
BAN BIÊN TẬP TIẾNG DÂN

1. Ngày 11/1/1927, từ Tourane Huỳnh Thúc Kháng viết thư cho D’Elloy về
vấn đề Ban biên tập của Tiếng Dân. Huỳnh Thúc Kháng sẽ là Chủ nhiệm
kiêm Chủ bút. Phụ tá biên tập là Đào Duy Anh. Quản trị giao cho Trần Đình
Phiên, thương gia ở Phan Thiết. (Tài liệu 12)
2. Theo Đào Duy Anh, còn có:
a. Trần Hoành, tức Cửu Cai, bạn tù Côn Đảo của HTK, giúp việc quản đốc
nhà in; Nguyễn Xương Thái, từ chức thư ký sở Thương chính Tourane, giúp
việc văn thư. (Anh, 1989:24-25)
b. Chủ nhân rạp chiếu bóng Tam Tân ở Huế, ông Trần Kiêm Trinh và cháu
là Phạm Đăng Nghiệp, giúp đỡ chỗ ở trong những tháng đầu, và rồi thuê tòa
soạn, v.. v... (Anh, 1989:25)
c. Y sĩ Trần Đình Nam (1896-1974) là một mạnh thường quân, tham gia ban
biên tập. Ngoài ra còn Võ Liêm Sơn, v.. v...
3. Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947) sinh tại Thanh Bình, Tiên Phước, Quảng

Nam. Bạn kết giao của Phan Châu Trinh (1872-1926) và Trần Quí Cáp
(1869-1908). Năm 1900, đậu đầu thi Hương trường Thừa Thiên. Năm 1904,
đậu đầu thi Hội (Phan Bội Châu không đỗ khóa này); nhưng chỉ được hạng
tư tại Đình thí. Vì lý do nào đó không vào trường Quốc học hay ra làm quan.
Năm 1904, được Nguyễn Thành mời tới tư gia, cùng Phan Châu Trinh, gặp
Phan Bội Châu (1868-1940).(27) Sau khi Cử nhân Châu rời nước, Phan
Thúc Diện, Lê Bá Thuần [trinh], và Nguyễn Đình Tân lập Hội thương ở
Faifo (Hội An).(28) Trong khi đó, một số thân sĩ đồng hương hô hào việc
mở mang hương học, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, học tiếng Pháp. Năm 1905,
nhóm Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng còn làm một
huyến du Nam, sáng tác ra bài Chí Thành Thông Thánh và Lương Ngọc
Danh Sơn Phú khích bác lối học khoa cử từ chương, kêu gọi giới sĩ phu
đứng lên nhận trách nhiệm duy tân. Việc phát triển “tân học” được đẩy mạnh
hơn sau khi Trần Qúi Cáp được bổ làm Giáo thụ Thăng Bình năm 1906.
Năm này, Phan Châu Trinh qua Quảng Đông, rồi theo Phan Bội Châu sang
Nhật, nhưng không tán thành chủ trương tranh đấu bằng vũ lực. Về tới
Quảng Nam, Phó bảng Trinh xin gặp công sứ Jean Charles bày tỏ ước muốn
“thờ người Pháp làm bậc thày để cầu tiến bộ.” Tháng 11/1906, Phó bảng

Trinh viết “Đầu Pháp chính phủ thư,” được dịch đăng trên tờ Thành tích
biểu Trường Viễn Đông Pháp [BEFEO], thường biết như Kỷ Yếu trường
Viễn Đông Bác Cổ. Tuy nhiên Charles—một nhà hành chính thuộc địa lão
luyện, từng làm Chánh văn phòng cho Auvergne, và được coi như một
chuyên viên về bản xứ vụ, dù không tốt nghiệp trường Thuộc Địa Paris—
vẫn luôn luôn nghi ngờ Phan Châu Trinh và các thân hữu. Nhiều hơn môt
lần, Charles đã phản kháng các bài viết của Ernest Babut trên tờ Đại Việt
Tân Báo, cũng như sự đả kích giới quan lại Việt trên tờ BEFEO của Phó
bảng Trinh. Theo Charles, những lời hô hào trực trị của nhóm Phan Châu
Trinh cực kỳ nguy hiểm, vì Pháp không thể bảo hộ nếu không có vua quan
thủ vai giới trung gian. Việc hô hào lập sở buôn, mở mang hương học, lập
hội diên thuyết là phương cách để thiết lập những hội kín có tinh thần yêu
nước, gợi hứng từ chiến thắng [Nga] của Nhật Bản năm 1905. Tóm lại, dù
cách hoạt động khác biệt, cả hai nhóm Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
đều có một mục đích chung, tối hậu, là giành độc lập.(29)`
Mùa Thu 1907, sau ngày Toàn quyền Paul Beau về nước, các viên chức bảo
hộ Pháp xuống tay với phong trào Duy Tân. Đồng chí của Phan Bội Châu,
ngoại trừ Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, bị bắt giữ khắp nơi. Khâm sứ
Fernand Levecque tìm đủ cách để khép nhóm Tiến sĩ Ngô Đức Kế ở vùng

Thanh-Nghệ-Tĩnh vào tội tổ chức sở buôn để chuyển tiền cho Phan Bội
Châu, qua trung gian Lương Tam Kỳ, một thổ phỉ người Hoa đã đầu thú.
Đích thân Levecque còn tới Bắc Trung Kỳ hướng dẫn các quan tỉnh để có
được bản án mong muốn, nhưng các quan Việt—như Tuần vũ Hường
Khản—quá “ngu dốt,” viết nên những bản án thiếu sự tham khảo và áp dụng
luật pháp.(30)
Nhóm duy tân Quảng Nam, dù chủ trương hợp tác với Pháp, cũng bị âm
thầm kiềm chế. Năm 1907, Công sứ Charles thuyết phục được Levecque
thuyên chuyển Tiến sĩ Cáp vào Ninh Hòa, giải tán Hội thương ở Faifo (Hội
An). Đầu năm 1908, Tổng đốc Hồ Đắc Trung cũng tuân lệnh Charles ra bố
cáo cấm Trần Quí Cáp diễn thuyết tại các làng xã, cấm tụ họp dân và cấm
đánh trống trường, sợ gây phiền nhiễu cho dân chúng.(31) Trường hương
học ở xã Tây Lộc bị đóng cửa. Mặc dù hơn 60 lý trưởng, hào mục làm đơn
khiếu nại, chương trình giáo dục của nhóm duy tân bị gián đoạn.
Nhưng phải tới phong trào nổi dạy của nông dân miền Trung đòi giảm sưu
dịch, thuế má trong mùa Xuân 1908—khởi đầu từ Quảng Nam, rồi lan rộng
tới Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên—Levecque và Charles mới có cơ
hội xuống tay mạnh mẽ. Phan Châu Trinh, đang ở Hà Nội đã hơn nửa năm,

