ước lượng và xem như một loại chi phí ngoại tác trong phân tích kinh tế của dự án (có thể dưới dạng thuế ô nhiễm hay một giá trị nào đó nhờ sử dụng các phương pháp đánh giá phi thị trường).
Hàng hóa công
Hàng hóa công là các hàng hóa và dịch vụ mà việc sử dụng của một người không làm giảm khả năng sử dụng của người khác
Hàng hóa công thường được cung cấp
miễn phí bởi chính phủ nên thường được định giá bằng không trong phân tích tài chính dự án
Hàng hóa công
Nếu dự án có sử dụng hàng hóa công như một nhập lượng, hay cung cấp hàng hóa công như một xuất lượng thì sẽ sai lầm nếu đánh giá theo giá thị trường (= 0) trong phân tích kinh tế dự án
Hàng hóa công nên được đánh giá theo giá sẵn lòng trả (có thể được do lường bằng các phương pháp đánh giá phi thị trường)
Tác động của dự án lớn lên thặng dư tiêu dùng/sản xuất
Thay đổi thặng dư
Thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng chỉ
khi giá thay đổi
Thay đổi thặng dư xã hội (∆SS) = Thay đổi
thặng dư sản xuất (∆PS) + Thay đổi thặng dư tiêu dùng (∆CS)
Nếu thay đổi thặng dư xã hội tăng do có dự án thì đó là một phần lợi ích do dự án tạo ra cho xã hội và ngược lại
Thay đổi thặng dư
Dự án lớn sử dụng nhập lượng có thể làm giá
Thặng dư sản xuất tăng
Thặng dư tiêu dùng giảm
thị trường của nhập lượng đó tăng lên
Dự án lớn cung cấp xuất lượng có thể làm giá
Thặng dư sản xuất giảm
Thặng dư tiêu dùng tăng
thị trường của xuất lượng đó giảm
Thông tin không hoàn hảo
Thông tin không hoàn hảo
Nếu người tiêu dùng không có thông tin hoàn hảo về các hàng hóa và dịch vụ họ mua, thì giá họ trả sẽ không phản ánh đúng lợi ích hay sự thỏa dụng mà họ sẽ nhận được từ việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ đó
Thông tin không hoàn hảo
Chi phí cho việc cung cấp thông tin về sảm phẩm cho người tiêu dùng như nhãn sinh thái hoặc các quy định khác như CSR cần được tính toán khi phân tích tài chính và kinh tế của dự án.
Từ phân tích tài chính sang phân tích kinh tế
Chuyển từ phân tích tài chính sang phân tích kinh tế một dự án, cần:
Ước lượng giá ẩn (để thay cho giá thị
trường)
Ước lượng giá trị kinh tế của các hàng
hóa/dịch vụ phi thị trường liên quan đến dự án
Ước lượng suất chiết khấu xã hội (thay
cho suất chiết khấu tài chính)
USAID, 2009, pp.148