
tổng quan phát triển
đô thị việt nam
Chương
1

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM
3
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM
1. Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng, 12/2016
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Việt Nam đã có lịch sử phát triển đô
thị từ rất lâu đời. Đến thập kỷ 90, số lượng
đô thị đã lên đến khoảng 500 đô thị. Kể từ
đó đến nay, số lượng đô thị tiếp tục tăng
lên nhanh chóng. Tính đến tháng 12 năm
2016, cả nước đã có 795 đô thị, với tỷ lệ đô
thị hoá đạt 35,2%1, gồm: 02 đô thị đặc biệt
(Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh), 17 đô thị loại
I trong đó có 03 đô thị loại I trực thuộc TW
(Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ), 25 đô
thị loại II, 41 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV
và 626 đô thị loại V (Phụ lục 1).
Theo đánh giá của WB, Việt Nam
đang đô thị hóa nhanh chóng, từ đó dẫn
tới không gian và dân số tại các đô thị tăng
nhanh. Hai thành phố lớn Hà Nội và Tp. Hồ
Chí Minh đang phát triển nhanh hơn nhiều
so với tất cả các thành phố khác. Trên thực
tế, hai thành phố này chi phối phát triển đô
thị của cả quốc gia.
1.1.1. Đặc điểm đô thị hóa và đặc
điểm quy hoạch sử dụng đất đô thị
ở nước ta
Theo quy luật khách quan, đô thị
hóa phải bắt nguồn từ phát triển nền kinh tế
phi nông nghiệp (công nghiệp, thương mại,
dịch vụ…) dần dần thay thế cho nền kinh tế
nông nghiệp. Tuy nhiên, khác với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới, đô thị hóa
của nước ta có đặc điểm là quá trình đô
thị hóa nông thôn thành thành thị, biến đổi
các làng, xã nông nghiệp thành các quận,
phường của đô thị.
Phát triển và tăng trưởng đô thị ở
nước ta nhìn chung là muộn và chậm hơn
so với một số nước trong khu vực. Sự phát
triển đô thị không đồng đều giữa các vùng
và chênh lệch nhiều giữa các khu vực khác
nhau về đặc điểm địa lý, cụ thể như các
khu vực đồng bằng, duyên hải phát triển
nhanh hơn vùng núi, vùng cao. Hơn nữa,
việc quản lý hạ tầng kỹ thuật giữa các bộ
ngành không nhất quán, đồng bộ dẫn đến
những tác động không nhỏ đến môi trường,
đặc biệt ở các đô thị lớn. Thực trạng chung
hiện nay là các đô thị đều bị quá tải, tăng
sức ép ở tất cả các mặt hạ tầng kỹ thuật và
hạ tầng xã hội.
500
649 656
774 788 795
1.000
0
200
400
600
800
1.000
1.200
1990 2000 2003 12/2014 10/2015 12/2016 dự báo
2025
Biểu đồ 1.1. Số lượng đô thị Việt Nam
từ năm 1990 và dự báo đến năm 2025
Nguồn: WB; Bộ Xây dựng, 2016

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM
4
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016
CHƯƠNG 1
Hiện nay, mạng lưới đô thị cả nước
được hình thành và phát triển trên cơ sở
các đô thị trung tâm, gồm thành phố trung
tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như:
Thủ đô Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, các thành
phố Hải Phòng, Đà Nẵng, và Huế; thành
phố trung tâm cấp vùng như: Hạ Long, Việt
Trì, Thái Nguyên, Hòa Bình, Nam Định,
Vinh, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma
Thuột, Biên Hòa, Vũng Tàu và Cần Thơ;
các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh,
bao gồm 5 thành phố trung tâm quốc gia,
khu vực và quốc tế, 12 đô thị là trung tâm
cấp vùng đã kể trên và các thành phố, thị xã
tỉnh lỵ khác; các đô thị trung tâm cấp huyện,
bao gồm các thị trấn huyện lỵ và các thị xã
là vùng trung tâm chuyên ngành của tỉnh và
các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng, bao gồm
các thị trấn là trung tâm các cụm khu dân
cư nông thôn hoặc là các đô thị vệ tinh, đô
thị đối trọng trong các vùng ảnh hưởng của
đô thị lớn, cực lớn2. Tuy nhiên, quá trình đô
thị hóa diễn ra không đồng đều, chủ yếu
ở 3 vùng trọng điểm phát triển KT - XH, ở
vùng duyên hải, và một số đảo lớn như Phú
Quốc, Côn Đảo, Vân Đồn, Cát Bà...
Hệ thống đô thị nước ta đang phát
triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng
đô thị còn thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông đô thị trong những năm qua tuy
đã được cải thiện và nâng cấp, thể hiện qua
các mặt, như: nhiều tuyến đường, cây cầu
được xây dựng; chất lượng đường đô thị
dần được cải thiện; các đô thị loại III trở
2. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07 tháng 04 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch
tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
lên hầu hết đã có các tuyến đường chính
được nhựa hoá và xây dựng đồng bộ với
hệ thống thoát nước, vỉa hè, chiếu sáng và
cây xanh, nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ
và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn
thấp so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thị
yếu kém, quá tải không những không tạo
điều kiện cho sự phát triển KT - XH đô thị,
mà còn làm nảy sinh nhiều áp lực đối với
môi trường.
Để phát triển đô thị hóa bền vững,
chúng ta cần tiến hành xây dựng các hệ
thống hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng kỹ
thuật BVMT phải đi trước một bước. Trên
thực tế, đô thị hóa ở nước ta nhiều nơi,
nhiều lúc còn mang tính chủ quan; muốn
nhanh chóng tăng dân số đô thị để được
nâng cấp đô thị (như nâng cấp đô thị loại V
thành loại IV, loại IV thành loại III…) nên đã
mở rộng đô thị bằng cách ghép các làng xã
có 100% sản xuất nông nghiệp vào đô thị để
tạo thành các phường mới. Việc này đã tạo
ra tình trạng có nhiều làng xã nông nghiệp
tồn tại lâu dài trong đô thị và phát sinh các
vấn đề rất nan giải đối với xây dựng và phát
triển hệ thống kỹ thuật BVMT đô thị.
Đất hạ tầng giao thông
Các đô thị nước ta tồn tại phổ biến
tình trạng thiếu quỹ đất dành cho giao
thông, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa
đảm bảo theo yêu cầu. Theo số liệu thống
kê, tại các đô thị lớn, các chỉ tiêu về hạ tầng
giao thông chỉ đáp ứng được khoảng 35 -
40% so với nhu cầu cần thiết, như: tại Hà

TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM
5
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016
Nội, diện tích đất giao thông khoảng
9,05%, mật độ đường đạt 3,89km/km2;
tại Tp. Hồ Chí Minh diện tích đất giao
thông khoảng 7,5%, mật độ đường đạt
3,88km/km2 (Biểu đồ 1.2).
Các thành phố lớn trực thuộc
TW có nhiều dự án về giao thông đô
thị được triển khai, như: cải tạo, nâng
cấp và xây mới các trục giao thông đối
ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng
tâm, các nút giao đồng mức, khác mức,
các đường vành đai, tuyến tránh, cầu
vượt trong đô thị... Tuy nhiên, tình trạng
ách tắc và tai nạn giao thông vẫn còn
diễn ra rất phổ biến.
Giao thông tĩnh luôn luôn là vấn
đề nan giải đối với các thành phố lớn.
Theo các chuyên gia, quy hoạch đất
sử dụng cho giao thông phải bao gồm
đất cho các bãi đỗ xe (tối thiểu 1% diện
tích đất đô thị, 10% đất khu trung tâm);
trong khi đó hiện nay, đất cho giao
thông tĩnh chưa đạt 1% (tiêu chuẩn của
thế giới, các nước nói chung phải từ 3 -
3,5%). Ngay cả các đô thị nhỏ, tỷ lệ đất
dành cho giao thông tĩnh cũng nhỏ hơn
nhiều so với yêu cầu cần thiết. Nguyên
nhân một phần là do chi phí giải tỏa bồi
thường quá cao nên diện tích đất cho
bãi đỗ xe ít được quan tâm, một số nhà
đầu tư lợi dụng đất bãi đỗ xe chuyển
sang làm thương mại dịch vụ.
Không gian bãi đỗ tại các đô thị
hiện nay chủ yếu vẫn là tận dụng vỉa
hè và lòng đường trong khi các công
trình bãi đỗ riêng hiện vẫn còn hạn chế
và có công suất nhỏ. Thực tế cho thấy,
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông
ở một số thành phố
Nguồn: Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam, WB, 2011
9,05
7,5 7,88
31,9
13,5
0
5
10
15
20
25
30
35
H à Nộ i Tp.HCM B an gk ok New York S eo ul
Khung 1.1. Vỉa hè Hà Nội và các nguy cơ bị
chiếm dụng làm bãi đỗ xe
Hầu hết các tuyến đường huyết mạch đều có vỉa
hè, cây xanh đường phố và đèn đường. Ở các quận
nội thành cũ (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và
Đống Đa), tỷ lệ vỉa hè cao - chiếm 80% hoặc cao
hơn (Bảng 1.2). Hầu hết vỉa hè rộng từ 4m trở lên,
rất ít đoạn đường không có vỉa hè. Tuy nhiên, ở các
quận nội thành mới (Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy,
Hoàng Mai, Long Biên và huyện Từ Liêm), diện tích
vỉa hè nhìn chung còn thấp. Chất lượng công trình
vỉa hè chưa đảm bảo. Vỉa hè thường bị nứt, gãy, mặt
vỉa hè không bằng phẳng. Nhiều khu vực có vỉa hè
nhỏ hẹp và không bó vỉa. Do thiếu công trình bãi đỗ
phù hợp, vỉa hè thường được chiếm dụng làm bãi
đỗ xe.
Nguồn: Nghiên cứu Thống kê đường và hè phố Hà Nội,
JICA, 2011
Quận Chiều dài
đường (km)
Chiều dài
vỉa hè (km)
Tỷ lệ vỉa
hè so với
đường (%)
Ba Đình 59 48 81
Hoàn Kiếm 68 58 85
Hai Bà Trưng 62 53 85
Đống Đa 51 41 80
Tây Hồ 34 15 44
Thanh Xuân 28 20 71
Cầu Giấy 47 26 55
Nguồn: Nghiên cứu Thống kê đường và hè phố Hà Nội, JICA, 2011
Bảng 1.1. Hiện trạng vỉa hè ở Hà Nội

