TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----(cid:91)(cid:92)(cid:9)(cid:91)(cid:92)-----
Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:
"Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới"
1
MỤC LỤC
Lời nói đầu........................................................................................................2 Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường...............5 hàng hóa ở doanh nghiệp thương mại ...........................................................5 1.1. thị trường và vai trò của thị trường hàng hóa. ....................................5 1.1.1. Khái niệm về thị trường hàng hóa. ..............................................5 1.1.2. Các yếu tố thị trường. ..................................................................6 1.1.3. Các quy luật của thị trường..........................................................6 1.1.4. Các chức năng của thị trường. .....................................................7 1.1.5. Vai trò của thị trường hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân. ......9 1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa................................................... 10 1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM)............................................ 12 1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại. .................... 16 Chương 2 Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp .................. 22 thương mại nước ta trong thời gian qua .................................................... 22 2.1. Đặc điểm của thị trường hàng hóa nước ta...................................... 22 2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa nước ta. ...... 22 2.1.2. Hệ thống các doanh nghiệp thương mại nước ta hiện nay. ...... 23
2.2. Những thành tựu đạt được trong việc phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta.................................................... 24 2.2.1. Thị trường trong nước phát triển mạnh. ................................... 25 2.2.2. Thị trường ngoài nước được mở rộng và phát triển. ................ 30 2.3. Những nguyên nhân đạt được thành tựu trên. ................................. 36 2.3.1. Sự chuyển đổi nền kinh tế. ....................................................... 36 2.3.2. Sự phát triển của các ngành sản xuất........................................ 37 2.3.3. Xóa bỏ độc quyền của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. .................................................................................... 38 2.3.4. Quản lý Nhà nước về thị trường được tăng cường................... 39 2.3.5. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và khu vực. .................................. 40 2.3.6. Các doanh nghiệp thương mại nâng cao chất lượng phục vụ, chủ động tìm kiếm thị trường. ................................................................... 40
2.4. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta.................................................... 40 2.4.1. Tuy tổng mức lưu chuyển nội thương và ngoại thương đều tăng nhưng hàng hóa của Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp cả ở thị trường trong và ngoài nước. ............................................................... 40 2.4.2. Các DNTM chưa làm tốt vai trò hướng dẫn tiêu dùng và tổ chức thông tin thị trường để định hướng cho sản xuất................................ 41
2
2.4.3. Thị trường nước ngoài mới phát triển được bề rộng chưa phát triển được bề sâu. ................................................................................ 41 2.4.4. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra thường xuyên và ngày càng tinh vi. ................................................................ 42 2.4.5. Khung pháp lý cho hoạt động thương mại bước đầu đã thông thoáng nhưng thể chế kinh tế thị trường còn chưa hoàn chỉnh. ......... 42
Chương 3 Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.............................. 44 3.1. Mục tiêu và phương hướng.............................................................. 44 3.1.1. Thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển............................... 44 3.1.2. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại....................................................................................................... 44 3.1.3. Tăng xuất khẩu, giảm thiểu nhập khẩu..................................... 45 3.1.4. Phục vụ tiêu dùng cá nhân và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.................................................................................. 48
3.2. Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới. ...................................... 49 3.2.1. Nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa ở các doanh nghiệp sản xuất trong nước. .................................................................................. 49 3.2.2. Tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý. ......................................... 50 3.2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại ở các DNTM. ............................................................................... 50 3.2.4. Hạn chế nguy cơ rủi ro, tổn thất trong kinh doanh thương mại quốc tế................................................................................................. 51 3.2.5. Xác định loại hình kinh doanh quyết định chiến lược thị trường của các doanh nghiệp thương mại bán lẻ............................................ 52 3.2.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách cho hoạt động thương mại....................................................................................................... 58 3.2.7. Phát triển các trung tâm thương mại ở Việt Nam..................... 58 3.2.8. Thâm nhập sâu, hiệu quả vào từng thị trường nước ngoài. ...... 60 3.3. Dự báo cung cầu và giá cả một số mặt hàng chủ yếu đến 2010...... 71 3.3.1. Hàng nông sản. ......................................................................... 71 3.3.2. Nhóm hàng nguyên liệu thô...................................................... 74 3.3.3 Nhóm hàng năng lượng. ............................................................ 74 3.3.4. Hàng thủy sản. .......................................................................... 75 3.3.5. Hàng dệt may và giày dép. ....................................................... 76 3.3.6. Các mặt hàng đã qua chế biến. ................................................. 76 3.3.7. Mặt hàng phân bón. .................................................................. 77 3.3.8. Kim loại. ................................................................................... 78 3.3.9. Các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao. ................ 78 Kết luận.......................................................................................................... 80 Danh mục tài liệu tham khảo....................................................................... 82
3
LỜI NÓI ĐẦU
Thương mại là một ngành của nền kinh tế quốc dân, là lĩnh vực trao đổi
hàng hóa thông qua mua bán trên thị trường. Thương mại Việt Nam rất phát
triển từ sau thời kỳ đổi mới (1986) và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong việc lưu
thông hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất.
Để tăng cường sự hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặc biệt sau khi gia nhập AFTA vào năm
2006 thì phát triển thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp thương mại
nước ta là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Trong bài viết này, em xin trình bày về "Những biện pháp nhằm phát
triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời
gian tới" nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng phát triển thị
trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian
qua từ đó nêu ra những biện pháp đúng đắn nhằm phát triển thị trường hàng
hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Trong bài viết này em xin trình bày các vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh
nghiệp thương mại.
+ Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta
trong thời gian tới.
+ Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh
nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Em xin chân thành cám ơn thầy: ThS Nguyễn Văn Tuấn và PGS.TS Đặng Đình Đào đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài viết này!
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG
HÀNG HÓA Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA.
1.1.1. Khái niệm về thị trường hàng hóa.
Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Thị trường được nhiều
nhà kinh tế định nghĩa khác nhau. Có người coi thị trường là cái chợ, là nơi
mua bán hàng hóa. Hội quản trị khoa học Hoa Kỳ coi: "thị trường là tổng hợp
các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện
các quyết định chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người bán sang người mua". Có
nhà kinh tế lại quan niệm: "thị trường và lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua
và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ",
hoặc đơn giản hơn: thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một
sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ. Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa: "thị
trường là nơi mua bán hàng hóa, là một quá trình trong đó người mua và
người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số
lượng hàng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời
gian và không gian nhất định".
Các định nghĩa trên đây về thị trường có thể nhấn mạnh ở địa điểm mua
bán, vai trò của người mua, người bán hoặc chỉ người mua, coi người mua giữ
vai trò quyết định trong thị trường, chứ không phải người bán, mặc dù không
có người bán, không có người mua, không có hàng hóa và dịch vụ, không có
thoả thuận thanh toán bằng tiền hoặc bằng hàng thì không thể có thị trường,
không thể hình thành thị trường. Cho dù thị trường hiện đại, có thể một trong
vài yếu tố trên không có mặt trên thị trường thì thị trường vẫn chịu tác động
của các yếu tố ấy và thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua thị trường. Vì vậy
đã nói đến thị trường phải nói đến các yếu tố sau:
5
Một là, phải có khách hàng, không nhất thiết phải gắn với địa điểm
xác định.
Hai là, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thỏa mãn. Đây chính là
cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ.
Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải
có khả năng trả tiền để mua hàng.
1.1.2. Các yếu tố thị trường.
Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường.
Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hóa.
Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường
tạo nên cung hàng hóa.
Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua,
người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị
trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung
và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.1.3. Các quy luật của thị trường.
* Quy luật giá trị:
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và
lưu thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị
yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động.
Xã hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi
ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết
bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được
nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm
là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc
kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn,
trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao
đổi thì sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp
sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm được chi phí, phải không ngừng cải
6
tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh, dịch vụ để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và
dịch vụ.
* Quy luật cung cầu.
Cung cầu hàng hóa dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường
xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị
trường, quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lắp đi lắp lại, khi
tăng, khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung cầu gặp nhau, giá
cả thị trường được xác lập. Đó là giá cả bình quân, gọi là giá cả bình quân
nghĩa là ở mức giá đó cung và cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá đó
lại không đứng yên, nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung,
lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi
cầu lớn hơn cung giá lại tăng lên. Việc giá ở mức bình quân cân bằng chỉ là
tạm thời, việc mức giá thay đổi là thường xuyên. Sự thay đổi trên là do hàng
loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung, cũng
như kỳ vọng của sản xuất, người kinh doanh và cả của khách hàng.
* Quy luật cạnh tranh.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người
bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua và người
mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua và người bán tạo
nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường. Cạnh tranh trong
kinh tế là cuộc chạy đua không đích cuối cùng cạnh tranh trong kinh tế là
cuộc thi đấu không phải với một đối thủ mà đồng thời với hai đối thủ. Đối thủ
thứ nhất là giữa hai phe của hệ thống thị trường và đối thủ thứ hai là giữa các
thành viên của cùng một phía với nhau.Tức là cạnh tranh giữa người mua và
người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau, không thể lẫn tránh cạnh
tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
1.1.4. Các chức năng của thị trường.
7
* Chức năng thừa nhận.
Doanh nghiệp thương mại mua hàng hóa về để bán. Hàng hóa có bán
được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của
khách hàng, của doanh nghiệp.
Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp
thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi
nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là
không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh
nghiệp thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải
phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng,
chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và
địa điểm thuận tiện cho khách hàng.
* Chức năng thực hiện.
Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị
trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác.
Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán
và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự
dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
* Chức năng điều tiết và kích thích.
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều
tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với
doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung
ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu
hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm
khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng
khác đang hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích
này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh
nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng
8
đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có
khả năng bán được khối lượng lớn.
* Chức năng thông tin.
Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hóa
dịch vụ, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế quan
trọng đối với mọi nhà sản xuất, kinh doanh, cả người mua và người bán, cả
người cung ứng và người tiêu dùng, cả người quản lý và người nghiên cứu
sáng tạo. Có thể nói đó là những thông tin được sự quan tâm của toàn xã hội.
Thông tin thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng, không có thông tin
thị trường không thể có quyết định đúng đắn trong sản xuất, kinh doanh, cũng
như các quyết định của các cấp quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm
kiếm các thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra quyết định
đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa đến thành công, cũng như có thể
đưa đến thất bại bởi sự xác thực của các thông tin được sử dụng.
1.1.5. Vai trò của thị trường hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.
* Vị trí:
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường có vị trí trung tâm. Thị trường
vừa là mục tiêu của người sản xuất kinh doanh vừa là môi trường của hoạt
động sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Thị trường cũng là nơi chuyển tải các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên thị trường người mua, người bán và
người trung gian gặp nhau trao đổi hàng hóa - dịch vụ.
Quá trình sản xuất xã hội có 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng, thì thị trường gồm hai khâu phân phối và trao đổi. Đó là khâu trung
gian cần thiết, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy nó có tác động
nhiều mặt đến sản xuất, đến tiêu dùng xã hội.
* Tác dụng của thị trường.
Một là, bảo đảm điều kiện cho sản xuất phát triển liên tục với quy mô
ngày càng mở rộng và bảo đảm hàng hóa cho người tiêu dùng phù hợp với thị
hiếu (sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi với 9
dịch vụ văn minh.
Hai là, nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu
dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới. Nó kích thích sản
xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới các hàng hóa
chất lượng cao văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng sản xuất, giảm bớt
dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu.
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng con
người khỏi các công việc không tên trong gia đình, vừa nặng nề vừa mất thời
gian. Con người được nhiều thời gian tự do hơn.
Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn
định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa.
1.1.6.1. Căn cứ vào công dụng của hàng hóa.
* Thị trường hàng tư liệu sản xuất.
Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất. Thuộc về hàng tư liệu sản xuất
có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện, phay, bào... các loại nguyên vật
liệu, các loại nhiên liệu, các loại hóa chất, các loại dụng cụ, phụ tùng... Người
ta con gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
* Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng.
Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con
người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm
hàng tiêu dùng cho cá nhân người tiêu dùng. Các sản phẩm này ngày càng nhiều
theo đà phát triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con người.
1.1.6.2. Căn cứ vào nguồn sản xuất ra hàng hóa.
* Thị trường hàng công nghiệp.
Thị trường hàng công nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa do các xí
nghiệp công nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra.
10
Công nghiệp khai thác tạo ra sản phẩm là nguyên liệu. Nguyên liệu trải
qua một hoặc một vài công đoạn chế biến thì thành vật liệu. Công nghiệp chế
biến tạo các nguyên vật liệu thành các sản phẩm hàng công nghiệp. Đó là các
loại hàng hóa có tính chất kỹ thuật cao, trung bình hoặc thông thường, có đặc
tính cơ, lý, hóa học và trạng thái khác nhau. Nhìn chung các loại hàng hóa này
có hàm lượng kỹ thuật khác nhau và thường là vật chất (không phải sinh vật).
* Thị trường hàng nông nghiệp (nông, lâm, hải sản)
Thị trường hàng nông nghiệp là thị trường hàng hóa có nguồn gốc từ
sinh vật (động vật hoặc thực vật). Những sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp
mới sơ chế (chưa qua công nghiệp chế biến), ví dụ như thóc, gạo,ngô, khoai...
cá, lợn, gà, vịt... có thể ở dạng ngủ nghỉ hoặc còn tươi sống muốn bảo quản
được lâu phải có phương tiện kỹ thuật. Nói chung chúng dễ bị ảnh hưởng bởi
môi trường bên ngoài. Sản phẩm có tính chất địa phương (rau, quả, củ) giá trị
không cao nếu không được chế biến và không đưa đến các thị trường xa bằng
phương tiện vận tải thông thường.
1.1.6.3. Căn cứ vào nơi sản xuất.
* Hàng sản xuất trong nước.
Hàng sản xuất trong nước là do các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra.
Hàng sản xuất trong nước ngày càng nhiều chứng tỏ trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong nước đến mức độ nào đó nhu cầu của thị trường.
Hàng sản xuất trong nước cũng phải hướng theo tiêu chuẩn quốc tế vừa để
thỏa mãn tiêu dùng trong nước vừa có khả năng xuất khẩu. Không có một
quốc gia nào trên thế giới lại hoàn toàn dùng hàng trong nước. Ngược lại nếu
sản phẩm sản xuất trong nước chất lượng quá thấp thì việc sử dụng nguồn lực
để sản xuất hàng hóa đó là lãng phí và không thể đứng vững trên thị trường
trong nước khi có hàng ngoại nhập vào. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
thực chất là phát triển sản xuất hàng trong nước. Có như vậy mới chủ động, tạo
nhiều công ăn việc làm, đất nước phát triển và mới có hàng hóa để trao đổi với
nước ngoài.
* Hàng nhập ngoại.
11
Hàng nhập ngoại là hàng cần thiết phải nhập từ nước ngoài do nguồn
hàng trong nước chưa sản xuất đủ hoặc do kỹ thuật công nghệ, chưa thể sản
xuất được. Nhập hàng ngoại (kể cả kỹ thuật, công nghệ tiên tiến) là một yếu
tố không thể thiếu được và là một tác nhân kích thích cho sản xuất tiến lên.
Trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào lại không có ngoại
thương, không có xuất nhập hàng hóa. Xuất nhập khẩu hàng hóa là lợi dụng
được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai
bên có quan hệ xuất nhập khẩu.
1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM).
1.2.1. Khái niệm.
Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp
pháp nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, tổ chức lưu
chuyển hàng hóa, mua hàng hóa ở nơi sản xuất và đem bán ở nơi có nhu cầu
nhằm thu lợi nhuận.
Đặc thù của DNTM là hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông,
thực hiện lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng chứ không
sản xuất ra các hàng hóa đó, mua để bán chứ không phải để tiêu dùng.
DNTM là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh có đủ các điều kiện mà
pháp luật qui định và cho phép kinh doanh những mặt hàng pháp luật không
cấm. DNTM phải có tổ chức, đảm bảo những điều kiện về vốn, về tư cách
pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kinh doanh và hàng
hóa kinh doanh của mình.
1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại.
1.2.2.1. Căn cứ vào tính chất của mặt hàng kinh doanh.
* Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hóa: đó là các doanh nghiệp
chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái
hoặc tính chất nhất định.
* Các doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp: là các doanh nghiệp kinh
doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái, tính chất khác nhau.
* Các doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa (hỗn hợp): các doanh
12
nghiệp kinh doanh cả sản xuất, cả kinh doanh hàng hóa và thực hiện các hoạt
động dịch vụ thương mại.
1.2.2.2. Theo quy mô của doanh nghiệp.
* Doanh nghiệp thương mại có quy mô nhỏ.
* Doanh nghiệp thương mại có quy mô vừa.
* Doanh nghiệp thương mại có quy mô lớn.
Để xếp loại doanh nghiệp người ta thường căn cứ vào hệ thống các tiêu
thức khác nhau. Đối với DNTM tiêu thức để xếp loại là số vốn kinh doanh, số
lượng lao động, doanh số hàng hóa lưu chuyển hàng năm, phạm vi kinh doanh.
1.2.2.3. Theo phân cấp quản lý.
* Các DNTM do các bộ, các ngành của Trung ương quản lý.
* Các DNTM do địa phương quản lý như các DNTM thuộc tỉnh (thành
phố), thuộc huyện, quận, thị trấn, thị xã quản lý.
1.2.2.4. Theo chế độ sở hữu tư liệu sản xuất.
* Doanh nghiệp thương mại nhà nước: là DNTM được nhà nước đầu tư
hoặc cấp 100% vốn kinh doanh.
* Doanh nghiệp thương mại tập thể: là DNTM mà vốn kinh doanh do tập
thể người lao động tự nguyện góp vào để kinh doanh.
* Các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh.
* Doanh nghiệp tư nhân: do các tư nhân trong nước và nước ngoài bỏ
vốn kinh doanh.
* Hệ thống người buôn bán nhỏ: là hộ cá thể có các cửa hàng, quầy hàng
kinh doanh các hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
1.2.3. Chức năng của DNTM.
Chức năng của DNTM là những nhiệm vụ chung nhất gắn liền với sự tồn
tại, phát triển của DNTM và là tiêu thức để phân biệt DNTM với các doanh
nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp xây dựng và các doanh nghiệp của các
ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường DNTM
có các chức năng:
DNTM phát hiện nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và tìm mọi
13
cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. DNTM trở thành bộ phận trung gian độc lập
giữa sản xuất với tiêu dùng. DNTM cần nghiên cứu nhu cầu thị trường để phát
hiện, tìm ra những chủng loại hàng hóa, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu và
tìm mọi cách tạo ra chúng nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đó của khách hàng.
Chức năng thứ hai: là DNTM phải không ngừng nâng cao trình độ thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. DNTM phải là
người hậu cần tốt của sản xuất và tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng
những hàng hóa đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, kịp thời
gian với giá cả hợp lý.
Chức năng thứ ba: giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong nội bộ doanh
nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Vì giải quyết tốt các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để tạo ra sự phối hợp nhịp
nhàng trong kinh doanh. Giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
là giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với
nhau, làm cho mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục
tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp từ đó đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung.
Giải quyết mối quan hệ bên trong là cơ sở, là nền tảng để giải quyết mối quan
hệ bên ngoài DNTM. Đó là quan hệ với bạn hàng, người cung ứng, với cơ
quan cấp trên, với cơ quan quản lý, với khách hàng... tạo nền văn hóa doanh
nghiệp, quyết định thành bại trong kinh doanh.
1.2.4. Nhiệm vụ của DNTM.
DNTM có nhiệm vụ kinh doanh đúng theo ngành, nghề đã đăng ký và
mục đích thành lập doanh nghiệp. Theo luật Việt Nam, các DNTM có quyền
tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh mà pháp luật
cho phép.
DNTM có nhiệm vụ quản lý tốt lao động, vật tư, tiền vốn để không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để thực hiện kinh doanh có lợi nhuận
DNTM phải sử dụng triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp, đề ra các chiến
lược chiếm lĩnh thị trường để tiêu thụ hàng hóa một cách nhanh chóng. Vì thị
trường hàng hóa là đầu ra của DNTM, quyết định thành công hay thất bại. Vì
14
có bán được hàng hóa thì DNTM mới thu được vốn và lãi để từ đó tiếp tục
mua hàng hóa khác để kinh doanh.
DNTM có nhiệm vụ thực hiện phân phối theo lao động và chăm lo đời
sống cho cán bộ công nhân viên. Có như vậy nhân viên trong doanh nghiệp
mới hoạt động hiệu quả, gắn bó với doanh nghiệp. Để làm được điều này
DNTM phải phát triển kinh doanh, tạo mở đầy đủ việc làm, tăng thêm thu
nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện phân phối công bằng quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi. Điều đó sẽ tạo động lực để DNTM có đội ngũ nhân
viên nhiệt tình, phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Nhiệm vụ thứ tư là DNTM thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội. Trước
hết DNTM chỉ kinh doanh những hàng hóa bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng đã
đăng ký để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái,
không gây ô nhiễm hay hủy hoại môi trường.
Nhiệm vụ thứ năm là DNTM phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật
nhà nước. DNTM thực hiện nộp thuế đầy đủ và các nghĩa vụ khác của pháp
luật. Thực hiện tốt các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của nhà nước
về thương mại.
1.2.5. Vai trò của DNTM.
Doanh nghiệp thương mại là hợp phần tất yếu, quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân, là nơi thể hiện đầy đủ, tập trung nhất các mối quan hệ lớn
trong xã hội: quan hệ giữa sản xuất với tiêu dùng; giữa cung và cầu; giữa tiền
và hàng; giữa xuất khẩu với nhập khẩu; giữa thu và chi ngân sách, đồng thời
cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa cơ chế quản lý cũ
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh cùng đan
xen tồn tại với nhau. Bởi vậy DNTM phải phát huy vai trò là cầu nối, là trung
gian cần thiết giữa sản xuất với tiêu dùng. Hoạt động của các DNTM góp
phần tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống của nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ cân đối trong sự phát triển của các
15
ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, phát huy vai trò chỉ đạo, điều tiết thị
trường, xứng đáng là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc điều tiết và
quản lý vĩ mô.
Doanh nghiệp thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông tạo điều kiện không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp, tích cực góp phần tăng tích lũy xã hội nhằm
thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập mau
chóng vào nền kinh tế thế giới.
Doanh nghiệp thương mại thông qua hoạt động kinh doanh của mình đã
làm tốt việc phân phối hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu qua đó nâng cao
mức hưởng thụ của người dân. Và khi mức sống của người dân được tăng lên
thì vai trò của doanh nghiệp thương mại càng quan trọng.
DNTM có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là
thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hàng hóa
trong nước ra nước ngoài và nhập hàng hóa, thiết bị kỹ thuật.
1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại.
1.3.1. Khái niệm.
Thị trường hàng hóa của DNTM là một hay nhiều nhóm khách hàng với
các nhu cầu về hàng hóa, có khả năng thanh toán và những người bán cụ thể
nào đó mà ở đó DNTM có thể mua hàng hóa, dịch vụ để cung cấp và làm thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng.
Đối với DNTM, thị trường hàng hóa bao gồm các nhân tố: khách hàng
có nhu cầu và khả năng thanh toán, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa bao
gồm bản thân doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, hàng hóa và giá cả.
Thị trường hàng hóa của DNTM bao gồm: thị trường nguồn hàng và thị
trường bán hàng.
Thị trường nguồn hàng của DNTM là nơi cung cấp toàn bộ khối lượng
và cơ cấu hàng hóa mà doanh nghiệp thương mại cần mua.
Thị trường bán hàng của DNTM là tất cả các khách hàng có nhu cầu, có
16
khả năng thanh toán về hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.3.2. Vai trò của thị trường hàng hóa đối với DNTM.
Thị trường hàng hóa có vai trò quan trọng đối với DNTM. Nó vừa là
mục tiêu vừa là môi trường kinh doanh của DNTM, quyết định thành công
hay thất bại đối với DNTM.
1.3.2.1. Thị trường nguồn hàng: cung cấp hàng hóa mà DNTM cần mua để
kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Thị trường nguồn hàng của
DNTM gồm có: thị trường nguồn hàng trong nước và thị trường nguồn hàng
nước ngoài. Nhiều mặt hàng thị trường trong nước không có hoặc giá thành
cao, chất lượng thấp thì DNTM phải thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa
đó từ thị trường nước ngoài.
Thị trường nguồn hàng là khâu hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên,
mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hóa (T - H). Mua hàng là một hoạt
động nghiệp vụ cơ bản của DNTM. Nếu không mua được hàng hoặc mua
hàng không đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh thì DNTM không có hàng
để bán. Nếu DNTM mua phải hàng xấu, hàng giả, chất lượng kém hoặc không
mua đúng số lượng, chất lượng hàng hóa, đúng thời gian yêu cầu, DNTM sẽ
bị ứ đọng hàng hóa, vốn lưu động không lưu chuyển được, doanh nghiệp sẽ
không bù đắp được chi phí, sẽ không có lãi. Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng
của thị trường nguồn hàng có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ kinh doanh khác
và kết quả kinh doanh của DNTM.
Một vấn đề quan trọng đối với DNTM là tạo được nguồn hàng có giá rẻ,
chất lượng tốt và phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Nếu DNTM mua hàng
hóa có giá cao thì khách hàng sẽ không mua. DNTM khó tiêu thụ hàng hóa.
DNTM phải mua hàng với giá thấp hơn giá thị trường và bán với giá mà
khách hàng có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chất lượng hàng hóa cũng rất
quan trọng. Nếu cùng một giá mà DNTM bán hàng hóa có chất lượng tốt hơn
thì khách hàng sẽ ưa thích hơn. Như vậy thị trường nguồn hàng có vai trò
quyết định hiệu quả kinh doanh của DNTM, quyết định DNTM có lãi hoặc lỗ
17
khi bán hàng hóa. Nhưng điều này chỉ đúng với một số hàng hóa thông
thường còn một số hàng hóa có giá trị cao thì lợi nhuận phụ thuộc vào độ tin
cậy về chất lượng và công tác dịch vụ.
Ví dụ: để mua một chiếc xe máy trị giá 25 triệu VND thì khách hàng sẽ
hết sức chú ý tới chất lượng của xe còn giá cả chênh lệch 1 triệu đến 2 triệu
thì không quan trọng miễn là chất lượng xe tốt.
Thị trường nguồn hàng thuận lợi, cách thu mua phù hợp sẽ giúp cho
DNTM đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thị trường nguồn hàng càng gần
DNTM hoặc điều kiện giao thông vận tải thuận lợi thì sẽ giúp cho DNTM
mua được hàng nhanh chóng, kịp thời, giảm chi phí cho vận chuyển, làm cho
giá thành của sản phẩm giảm đáng kể. Còn cách thu mua hợp lý tránh cho
DNTM những khoản chi phí không cần thiết mà vẫn mua được hàng hóa đạt
yêu cầu.
DNTM có thể áp dụng các hình thức thu mua sau:
Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước. Hình thức mua này
giúp cho DNTM ổn định được nguồn hàng, có nguồn hàng chắc chắn để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Mua hàng không theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn và
mua hàng trôi nổi (vãng lai) trên thị trường. Với hình thức này thì người mua
hàng cần có một nghiệp vụ mua hàng thông thạo, có kỹ năng mua hàng để
bảo đảm hàng mua về có thể bán được.
Mua qua đại lý: áp dụng khi nguồn hàng không tập trung, không thường xuyên.
Mua hàng bằng hình thức liên doanh liên kết: DNTM có thể lợi dụng ưu
thế của mình về vốn, nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ cùng các doanh
nghiệp khác liên doanh liên kết để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
sản lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Nhận bán hàng ủy thác hoặc ký gửi: DNTM sẽ nhận được chi phí ủy thác
hoặc chi phí ký gửi. Với hình thức này DNTM có thể lợi dụng được vốn kinh
doanh và làm phong phú thêm nguồn hàng của doanh nghiệp.
18
Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua thành phẩm: DNTM đưa nguyên
vật liệu đến xí nghiệp gia công, trả phí gia công hoặc bán nguyên vật liệu cho
doanh nghiệp sản xuất và mua thành phẩm theo hợp đồng và tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường.
Hình thức cuối cùng là tự sản xuất, khai thác hàng hóa: với hình thức
này đòi hỏi vốn của DNTM phải có vốn lớn, có đủ năng lực sản xuất, áp dụng
tốt khoa học công nghệ, kỹ thuật để đạt được hàng hóa có chất lượng tốt, giá
thành rẻ.
DNTM cần phải lựa chọn các hình thức thu mua trên hoặc xen kẽ các
hình thức thu mua để giảm được chi phí, có được hàng tốt, giá phù hợp với
nhu cầu của khách hàng. DNTM cần coi trọng vai trò của thị trường nguồn
hàng thì mới có thể đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Nhưng để bán được
hàng thì DNTM phải có thị trường bán.
1.3.2.2. Thị trường bán hàng.
Thị trường nguồn hàng có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn hàng
cho DNTM để DNTM làm thỏa mãn kịp thời nhu cầu của khách hàng nhưng
điều quan trọng nhất đối với DNTM là bán được hàng hóa mình đã mua để
thu vốn và lợi nhuận để tiếp tục quá trình kinh doanh, có như vậy DNTM mới
tiếp tục phát triển, tức là DNTM phải có thị trường bán.
Thị trường bán của DNTM gồm: thị trường bán trong nước và thị trường
bán nước ngoài (xuất khẩu).
Vai trò của thị trường bán đối với DNTM được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thị trường bán là nơi tiêu thụ hàng hóa cho DNTM mà ở đó DNTM
bán hàng, thu hồi vốn và lợi nhuận có thị trường bán hàng tức là có khách
hàng và có nhu cầu về hàng hóa mà DNTM bán. Vấn đề đối với DNTM
không chỉ là bán được hàng mà còn phải làm cho khách hàng thỏa mãn, hài
lòng. Có như vậy DNTM mới tạo được niềm tin với khách hàng, tạo được bạn
hàng lâu dài, đảm bảo lợi ích lâu dài đối với DNTM.
+ Thị trường bán quyết định hàng hóa kinh doanh, phương thức phục vụ
19
của DNTM. DNTM kinh doanh những hàng hóa mà khách hàng đang có nhu
cầu lớn, chưa được thỏa mãn. Nếu DNTM kinh doanh hàng hóa không có nhu
cầu thì sẽ không bán được hàng. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện thì
nhu cầu của họ càng tăng lên và những đòi hỏi về chất lượng hàng hóa,
phương thức phục vụ của DNTM ngày càng tăng cao. DNTM phải có phương
thức phục vụ tốt nhất, xem khách hàng là "thượng đế" để khách hàng được
thỏa mãn tốt nhất. Khách hàng có xu hướng mua hàng hóa của những DNTM
có phương thức phục vụ nhiệt tình, có uy tín, đảm bảo chất lượng hàng hóa.
+ Thị trường bán hàng trở thành vấn đề sống còn đối với DNTM. Nếu
DNTM có thị trường bán ổn định, tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi
nhuận cao thì DNTM có điều kiện tiếp tục phát triển, tiếp tục mở rộng kinh
doanh. Còn nếu DNTM không bán được hàng, bị thua lỗ thì DNTM có thể
phải ngừng hoạt động hoặc phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác.
DNTM có thể áp dụng các phương thức bán hàng sau:
Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán tại kho
của người cung ứng, tại kho của DNTM, bán qua cửa hàng quầy hàng và bán
tại đơn vị tiêu dùng.
Hình thức bán tận đơn vị tiêu dùng, bán tại nhà theo yêu cầu của khách
hàng là hình thức bán tạo thuận lợi cho người mua và là phương thức chủ yếu
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và cạnh tranh lẫn nhau, đang được
các DNTM áp dụng hiệu quả.
Theo khâu lưu chuyển hàng hóa có bán buôn và bán lẻ. Bán buôn là khối
lượng lớn, theo hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt, giá bán rẻ hơn
và doanh số thường cao hơn so với bán lẻ.
Bán lẻ là bán theo yêu cầu nhỏ lẻ của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu
kịp thời của khách hàng thanh toán ngay. Vì hàng hóa phải qua khâu bán
buôn, lưu kho, chi phí cho bán hàng nên giá bán lẻ thường cao hơn, việc tăng
doanh số của DNTM chậm hơn nhưng lại được nhiều thông tin trực tiếp từ
người tiêu dùng.
20
Theo phương thức bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận mua vừa bán,
bán đấu giá và xuất khẩu hàng hóa.
Bán theo hợp đồng đối với hàng hóa có khối lượng lớn. Bán đấu giá
với hàng khó tiêu chuẩn hóa, hàng chuyên dùng. Khối lượng lớn để tìm
người mua với giá cao nhất. Xuất khẩu cần tuân thủ theo quy định xuất
nhập khẩu của Chính phủ và chỉ có các đơn vị được phép kinh doanh xuất
nhập khẩu thực hiện.
Theo mối quan hệ thanh toán, có mua đứt bán đoạn và sử dụng các hình
thức tín dụng trong thanh toán như bán trả chậm, bán trả góp.
Hình thức bán trả chậm, bán trả góp đối với những hàng hóa có giá trị
lớn mà người mua hàng không đủ khả năng trả hết tại thời điểm mua.
Hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa qua điện thoại, bán qua
người môi giới, qua nhân viên tiếp thị và bán qua mạng Internet.
DNTM cần kết hợp các hình thức bán để tiêu thụ hàng hóa tốt nhất.
21
CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA NƯỚC TA.
2.1.1. Những đặc trưng cơ bản của thị trường hàng hóa nước ta.
Thị trường hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở
khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định tiếp tục
thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh, tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách,
pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh
tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh...
đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường hàng hóa có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Thông qua
hệ thống các chính sách, chiến lược, quy hoạch, nhà nước quản lý, dự báo
và định hướng thị trường trong và ngoài nước, giải quyết các vấn đề về thị
trường hàng hóa.
Thị trường hàng hóa phát triển trên cơ sở tự do lưu thông hàng hóa dịch
vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Đây là điều kiện nhất
thiết phải có vì nếu không được tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ thì hàng
hóa sẽ không được chuyển đến người tiêu dùng có nhu cầu, không được phân
phối theo đúng quy luật thị trường thì thị trường hàng hóa không phát triển
được.
Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quy luật cung - cầu trên thị
trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường, nó là
giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hóa chiếm phần lớn trên
22
thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để doanh nghiệp vươn lên.
Tất cả các mối quan hệ được tiền tệ hóa, tuân theo các quy luật của lưu
thông hàng hóa của kinh tế thị trường.
2.1.2. Hệ thống các doanh nghiệp thương mại nước ta hiện nay.
2.1.2.1. Doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước được nhà nước đầu tư hoặc cấp vốn
100% để kinh doanh, phục vụ những mục tiêu chiến lược của nhà nước. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã
có sự thay đổi về số lượng và hiệu quả kinh doanh. Về số lượng các doanh
nghiệp thương mại nhà nước đã giảm đáng kể. Tính đến thời điểm 31/12/1999
nước ta có khoảng 1576 doanh nghiệp thương mại nhà nước. Các doanh
nghiệp thương mại nhà nước chưa đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh,
còn thua lỗ. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn
thấp. Tuy nhiên doanh nghiệp thương mại nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc định hướng, điều tiết thị trường hàng hóa ở nước ta.
2.1.2.2. Doanh nghiệp thương mại tập thể.
Loại doanh nghiệp này vốn do tập thể người lao động góp, tạo nên theo
nguyên tắc tự nguyện hoặc một phần vốn tập thể, một phần vốn do Nhà nước
bảo đảm. Hình thức tổ chức kinh doanh là các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác, các
cửa hàng hợp tác xã mua bán còn tồn tại ở các vùng nông thôn, thị xã, thành
phố. Nó có đóng góp tích cực vào việc bảo đảm đời sống của dân cư và giao
lưu hàng hóa công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn. Trong
những năm đổi mới, tổng giá trị sản lượng của khu vực hợp tác xã đã tăng liên
tục. Năm 1998, tổng sản phẩm trong nước do khu vực kinh tế hợp tác xã tạo
ra đạt 32.979 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 1997. Năm 1999 đạt khoảng
35.100 tỷ đồng, tăng 6,6% so với năm 1998 và chiếm 9% GDP của cả nước.
Doanh số bán của các hợp tác xã thương mại năm 1998 tăng 6%.
2.1.2.3. Các doanh nghiệp thương mại tư nhân.
Đây là các doanh nghiệp do tư nhân trong nước bỏ vốn thành lập và tổ
23
chức kinh doanh. Các doanh nghiệp này phải tự bỏ vốn, bảo toàn vốn, tự tìm
kiếm thị trường. Các doanh nghiệp tư nhân lớn ở nước ta chưa nhiều nhưng
tiềm năng và sức mạnh của nó không phải là nhỏ.
2.1.2.4. Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành
lập tại Việt Nam. Doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài được
thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo
pháp luật Việt Nam. Các doanh nghiệp thương mại 100% vốn đầu tư nước ngoài
thường là các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài thành lập tại Việt
Nam để tiêu thụ các sản phẩm của các hãng nước ngoài tại Việt Nam.
2.1.2.5. Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đây là hình thức biểu hiện sự kết hợp và giao lưu các thành phần kinh tế.
các doanh nghiệp này có đặc điểm là chế độ sở hữu vốn, tài sản không thuần
nhất. Đơn giản nhất là các doanh nghiệp liên doanh giữa các thành phần kinh
tế hoặc giữa các bên của Việt Nam và các bên nước ngoài. Ở nước ta, công ty
trách nhiệm hữu hạn có hai loại: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên.
Xu hướng các doanh nghiệp thương mại là Công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn sẽ ngày càng phát triển.
2.1.2.6. Hệ thống tiểu thương.
Đây là hệ thống cửa hàng, quầy hàng, điểm bán hàng của cá nhân. Lực
lượng này rất đông đảo và rất khó quản lý. Thành phần tham gia rất đa dạng:
cán bộ nhân viên Nhà nước về hưu, mất sức và các tầng lớp dân cư. Kinh
doanh hàng hóa dịch vụ rất đa dạng và nhiều người trong số họ không có
đăng ký kinh doanh.
Ưu thế của tiểu thương thể hiện trong việc đáp ứng tốt các yêu cầu nhỏ
lẻ, không thường xuyên, nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của thị trường. Là lực
lượng đáng kể, hệ thống tiểu thương cần mẫn đáp ứng nhu cầu của dân cư và
điều tiết hàng hóa giữa các vùng. Một số tiểu thương kinh doanh có hiệu quả, có
thể tích lũy mở rộng kinh doanh và chuyển thành các doanh nghiệp tư nhân.
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ
24
TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA.
2.2.1. Thị trường trong nước phát triển mạnh.
2.2.1.1. Quy mô ngày càng tăng.
Trong những năm qua quy mô thị trường trong nước đã tăng liên tục,
trước hết phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các đơn vị tham
gia hoạt động thị trường, bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và đông đảo hộ kinh doanh cá thể. Mạng lưới chợ, các điểm bán hàng
hóa và kinh doanh dịch vụ phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Đặc
biệt, các loại hình thị trường "văn minh" như trung tâm thương mại, siêu thị
và các loại khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn cao cũng được hình thành và
phát triển trong những năm vừa qua. Tình hình này được thể hiện qua các số
liệu dưới đây:
Về số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại dịch vụ: Năm
1991 có 1.774 doanh nghiệp nhà nước, năm 1995 có 10.806 doanh nghiệp và
năm 1999 có 16.226 doanh nghiệp. Trong số hơn 12.000 doanh nghiệp mới
được thành lập của năm 2.000 có tới 3.000 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ,
nâng tổng số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, nâng tổng số doanh nghiệp
thương mại dịch vụ đến cuối năm 2000 lên đạt 19.226 doanh nghiệp, gấp
10,8 lần năm 1991. Như vậy, trong 10 năm 1991 - 2000 số lượng doanh
nghiệp thương mại, dịch vụ đã tăng 17.457 doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh
nghiệp thương mại, dịch vụ trong tổng số doanh nghiệp của cả nước cũng
tăng lên nhanh chóng, từ chỗ chỉ chiếm 12% năm 1990 đã tăng lên chiếm
46% vào năm 1999.
Số điểm bán hàng hóa và kinh doanh các dịch vụ phục vụ đời sống cũng
tăng lên đáng kể. Năm 1991 cả nước có 26.909 điểm, nhưng đến năm 1999 đã
có 38.000 điểm bán hàng và kinh doanh dịch vụ. Nếu kể cả hộ kinh doanh thì
con số này còn lớn hơn nhiều.
Số hộ cá thể tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ gia tăng nhanh
chóng. Năm 1991 cả nước có 631 ngàn hộ kinh doanh, năm 2000 đã tăng lên
đạt 1,1 triệu hộ, gấp 2 lần năm 1991. Nếu so với tổng số hộ sản xuất kinh
25
doanh (trừ hộ sản xuất nông nghiệp) thì hộ cá thể kinh doanh thương mại,
dịch vụ chiếm trên 60%.
Mạng lưới chợ (hình thức truyền thống của thị trường) đã được củng cố
và phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Năm 1994 cả nước có 4.763 xã
có chợ thì đến năm 1999 toàn quốc có 8.231 chợ, bình quân 0,8 chợ/xã.
Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ và triển lãm hàng hóa
cũng được hình thành và phát triển. Tại các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... loại hình phục vụ mới, văn
minh, lịch sự và hiện đại đang trở nên phổ biến.
Về tình hình phát triển thương mại ở các vùng trong nước thì vùng Đông
Nam Bộ có số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nhiều nhất với 5571 doanh
nghiệp vào cuối 1999, thứ nhì là đồng bằng sông Hồng với 3075 doanh
nghiệp. Theo số liệu thống kê thì số doanh nghiệp thương mại, dịch vụ tại
Các loại doanh nghiệp
TNHH DNTN CTCP DNTT DTNN
27
102
42
Vùng 1. Đồng bằng sông Hồng
Tổng số DNTMDV 3075
DNN N 540
1594
806
2. Đồng bằng Bắc Bộ
643
171
115
316
3
35
3
3. Tây Bắc Bắc Bộ
90
51
6
28
1
4
4. Bắc Trung Bộ
642
165
86
364
6
20
1
1545
128
202
1178
5
29
5
5. Duyên hải Nam Trung Bộ
6. Tây Nguyên
808
80
39
682
3
2
2
7. Đông Nam Bộ
5571
307
1688
3400
36
81
59
3852
172
286
3559
4
26
5
8. Đồng bằng Sông Cửu Long
Cả nước
85
3816
16226
10333
299
117
1576 Chú thích: + DNTMDV: Doanh nghiệp thương mại, dịch vụ +DNNN: Doanh nghiệp nhà nước + TNHH: Trách nhiệm hữu hạn + DNTN: Doanh nghiệp tư nhân + CTCP: Công ty cổ phần + DNTT: Doanh nghiệp tập thể
thời điểm 31/12/1999 phân theo địa phương như sau:
26
+ DTNN: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ tăng lên đáng kể theo
các vùng trong cả nước. Tính đến năm 1999 cả nước có 1501,6 nghìn người
tham gia thì đến năm 2000 đã tăng lên 1584,8 nghìn người tham gia, tăng
83,2 nghìn người. Đồng bằng sông Hồng có 262,1 nghìn người tham gia năm
2000 chiếm 16,54% số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ trong
cả nước. Đông Nam Bộ có số người tham gia là lớn nhất với 431,7 nghìn
người (năm 2000) chiếm 27,24% cả nước.
Theo số liệu thống kê thì số người kinh doanh thương mại, dịch vụ phân
theo địa phương như sau:
Năm
1995
1997
1998
1999
2000
Khu vực 1. Đồng bằng sông Hồng
212,1
245,6
243,7
253,1
262,1
2. Đồng bằng Bắc Bộ
124,2
93,8
92,3
97,9
109,3
3. Tây Bắc Bắc Bộ
17,5
16,2
16,6
17,2
17,8
4. Bắc Trung Bộ
139,2
119,6
123,0
130,2
135,6
5. Tây Nguyên
53,6
50,3
56,1
59,0
64,4
6. Đông Nam Bộ
425,9
312,0
384
401,7
431,7
441,2
400,4
409,4
409,9
427,2
7. Đồng bằng Sông Cửu Long
149,3
151,1
130,3
132,5
136,7
8. Duyên hải Nam Trung Bộ
1584,8
1563,0
1389,0
1455,4
1501,6
Cả nước Nhìn chung số lượng các đơn vị tham gia hoạt động thị trường của cả
Đơn vị: Nghìn người
nước và từng khu vực trong nước trong thời gian qua đều tăng theo các năm
tạo thêm động lực thúc đẩy thương mại nước ta phát triển.
Quy mô ngày càng tăng không thể tính đến sự gia tăng nhanh chóng tổng
mức lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ ngày càng tăng, năm 2000 đã đạt 219.400 tỷ đồng, gấp 11,52 lần năm
1990 và 565,8 lần năm 1986, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 216.300
tỷ đồng (gồm khu vực nhà nước 40.000 tỷ đồng, ngoài quốc doanh 176.300 tỷ
27
đồng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3100 tỷ đồng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng liên tục trong 10 năm qua với
mức tăng bình quân hàng năm là 27.7% (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng
10,3%/năm).
Mức bán lẻ bình quân đầu người/năm cũng tăng đáng kể, từ 0,3 triệu
đồng năm 1990 lên 1,7 triệu đồng năm 1995 và 2,8 triệu đồng năm 2000.
Dưới đây là một số chỉ tiêu về quy mô thị trường giai đoạn 1991 - 2000
Số điểm
Tổng mức bán lẻ hàng hóa
Số lượng
Hộ cá thể
bán hàng
và dịch vụ tiêu dùng xã hội
doanh
và cung
Tỷ trọng hồ
Chỉ số phát
nghiệp
Số lượng
Tổng mức
cấp dịch vụ
TMDV trong
triển so với
thương mại,
hộ (nghìn
(Nghìn tỷ
(Nghìn
tổng số hộ
năm trước
dịch vụ
đồng)
hộ)
điểm)
(%)
%
1774
1991
630
27
33
175,5
1774
1992
698
65,5
24
51
153,3
5444
1993
743
62,1
22
67
131,4
8029
1994
793
62,0
22
93
139,0
10806
1995
1160
65,1
26
121
129,6
14871
1996
840
57,7
31
196
120,4
15685
1997
949
61,0
34
162
111,0
14306
1998
1058
66,3
37
186
114,6
16226
1999
1089
63,9
38
201
108,3
19226
2000
1100
219
109,2
của nước ta.
2.2.1.2. Các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hóa phát triển mạnh.
Trong những năm gần đây các doanh nghiệp thương mại đã tăng cả về số
lượng, chất lượng phục vụ do áp dụng nhiều hình thức dịch vụ thương mại cả
trước, trong và sau khi bán hàng và đã phục vụ mọi nhu cầu của khách hàng,
chiếm lĩnh được thị trường nội địa, là thị trường quan trọng của doanh nghiệp
28
thương mại nước ta.
Nhiều hình thức dịch vụ thương mại tiến bộ trên thế giới được các doanh
nghiệp thương mại vận dụng như việc tổ chức các hội chợ, quảng cáo, tiếp
thị, khuyến mại, bán hàng qua điện thoại, fax, bán và chuyển hàng tận nơi
theo yêu cầu của khách hàng.
Các doanh nghiệp thương mại nước ta phát triển rộng khắp đất nước,
thâm nhập vào các thị trường, đặc biệt là các thành phố khác với mọt hệ thống
các chi nhánh, đại lý phân phối hợp lý, đội ngũ nhân viên được đào tạo
chuyên ngành thương mại, phần lớn có bằng đại học dùng phương tiện xe
máy, ô tô chuyển hàng đến tận các đại lý nhỏ hơn, các cửa hàng bán lẻ hoặc
đến tận người tiêu dùng. Cách phân phối này đã giúp cho doanh nghiệp
thương mại nắm bắt được tình hình thị trường, thu nhập được các yêu cầu về
sản phẩm của người tiêu dùng và trở thành cầu nối giữa người sản xuất và
người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp thương mại nước ta còn mở các chi nhánh, đại lý phân
phối đến tận các thị trấn, xã, khu vực nông thôn nhằm khai thác tiềm năng ở
thị trường này. Bởi vì nước ta phần lớn là làm nông nghiệp (chiếm 80% dân
số), thu nhập của người dân được tăng lên đáng kể do đó nhu cầu về hàng hóa
cũng tăng lên. Thị trường nông thôn cần các loại hàng hóa giá rẻ, chất lượng
trung bình. Đồng thời các doanh nghiệp thương mại có thể thu mua hàng
nông sản ở thị trường này và đem bán ở các thành phố hoặc xuất khẩu. Nhìn
chung DNTM nước ta đã nâng cao được hiệu quả kinh doanh thông qua
chiếm lĩnh thị trường nội địa.
2.2.1.3. Hình thành được thị trường cạnh tranh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ngoài 3 lực lượng truyền thống là
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã mua bán và hộ tư thương đã xuất hiện
thêm nhiều thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
29
Số lượng các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng, trong đó tăng nhanh
nhất là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 1993, hai
loại hình này mới có 3415 doanh nghiệp, đến năm 1999 đã có 14.149 doanh
nghiệp. Số lượng doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm từ 1799 doanh nghiệp
năm 1993 xuống còn 1576 doanh nghiệp năm 1999 nhưng doanh nghiệp nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, trước hết là định hướng phát triển.
Khái niệm "cạnh tranh" cũng chỉ mới được sử dụng dè dặt trong những
năm đầu của thập kỷ 90, nhưng đến nay đã trở thành phổ biến và được chấp
nhận như một tất yếu. Có thể nói thị trường cạnh tranh đã được tạo dựng
trong giai đoạn này, nhờ đó đã tạo ra được luồng sinh khí mới, động lực mới
cho thương mại Việt Nam. Đây là một thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan
trọng trong những năm qua đối với nền kinh tế nói chung và đối với thương
mại Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực
thương mại ở nước ta có đặc điểm khác với nhiều nước trên thế giới, đó là
thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong bán buôn và chi
phối bán lẻ. Nhà nước quan tâm đếnd miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa,
can thiệp vào thị trường trong trường hợp cần thiết để bình ổn thị trường và
luôn đóng vai trò quan trọng là dẫn đến các thành phần kinh tế khác phát
triển.
2.2.2. Thị trường ngoài nước được mở rộng và phát triển.
2.2.2.1. Tăng tổng mức lưu chuyển ngoại thương.
Đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước đã đem lại những
kết quả kỳ diệu cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động xuất nhập khẩu
trong thời kỳ 1991 - 2000 nói riêng. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm
2000 ước tính đạt 29,5 tỷ USD, gấp 6,5 lần năm 1989. Tổng mức lưu chuyển
hàng hóa xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm những năm 1990 - 2000 đạt 14,3
tỷ USD, gấp 215 lần mức bình quân thời kỳ 1981 - 1990.
1990 - 2000
Chia ra
Mức lưu chuyển ngoại thương và cán cân thương mại hàng hóa
30
1990 -
1996 - 2000
1995
1. Mức lưu chuyển ngoại thương bình quân năm (tỷ
14,3
7,5
22,5
USD)
+ Xuất khẩu bình quân năm (tỷ USD)
6,5
3,3
10,3
+ Nhập khẩu bình quân năm (tỷ USD)
7,8
4,2
12,2
2. Cán cân thương mại hàng hóa (xuất-nhập) (Tỷ
-1,3
-0,9
-1,9
USD)
3. Tỷ lệ nhập siêu (%)
21,6
30,6
18,2
Số lượng đơn vị tham gia xuất nhập khẩu đã tăng lên nhanh chóng qua
các thời kỳ. Năm 1985 chỉ có 40 đơn vị do Nhà nước quản lý trực tiếp xuất
nhập khẩu, năm 1990 có 270 đơn vị nhưng đến nay đã có trên 12000 đơn vị
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó có cả các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quan hệ quốc tế những năm vừa qua đã có những thay đổi thông qua
việc tham gia tổ chức quốc tế và khu vực như hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN-1995). Diễn đàn Kinh tế các nước Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC-1998), nối lại quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và trở thành quan sát
viên của WTO (1995), Ký hiệp định thương mại với 61 nước trong đó có Mỹ
(tháng 7/2000).
Năm 1990 nước ta mới có quan hệ buôn bán với trên 50 nước và vùng
lãnh thổ, năm 1995 con số này là 100 và đến nay đã là trên 170. Quan hệ
thương mại ngày càng mở rộng tới các Châu lục, các khối kinh tế khu vực và
quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu đã dần tạo được chỗ đứng vững chắc, mở
ra những tiềm năng mới trong tương lai.
2.2.2.2. Hoạt động nhập khẩu được tăng cường theo hướng tích cực.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, nhập khẩu đã tăng trưởng với tốc độ khá.
Những mặt tích cực của hoạt động nhập khẩu thời kỳ 1991 - 2000 thể hiện ở
một số điểm sau:
31
* Nhập khẩu đã hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược
phát triển xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu thiết yếu của sản xuất,tiêu dùng
trong nước.
* Cơ cấu nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liêu sản xuất,
giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng.
* Thị trường nhập khẩu mở rộng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng
cao, góp phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng Việt Nam.
Thời kỳ 1990 - 2000 nhập khẩu đạt tốc độ tăng bình quân là 17.5% mỗi
năm. Riêng nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1994 -
2000 tăng bình quân 39% mỗi năm và chiếm 20,7% tổng kim ngạch nhập
khẩu của cả nước, khu vực trong nước tăng 22% và chiếm 79,3%.
Hiện nay nước ta đã nhập khẩu hàng hóa với trên 130 nước và vùng lãnh
thổ. Thị phần chủ yếu là các nước châu Á, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc
chiếm vị trí quan trọng. Nhập khẩu từ các nước ASEAN tăng lên nhanh
chóng, cơ cấu thị trường đã thay đổi phần nào thể hiện đường lối tăng cường
hội nhập khu vực phù hợp với đặc điểm sản xuất, tiêu dùng, khả năng đầu tư
và vận tải của nước ta). Tỷ trọng thị trường nhập khẩu chủ yếu thời kỳ 1990 -
1995: châu Á chiếm 66,9%, Đông Âu 10,5%; EU 10,2% và Mỹ 0,7% sang
thời kỳ 1996 - 2000: Châu Á 71,95, Đông Âu 2,2%, EU 10% và Mỹ 2,4%.
Tỷ trọng một số thị trường nhập khẩu chủ yếu những năm 1999 - 2000.
Thời kỳ
1990 - 1995
1996 - 2000
Thị trường nhập khẩu
1. Châu á
66,9
71,9
Trong đó: ASEAN
28,9
27,7
Ngoài ASEAN
38,0
50,2
2. Đông Âu
10,5
2,2
3. EU
10,2
10,0
Đơn vị: %
32
4. Mỹ
0,7
2,4
Về cơ cấu hàng nhập khẩu: thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư liệu
sản xuất, máy móc, thiết bị kỹ thuật, giảm hàng tư liệu tiêu dùng. Năm 1990
thiết bị toàn bộ và máy móc dụng cụ chiếm 27,4% tổng kim ngạch nhập khẩu,
năm 2000 tăng lên gần 40%. Nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất luôn
chiếm tỷ trọng cao và tăng hàng năm, từ 59,4% năm 1990 tăng lên 63,8%
năm 2000. Hàng tiêu dùng giảm tương đối, năm 1990 chiếm 13,2% tổng kim
ngạch nhập khẩu, năm 1995 là 15,2% và năm 2000 còn 5,3%.
Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu theo các năm
Năm
1990
2000
Mặt hàng nhập khẩu
1. Máy móc, thiết bị
27,4
40
2. Nguyên vật liệu sản xuất
59,4
63,8
3. Hàng tiêu dùng
13,2
5,3
Đơn vị: %
33
2.2.2.3. Thị trường xuất khẩu được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa
phương hóa các quan hệ kinh tế.
Kết quả nổi bật của hoạt động xuất khẩu những năm vừa qua thể hiện
trên các mặt sau:
* Tăng trưởng xuất khẩu cao và liên tục.
* Sự tham gia của các ngành, các thành phần kinh tế trong đó có sự đóng
góp tích cực của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp với nước ngoài.
* Thị trường xuất khẩu mở rộng.
* Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm c
chỉ biến.
* Một số mặt hàng chủ lực, đóng góp lớn cho tăng trưởng xuất khẩu dần
dần được khẳng định.
Đường lối phát triển kinh tế của Đảng đã được cụ thể hóa bằng nhiều
chính sách kinh tế vĩ mô, trực tiếp và gián tiếp khuyến khích xuất khẩu. Nếu
lấy năm 1989 làm gốc thì tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1990 - 2000
của xuất khẩu cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng GDP. Tỷ trọng xuất khẩu trong
GDP và kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăgng, năm
2000 đã đạt mức xuất khẩu bình quân 184USD/người, đưa nước ta ra khỏi
danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển.
Chia ra
1990 - 2000
1990 -
1996 - 2000
1995
1. Xuất khẩu bình quân đầu người
89
47
136
(USD)
2. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP (%)
33,6
26,4
37,0
Xuất khẩu bình quân đầu người so với GDP
Từ đầu những năm 90, một số ngành công nghiệp khai thác và chế biến
đã phát triển mạnh hơn. Cơ cấu hàng xuất khẩu theo ngành kinh tế quốc dân
đã thể hiện xu hướng đó. Bình quân thời kỳ 1995 - 2000, trong tổng trị giá
34
xuất khẩu, sản phẩm nông nghiệp chiếm tỷ trọng 14,5%, công nghiệp khai
thác 20,3%, công nghiệp chế biến 63,3%. Đáng chú ý là trong 3 nhóm sản
phẩm xuất khẩu trên thì sản phẩm công nghiệp chế biến có tốc độ bình
quân cao nhất (34%), tiếp theo là công nghiệp khai thác (29%) và nông lâm
sản 14%.
Thời kỳ 1991 - 2000 cũng đánh dấu bước tiến quan trong của một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực. Đó là sự xuất hiện và gia tăng nhanh chóng của một
số mặt hàng mới như gạo, hàng điện tử, máy tính, hàng dệt may, giày dép,
hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản, cà phê, hạt điều... Nếu như năm 1989 mới
chỉ có 2 mặt hàng có trị giá xuất khẩu trên 200 triệu USD thì đến nay có 10
mặt hàng, trong đó 4 mặt hàng vượt qua mức 1 tỷ USD vào năm 2000 là dầu
thô, hàng may mặc, giày dép và thuỷ sản. Trước đây xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực này chiếm 60% hiện nay chiếm 75 - 80%.
Chất lượng hàng xuất khẩu được nâng lên đáng kể, một số mặt hàng đã
có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và có tác động tích cực tới chất
lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay các mặt hàng gạo, dầu thô, thuỷ hải sản
hàng dệt may, giày dép, cà phê, nhân điều, hạt tiêu của nước ta đã được thừa
nhận đạt hoặc xấp xỉ chất lượng quốc tế.
Tỷ trọng bình quân
Chỉ số phát triển
1990 -
bình quân năm
1996 - 2000
1995
1. Dầu thô
23,5
18,8
130,0
2. Hàng dệt may
10,5
14,5
124,8
3. Giày dép
2,7
10,3
157,3
4. Hàng thuỷ sản
12,4
9,2
119,6
5. Gạo
11,6
8,6
107,6
6. Cà phê
6,6
5,0
117,7
7. Cao su
3,0
1,7
112,4
Đơn vị: %
35
8. Hàng thủ công mỹ nghệ
2,4
1,4
101,5
9. Hạt điều
1,5
1,1
137,5
10. Hàng rau quả
1,1
1
110,8
11. Hạt tiêu
0,6
0,9
124,8
Về thị trường, thay vì trao đổi hàng hóa chủ yếu với thị trường Liên Xô -
Đông Âu trước đây, hàng hóa Việt Nam đã thâm nhập ngày càng nhiều vào
thị trường. Nhật Bản, ASEAN, Đông Bắc Á, EU và Bắc Mỹ. Việc thâm nhập
vào thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ đã đem lại hiệu quả cao cho hoạt
động ngoại thương và đã khẳng định sự tiến bộ về chất lượng hàng hóa của
nước ta vì đã đáp ứng khách hàng ở những thị trường khó tính. Năm 1995,
nước ta và Mỹ bình thường hóa quan hệ, hoạt động thương mại giữa hai nước
bắt đầu phát triển và hiện nay kim ngạch xuất khẩu tăng gần gấp đôi năm đầu.
Buôn bán với các nước Châu Phi và Châu Đại Dương được mở rộng. Năm
1989 xuất khẩu tới khu vực này chưa vượt qua con số 1 triệu USD, hiện nay
Châu Phi đạt gần 70 triệu USD và Châu Đại dương đạt trên 1,1 tỷ USD.
Sự thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu đã góp phần đưa kinh tế nước ta
vượt qua những giai đoạn khó khăn khi thế giới diễn ra những biến động lớn
về chính trị đầu những năm 90, hoặc khủng hoảng kinh tế khu vực 1997 -
1998. Ngoài ra trong hai năm gần đây chúng ta đã thực hiện chủ trương khôi
phục thị trường Đông Âu, là thị trường truyền thống của ngoại thương nước
ta. Thị trường này cần nhập khẩu hàng nông sản, nông sản chế biến, thủ công
mỹ nghệ, hàng may mặc, giày dép mà những mặt hàng này lại là thế mạnh
của nước ta.
2.3. NHỮNG NGUYÊN NHÂN ĐẠT ĐƯỢC THÀNH TỰU TRÊN.
2.3.1. Sự chuyển đổi nền kinh tế.
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ Đại
hội VI đến nay đã trải qua hơn 16 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những
thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội VI đánh dấu một bước ngoặt trong đổi mới
cơ chế, chính sách và quản lý kinh tế nói chung, thị trường và thương mại,
36
dịch vụ nói riêng. Công cuộc đổi mới chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh
tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa phát triển theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chuyển việc mua bán hàng hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
mua bán theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thương mại được tự do
buôn bán, tự do kinh doanh, bảo đảm quyền tự chủ trong kinh doanh, thực
hiện tốt hơn chức năng lưu thông hàng hóa của mình trên cơ sở có sự quản lý
của nhà nước, hướng theo chủ nghĩa xã hội. Nhiều doanh nghiệp thương mại
ra đời: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể (hợp tác xã), công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh liên kết với nước
ngoài, doanh nghiệp tư nhân.
Thị trường chuyển từ trạng thái chia cắt khép kín theo kiểu địa giới hành
chính sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật,
nhu cầu của người dân được đáp ứng kịp thời, giá cả được hình thành trên giá
trị và quan hệ cung - cầu.
Trong thời gian qua, thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại
nước ta rất phát triển, đặc biệt là sau nghị quyết 12 của Bộ Chính trị về "Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa (1996). Trong 16 năm đổi mới (1986 - 2002)
tình hình thị trường và hoạt động thương nghiệp đã đạt được những thành tựu
quan trọng góp phần tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và
vị thế mới trên thị trường nước ngoài.
2.3.2. Sự phát triển của các ngành sản xuất.
Trong mấy năm gần đây, ở nước ta đã xây dựng và phát triển nhiều khu
công nghiệp, nhiều nhà máy, xí nghiệp ra đời sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của người dân. Nhiều nhà máy được xây dựng trước đây nay
cũng được đầu tư, nâng cấp để sản xuất ra hàng hóa chất lượng tốt hơn với giá
37
thành hạ. Vì vậy lượng hàng hóa do các cơ sở sản xuất trong nước cung cấp là
rất dồi dào, nhiều chủng loại, cả hàng công nghiệp và hàng nông nghiệp.
Nhằm đẩy nhanh tốc độ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hình thành liên doanh liên kết với nước ngoài được phát triển giúp cho
các cơ sở sản xuất trong nước áp dụng được kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất
với công nghệ dây chuyền, sản xuất hàng loạt nâng cao năng suất lao động,
chất lượng hàng hóa tốt hơn, đẹp hơn. Hàng công nghiệp được cải tiến mẫu
mã, tăng độ bền, giá cả phù hợp. Nhiều mặt hàng công nghiệp, đặc biệt hàng
công nghiệp nhẹ được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Hàng nông
sản được chế tạo thành những mặt hàng có giá trị hơn như nước trái cây, đồ
hộp trái cây. Nhìn chung các cơ sở sản xuất trong nước đã cung cấp một
lượng hàng khá lớn đáp ứng được phần lớn nhu cầu của người dân và làm
phát triển thị trường nguồn hàng trong nước cho doanh nghiệp thương mại.
Doanh nghiệp thương mại có thị trường nguồn hàng trong nước ổn định sẽ
giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí so với nhập khẩu và đáp ứng đầy
đủ, kịp thời hơn cho người tiêu dùng.
Hiện nay nhiều mặt hàng Việt Nam chất lượng cao phù hợp với mức thu
nhập của người dân (80% làm nông nghiệp). Vì vậy dễ tiêu thụ hơn so với
hàng ngoại. Nhiều doanh nghiệp thương mại kinh doanh hàng Việt Nam đã
đạt được hiệu quả cao.
Nâng cao năng lực sản xuất trong nước, phát triển nguồn hàng trong
nước còn là chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
2.3.3. Xóa bỏ độc quyền của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Việc xóa bỏ độc quyền của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa đã tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế tham gia xuất nhập
khẩu hàng hóa, trong đó có khu vực tư nhân. Do đó số lượng các đơn vị xuất
nhập khẩu tăng lên nhanh chóng. Những quy định, thủ tục rườm rà từng bước
được xóa bỏ. Đầu những năm 90, các đơn vị muốn tham gia xuất khẩu còn
phải đáp ứng các điều kiện về vốn tối thiểu(200 nghìn USD), về giấy phép
38
kinh doanh về giấy phép xuất nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu chuyến.
Những đến năm 1996 Nhà nước bãi bỏ giấy phép nhập khẩu chuyến (Nghị
định 89/CP ngày 15/12/1995).
Năm 1997 Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu cả
những hàng hóa ngoài đăng ký, các hàng hóa mua của đơn vị khác (Quyết
định 28/TTg ngày 13/1/1997).
Năm 1998 Quyết định 55/1998/QĐ-TTg cho phép các doanh nghiệp
được xuất khẩu hàng hóa thuộc đăng ký kinh doanh của mình mà không cần giấy
phép xuất nhập khẩu, trừ một số mặt hàng cần quản lý đặc biệt của Nhà nước.
Các chính sách khác như hỗ trợ vốn tín dụng cho người xuất khẩu,
thưởng cho các đơn vị có xuất nhập khẩu mặt hàng mới, giao quyền tự chủ
sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất.
Nhà nước đã từng bước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tạo
thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết là chính sách giá cả, tỷ
giá hối đoái, chính sách thuế...
Những hoạt động trên đã có các tác động tích cực trong việc xuất nhập
khẩu hàng hóa, phát triển thị trường nước ngoài, tăng mặt hàng ngoại phục vụ
tiêu dùng và phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.3.4. Quản lý Nhà nước về thị trường được tăng cường.
Trước hết là đã dần dần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về
thương mại và chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó sắp
xếp lại các doanh nghiệp thương mại nhà nước theo hướng tự chủ và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh, còn Bộ Thương mại và các Sở Thương
mại chỉ làm chức năng quản lý nhà nước về thương mại. Các doanh nghiệp
Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo trong lưu chuyển bán buôn và xuất
nhập khẩu.
Thứ hai là Nhà nước tạo môi trường pháp lý nhằm nâng cao vai trò quản
lý thị trường như luật thương mại, luật doanh nghiệp, luật thuế... có những
chính sách, biện pháp quản lý nguồn hàng lưu chuyển trên thị trường để ngăn
39
chặn, phát hiện và loại bỏ hàng giả, hàng kém chất lượng, chống buôn lậu,
gian lận thương mại.
2.3.5. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và khu vực.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và khu vực không những đã mở rộng được
thị trường xuất nhập khẩu mà còn làm cho chính sách thương mại được tiến
hành theo tiến trình minh bạch hóa và nhất quán, nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm thông qua lịch trình giảm thuế, loại bỏ hạn chế định lượng theo
khuôn khổ CEPT/AFTA cũng như các hiệp định khác. Và việc thực hiện tiến
trình này đã đưa kim ngạch xuất khẩu gia tăng trong những năm vừa qua.
2.3.6. Các doanh nghiệp thương mại nâng cao chất lượng phục vụ, chủ động tìm kiếm
thị trường.
Các doanh nghiệp thương mại nước ta đã nâng cao chất lượng phục vụ,
áp dụng những hình thức dịch vụ thương mại tiến bộ trên thế giới như tổ chức
các hội chợ, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại và các dịch vụ trước, trong và
sau khi bán hàng, bán và chuyển hàng đến tận nơi theo yêu cầu của khách
hàng. Vì vậy số lượng hàng hóa bán được tăng lên.
Ngoài ra doanh nghiệp thương mại chủ động tìm kiếm thị trường sẽ tạo
điều kiện tiêu thụ hàng hóa tốt hơn.
2.4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA.
2.4.1. Tuy tổng mức lưu chuyển nội thương và ngoại thương đều tăng nhưng hàng
hóa của Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho sự phát triển thị trường và thương
mại chưa vững chắc và hiệu quả kinh doanh thấp. Mặc dù doanh nghiệp
thương mại có nhiệm vụ trong lưu thông hàng hóa, có thể thực hiện xuất nhập
khẩu để có hàng ngoại tốt phục vụ nhu cầu trong nước nhưng chất lượng hàng
hóa trong nước có ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nghiệp thương mại nước
ta. Nếu hàng hóa nước ta có chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao so với
hàng ngoại thì các DNTM nước ta sẽ có nguồn hàng trong nước tốt, giảm
được chi phí so với việc nhập khẩu và các DNTM xuất khẩu hàng hóa thuận
40
lợi hơn.
Vấn đề này liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Nhưng nguyên nhân chính là quan hệ kinh tế giữa sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp và thương mại chưa được giải quyết tốt. Thiết bị máy móc sản xuất
công nghiệp lạc hậu so với thế giới từ 4 - 5 thế hệ do trình độ sản xuất của
nước ta còn kém dẫn đến chất lượng hàng hóa thấp, giá cao vì chi phí lớn.
Công nghiệp chế biến nông sản yếu kém, không tạo được hàng hóa có giá trị
cao từ sản phẩm nông nghiệp, công tác bảo quản không đạt yêu cầu. Do đó
hàng hóa đưa vào lưu thông trên thị trường không thể có sức cạnh tranh cao,
thiếu thị trường tiêu thụ là điều dễ hiểu.
Yêu cầu của DNTM là bán hàng hóa phải có lãi. Vì vậy các DNTM sẽ
chuyển sang kinh doanh các hàng hóa dễ tiêu thụ hơn. Vì vậy các doanh
nghiệp sản xuất cần tạo ra hàng hóa có sức cạnh tranh cao là yêu cầu cấp bách
hiện nay.
2.4.2. Các DNTM chưa làm tốt vai trò hướng dẫn tiêu dùng và tổ chức thông tin thị
trường để định hướng cho sản xuất.
Các DNTM muốn có một thị trường hàng hóa ổn định thì cần phải nắm
bắt nhu cầu của người tiêu dùng, hướng dẫn tốt tiêu dùng. Tức là DNTM phải
phân tích cho người tiêu dùng biết được lợi ích của hàng hóa này so với hàng
hóa khác về chất lượng, giá cả hoặc được bảo hành sau khi bán sẽ tạo niềm tin
cho khách hàng. Các DNTM nước ta chưa làm tốt vai trò này nên chưa phát
huy hết tiềm năng của thị trường. Cụ thể là nhiều người tiêu dùng ham rẻ mua
phải hàng lậu, hàng kém chất lượng dễ hỏng.
Mặt khác các DNTM còn chưa tổ chức tốt thông tin thị trường để định
hướng cho sản xuất nên dẫn đến tình trạng sản xuất thừa, hàng hóa khó tiêu
thụ vì cung vượt cầu.
2.4.3. Thị trường nước ngoài mới phát triển được bề rộng chưa phát triển được bề
sâu.
Đến nay nước ta quan hệ buôn bán với hơn 170 nước và khu vực nhưng
các DNTM nước ta chưa khai thác hết tiềm năng của các thị trường rộng lớn.
41
Phát triển thị trường nước ngoài theo cả bề rộng, cả bề sâu đòi hỏi sự tham gia
tích cực của các cấp các ngành và nâng cao năng lực hoạt động xuất nhập
khẩu của các DNTM.
Chỉ tiêu để xác định mức độ xâm nhập vào thị trường nước ngoài là số
lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa được xuất và bán ở thị trường đó như
thế nào. Để tăng được bề sâu ở thị trường nước ngoài các DNTM phải tạo
được số lượng lớn hàng hóa hoặc nhiều chủng loại hàng hóa vào một thị
trường. Để làm được điều này các DNTM cần có vốn lớn, có đủ điều kiện để
tham gia xuất khẩu hàng hóa và biết cách xâm nhập thị trường nước ngoài.
2.4.4. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra thường xuyên và ngày càng
tinh vi.
Buôn lậu hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đến các DNTM. Vì hàng buôn
lậu thường rẻ hơn rất nhiều so với hàng mà các DNTM mua để bán.
Tình hình buôn lậu hàng hóa qua biên giới Việt Nam - TrungQuốc, Việt
Nam - Lào, Việt Nam - Thái Lan và cả đường biển diễn ra phức tạp, gây mất
ổn định thị trường hàng hóa. Hàng Trung Quốc rất rẻ mà được nhập lậu vào
Việt Nam thì càng rẻ làm cho hàng Việt Nam, hàng nhập khẩu khó tiêu thụ
làm cho các DNTM khó tiêu thụ hàng hóa.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để ngăn chặn được tình trạng buôn lậu và
gian lận thương mại để ổn định thị trường, tạo công bằng cho các doanh
nghiệp thương mại.
2.4.5. Khung pháp lý cho hoạt động thương mại bước đầu đã thông thoáng nhưng thể
chế kinh tế thị trường còn chưa hoàn chỉnh.
Thực trạng của hệ thống thể chế được nhiều doanh nghiệp gọi là "5
không": không minh bạch, không đồng bộ, không nhất quán, không sát thực
tế và không thống nhất. Môi trường pháp lý ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
kinh doanh của DNTM, đặc biệt là đối với DNTM xuất nhập khẩu. Cần có
một thể chế kinh tế thị trường rõ ràng hơn, cụ thể hơn, đồng bộ, nhất quán,
thực tế, nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất để các DNTM tổ chức tốt lưu thông
42
hàng hóa và phát triển thị trường hàng hóa của mình.
Công tác quản lý nhà nước về thương mại, ban hành các văn bản pháp
luật, cơ chế, chính sách, hướng dẫn và quản lý hoạt động thương mại, dịch vụ
còn yếu kém và hiệu quả thấp. Do thiếu nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện
cụ thể trong lĩnh vực thương mại đã làm hạn chế hiệu lực của các văn bản
pháp quy, hệ thống pháp luật, Luật thương mại khó đi vào thực tiễn cuộc
sống kinh doanh.
43
CHƯƠNG 3
NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG
HÓA CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG
THỜI GIAN TỚI
3.1. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG.
3.1.1. Thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 Đảng và Nhà
nước ta đã chỉ rõ nhiệm vụ của ngành thương mại trong thời gian tới là: "Phát
triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở
rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hình thành các
trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn, nhất là ở miền núi, bảo đảm
cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo, tạo
thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản, phát triển thương mại điện tử. Nhà nước,
các hiệp hội, các doanh nghiệp phối hợp tìm kiếm, mở rộng thị trường cho sản
phẩm Việt Nam".
Như vậy phát triển thị trường hàng hóa nằm trong chiến lược phát triển
thị trường của thương mại Việt Nam. Phát triển thị trường hàng hóa nói chung
và phát triển t hàng hóa của doanh nghiệp thương mại (DNTM) nói riêng sẽ
góp phần quan trọng thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển. Thông qua
việc tổ chức tốt thị trường và lưu thông hàng hóa làm cho thương mại thực sự
là đòn bảy sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao
động xã hội, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, thực hiện phân phối
và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý, tăng tích lũy cho ngân
sách Nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân.
Mục tiêu phấn đấu trong những năm tới 2001 - 2005 là phát triển, mở
rộng và đa dạng hóa thị trường, tổng mức lưu chuyển hàng hóa tăng từ 11 -
14%/năm, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, giảm nhập khẩu hàng hóa.
3.1.2. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại.
44
Bên cạnh những thành tựu đạt được, các DNTM nước ta còn những hạn
chế, chưa đạt được hiệu quả kinh tế cao trong việc lưu thông hàng hóa. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng chỉ ra những thiếu
sót và khuyết điểm làm phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần có chủ
trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng cho sự
phát triển.
Những tồn tại đó là: "Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại
làm mất ổn định thị trường, gây thiệt hại lớn cho các DNTM, lĩnh vực xuất
khẩu có những hạn chế về tạo nguồn hàng, chất lượng, sức cạnh tranh, xuất
khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô còn chiếm tỷ trọng lớn, nhiều mặt
hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian hoặc chỉ gia công nên hiệu quả kinh
tế thấp.
Vì vậy phát triển thị trường hàng hóa sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh
cho các doanh nghiệp thương mại. Mục tiêu trong thời gian tới là nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo nguồn hàng đầy đủ, kịp thời cho DNTM,
hạn chế buôn lậu, gian lận thương mại đảm bảo cho các DNTM có thị trường
ổn định, hướng vào thị trường nội địa, mở rộng thị trường nước ngoài. Đây là
vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với DNTM. Bởi vì thị trường hàng hóa
vừa là môi trường hoạt động và là mục tiêu của DNTM.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho các DNTM phát
triển kinh doanh hàng hóa ở vùng sâu, vùng xa và hải đảo cũng không ngoài
mục đích bảo đảm hiệu quả kinh doanh cho các DNTM.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNTM phải đối mặt với
nhiều rủi ro, tổn thất. Phát triển thị trường kết hợp với nhiều biện pháp hạn
chế nguy cơ rủi ro, tổn thất trên thị trường nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh, chủ động tìm kiếm giảm nhẹ chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh và
duy trì sự phát triển bền vững.
3.1.3. Tăng xuất khẩu, giảm thiểu nhập khẩu.
Từ tình hình thực tiễn trong và ngoài nước, căn cứ các mục tiêu chiến
45
lược chung về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã định hướng
nội dung cơ bản của Thương mại Việt Nam cho kỷ nguyên mới là: "Tăng tốc
độ tăng trưởng thương mại về mọi mặt. Bảo đảm cán cân thương mại ở mức
hợp lý; mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh, hội
nhập thẳng vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự
phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và
các nước trong khu vực".
Về quy mô và tốc độ tăng trưởng.
Theo dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001 - 2010 thì
đến năm 2010 GDP sẽ tăng gấp đôi so với năm 2000, bình quân tăng khoảng
7,2%/ năm. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu phải gấp đôi tốc độ tăng trưởng
GDP, tức là khoảng +14%/năm. Chiến lược đã đề ra phương án phấn đấu thực
hiện như sau:
1. Về xuất khẩu.
a. Xuất khẩu hàng hóa.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2010 là 15%/năm. Trong
đó thời kỳ 2001 - 2005 tăng 16%/năm thời kỳ 2006 - 2010 tăng 14%/năm.
- Giá trị tăng từ 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 54,6 tỷ USD năm 2010 (tức
là gấp 4 lần).
- Tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa so với GDP tăng từ 29,5% trong thời kỳ
1991 - 2000 lên 71,1% cho toàn kỳ 2001 - 2010.
b. Xuất khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2010 là 15%/năm.
- Giá trị tăng từ 2 tỷ USD năm 2000 lên 8,1 tỷ USD năm 2010 (tức là
gấp hơn 4 lần).
- Tỷ trọng so với GDP tính trung bình cho thời kỳ 2001 - 2005 là 10,3%.
c. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
- Giá trị tăng từ 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 62,8 tỷ USD vào năm
2010 (hơn 4 lần).
46
- Tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ so với GDP tính chung cho toàn
kỳ 2001 - 2010 khoảng 80%.
2. Về nhập khẩu.
Tiết kiệm ngoại tệ, nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết
bị, công nghệ mới. Giảm thiểu nhu cầu nhập khẩu, giữ thế chủ động trong
nhập khẩu kiềm chế nhập siêu, giảm tỷ lệ nhập siêu; tiến tới cân bằng xuất
nhập và xuất siêu.
a. Nhập khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2010 là 14%/năm; trong
đó thời kỳ 2001 - 2005 là 15%/năm và thời kỳ 2006 - 2010 là 13%/năm.
- Giá trị kim ngạch tăng từ 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD năm
2005 và 53,7 tỷ USD năm 2010.
b. Nhập khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2010 là 11%/năm.
- Giá trị tăng từ 1,2 tỷ USD năm 2000 là 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4
tỷ USD năm 2010.
c. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa - dịch vụ:
Tăng từ 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ
USD năm 2010.
Về cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu:
Gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày
càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao,
giảm dần tỷ trọng hàng khô (dầu thô, than đá giảm từ 20% năm 2000 xuống 3
- 3,5% năm 2010). Nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo (dệt may, thực phẩm, cơ
khí v.v... tăng từ 31,4% lên 40 - 45%) sản phẩm công nghệ cao (điện tử, tin
học tăng từ 5,4% lên 12 - 14%).
Về cơ cấu xuất - nhập khẩu dịch vụ:
Tốc độ tăng trưởng dự kiến thời kỳ 2001 - 2010 là 15%/năm (xuất khẩu
dịch vụ có thể đạt 8,1 tỷ USD năm 2010) xuất khẩu lao động 4,5 tỷ USD; du
47
lịch 1,6 tỷ USD. Nhập khẩu dịch vụ dự kiến tăng 11% năm đạt giá trị kim
ngạch 3,4 tỷ USD vào năm 2010 xuất siêu về dịch vụ năm 2010 đạt khoảng
4,7 tỷ USD.
* Về thị trường xuất - nhập khẩu:
Đa dạng hóa thị trường, tích cực chủ động tranh thủ mở rộng thị trường
nhất là sau khi tham gia WTO. Đa phương hóa, đa dạng hóa với các đối tác.
Đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm
tỷ trọng thấp; mở các thị trường mới (Mỹ, Châu Phi).
Thị trường châu Á - Thái Bình Dương vẫn là thị trường trọng điểm.
Trong 10 năm tới cả khu vực như Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ,
Trung Cận Đông, Châu Phi, Úc... sẽ là những thị trường chúng ta cần quan
tâm đặc biệt.
3.1.4. Phục vụ tiêu dùng cá nhân và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Mục tiêu phục vụ tiêu dùng cá nhân là nhằm nâng cao mức hưởng thụ
của người dân về hàng hóa là một trong những mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển thị trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại
nước ta trong thời gian tới. Điều này được thể hiện ở các chính sách phát triển
thị trường hàng hóa nội địa của nhà nước ta để mọi người dân mà trong đó
80% là nông dân - có thu nhập thấp có thể mua được hàng hóa phục vụ nhu
cầu thiết yếu của đời sống. Các chính sách đó phát triển hệ thống giao thông
vận tải các vùng nông thôn, miền núi như việc xây dựng đường mòn Hồ Chí
Minh sẽ giảm được chi phí lưu thông hàng hóa cho các doanh nghiệp thương
mại, khuyến khích các doanh nghiệp thương mại mở rộng thị trường khu vực
nông thôn, miền núi.
Nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng còn thể hiện ở việc cung
cấp các hàng hóa chất lượng, mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý. Ngoài ra cần ngăn
cấm kinh doanh, tiêu thụ các mặt hàng lậu, hàng kém chất lượng, hàng độc
hại ảnh hưởng tới sức khỏe và lợi ích của người tiêu dùng.
48
Mục tiêu phát triển thị trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương
mại nước ta trong thời gian tới còn là phục vụ công cuộc xây dựng đất nước -
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nước ta đang trong giai
đoạn thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên rất cần thiết bị
kỹ thuật công nghệ cao, cần có sự hỗ trợ. Sự tham gia tích cực của các đối tác.
Vì vậy nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thương mại mở rộng thị
trường hàng hóa để phục vụ mục tiêu trên. Các doanh nghiệp thương mại
cung cấp các nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị cho sản xuất và thực hiện
lưu thông hàng hóa, tiêu thụ các sản phẩm ở thị trường trong nước và cả thị
trường nước ngoài.
3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CỦA
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.2.1. Nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa ở các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trong nước tuy đã có những đổi mới
tiến bộ đáng kể trong mấy năm gần đây nhưng chưa đạt yêu cầu đặt ra, hàng
hóa chưa cạnh tranh nổi với hàng Trung Quốc, hàng ngoại. Các doanh nghiệp
sản xuất cần đầu tư, áp dụng khoa học tiên tiến vào sản xuất hàng hóa để cải
thiện chất lượng hàng hóa, giảm giá thành sản phẩm nhằm tạo nguồn hàng tốt,
cho các doanh nghiệp thương mại.
Thực tế các DNTM không cần quan tâm đến việc sản xuất hàng hóa. Đó
là trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất. Nhưng để có được sản phẩm tốt, dễ
tiêu thụ thì cần có vốn để có được sản phẩm tốt, dễ tiêu thụ thì cần có vốn để
đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật. DNTM có thể liên kết
với doanh nghiệp sản xuất, góp vốn để sản xuất ra hàng hóa và DNTM thực
hiện việc tiêu thụ hàng hóa đó tốt hơn.
Giải quyết tốt vấn đề này là giải quyết được việc hoàn thiện mối quan hệ
kinh tế ổn định và lâu dài giữa các DNTM với các doanh nghiệp sản xuất.
Giới sản xuất và kinh doanh phải đề cao trách nhiệm và phối hợp trong việc
tìm kiếm giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt
49
Nam trên thị trường, coi chữ tín trong sản xuất - kinh doanh là vấn đề sống
còn để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
3.2.2. Tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý.
Tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý là vấn đề hết sức quan trọng để
nguồn hàng được mua đầy đủ, kịp thời, đúng số lượng, chất lượng và thời
gian cần hàng. Mạng lưới thu mua trực tiếp đến tận nơi được tổ chức ở những
nơi tập trung nguồn hàng, ở những thị trường nguồn hàng chính, hoặc vào
thời gian thu hoạch có thể đặt các đại lý thu mua ở những nơi nguồn hàng
phân tán hoặc có phương thức kết hợp giảm phí tổn thu mua.
Để khuyến khích hoạt động tạo nguồn hàng và thu mua hàng hóa được
đúng yêu cầu về chất lượng, số lượng, giá cả, thời gian và địa điểm giao
nhận... DNTM cần áp dụng các hình thức như: khoán theo doanh số mua
hàng, bán hàng có thưởng, phân bổ lợi nhuận hợp lý giữa đơn vị nguồn hàng
và DNTM.
Tổ chức mạng lưới thu mua hợp lý sẽ giảm được chi phí cho DNTM,
đảm bảo nguồn hàng đầy đủ, kịp thời DNTM có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại ở các DNTM.
Nhà nước, các hiệp hội, các doanh nghiệp cần phối hợp tìm kiếm, mở
rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp đóng vai
trò quan trọng và phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm theo
triết lý kinh doanh là:
Khách hàng chỉ ưa thích những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với yêu cầu
của họ, tức là chỉ sản xuất, bán cái thị trường cần hơn là cái mình có.
Khách hàng chỉ ưa thích những sản phẩm có chất lượng cao và giá cả
phải chăng, tức là ngoài tiêu dùng luôn có sự cạnh tranh với nhau.
Khách hàng sẽ không mua hết sản phẩm cho doanh nghiệp nếu như
doanh nghiệp không tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm, giữ được chữ tín với khách hàng.
Thông qua công tác nghiên cứu thị trường: nghiên cứu trực tiếp hoặc
dùng phiếu điều tra, DNTM sẽ biết được nhu cầu của khách hàng về hàng hóa
50
từ đó nắm được dung lượng thị trường, vạch ra những chiến lược kinh doanh
đúng đắn, hiệu quả nhất.
3.2.4. Hạn chế nguy cơ rủi ro, tổn thất trong kinh doanh thương mại quốc tế.
a. Hình thành hệ thống bảo hiểm đủ tin cậy dưới sự giám sát chặt chẽ của
Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ngày
càng tăng. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu ngày nay vẫn được coi là biện
pháp phòng chống, hạn chế rủi ro chưa thể thay thế bởi những tác dụng cơ
bản của nó, tuy nhiên, vẫn chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm, chưa
tạo đủ niềm tin với khách hàng trong và ngoài nước. Bảo hiểm Việt Nam
trong thời gian tới phải thật sự mạnh, có đủ uy tín trước khách hàng, sẵn sàng
cung cấp những sản phẩm dịch vụ bảo hiểm mới theo yêu cầu của khách
hàng.
b. Phổ biến chức năng quản trị rủi ro của tổ chức ở nhiều cấp, ngành, cơ
sở Việt Nam đã từng hình thành nhiều tổ chức chuyên trách có chức năng
nghiên cứu phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, chức năng này chưa đầy
đủ và chưa phổ biến ở mọi doanh nghiệp. Để có thể phát triển, phổ biến chức
năng quản trị rủi ro như là một hệ thống các chức năng quản trị khác của tổ
chức đòi hỏi phải đổi mới tư duy, nhận thức một cách khoa học về quản trị rủi
ro, xác định đúng đắn ảnh hưởng của rủi ro và vai trò của quản trị rủi ro đối
với tổ chức, sự tuyên truyền, phổ biến, trang bị kiến thức về quản trị rủi ro và
có các giải pháp hỗ trợ trong công tác quản trị rủi ro.
c. Hoàn thiện biện pháp tổ chức, hoạt động điều hành quản lý rủi ro một
cách có hệ thống từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến cơ sở
kinh doanh. Biện pháp tổ chức là sự phối hợp giữa các khâu, các bộ phận
nhằm thực hiện mục tiêu. Thiếu tổ chức sẽ tạo ra sự manh mún, cục bộ, gây
khó khăn cho thành công trong quản trị. Biện pháp tổ chức có vai trò to lớn
trong việc hình thành các biện pháp cụ thể nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro,
tổn thất xảy ra, đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của những phương án
được xây dựng cho mục đích phòng chống, hạn chế rủi ro nhằm thực hiện
kế hoạch về quản lý rủi ro một cách thống nhất, đồng bộ trên cơ sở phối
51
hợp nhịp nhàng giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan quản lý
rủi ro và các doanh nghiệp.
d. Phát triển hoàn hiện hệ thống kỹ thuật an toàn. Biện pháp hạn chế rủi
ro đều có những đặc trưng mang tính kỹ thuật nhất định. Với những rủi ro có
nguyên nhân từ các hiểm họa tự nhiên, từ máy móc thiết bị, từ tai nạn lao
động... thì các biện pháp hạn chế rủi ro luôn gắn bó chặt chẽ với quy trình kỹ
thuật. Với những rủi ro có nguyên nhân từ các hoạt động của con người gây ra
trong quá trình kinh doanh, tính kỹ thuật của các biện pháp hạn chế rủi ro, tổn
thất thể hiện ở quy trình, bước thực hiện mang tính nguyên tắc. Phát triển,
hoàn thiện hệ thống kỹ thuật là không ngừng xác lập, cải tiến quy trình kỹ
thuật nhằm bảo đảm thực hiện một cách có hiệu quả trong công tác phòng
ngừa, hạn chế rủi ro, tổn thất trong kinh doanh.
e. Hoàn thiện các biện pháp hạn chế rủi ro, tổn thất được tiến hành đồng
thời với các biện pháp phát triển kinh doanh. Các biện pháp phát triển kinh
doanh và hạn chế rủi ro có quan hệ tương hỗ, biện chứng qua lại lẫn nhau.
Thôngqua các hoạt động phát triển kinh doanh, doanh nghiệp tăng cường hoạt
động quản trị nhờ đó giảm được rủi ro. Ngược lại, thông qua các biện pháp
hạn chế rủi ro giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí rủi ro (chi phí thực tế và
chí phí cơ hội), doanh nghiệp có điều kiện phát triển kinh doanh. Theo quan
điểm của nhiều nhà kinh tế, tăng lợi nhuận bằng cách tăng doanh thu sẽ khó
khăn hơn so với cách giảm chi phí kinh doanh trong đó có chi phí rủi ro.
Muốn giảm chi phí rủi ro phải thực hiện đồng bộ các biện pháp hạn chế rủi ro
trong kinh doanh.
Xác định quan điểm và đề xuất nội dung cơ bản về hạn chế nguy cơ rủi
ro, tổn thất là nhằm thống nhất quan điểm, hành động tiến đến hình thành các
giải pháp đồng bộ về hạn chế rủi ro góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
nói chung và kinh doanh thương mại quốc tế của Việt Nam nói riêng.
3.2.5. Xác định loại hình kinh doanh quyết định chiến lược thị trường của các doanh
nghiệp thương mại bán lẻ.
52
Ở Việt Nam, mạng lưới các cửa hàng bán lẻ công ty chủ yếu thuộc các
công ty bán lẻ quốc doanh đã hình thành và phát triển từ thời kinh tế kế hoạch
hóa tập trung và hiện nay vẫn đang đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh
bán lẻ xã hội; các HTX mua bán cũng đã có thời phát triển trong nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, nhưng nay đang bị tàn lụi do hoạt động kém hiệu quả;
hiện nay đang phát triển loại hình tổ chức bản lẻ đại lý độc quyền.
Từ trước đến nay, việc xác định loại hình kinh doanh bán lẻ của các
doanh nghiệp thương mại bán lẻ ở nước ta thường chỉ theo thói quen, kinh
nghiệm, hoặc bắt chước theo xu thế chung. Rất ít doanh nghiệp áp dụng các
loại hình kinh doanh dựa trên cơ sở phân tích cơ hội thị trường, nếu có thì
cũng còn thiếu phương pháp có tính toàn diện. Chẳng hạn, một số doanh
nghiệp khi thấy các doanh nghiệp khác triển khai loại hình bán lẻ siêu thị đạt
hiệu quả cao thì cũng bắt chước phát triển loại hình này, do đó có thể đưa đến
thất bại. Trong thời đại phát triển thương mại điện tử hiện nay, việc khai thác
cơ hội kinh doanh trong các loại hình bán lẻ không qua cửa hàng, như siêu thị
ảo là cần thiết, nhưng các doanh nghiệp thương mại bán lẻ vẫn chưa dám
mạnh dạn bởi chưa có phương pháp để đi đến quyết định tận dụng cơ hội này.
Quá trình xác định loại hình kinh doanh bán lẻ được tiến hành theo các
bước sau:
Phân đoạn thị trường bán lẻ
Xác định tình thế chiến lược thị
Phân tích các cơ hội kinh doanh bán lẻ
Lựa chọn phương án chiến lược
Xác định mục tiêu và bố trí ng ồn lực
+ Phân tích các cơ hội kinh doanh bán lẻ.
Để liên tục phát triển, các doanh nghiệp thương mại bán lẻ phải thường
53
xuyên thu thập và phân tích những thông tin môi trường marketing nhằm tìm
kiếm những cơ hội cũng như phát hiện những đe dọa có thể xảy ra. Trên cơ sở
đó quyết định tận dụng những cơ hội hấp dẫn cũng như đưa ra giải pháp tránh
né hoặc giảm thiểu rủi ro ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp. Trên cơ sở phân
tích những xu hướng biến động của môi trường vĩ mô: kinh tế - dân cư, chính
trị - pháp luật, tự nhiên - công nghệ và môi trường văn hóa tác động đến các
nhân tố thuộc môi trường vi mô, chủ yếu là khách hàng, nguồn hàng, đối thủ
cạnh tranh, và bản thân doanh nghiệp, phát hiện những cơ hội cũng như đe
dọa của kinh doanh. Cần phân tích và dự đoán nhu cầu của khách hàng -
người tiêu dùng về dịch vụ trong quá trình mua hàng để phát hiện tiềm năng
kinh doanh của các loại hình kinh doanh thương mại bán lẻ. Chẳng hạn, trên
cơ sở nghiên cứu khách hàng mà phát hiện nhu cầu mua hàng của khách hàng
theo đơn đặt hàng qua điện thoại hoặc mạng máy vi tính. Đây là cơ hội tiềm
tàng để phát triển kinh doanh của doanh nghiệp thương mại bán lẻ.
+ Phân đoạn thị trường bán lẻ.
Để đưa ra những quyết định lựa chọn loại hình kinh doanh bán lẻ phù
hợp với tình thế thị trường, cần tiến hành phân đoạn thị trường. Có nhiều tiêu
thức để phân đoạn thị trường, nhưng thích hợp hơn cả vẫn là phân đoạn theo
khu vực địa lý, thu nhập, tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, hành vi mua và thái độ
ứng xử của khách hàng. Trên cơ sở đó tiến hành phân đoạn để tạo ra nhiều
đoạn thị trường đảm bảo các yêu cầu. Vấn đề quan trọng là phải mô tả được
đặc tính khách hàng trên từng đoạn thị trường, đặc biệt là hành vi, thái độ và
sở thích của khách hàng khi mua hàng.
Ứng với mỗi đoạn thị trường hình thành trên cơ sở phân đoạn đã nêu
+ Xác định tình thế chiến lược thị trường.
trên, cần xác định tình thế chiến lược có thể. Mỗi đoạn thị trường có thể đối
diện với một trong những tình thế chiến lược sau:
Doanh nghiệp thương mại bán lẻ có thể đối diện với 4 tình thế chiến lược
thâm nhập thị trường, phát triển loại hình kinh doanh mới, mở rộng thị
54
trường, đa dạng hóa.
- Thâm nhập thị trường: cơ hội thâm nhập thị trường bao gồm đầu tư
trực tiếp theo hướng khách hàng hiện tại sử dụng loại hình kinh doanh hiện
tại. Với tình thế này, các doanh nghiệp thương mại bán lẻ cần đầu tư nhiều
cho các công cụ marketing, đặc biệt là marketing-mix để tăng doanh thu, phát
triển thị phần, tạo điều kiện để thu lợi nhuận trong tương lai.
- Phát triển loại hình kinh doanh mới: cơ hội phát triển kinh doanh bao
gồm cung cấp loại hình kinh doanh mới cho khách hàng hiện tại. Doanh
nghiệp có thể phát triển thêm loại hình kinh doanh bán lẻ mới như: siêu thị,
chuyên doanh, hoặc bán lẻ không qua cửa hàng (như bán theo đơn đặt hàng
qua điện thoại hoặc mạng máy vi tính).
- Mở rộng thị trường: cơ hội mở rộng thị trường sử dụng loại hình kinh
doanh hiện tại trên những đoạn thị trường mới. Tình thế này xuất hiện khi
doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính cần tìm kiếm thị trường mới để đầu tư.
Chẳng hạn, doanh nghiệp bán lẻ vẫn đang kinh doanh ở một quận của thành
phố, quyết định xây dựng thêm một cửa hàng để kinh doanh trên một quận
khác mà doanh nghiệp chưa hề kinh doanh.
- Đa dạng hóa: cơ hội đa dạng hóa bao gồm phát triển loại hình kinh
doanh hoàn toàn mới định hướng đoạn thị trường chưa được phục vụ (thị
trường mới). Đa dạng hóa có thể bao gồm: đa dạng hóa có quan hệ và không
có quan hệ.
Đa dạng hóa có quan hệ có nghĩa là loại hình kinh doanh mới trên thị
trường mới vẫn trên cơ sở mặt hàng hoặc phương pháp bán hàng mà doanh
nghiệp vẫn quen áp dụng. Đa dạng hóa không có quan hệ khi doanh nghiệp
triển khai loại hình kinh doanh mới trên thị trường mới mà không có liên quan
đến kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp như mặt hàng, phương pháp bán
hàng...
Về cơ bản, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh lớn nhất nằm trong những
cơ hội rất giống với chiến lược kinh doanh hiện tại của họ. Do vậy, các doanh
55
nghiệp thương mại sẽ đảm bảo thành công trong các cơ hội thâm nhập thị
trường, không phải xâm nhập vào thị trường mới và lạ lẫm, không phải triển
khai hình thức kinh doanh mới và không quen theo đuổi cơ hội mở rộng thị
trường. Khi doanh nghiệp thương mại có thể xây dựng sức mạnh của mình
trong việc triển khai loại hình kinh doanh hiện tại và sử dụng lợi thế cạnh
tranh này trên thị trường mới. Khả năng thành công trong cơ hội mở rộng thị
trường có liên quan đến sự giống nhau giữa thị trường hiện tại và thị trường
mới. Nếu như khách hàng ở trên 2 thị trường có nhu cầu về hành vi mua khác
nhau, thì loại hình kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp thương mại bán lẻ có
thể không hấp dẫn khác hàng trên thị trường mới. Khi nghiên cứu cơ hội mở
rộng loại hình kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại xây dựng danh tiếng
và thành công của mình với khách hàng hiện tại. Thậm chí mặc dù doanh
nghiệp không có lợi thế khi áp dụng loại hình kinh doanh mới, thì họ cũng hy
vọng hấp dẫn khách hàng trung thành đến với loại hình mới này. Các doanh
nghiệp thương mại thành công nhiều nhất trong cơ hội này khi loại hình kinh
doanh mới và hiện tại là giống nhau.
Các doanh nghiệp thương mại bán lẻ ít có lợi thế cạnh tranh hơn khi tìm
kiếm những cơ hội bao gồm thị trường mới hoặc hình thức kinh doanh mới.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp thương mại bán lẻ phải thường xuyên nghiên
cứu các cơ hội mở rộng thị trường hoặc hình thức kinh doanh nhằm tìm kiếm
các cơ hội tăng trưởng.
+ Đánh giá và lựa chọn phương án chiến lược thị trường.
Có hai cách để đánh giá phương án chiến lược là phân tích tài chính và
ma trận hấp dẫn thị trường cạnh tranh.
- Phân tích tài chính.
Phương pháp phổ biến đánh giá và so sánh các cơ hội đầu tư chiến lược
là tính toán khả năng lợi nhuận trên vốn đầu tư hoặc lợi nhuận trên cổ phần
cho từng cơ hội.
- Ma trận hấp dẫn thị trường (vị thế cạnh tranh).
56
Đây là phương pháp phân tích cơ hội cân nhắc một cách rõ ràng cả khả
năng của doanh nghiệp thương mại và sự hấp dẫn của thị trường kinh doanh
thương mại. Dựa vào phân tích ma trận có thể rút ra rằng, phải tự đầu tư nhiều
nhất cho cơ hội thị trường kinh doanh hấp dẫn trong đó doanh nghiệp có vị
thế cạnh tranh.
+ Xác định mục tiêu và bố trí nguồn lực.
Sau khi đánh giá các cơ hội đầu tư chiến lược, bước tiếp theo trong quá
trình kế hoạch hóa chiến lược là thiết lập mục tiêu cho từng cơ hội. Các mục
tiêu phải bao gồm các thành tố sau: (1) Kết quả thực hiện, bao gồm chỉ số số
lượng có thể đo lường sự phát triển; (2) Phạm vi thời gian đạt được mục tiêu;
và (3) Mức đầu tư cần thiết để đạt được mục tiêu. Về cơ bản, trình độ thực
hiện là các tiêu chuẩn tài chính như mức lợi nhuận trên vốn đầu tư, doanh số,
hoặc thị phần. Tuy nhiên, thị phần là mục tiêu hay sử dụng nhất do nó dễ đo
lường và thường có tính toán và có thể chịu ảnh hưởng bởi những nguyên tắc
hạch toán. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thị phần là chỉ tiêu khả năng lợi nhuận dài
hạn trong nhiều hoạt động kinh doanh.
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, doanh nghiệp bán lẻ cần thiết lập kế
hoạch phân bổ nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác để khai thác có hiệu
quả các cơ hội chiến lược thị trường.
Thị trường
Hiện tại
Mới
i
Phát triển loại hình kinh doanh
ớ M
T i ề m n ă n g
l
Đa dạng hóa - Không quan hệ - Có quan hệ
ì
h n i k h n h
h n a o d
o ạ i
d o a n h
ì
i ạ o L
Thâm nhập thị trường
Mở rộng thị trường
i ạ t n ệ i H
h n h k i n h
Tiềm năng khách hàng
57
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách cho hoạt động thương mại.
Hệ thống pháp luật cho hoạt động thương mại như Luật Thương mại,
Luật Doanh nghiệp và các chính sách kinh tế như chính sách thương mại nội
địa, chính sách xuất nhập khẩu cần được hoàn thiện ổn định đảm bảo tính
minh bạch, phù hợp với khung khổ pháp lý của khu vực và thế giới để các
doanh nghiệp thương mại có cơ sở định hướng hoạt động của mình và tiếp
cận với thương mại thế giới.
Hoàn thiện môi trường pháp lý là tạo được môi trường kinh doanh ổn
định cho các DNTM, hạn chế, ngăn chặn tình hình buôn lậu, gian lận thương
mại. Có những hình phạt thích đáng đối với những đối tượng vị phạm pháp luật
như buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả để tạo công bằng cho giá kinh doanh.
Cải cách hành chính mạnh mẽ hơn nữa về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thị trường, hoạt động thương mại mà trước hết phải xây dựng được bộ
máy công quyền trong sạch, không kỳ thị, hướng vào phục vụ doanh nghiệp
để phát huy được sức mạnh tổng hợp và lợi thế so sánh của mỗi thành phần
kinh tế trong cơ chế thị trường mở. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy
những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong
kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Cải thiện điều kiện hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp thương mại
phát triển như tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thương mại trong việc
thành lập, đăng ký kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Cần có những chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp với điều kiện
từng giai đoạn, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện các cam kết xóa bỏ hàng rào
phi thuế quan với các nước trong AFTA. Cụ thể là xác định thị trường trọng
điểm, quy hoạch mặt hàng xuất nhập khẩu, thực hiện chính sách đầu tư thích
hợp, tổ chức mạng lưới phân phối hàng xuất khẩu hữu hiệu.
3.2.7. Phát triển các trung tâm thương mại ở Việt Nam.
Trung tâm thương mại là một trong những kết cấu hạ tầng thương mại.
Cho phép thuận lợi hóa và giảm chi phí cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
58
khi khám phá và tiếp cận thị trường. Ở các quốc gia đạt được thành công
trong tăng trưởng kinh tế nhờ lợi ích từ thương mại thường có xu hướng
tham gia hoặc hình thành các loại hình trung tâm thương mại nhằm tạo điều
kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập vào
thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế, nơi luôn có nhiều yếu tố rủi ro
không thể lường trước.
Tổ chức và phương thức hoạt động của các loại hình trung tâm thương
mại của các nước trên thế giới rất đa dạng song về thực chất thì đều là các tổ
chức hoạt động nhằm hỗ trợ phát triển thương mại, thường được xây dựng ở
những nơi là đầu mối hội tụ thương mại, trong đó vừa có tác dụng mua - bán
hàng hóa, vừa thực hiện cung ứng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; như cung
cấp thông tin thị trường, tư vấn về thương mại và đầu tư, văn phòng đại diện,
mối giới và ký kết hợp đồng, nghiên cứu thị trường, quảng cáo giới thiệu hàng
hóa, ngân hàng, bảo hiểm, hội thảo, đào tạo. Do vậy xây dựng và phát triển
Ở nước ta, các quy hoạch phát triển thương mại đến năm 2010 của Bộ
các trung tâm thương mại là cần thiết đối với hoạt động thương mại nước ta.
Thương mại và các tỉnh đã xác định phương hướng dài hạn phát triển trung
tâm thương mại cấp quốc gia, vùng, tỉnh - thành phố và quận, huyện, trong đó
đã thống nhất: Trung tâm thương mại là một tổ hợp các siêu thị hoặc cửa hàng
lớn bán buôn - bán lẻ hàng hóa. Các văn phòng đại diện, khu triển lãm - giới
thiệu hàng hóa, khu cung ứng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, phòng hội thảo
và hội nghị, được kết cấu hợp lý trong một hoặc một số tòa nhà liền kề nhau ở
một đầu mối thương mại. Mục đích quản lý hoạt động của Trung tâm thương
mại nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp thương
mại được sử dụng các công trình sẵn có, phù hợp với mục đích kinh doanh.
Hiện nay sự phát triển của các Trung tâm thương mại nước ta hiện nay
đang bộc lộ nhiều mâu thuẫn như xây dựng các Trung tâm thương mại không
phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra, lãng phí, không hấp dẫn các
doanh nghiệp thương mại và các nhà đầu tư, tình trạng các cửa hàng, ki ốt của
59
tư nhân bọc kín xung quanh các trung tâm thương mại gây cản trở cho hoạt
động của Trung tâm, thiếu đội ngũ nhân lực có trình độ và kỹ năng quản lý
trung tâm thương mại, thiếu hụt về chính sách khuyến khích phát triển các
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Để nâng cao vai trò của các trung tâm thương mại với sự hình thành và
mở rộng thị trường ở nước ta trong thời gian tới, cần khắc phục những nguyên
nhân cản trở hiệu quả hoạt động và phát triển của Trung tâm thương mại với
các biện pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn hoặc thiết kế mẫu cho các
loại hình trung tâm thương mại ở từng cấp, có quy mô, kết cấu công trình
thích hợp với đặc thù của thị trường khu vực.
Thứ hai, hướng dẫn xây dựng và thực hiện quy chế quản lý trung tâm
thương mại phù hợp với mục đích hoạt động.
Thứ ba, cần có sự thống nhất trong chỉ đạo để các cơ quan quản lý chức
năng về thương mại ở Trung ương và địa phương là chủ đầu tư của các Trung
tâm thương mại đảm bảo cho hiệu quả hoạt động của các Trung tâm thương mại.
Thứ tư, nghiên cứu và xây dựng, áp dụng chính sách đầu tư của Nhà
nước cho kết cấu hạ tầng thương mại, đảm bảo hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh
cho thương nhân nước ta, góp phần thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước
vào sản xuất và thương mại.
Thứ năm, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển các hoạt động dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh. Đồng thời có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ quản lý
trung tâm thương mại. Nếu phát triển Trung tâm thương mại theo các hướng
trên thì sẽ đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp thương mại.
3.2.8. Thâm nhập sâu, hiệu quả vào từng thị trường nước ngoài.
3.2.8.1. Thị trường ASEAN.
Tiến trình hội nhập khu vực ASEAN, cũng như hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là bước đi rất yếu đối với Việt Nam. Tuy nhiên, do ở cùng một vị trí
địa lý với các thành viên ASEAN, mặt hàng của Việt Nam vừa mang tính
cạnh tranh lẫn nhau vừa mang tính bổ sung cho nhau, đồng thời Việt Nam lại
60
đang ở xuất phát điểm của một nền kinh tế còn thấp kém so với các nước
trong ASEAN. Vì vậy, hội nhập khu vực cũng như trong phát triển kinh tế
môi trường, là thách thức lớn đối với Việt Nam. Đứng trước tình hình này đòi
hỏi Việt Nam phải có những quyết định táo bạo trong chiến lược lựa chọn mặt
hàng có tính cạnh tranh cao và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh để
tham gia xuất khẩu trong vùng là việc làm cấp bách. Việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, đòi hỏi các nhà sản xuất
kinh doanh và quản lý nước ta phải bám chắc vào những điều kiện hợp tác
thương mại trong ASEAN, đó là:
- Các nước thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận ưu đãi
thương mại.
- Các nước thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện Hiệp định về ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung đã được ký kết giữa các nước ASEAN năm 1992
để tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN vào năm 2003. Như vậy
bên cạnh công cụ chính để thực hiện AFTA là cắt giảm thuế quan trong nội
bộ ASEAN xuống trung bình từ 0 - 5%, loại bỏ các rào cản thương mại và
hợp tác trong lĩnh vực hải quan đóng vai trò quan trọng không thể tách rời khi
xây dựng một khu vực thương mại tự do.
Khi đề ra các chính sách trong kinh tế đối ngoại, Việt Nam luôn phải
nắm chắc mục tiêu, kinh tế hình thành tạo nên AFTA.
Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối thông qua việc loại bỏ
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong các nước ASEAN. Thực tế cho
thấy thương mại giữa Việt Nam và ASEAN chiếm trên dưới 30% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trao đổi buôn bán hai chiều trong hai
năm gần đây có chiều hướng giảm xuống, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Kết quả này, ngoài nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á vừa
qua, còn phản ánh việc hầu hết nguồn sản phẩm chế tạo nằm ngoài ASEAN,
nên kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng của AFTA không lớn. Các nước
ASEAN hiện đang là các nước đang phát triển, trong một chừng mực nào đó
61
có phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư, công nghệ, bí quyết quản lý cua các nước
phát triển và Việt Nam không nằm ngoài xu thế này.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực thông qua việc hình
thành một khối thị trường chung thống nhất.
Lợi ích quan trọng nhất của việc tham gia AFTA cũng như việc mở rộng
không gian ASEAN là biến ASEAN thành một nền kinh tế lớn, liên kết chặt
chẽ và giúp ASEAN khắc phục khủng hoảng và thu hút đầu tư nước ngoài.
Thu hút đầu tư nước ngoài là mục tiêu trọng tâm của AFTA, lịch sử phát
triển của Hiệp hội này cho thấy, ASEAN từng là khu vực đầu tư hấp dẫn nhất
châu Á đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với Nhật Bản vào
cuối những năm 80. Những luồng vốn dồi dào này, đã góp một phần quyết
định cho sự thành công của chiến lược hướng về xuất khẩu của các nước
ASEAN. Nhưng sang thập kỷ 90, ASEAN không còn hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài như trước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài giảm nhanh chóng, mặc
dù chính sách mở cửa và ưu đãi các nhà đầu tư được đề ra trong ASEAN. Do
vậy việc hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN để tạo ra một cơ sở thống
nhất cho ASEAN, từ đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong
nội bộ khu vực, khai thác thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau. Song song
với việc thành lập khu vực thương mại tự do, ASEAN đã không ngừng mở
rộng thị trường nội bộ (từ ASEAN 6 nay đã là ASEAN10, quy mô thị trường
lên đến hơn 500 triệu dân). Để khu vực ASEAN hấp dẫn hơn, Việt Nam trong
tiến trình hội nhập với khu vực cần có bước đi phù hợp với tinh thần của khu
vực kinh tế này, tăng cường quy chế giám sát các nguồn vốn, đặc biệt là
nguồn vốn ngắn hạn, khuyến khích sử dụng rộng rãi hơn các đồng tiền của
các nước ASEAN trên cơ sở thanh toán tay đôi và tự nguyện, thúc đẩy hợp tác
giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, đẩy mạnh đầu tư và thương
mại, đưa ra các biện pháp ngắn hạn, dài hạn nhằm cải thiện hơn nữa môi
trường đầu tư và thương mại của Việt Nam.
3.2.8.2. Thị trường EU.
62
Mặc dù quan hệ thương mại Việt Nam - EU đang phát triển nhanh và có
triển vọng to lớn, nhưng thực trạng thương mại hiện nay gặp nhiều khó khăn,
trở ngại và chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của hai bên. Trị giá thương
mại Việt Nam - EU mới chiếm 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU
và chiếm 13,48% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Nhìn chung,
hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU còn nghèo nàn về chủng loại, chất
lượng chưa cao, mẫu mã đơn sơ, còn tập trung vào một số mặt hàng như dệt
may, giày dép, cà phê... So với các nước đang phát triển và mới phát triển ở
châu Á, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào EU có lợi thế do đang được hưởng
GSP, song khả năng cạnh tranh lại kém so với các nước Châu Phi, Thái Bình
Dương và Caribê, cũng như một số nước Đông Âu, do các nước này được
hưởng các ưu đãi thương mại riêng theo Công ước Lomé hoặc theo các hiệp
định liên kết.
Về phía chủ quan, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu
kinh nghiệm thương trường, kiến thức hiểu biết về luật lệ, văn hóa kinh doanh
của thị trường EU còn hạn hẹp, việc tiếp thị nắm thông tin về kinh tế thị
trường EU còn nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp của ta vẫn làm ăn theo
phong cách tùy tiện, manh mún, chưa phù hợp với truyền thống và tập quán
kinh doanh châu Âu, ngay cả việc khai thác các lợi thế như: chế độ thuế GSP
mà EU dành cho Việt Nam cũng chưa biết tận dụng một cách hiệu quả. Nhìn
chung các doanh nghiệp của ta còn có ý thủ thế, chưa mạnh dạn khai thác các
thế mạnh để tìm thế chủ động, thể hiện tính tiến công trong việc chinh phục,
chiếm lĩnh thị trường EU. Mặt khác, Nhà nước cũng chưa có chính sách hỗ
trợ một cách tích cực, hiệu quả trong việc giúp doanh nghiệp về thông tin
kinh tế, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, tiến hành cải cách hành
chính cần thiết để giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp, nghiên cứu
giảm thuế các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào để doanh nghiệp hạ giá thành
sản xuất, đồng thời với việc hỗ trợ xuất khẩu, chính sách khuyến khích xuất
khẩu... Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã có chính sách hội nhập kinh tế quốc
63
tế tầm chiến lược, song chính sách trong ngắn hạn thường xuyên thay đổi,
nhiều khi không nhất quán nên chưa tạo cho bạn hàng EU một lòng tin ổn
định, yên tâm quan hệ làm ăn lâu dài với các doanh nghiệp Việt Nam.
Triển vọng trong thời gian tới, từ nay đến năm 2004, xuất khẩu của Việt
Nam sang EU vẫn có chiều hướng tốt do đây là khu vực kinh tế ổn định, ít
biến động và EU vẫn đang dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan GSP
(chỉ có hàng dệt may là quản lý bằng hạn ngạch). Tuy nhiên, căn cứ vào khả
năng của Việt Nam thì tốc độ tăng xuất khẩu vào thị trường này vẫn chưa
tương xứng (khoảng 15%/năm) và nhập khẩu từ EU cũng chỉ đạt mức
10%/năm. Do vậy trong thời gian tới, để có thể mở rộng khả năng xâm nhập
thị trường EU, tranh thủ công nghệ nguồn vật tư, nguyên liệu, thiết bị, máy
móc phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta
cần phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Đặc biệt
cần nghiên cứu đề xuất chính sách thị trường thích hợp cho khu vực EU,
nhằm mở rộng đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam với EU, chủ động tiếp cận,
thâm nhập thị trường, kết hợp giữa việc thu hút đầu tư của EU vào Việt Nam
với việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU nhằm nâng cao
khả năng năng cạnh tranh của nguồn hàng xuất khẩu và của các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế hoạt động thương mại trên thị trường này.
Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ đẩy mạnh xúc tiến
thương mại, cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu luật lệ kinh doanh của
EU và của từng nước trong khối, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ,
khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu với thị
trường EU (hỗ trợ giá, quỹ khuyến khích xuất khẩu, thưởng xuất khẩu...)
nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện xâm nhập đứng
vững và phát triển tại thị trường này.
3.2.8.3. Thị trường Trung Quốc.
+ Những khó khăn còn ảnh hưởng tới buôn bán qua biên giới hai nước
trong thời gian sắp tới.
64
Thứ nhất, về các mặt tư tưởng, tâm lý và mức độ tín nhiệm trong buôn
bán qua biên giới của cả hai bên chưa cao. Đôi bên còn sự chênh lệch lớn về
chính sách buôn bán qua biên giới nên cũng tạo nên những ảnh hưởng bất lợi
cho buôn bán qua biên giới cả đôi bên.
Thứ hai, cho tới nay vẫn chưa ký được Hiệp định chính thức mà vẫn còn
thi hành "Hiệp định tạm thời về việc xử lý những việc ở biên giới hai nước".
Nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai
nước Việt - Trung.
Thứ ba, hiện nay hai bên tuy có "Ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay
hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hóa xuất nhập
khẩu nhưng vẫn không ngăn chặn nổi làn sóng: hàng giả, hàng rởm, hàng kém
chất lượng vào Việt Nam, hoặc những mặt hàng quý hiếm, hàng cấm của Việt
Nam vẫn xuất sang Trung Quốc.
Thứ tư, cả hai bên đều có tình trạng thiếu hợp đồng giữa các xí nghiệp
trong nước, gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán với đối phương, tạo nên
sự thiệt thòi cho phía mình.
Thứ năm, mặc dù ngày 26/5/1993 Ngân hàng Trung ương của Việt Nam
và Trung Quốc đã ký Hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh
toán phải thông qua ngân hàng thương mại hai nước theo thông lệ quốc tế
bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ mười năm nay buôn bán qua
biên giới Việt - Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ
hoàn toàn tự phát theo phương thức "hàng đổi hàng", buôn bán trao tay, tiến
tới ký hợp đồng, thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh
toán qua ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch trao
đổi hàng hóa của hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và
kinh doanh tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa
khẩu biên giới hai nước vẫn hoành hành, hiện tượng lựa đảo, chiếm dụng vốn,
lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Điều này đã ảnh
hưởng xấu tới quan hệ buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
65
Thứ sáu, quan hệ buôn bán Việt - Trung trong những năm gần đây tốc độ
tăng trưởng giảm dần, và cứ đà giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 2
tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo hai nước đề
ra.
Thứ bảy, trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập
siêu ở mức lớn, như: năm 1991 (10 triệu đô la), năm 1992 (40 triệu đô la),
năm 1993 (160 triệu đô la), năm 1994 (150 triệu đô la), năm 1995 (390 triệu
đô la), năm 1996 (530 triệu đô la), năm 1997 (720 triệu đô la).
Thứ tám, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế của Trung
Quốc cao hơn Việt Nam, khiến cho tính bổ sung giữa hai bên tăng lên, nhưng
mặt khác cũng gây nên ảnh hưởng bất lợi đối với hàng hóa Việt Nam muốn
thâm nhập vào thị trường Trung Quốc.
+ Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam và
Trung Quốc trong thời gian sắp tới.
Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có
đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1350km chạy qua 6 tỉnh (31
huyện) của Việt Nam và hai tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu (14 huyện)
của Trung Quốc. Trên biên giới chung của hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa
khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của hai nước,
cũng như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Đông Nam Á
khác (Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Đông Hưng - Móng
Cái - Tân Thanh, Hà Khẩu - Lào Cai, đã có ý tưởng xây dựng thành những
khu vực buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho buôn bán qua
biên giới hai nước.
Thứ hai, phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc
không thể tách rời bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2/1999,
Tổng bí thư hai nước, đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và
Trung Quốc theo phương châm 16 chữ: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", phương châm này sẽ tạo điều kiện
66
thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có
buôn bán qua biên giới hai nước.
Thứ ba, Trung Quốc và Việt Nam đều có trên 50 thành phần dân tộc
khác nhau, trong đó có hơn một chục dân tộc sống ở cả hai bờ biên giới, đáng
lưu ý là gần 1 triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối
tốt cho sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy
sự phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian tới.
Thứ tư, Trung Quốc đất rộng (thứ ba thế giới), người đông (chiếm 1/5
nhân loại) và Việt Nam một nước vào cỡ lớn ở Đông Nam Á, đây là hai thị
trường còn tiềm tàng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa
vào việc buôn bán qua biên giới hai nước.
Thứ năm, cả hai nước đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên
giới của hai bên, chú ý xây dựng môi trường phần cứng (đường, điện nước...),
rà phá mìn, xây dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Đồng thời chú ý xây
dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định hợp tác kinh tế
thương mại (trong tổng số 30 hiệp định và thỏa thuận đã được ký kết), đáng
lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý những
sự việc ở biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn
nhau về hàng hóa xuất nhập khẩu; Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp
định về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam và nước CHND Trung Hoa (năm 1998); Hiệp ước biên giới đất liền
giữa nước vừa ký kết (30/12/1999). Những hiệp định trên đây là cơ sở hạ tầng
được nâng cấp của hai bên sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy buôn bán
qua biên giới giữa hai nước.
Thứ sáu, theo dự kiến của một số nhà hoạch định chính sách, buôn bán
hai chiều của Việt Nam - Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt
mức tăng từ 8 - 15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ
USD là có khả năng đạt được, và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển
hơn nữa.
67
Thứ bảy, theo xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng phát triển,
với việc Việt Nam trở thành thành viên của khu vực buôn bán tự do ASEAN,
AFTA, việc Trung Quốc sắp trở thành thành viên của Tổ chức mậu dịch thế
giới (WTO); cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức hợp
tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Việc các cảng của Việt Nam
(đặc biệt là Hải Phòng) trở thành cửa khẩu thông ra biển rất gần của khu vực
Đại Tây Nam Trung Quốc, với việc khu mậu dịch tự do (Đông Hưng - Móng
Cái, Bằng Tường - Đồng Đăng v.v...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt -
Trung có nhiều khả năng phát triển hơn nữa.
Thứ tám, việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử,
50 năm qua và đặc biệt là 10 năm sau khi bình thường hóa không ngừng tăng
sẽ là cơ sở để buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa.
Thứ chín, dù cho buôn bán qua biên giới hai nước còn những khó khăn
trở ngại, nhưng những điều kiện thuận lợi là cơ bản, với sự cố gắng của hai
bên, tin rằng trong thế kỷ tới - thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương, tiềm năng
buôn bán qua biên giới Việt - Trung còn phát triển hơn nữa.
3.2.8.4. Thị trường Mỹ.
Tiếp tục củng cố mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đây là điều kiện tiên
quyết để hàng hóa Việt Nam có thể xâm nhập được vào Mỹ và thị trường thế
giới. Trong điều kiện hiện nay, chính trị và kinh tế là vấn đề không thể tách
biệt, vì vậy việc Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ như thế nào với Mỹ có
ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang Mỹ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nhiều hơn và sâu hơn vào thị
trường Mỹ. Ở Mỹ, chỉ cần 300 USD là có thể thành lập được doanh nghiệp
nên việc chọn được đối tác tin cậy là điều hết sức quan trọng đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Trong thời gian qua, do sự hiểu biết quá ít và thiếu
thông tin về thị trường Mỹ, hoạt động xuất khẩu trực tiếp của các doanh
68
nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Để thúc đẩy xuất khẩu sang
Mỹ, Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin và tổ chức hoạt
động xúc tiến thương mại ở tầm vi mô. Một mặt, cần phải tổ chức nghiên cứu
một cách nghiêm túc về thị trường Mỹ thông qua thành lập các viện nghiên
cứu, thực hiện các chương trình tham quan để các doanh nghiệp hai nước có
điều kiện tiếp xúc, trao đổi thông tin về khả năng hợp tác Chính phủ cần kết
hợp với các công ty Mỹ hoặc Việt Kiều tổ chức các hệ thống trung tâm
thương mại ở các thành phố lớn thuộc các bang khác nhau của Mỹ nhằm tạo
cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty trong nước. Mặt khác, Chính
phủ cần phối hợp với phía Hoa Kỳ tiếp tục tổ chức các cuộc tọa đàm, phổ
biến chính sách, luật lệ thương mại của Mỹ, tổ chức triển lãm hàng hóa Việt
Nam tại Mỹ, mở dịch vụ thông tin thương mại và lập hồ sơ về các công ty
xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ, mở Websife giới thiệu hàng Việt Nam
trên mạng Internet.
Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI từ Mỹ. Khi
các dự án FDI là của Mỹ thì chủ đầu tư nước ngoài sẽ là người Mỹ, hoặc ít
nhất cũng có một chủ đầu là người Mỹ. Đó là người am hiểu thị trường Mỹ,
luật pháp Mỹ và thông lệ kinh doanh ở Mỹ và do đó khi họ là đối tác xuất
khẩu sang Mỹ, thì sẽ rất thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ phía các doanh nghiệp.
- Chuẩn bị tốt về chiến lược mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị cho Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ được thông qua và quy chế MFN có thể được áp dụng nhanh
chóng. Mỗi doanh nghiệp cần sớm xây dựng một kế hoạch và chương trình
xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Nếu tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm
được 1% thị trường nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng lên
đến 10 tỷ USD/năm. Các mặt hàng giày dép, thủy sản, cà phê và rau quả là
những mặt hàng xuất khẩu đầy triển vọng của Việt Nam. Bên cạnh đó, các
mặt hàng như công nghệ phẩm, may mặc... đã vào được thị trường Mỹ qua
69
gia công cũng có thể vào được thị trường Mỹ với kim ngạch lớn hơn rất nhiều
khi nhận được MFN của Mỹ vì đây là những mặt hàng mà Việt Nam có nhiều
nguồn lực nhưng đang vướng phải rào cản thuế quan phi MFN của Mỹ.
- Tích cực tìm hiểu về thị trường Mỹ, thu nhập và xử lý tốt các thông tin
để có các quyết định đúng khi thâm nhập vào thị trường Mỹ.
Một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hóa Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường Mỹ là do thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường này.
Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn xuất khẩu hàng hóa của mình
vào thị trường Mỹ thì trước hết phải tìm hiểu thị hiếu của người Mỹ, thậm chí
thị hiếu ở từng bang tìm hiểu môi trường pháp lý, tập quán buôn bán kiểu Mỹ
để lựa chọn những mặt hàng mà Việt Nam có khả năng sản xuất để đáp ứng
nhu cầu của thị trường Mỹ cả về số lượng, kiểu cách mẫu mã. Để có được các
thông tin và hiểu biết về thị trường Mỹ, các doanh nghiệp phải có nhiều biện
pháp khác nhau như sách báo, tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm,
thuê chuyên gia tư vấn hoặc qua các tổ chức tư vấn đặc biệt qua Internet...
- Nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng cường quản lý chất lượng sản
phẩm xuất khẩu. Do Hoa kỳ là một thị trường có nhu cầu nhiều hơn về sản
phẩm chất lượng cao, vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đầu tư đổi mới công
nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm thì hàng hóa Việt Nam mới có thể xâm
nhập được vào thị trường Mỹ. Mặt khác, để xây dựng hình ảnh tốt của hàng
hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ, các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý
chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn ISO, 9000, 9001,14000... Có thể nói
ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu hàng
hóa vào thị trường Mỹ và để cạnh tranh thắng lợi trên đất Mỹ.
- Tăng cường tham gia liên doanh liên kết vào các hiệp hội ngành hàng
để hạn chế tình trạng hàng hóa Việt Nam bị ép giá trên thị trường Mỹ.
- Nâng cao kỹ năng đàm phán với các doanh nhân Mỹ và nên mua bảo
hiểm rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đặc điểm nổi bật trong phong
cách đàm phán của người Mỹ là đi thẳng vào vấn đề, bỏ qua các lời lẽ rườm
70
rà để nhanh chóng định đoạt thương vụ. Vì vậy, khi đàm phán với các doanh
nhân Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý những điểm sau:
+ Các doanh nghiệp Mỹ đều có bộ phận thu thập thông tin riêng và hoạt
động quảng cáo bao giờ cũng đi trước khi định xâm nhập một thị trường mới.
Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị chu đáo, đầy đủ thông tin và
kèm theo sản phẩm tốt của hãng mình khi đàm phán với Mỹ.
+ Doanh nghiệp nào ở Mỹ cũng có luật sư riêng vì hệ thống pháp luật
của họ rất phức tạp, thậm chí mỗi bang lại có luật lệ riêng.
+ Người Mỹ thích thẳng thắn, nên khi thương lượng phải bằng mọi cách
khai thông ngay vấn đề lợi nhuận.
+ Người Mỹ làm việc rất đúng giờ, đặc biệt rất chính xác trong các cuộc
hẹn, nên vì bất cứ lý do gì phải chậm trễ, phải tìm mọi cách thông báo cho
phía đối tác biết.
+ Khi đàm phán nên nói bằng tiếng Anh và tốt nhất là bằng tiếng Mỹ.
+ Người tiêu dùng Mỹ rất hay kiện cáo. Vì vậy, một trong những vấn đề
cần quan tâm của luật pháp là bảo vệ người tiêu dùng Mỹ. Hầu hết các vụ
kiện này có thể làm cho các doanh nghiệp tốn nhiều triệu USD. Để tránh
những phiền thức và tốn kém các nhà xuất khẩu nên mua bảo hiểm rủi ro khi
xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này.
3.3. DỰ BÁO CUNG CẦU VÀ GIÁ CẢ MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU ĐẾN 2010.
Việc nghiên cứu cung cầu và giá cả của các mặt hàng sẽ giúp cho các
doanh nghiệp thương mại đề ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn để đạt
hiệu quả cao trong kinh doanh.
Quan hệ cung cầu và giá cả của các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng
trưởng thương mại và tăng thu nhập bình quân đầu người. Sau đây là một số
dự báo về tình hình xuất nhập khẩu và biến động giá cả của một số hàng chủ
yếu đến 2010.
3.3.1. Hàng nông sản.
71
Trong những năm gần đây, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á đã gây ra suy thoái kinh tế ở Đông Nam Á, khiến nhu cầu nông sản
giảm sút khá mạnh, đặc biệt là các mặt hàng lương thực và thực phẩm. Tuy
vậy, nhu cầu tăng nhẹ ở một số khu vực như châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và
Trung Đông sẽ hạn chế phần nào xu hướng giảm giá này. Về mặt dài hạn,
theo dự báo của tổ chức Lương - Nông thế giới (FAO), trong những năm đầu
thập kỷ này, tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ tiếp tục được ứng dụng rộng rãi hơn
thúc đẩy sản lượng nông nghiệp tăng, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu, do
đó không gây sức ép làm tăng giá các mặt hàng nông sản. Trong thời kỳ
1994-2005, mức tăng sản lượng hoàn toàn phù hợp với mức tăng nhu cầu 2%
năm, nhỉnh hơn đôi chút so với 1,7%/ năm thời kỳ 1984 - 1994. Cũng theo tổ
chức FAO dự đoán, mức độ tăng buôn bán hàng nông nghiệp sẽ giảm nhẹ từ
2,5% giai đoạn 1984 - 1994 xuống còn 2,2%, giai đoạn 1994 - 2005 và xuống
2,0% giai đoạn 2006 - 2010. Tuy vậy, tình hình buôn bán nông sản thế giới có
thể sáng sủa hơn ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Đông Nam Á,
Nam Á, châu Mỹ La Tinh, Bắc Phi và Trung Đông do các khu vực này sẽ
tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Hơn nữa, thu nhập bình quân đầu người tăng
nhanh khiến nhu cầu tăng thanh theo. Do đó các nước đang phát triển sẽ tiếp
tục đóng vai trò quan trọng về mức tăng trưởng của nhu cầu các sản phẩm
nông nghiệp. Ở các nước công nghiệp phát triển, mức tiêu dùng cao hơn và có
thể bão hòa đi đôi với tỷ lệ tăng dân số thấp sẽ làm giảm nhu cầu. Dự báo nhu
cầu nông nghiệp của các nước đang phát triển sẽ đạt 162 tỷ USD vào 2005,
chiếm 49% toàn thế giới so với 113,2 tỷ USD và 43% thời kỳ 1993 - 1995, và
có thể sẽ vượt quá con số 200 tỷ USD vào 2010.
3.3.1.1. Mặt hàng gạo.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, nhu cầu gạo bình quân đầu người sẽ có xu
hướng giảm ở một số nước châu Á có thu nhập tăng nhanh, khả năng cung
cấp gạo chất lượng cao sẽ giảm, do đó cầu sẽ lớn hơn cung trên thị trường gạo
phẩm chất cao, nên giá loại gạo này sẽ tăng mạnh. Dự báo nhu cầu nhập gạo
72
của Nhật Bản vào 2009 sẽ là 729 nghìn tấn; của Hàn Quốc là 205 nghìn tấn.
Trái lại, nhu cầu gạo phẩm chất thấp sẽ giảm nếu không có những đột biến về
thiên tai hoặc khủng hoảng kinh tế. Tuy vậy, chiều hướng này cũng có thể được
cải thiện đôi chút khi nhu cầu gạo phẩm chất thấp cho chăn nuôi tăng lên.
Cũng theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ, các nước xuất khẩu gạo
chính trên thế giới vẫn là Thái Lan, Việt Nam, Mỹ và Ấn Độ. Thái Lan sẽ vẫn
tiếp tục dẫn đầu, song sẽ phải nhường bớt thị phần xuất khẩu gạo cho Việt
Nam. Một số nước và khu vực như Pakitstan, Myanma; Campuchia và các
nước Mỹ La Tinh sẽ tăng xuất khẩu gạo, trái lại Mỹ và Ấn Độ sẽ giảm xuất
khẩu gạo, Trung Quốc sẽ tiếp tục xuất khẩu song khối lượng giảm.
3.3.1.2. Mặt hàng dừa.
Giá mặt hàng này được dự đoán là sẽ tăng khoảng 22% vào năm 2002 so
với mức của nam 2000; đến 2005 giá thực tế của dừa được dự đoán tăng 45%
so với mức năm 2000 và sẽ không thay đổi cho tới tận 2010.
3.3.1.3. Mặt hàng cà phê.
Theo dự báo của FAO, sản lượng cà phê sẽ tăng mạnh nhất ở châu Á với
tốc độ bình quân 3,34%/năm giai đoạn 1999 - 2009. Dự kiến vào năm 2005,
sản lượng cà phê châu Á đạt 1,36 triệu tấn và khoảng 1,9 triệu tấn vào năm
2009, trong đó tốc độ tăng sản lượng của Việt Nam là 8%/năm, Ấn Độ
9%/năm và Inđônexia 1%/năm... Đồng thời FAO cũng cho rằng, thị trường cà
phê giới có xu hướng cung cao hơn cầu, do vậy giá cà phê khó có thể tăng
lên. Ngân hàng thế giới dự báo, giá cà phê chè sẽ là khoảng 2540 USD/tấn và
cà phê vối khoảng 1860 USD/tấn vào năm 2009.
3.3.1.4. Mặt hàng chè.
Mức tiêu thụ chè của thế giới được dự báo về tăng cũng khoảng
2,8%/năm, đạt 2,67 triệu tấn vào 2005 và khoảng 3 triệu tấn vào 2009. Nhu
cầu chè của các nước đang phát triển được dự báo tăng 3%/năm; tiêu thụ chè
tại Ấn Độ tăng 3,2%/năm; các nước như Paskitan, I ran, Ai Cập tiêu thụ chè
tăng tương ứng là 160, 122 và 90 ngàn tấn/năm. Tiêu thụ chè tại các nước
73
công nghiệp phát triển tăng khoảng 2,2%/năm, song Anh lại giảm; nhu cầu
chè của Mỹ sẽ tăng dưới 1%/năm. Trong khi đó nhu cầu tiêu thụ chè ở các
nước thuộc Liên Xô cũ sẽ tăng khá cao, 4,5%/năm.
3.3.1.5. Mặt hàng gỗ.
Buôn bán gỗ ván toàn cầu sẽ tăng bình quân 0,96%/năm trong giai đoạn
1992 - 2010, đạt 29,35 triệu m3 và 2010. Indonexia - nước xuất khẩu gỗ ván
lớn nhất thế giới hiện nay, được dự báo sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu và đạt 10,2
triệu m3; Canada cũng tăng mạnh xuất khẩu lên 4,85 triệu m3; trong khi
Malaixia và Mỹ sẽ giảm xuất khẩu. Các nước châu Âu sẽ giảm mạnh nhập
khẩu còn 2,86 triệu m3 do sản xuất tăng; Nhật Bản giảm nhập khẩu 1,5 lần;
trong khi Mỹ sẽ tăng mạnh nhập khẩu lên 7,08 triệu m3 vào 2010. Trung
Quốc sẽ tăng mạnh nhập khẩu gỗ ván và thay thế vị trí nước nhập khẩu lớn
nhất Châu Á của Nhật Bản. Theo dự báo của FAO, Trung Quốc sẽ nhập khẩu
6,37 triệu m3 vào năm 2010.
3.3.2. Nhóm hàng nguyên liệu thô.
Theo đánh giá chung của WB, IMF và một số tổ chức khác thì nhìn
chung giá nguyên liệu thô có xu hướng vững lên trong thời kỳ 2001 - 2010 do
trữ lượng của các nguyên liệu thô, năng lượng giảm; hơn nữa sự phát triển
của ngành khoa học vật liệu mới cũng chưa tạo ra nhiều nguyên liệu, nhiên
liệu và phụ gia thay thế... Về các con số cụ thể về sản lượng, khối lượng và
tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm cho tới 2010 không có, nên chúng tôi
không thể đưa ra được một con số cụ thể về giá của nhóm hàng này. Chúng
tôi sẽ chỉ tập trung vào hai mặt hàng quan trọng mà hiện cũng đang chiếm tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là than và dầu mỏ.
3.3.3 Nhóm hàng năng lượng.
3.3.3.1. Mặt hàng dầu mỏ.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), nhu cầu dầu mỏ được dự
đoán sẽ tăng lên tới 88 triệu thùng/ngày vào năm 2010, tăng hơn 20 triệu
thùng/ngày hay 1,6% so với năm 1994, so với mức tăng chỉ có 4 triệu
thùng/ngày hay 0,4% 16 năm trước. Nhu cầu dầu mỏ ở các nước thuộc Liên
74
Xô và Đông Âu cũ tăng vừa phải; với phần còn lại của thế giới, nhu cầu dầu
mỏ tăng 2,5%/năm. Có nhiều nhân tố đóng vai trò quan trọng duy trì tốc độ
tăng nhu cầu dầu mỏ ở mức vừa phải như các kỹ thuật mới. Hiệu quả được
nâng cao, trợ cấp đối với khí ga, các nhiên liệu vận tải thay thế, trợ cấp được
hủy bỏ, và các vấn đề về môi trường như chất lượng không khí, khí thải
CO2... Khoảng 80% nhu cầu dầu mỏ của các nước không phải thành viên
OECD tăng được dự báo là ở châu Á. Nhu cầu dầu mỏ tăng chủ yếu do nhu
cầu nhiên liệu cho vận tải tăng... Tốc độ tăng nhu cầu dầu mỏ ở một số khu
vực như sau: Bắc Mỹ tăng 0,5%/năm từ 2001 - 2010, châu Âu tăng dưới
0,5%/năm, các nước OECD khu vực Thái Bình Dương tăng dưới 1%; các
nước đang phát triển tăng khoảng 4%/năm trong đó Trung Quốc sẽ tăng
5%/năm; các khu vực còn lại như Mỹ La Tinh, Châu Phi, Trung Đông, Liên
Xô cũ... được dự báo sẽ tăng từ 2-2,5% trong cùng thời kỳ này.
3.3.3.2. Mặt hàng than.
Theo dự báo đến 2010, nhu cầu tiêu thụ than của thế giới sẽ tăng 48% so
với năm 1995, đạt tới 6,9 tỷ tấn. Trong thời kỳ này, nhu cầu tiêu thụ than sẽ
có thay đổi đáng kể ở một số khu vực: ở châu Âu giảm 30%; trái lại ở các
châu lực khác lại tăng lên, đặc biệt ở các nước đang phát triển sẽ tăng kỷ lục
2,1 lần, đạt 6,865 tỷ tấn vào 2030, châu Á được dự báo sẽ là khu vực tiêu thụ
than lớn nhất thế giới, chủ yếu là than năng lượng cho sản xuất điện. Trong
vòng hai thập kỷ tới Nhật Bản cũng vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào than do
mức tiêu thụ sẽ tăng 13%/năm từ 131 triệu tấn năm 1996 lên 156 triệu tấn
năm 2020. Trong giai đoạn này, Nhật Bản dự kiến sẽ xây dựng thêm các nhà
máy điện thế hệ mới với công suất 20 - 24GW. Tiêu thụ than của Hàn Quốc
sẽ tăng gần 55%, từ 53 triệu tấn 1995 lên 82 triệu tấn năm 2020. Nhu cầu tiêu
thụ than của Trung Quốc, Ấn Độ được dự báo sẽ tăng mạnh để đáp ứng nhu
cầu điện năng phục vụ phát triển kinh tế. Dự báo tới 2020, Trung Quốc sẽ xây
dựng thêm các nhà máy điện chạy bằng than với công suất 220GW, còn Ấn
Độ là 60GW.
3.3.4. Hàng thủy sản.
75
Đây là ngành hàng xuất khẩu mà Việt Nam có tiềm năng phát triển cả về
tăng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng. Ngành này luôn duy trì được tốc độ
tăng xuất khẩu khá cao, khoảng 22-23%/năm và đã đạt kim ngạch 982 triệu
USD năm 1999 và đã vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD năm 2000. Trong thời gian
từ 2001 - 2010, buôn bán thủy sản thế giới sẽ tiếp tục tăng lên do nhu cầu về
thủy sản tăng nên phạm vi toàn cầu. Các nước và khu vực tiêu thụ thủy sản
lớn nhất đóng vai trò chi phối thị trường thủy sản thế giới được dự báo sẽ tiếp
tục là Nhật Bản, Mỹ và EU. Một số nước tiêu thụ lớn trong khu vực gồm
Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Malaixia. Riêng
Trung Quốc sẽ nhập khẩu bình quân hơn 1 tỷ USD thủy sản mỗi năm trong
những năm tới.
3.3.5. Hàng dệt may và giày dép.
Đây là một trong những ngành hàng có đóng góp lớn vào kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Ngành hàng này lại còn tận dụng được lợi thế lao động
nhiều và rẻ của Việt Nam. Chẳng hạn năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may đạt 1,682 tỷ USD chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; mặt hàng
giày dép đạt 1,406 tỷ USD. Vì đây là những nhóm ngành hàng chúng ta có lợi
thế, do vậy cần thúc đẩy mạnh mẽ hai ngành này phát triển. Các mặt hàng này
trong vòng 10 năm tới sẽ có xu hướng giảm nhẹ giá do việc Trung Quốc sẽ
tham gia vào WTO và được hưởng thuế suất ưu đãi, do đó xuất khẩu của
Trung Quốc sẽ tăng mạnh. Bên cạnh đó nhiều quốc gia đang phát triển có lợi
thế lao động rẻ cũng sẽ tham gia vào việc sản xuất, gia công và cung ứng các
mặt hàng này. Nhu cầu đối với mặt hàng dệt may và giày da bình dân thì tăng
tương đối nhẹ, song đối với các mặt hàng mẫu mốt, chất lượng cao sẽ tăng do
thu nhập bình quân đầu người tăng. Và tất nhiên giá cả hàng cao cấp cũng sẽ
tăng cao nhằm phục vụ cho tầng lớp trung lưu và người có thu nhập cao ở các
nước phát triển.
3.3.6. Các mặt hàng đã qua chế biến.
Mục tiêu và quan điểm phát triển cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
trong những năm tới là tăng tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu, giảm tỷ trọng
76
nguyên liệu, nhiên liệu, hàng sơ chế trong xuất khẩu. Bởi vì, các giá cả, các
mặt hàng thô, sơ chế thường hay biến động trên thị trường thế giới, do đó thu
từ xuất khẩu các mặt hàng này cũng không ổn định. Hơn nữa, giá của các mặt
hàng sơ chế, chưa qua chế biến có xu hướng giảm. Các mặt hàng chế biến sẽ
có xu hướng tăng giá. Tất nhiên, giá cao bao nhiêu còn tùy thuộc vào hàm
lượng vốn, công nghệ và tri thức chiếm trong hàng hóa đó. Do đó, giảm tỷ
trọng sản phẩm thô và sơ chế phải đi liền với đa đạng hóa các mặt hàng chế
biến xuất khẩu, chú ý xây dựng và phát triển một số ngành hàng mà chúng ta
có tiềm năng thành các ngành hàng mũi nhọn xuất khẩu như điện tử và linh
kiện máy tính, phần mềm, thủ công mỹ nghệ, rau quả v.v... Đây là những mặt
hàng mà nhu cầu sẽ rất lớn, và do đó giá cả sẽ có chiều hướng tăng trong giai
đoạn 2001 - 2010.
3.3.7. Mặt hàng phân bón.
Giá cả mỗi loại hàng phân bón biến động rất khác nhau trong mấy năm
vừa qua. Giá phân bón hóa học Nitơ giảm từ mức hơn 200 USD/tân xuống
còn gần 60USD/tấn, trong khi đó phân bón phốt phát chỉ giảm 20%, còn phân
bón kali lại tăng giá.
Giá phân bón Nitơ đã phục hồi và tăng gần 45% vào năm 2000 so với
năm 1999, do các nhà sản xuất ở châu Âu và Mỹ cắt giảm sản xuất. Tuy nhiên
sự phục hồi của giá cả còn rất mỏng manh khi mà ngành công nghiệp này
đang phải đối mặt với sự dư thừa công suất và cạnh tranh xuất khẩu gay gắt.
Giá gạo thấp đã khiến cho cầu giảm và cản trở quá trình phục hồi, vì hơn 50%
phân bón nitơ được dùng để sản xuất lúa gạo. Theo dự báo của WB giá phân
bón u-rê sẽ tăng khoảng 55% vào năm 2010 so với năm 1999, song vẫn thấp
hơn 30% mức cao của năm 1996.
Dự báo giá phân bón phốt phát sẽ tăng 7% vào năm 2000. Giá danh
nghĩa sẽ tăng khoảng hơn 7% vào năm 2005 do giá lúa gạo trên thế giới tăng
sẽ kích cầu phân bón phốt phát. Vào năm 2010, giá cả thực tế của phân bón
phốt phát sẽ giảm khoảng 5% so với mức năm 2000 do năng lực sản xuất mới
đã bắt đầu phát huy tác dụng.
77
Giá danh nghĩa phân bón kali được dự báo là sẽ tăng 1% vào năm 2005
và sau đó tương đối ổn định cho tới tận cuối thập kỷ. Tuy vậy, giá cả thực tế
được dự báo là sẽ giảm vào năm 2010 khoảng 19% so với mức của năm 2000.
3.3.8. Kim loại.
Chỉ số giá danh nghĩa kimloại và khoáng sản của WB đã tăng khoảng
27% so với mức thấp hồi đầu năm 1999, do sản xuất bị cắt giảm trong khi nhu
cầu tăng nhanh. Tuy vậy chỉ số giá danh nghĩa tăng chỉ tập trung vào một số
hàng hóa như giá Niken tăng gấp đôi, giá nhôm tăng 30% và đồng tăng 40%,
trong khi giá các kim loại khác lại không tăng do cung dư thừa và cầu yếu
kém. Giá thiếc tăng nhẹ, trong khi đó giá vàng và bạc hầu như không thay đổi
kể từ đầu năm 1998. Giá chì giảm do cầu yếu. Tuy nhiên giá của nhiều kim
loại sẽ tăng khi quá trình phục hồi kinh tế mạnh mẽ diễn ra.
3.3.9. Các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao.
Tỷ trọng của các ngành công nghệ cao trong tổng giá trị công nghiệp chế
biến và giá trị xuất khẩu của các ngành công nghệ cao đang tăng. Thí dụ mức
tăng tỷ trọng của công nghệ cao trong tổng giá trị của công nghiệp chế biến
nếu xét trong thời kỳ 1970 - 1994 của Hoa Kỳ đã tăng từ 18,2% lên 24,2%,
của Nhật Bản là 16,4% lên 22,2%, của Đức là 15,3% lên 20,1%. Cùng với nó
mức tăng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp cao cũng tăng nhanh. Của
Hoa Kỳ tăng từ 25,9% lên 37,3%, của Nhật Bản từ 20,2% lên 36,7%, của Đức
và Anh tăng từ 17,1% lên 36,2%.
Trong khi thương mại hàng hóa đang có xu hướng giảm xuống thì
thương mại dịch vụ tăng nhanh. Xuất khẩu thương mại dịch vụ năm 1996 đạt
1200 tỷ USD vào năm 1996, chiếm tỷ trọng 205 thương mại toàn cầu. Mức
tăng trưởng hàng năm thời kỳ 1985 - 1996 là 12,5% so với mức tăng xuất
khẩu hàng hóa năm chỉ là 9,5%. Trong thập kỷ tới, dịch vụ viễn thông, và
thương mại điện tử sẽ có mức tăng trưởng cao nhờ ba yếu tố: tiến bộ của công
nghệ thông tin và truyền thông, sự cạnh tranh gay gắt về cung cấp các dịch
vụ, sự tự do hóa thương mại trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thương
mại và dịch vụ. Theo dự báo của công ty nghiên cứu thị trường Forrester của
78
Mỹ, thương mại điện tử toàn cầu năm 2001 sẽ đạt 6900 tỷ USD, trong đó,
Hoa Kỳ chiếm một nửa, Tây Âu chiếm 1600 tỷ USD và khu vực châu Á -
Thái Bình Dương chiếm 1500 tỷ USD.
79
KẾT LUẬN
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước hướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những đặc
trưng cơ bản của thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta.
Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại bao gồm thị trường
hàng, thị trường bán hàng có vai trò quan trọng quyết định sự sống còn đối
với doanh nghiệp thương mại. Thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương
mại nước ta trong những năm vừa qua đã rất phát triển và đạt được những
thành tựu to lớn cả về quy mô và hiệu quả của cả thị trường trong nước và cả
thị trường ngoài nước. Những thành tựu đó là: tăng tổng mức lưu chuyển
hàng hóa, các loại hình dịch vụ gắn với lưu thông hàng hóa phát triển, thị
trường xuất nhập khẩu được mở rộng theo hương đa phương hóa, đa dạng
hóa... Những thành tựu đó góp phần vào sự phát triển của thương mại nước ta,
tạo thế và lực để thương mại nước ta bước vào thế kỷ 21.
Tuy nhiên phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại
nước ta trong những năm qua còn có một số hạn chế cần khắc phục như: khả
năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn thấp, các doanh nghiệp thương
mại chưa làm tốt hướng dẫn tiêu dùng và tổ chức thông tin thị trường để định
hướng cho sản xuất, thị trường nước ngoài mới phát triển được bề rộng, chưa
phát triển được bề sâu, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại gia tăng,
khung pháp lý chưa phù hợp...
Để phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta
trong thời gian tới với mục tiêu thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển,
nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại, tăng mức
hưởng thụ của người dân... thì cần phải thực hiện những biện pháp như nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, tổ chức mạng lưới thu mua hợp
lý, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại, hạn chế
rủi ro trong kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển các trung
tâm thương mại...
Nếu thực hiện tốt các biện pháp đó thì sẽ hạn chế, khắc phục được những
mặt còn tồn tại, thúc đẩy sự phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp
80
thương mại Việt Nam trong những năm tới.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế thương mại - PGS.TS Đặng Đình Đào - NXB
Thống kê năm 2001.
2. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS.TS Hoàng Minh
Đường - NXB Giáo dục năm 1998.
3. Kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - NXB Thống kê.
4. Luật thương mại - NXB Chính trị quốc gia năm 1997.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
6. Niên giám thống kê 2000 - NXB Thống kê.
7. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 51 tháng 9/2001.
8. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 52 tháng 10/2001.
9. Tạp chí Kinh tế và phát triển số 57 năm 2002.
10. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 1/2000.
11. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 2 (70) 2001.
12. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới số 5 (73) 2001.
13. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 42 tháng 6/2001.
14. Tạp chí Thương mại số 11 năm 2001.
15. Tạp chí Thương mại số 17 năm 2001.
16. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 126/2000.
17. Tạp chí thị trường giá cả số 10 năm 2000.
18. Tạp chí Thương nghiệp - thị trường số tháng 5/2002.
82