TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG THỊ TRẤN LÂM - Ý YÊN - NAM ĐỊNH
Mã số đề tài: DTSV.10.2021
: Nguyễn Tài Lộc : 1805QLVA
Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hƣớng dẫn : TS. Trần Thị Diệu Thúy
Hà Nội, tháng 5 năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG THỊ TRẤN LÂM - Ý YÊN - NAM ĐỊNH
Mã số đề tài: DTSV.10.2021
: Nguyễn Tài Lộc : 1805QLVA
Chủ nhiệm đề tài Lớp
Hà Nội, tháng 5 năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bài nghiên cứu khoa học với đề tài “Bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Ý Yên - Nam Định”
là công trình nghiên cứu của em tự viết, không sao chép của bất cứ ai, các số
liệu sử dụng trong bài nghiên cứu là trung thực và chính xác.
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2021
Tác giả
Nguyễn Tài Lộc
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, Em xin chân
thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Quản Lý Xã Hội và cô TS.Trần Thị
Diệu Thúy – giảng viên hướng dẫn, đã quan tâm, chỉ bảo tận tình hướng dẫn
em trong suốt quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học.
Đồng thời em xin cảm ơn đến Cán bộ Xã Yên Xá – Huyện Ý Yên đã giúp
em trong quá trình nghiên cứu và xác thực các tài liệu, số liệu tại địa phương.
Trong quá trình nghiên cứu, chắc chắn đề tài không tránh khỏi sai sót,
rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn
để đề tài nghiên cứu của em được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2021
Tác giả
Nguyễn Tài Lộc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT TÊN VIẾT TẮT TÊN VIẾT ĐẦY ĐỦ
UBND Ủy ban nhân dân 1
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa 2
CN – TTCN Công nghiệp - thiểu thủ công nghiệp 3
HĐND Hội đồng nhân dân 4
DN Doanh nghiệp 5
NNND Nghệ nhân nhân dân 6
NNƯT Nghệ nhân ưu tú 7
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Bảng tổng hợp số liệu về sử dụng đất tại xã Yên Xá ....................... 14
Bảng 2: Thu nhập bình quân đầu người .......................................................... 16
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................... 3 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4 6. Đóng góp của đề tài ................................................................................ 5 7. Bố cục của đề tài ..................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG THỊ TRẤN LÂM - YÊN XÁ - Ý YÊN - NAM ĐỊNH. ..................................................................................................... 7 1.1 Cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề ........... 7 1.1.1.Các khái niệm cơ bản ......................................................................... 7 1.1.1.1 Khái niệm bảo tồn và phát huy ...................................................... 7 1.1.1.2. Khái niệm giá trị văn hóa ............................................................... 8 1.1.1.3.Khái niệm về làng nghề và làng nghề truyền thống ....................... 8 1.1.2 Vai trò của làng nghề truyền thống .................................................. 10 1.1.2.1 Vai trò làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế - xã hội .... 10 1.1.2.2 Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển làng nghề và quảng bá hình ảnh và thương hiệu ....................................................... 11 1.1.2.3 Vai trò của làng nghề gắn kết với cộng đồng ............................... 12 1.2.Khái quát về làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Yên Xá - Ý Yên - Nam Định .................................................................................................. 13 1.2.1. Vị trí địa lý ...................................................................................... 13 1.2.2. Đặc điểm kinh tế ............................................................................. 15 1.2.3. Đặc điểm xã hội .............................................................................. 18 1.3. Nguồn gốc làng nghề ......................................................................... 20 1.3.1. Sự thay đổi của làng nghề đúc đồng xưa và nay ............................ 22
1.3.1.1. Làng nghề đúc đồng xưa .............................................................. 22 1.3.1.2. Làng nghề đúc đồng ngày nay ..................................................... 23 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG - THỊ TRẤN LÂM - Ý YÊN - NAM ĐỊNH ........................................................................................ 25 2.1. Các giá trị văn hóa của làng nghề đúc đồng làng Tống Xá– Thị trấn Lâm -Ý Yên – Nam Định. ........................................................................ 25 2.1.1. Phong tục, tập quán, lễ hội gắn với làng nghề. ............................... 25 2.1.2. Giá trị nghệ thuật ............................................................................ 28 2.1.3. Tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất của làng nghề .................. 29 2.1.4. Văn hóa ứng xử trong làng nghề. ................................................... 30 2.1.4.1 Sự biến đổi văn hóa ứng xử với làng nghề. .................................. 30 2.1.4.2 Văn hóa ứng xử của người dân làng nghề với xã hội. .................. 31 2.1.5. Văn hóa tổ chức sản xuất của làng nghề. ........................................ 32 2.1.6. Giá trị kinh tế của làng nghề ........................................................... 34 2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng Tống Xá-Thị trấn Lâm-Ý Yên-Nam Định. ............................................... 35 2.2.1. Công tác quy hoạch, sử dụng các nguồn lực, cơ chế, chính sách để bảo vệ và phát triển làng nghề. ................................................................. 35 2.2.2. Áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động phát triển nghề đúc đồng Tống Xá-Thị trấn Lâm-Ý Yên-Nam Định ....................... 38 2.2.3. Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến, phát triển làng nghề .......................................................................................................... 39 2.2.4. Nguồn nhân lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của làng nghề. ..... 41 2.2.5. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đúc đồng hiện nay .......................... 42 2.2.6. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường .......................................... 44 2.2.7 Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại làng nghề............... 46 2.2.8. Công tác nghiên cứu định hướng phát triển sản phẩm đúc đồng ......... 47 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 48
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG - THỊ TRẤN LÂM - YÊN XÁ - Ý YÊN - NAM ĐỊNH ....... 49
3.1 Những cơ hội và thách thức cho làng nghề đúc đồng ........................ 49 3.1.1 Những thuận lợi, cơ hội để phát triển .............................................. 49 3.1.2 Khó khăn và thách thức ................................................................... 49 3.2 Các giải pháp khai thác giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng .............. 51 3.2.1 Tăng cường áp dụng Chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương đối với phát triển làng nghề ...................................................................... 51 3.2.2 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và lao động truyền thống cho làng nghề ................................................................................................... 51 3.2.3 Xây dựng mô hình phát triển làng nghề gắn liền với các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường ............................................................................. 52 3.2.4. Tăng cường các hình thức để quảng bá bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa làng nghề ................................................................................. 53 3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ............... 54 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 59 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 60
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng Tống Xá –Thị Trấn Lâm trước kia thuộc xã Yên Xá nằm ở
trung tâm huyện cạnh huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là huyện đồng bằng rộng
lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi với tài nguyên đất phù sa màu mỡ đã hình
thành nên các vùng sản xuất kinh tế như vùng chuyên canh cây lúa nước,
vùng lúa - hoa màu, vùng thủ công nghiệp. Trong đó hoạt động kinh tế thủ
công nghiệp ngày càng có điều kiện phát triển do nghề đúc đồng làm cho nền
kinh tế của xã đạt được hiệu quả cao và đời sống của nhân dân không ngừng
được nâng cao. Trải qua rất nhiều năm tháng khó khăn nhưng với truyền
thống yêu lao động, cần cù, sáng tạo và nhất là đôi bàn tay khéo léo của cư
dân Tống Xá thì các sản phẩm lao động không ngừng cải tiến. Các nghề thủ
công (đan lát, sơn mài, đúc, thêu…) ngày càng phong phú đa dạng, trong đó
nghề đúc đồng không ngừng cải tiến về hình dạng, mẫu mã, hoa văn… về kỹ
thuật đúc. Vì vậy các mặt hàng đúc đồng không chỉ được dùng trong nước mà
còn xuất khẩu ra bên ngoài với giá trị xuất khẩu cao và đã có chỗ đứng ở thị
trường nhiều nước trên thế giới (Trung Quốc, Lào,Thái lan và một số nước ở
Châu Âu…).
Quá trình lao động sáng tạo đó đã tạo nên giá trị độc đáo cho địa
phương, tô thắm thêm truyền thống yêu lao động và đặc biệt giúp thế hệ mai
sau biết trân trọng những thành quả lao động, giữ gìn và phát huy những
thành quả mà ông cha ta đã tạo dựng lên. Nghề đúc đồng từ khi hình thành,
đặc biệt là sự lớn mạnh của các doanh nghiệp đúc đã góp phần đáng kể vào
việc xóa đói, giảm nghèo, giải quyết được công ăn việc làm cho lao động dư
thừa ở địa phương với 2344 nhân khẩu và các vùng lân cận. Do có công ăn
việc làm nên đã góp phần hạn chế được các tệ nạn xã hội. Từ một làng quê
nghèo nàn lạc hậu, với vài chục nhân khẩu, ngày nay Tống Xá đã lớn lên từng
bước thay đổi da thịt, thoát ra khỏi đói nghèo, trở thành một trong những làng
giàu có của tỉnh. Chính sự thay đổi này đã làm đổi mới quê hương. Có những
1
thay đổi lớn lao về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa và bộ mặt của làng quê
là do sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, có sự đóng góp và hi sinh xương
máu của các chiến sĩ trên các mặt trận, sự phấn đấu đi lên của cán bộ và nhân
dân Tống Xá. Ngoài ra còn có tác động không nhỏ từ nền khoa học - kĩ thuật
tiên tiến hiện đại của thế giới. Nghề đúc truyền thống của Tống Xá đã phát
triển rất lâu đời và có vị thế nhất định được các cấp chính quyền, nhà nước
công nhận. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam hội nhập với quốc tế, thương
hiệu cho những mặt hàng sản xuất ra, có một vị trí quan trọng nhằm khẳng
định về chất lượng để chiếm lĩnh thị trường. Một trong những vấn đề mấu
chốt để có thương hiệu không chỉ sản xuất theo kinh nghiệm, mà toàn bộ quy
trình công nghệ phải được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn Việt Nam, chất lượng
sản phẩm phải được phân tích thành phần trên các thiết bị hiện đại. Tìm hiểu
vấn đề này thì đã có sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan địa phương, các
tập thể, các cá nhân song chỉ là những bản báo cáo, những bài viết , nghiên
cứu tìm hiểu một khía cạnh nhỏ còn hết sức sơ lược, mang tính nhỏ giọt rời
rạc chưa hệ thống. Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Ý Yên - Nam Định’’
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghề thủ công truyền thống đã có lịch sử từ lâu đời nhưng phải thừa
nhận rằng mức độ quan tâm của các nhà chuyên môn cũng như sự đầu tư cho
việc nghiên cứu để có thể đưa ra những công trình, những đầu sách mang tính
chuyên sâu hay giáo trình giảng dạy thì hầu như chưa có. Tuy nhiên mấy năm
trở lại đây đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu
hơn về làng nghề.
Làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội (2000) của tác giả Trần
Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo đã đề cập đến các vấn đề như duy trì hình thức
sản xuất, hay nêu một số khó khăn cho các làng nghề trong đó có làng nghề
đúc đồng.
Hoàn thiện chính sách , tạo lập môi trường cho nghề thủ công phát
2
triển là vấn đề cấp thiết. Thúc đẩy kinh tế, khôi phục phát triển các giá trị làng
nghề trong đó có làng nghề đúc đồng. Đưa ra các giải pháp đi đôi với bảo vệ
môi trường.......
Cuốn Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam của học giả Nguyễn
Viết Sự.[12] có một cách tiếp cận mới, đặc biệt là cuốn sách đã phân tích vai
trò của giới trẻ đối với làng nghề truyền thống, qua đó cuốn sách này tính
định hướng thế hệ trẻ sống phải biết có trách nhiệm với làng nghề
Cuốn “ Làng nghề truyền thống Việt Nam” tác giả Phạm Côn Sơn,
nhà xuất bản thành phố HCM, Hồ Chí Minh đã nói rõ các quan điểm, lý luận
thực tiễn đối với làng nghề truyền thống.[ 10 ]
Trên tạp chí Di sản văn hóa số 4 ( 2003) tác giả Lê Thị Minh Lý có bài
viết “ Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể’’ ở đó tác giả
nêu được lên tầm quan trọng việc giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hóa vốn là
di sản của dân tộc, như việc lưu truyền bí quyết nghề trong phạm vi làng xã hay
những giá trị tinh thần mang đậm nét được phản ánh các phong tục, tập quán.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều chú trọng đến làng nghề và
nghề thủ công truyền thống Việt Nam, chứ chưa có công trình chuyên khảo
nào nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, giá trị di sản của làng
nghề thủ công truyền thống ở Yên Xá – Ý Yên. Tuy nhiên những công trình
nghiên cứu nêu trên là cơ sở nền tảng, tư liệu quan trọng không chỉ giúp em
định hướng mà còn là kế thừa, tiếp thu trong quá trình thực hiện nghiên cứu
đề tài. Thông qua nghiên cứu chuyên sâu về đề tài em hy vọng góp phần nhỏ
vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cho sản phẩm thủ công truyền
thống mang nhiều công sức và tâm huyết của người dân làng Tống Xá trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa di sản nói
chung và của làng nghề nói riêng, đề tài khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng
3
công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Ý
Yên - Nam Định, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng thị trấn
Lâm - Ý Yên - Nam Định góp phần phát huy những giá trị văn hóa làng nghề,
nâng cao đời sống người dân thị trấn Lâm - Ý Yên - Nam Định
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đich trên đề tài đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
làng nghề.
- Tổng quan về làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm – Ý Yên – Nam Định.
- Nhận diện những giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm – Ý
Yên – Nam Định.
- Khảo sát , phân tích, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy
giá trị của làng nghề đúc đồng đúc đồng thị trấn Lâm – Ý Yên – Nam Định.
- Đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn
và phát huy giá trị của làng nghề đúc đồng
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu công tác Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng
nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Ý Yên - Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài lấy làng Tống Xá - thị trấn Lâm – Trước
kia là xã Yên Xã, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định làm không gian nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài là từ năm
2015 cho đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiến hành triển khai thực hiện đề tài, dựa trên cở sở lý luận của các
khoa học liên ngành và chuyên ngành. Đề tài nghiên cứu đã sử dụng kết hợp
những phương pháp nghiên cứu chính, bao gồm:
4
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở thu thập nguồn tin từ
nhiều nguồn khác nhau như: tạp chí, sách, báo, website, tài liệu thống
kê,…tác giả đề tài phân tích, tổng hợp thu thập thông tin làm cơ sở lý thuyết
và các luận điểm cho đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Cụ thể là phương pháp phóng vấn,
phương pháp quan sát,Tác giả đề tài đã thực hiện khảo sát công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa làng Tống Xá, Thị trấn Lâm qua UBND xã, huyện và
làng Tống Xá, để thu thập những thông tin làm luận cứ, luận chứng cho đề tài.
- Phương pháp lịch sử:Tác giả sử dụng phương pháp này để điều tra,
thu thập các thông tin về làng Tống Xá, từ đó tái hiện nội dung theo diễn trình
thời gian
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận:
- Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến làng nghề, làng
nghề truyền thống, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
nói chung và của làng nghề đúc đồng Tống Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định nói riêng.
Về mặt thực tiễn:
- Đề tài đã nhận diện giá trị văn hoá của làng nghề đúc đồng Tống Xá,
thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
- Góp phần nâng cao nhận thức về quản lý làng nghề thông qua các
biện pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị làng nghề đúc đồng Tống Xá, thị
trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
- Các giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu có thể ứng dụng vào
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn
hóa làng nghề đúc đồng Tống Xá, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
- Đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về văn
hóa nói chung và nghiên cứu về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa làng nghề đúc đồng Tống Xá, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định nói riêng .
5
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của đề tài có bố cục gồm ba chương:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận chung và khái quát về Làng nghề đúc
đồng Thị Trấn Lâm - Yên Xá - Ý Yên - Nam Định.
Chương 2: Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng
nghề đúc đồng - Thị Trấn Lâm - Yên Xá - Ý Yên - Nam Định.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa Làng nghề đúc đồng - Thị Trấn Lâm - Yên Xá - Ý
Yên - Nam Định.
6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KHÁI QUÁT
VỀ LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG THỊ TRẤN LÂM - YÊN XÁ - Ý YÊN -
NAM ĐỊNH.
1.1 Cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
1.1.1.Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm bảo tồn và phát huy
Khái niệm bảo tồn
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Bảo tồn là giữ lại không để mất đi” [4]. Bảo
tồn văn hóa có hai đối tượng để bảo tồn: giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.
Bảo tồn tức là các hành động nhằm bảo vệ, gìn giữ, bảo lưu lại sự tồn
tại của các sự vật, hiện tượng, gìn giữ chúng để tồn tại cùng với thời gian. Bảo
tồn các sự vật, hiện tượng là lưu giữ, không làm cho chúng bị mai một, bị
thay đổi và biến dạng. Đề tài sử dụng khái niệm này làm khái niệm công cụ
để nghiên cứu
Khái niệm phát huy
Theo Từ điển tiếng Việt, Phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [4].
Phát huy là hành động nhằm đưa văn hóa vào trong thực tiễn xã hội,
coi đó như nguồn nội lực, các tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã
hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện mục
tiêu của văn hóa đối với phát triển xã hội. Phát huy văn hóa là làm cho những
giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống lan tỏa trong cộng đồng xã hội, có ý
nghĩa xã hội tích cực.
Phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc phải biết kế thừa có
chọn lọc những tinh hoa văn hóa của thế hệ trước để lại, làm cho các giá trị
của văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng đồng xã hội, biết mở rộng
giao lưu văn hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị.
Phát huy văn hóa truyền thống nhằm mục tiêu phát triển du lịch bền vững,
phục vụ tích cực cho công tác bảo tồn các di sản văn hóa.
7
Như vậy, bảo tồn văn hóa được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và
gìn giữ sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Phát huy có nghĩa
là những hành động nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực tiễn, tạo sức
lan tỏa tích cực trong xã hội, coi đó là nguồn nội lực tiềm năng góp phần thúc
đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con
người. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề là là các biện pháp để
gìn giữ, tôn tạo các giá trị văn hóa làng nghề để chúng không bị mai một, mờ
nhạt. Và các giá trị văn hóa làng nghề đó được lan tỏa, tỏa sáng và có ý nghĩa
tích cực trong đời sống xã hội của nhân dân, góp phần vào
1.1.1.2. Khái niệm giá trị văn hóa
Giá trị văn hóa là sự đánh giá mang tính cộng đồng đối với các hiện
tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra trong bối cảnh xã hội nhất định.
Những giá trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích, đáp ứng nhu cầu của con người
trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó được hình thành và được định
hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành vi, tình
cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy. Giá trị văn hóa về thực chất là sự
khẳng định của con người đối với sự tồn tại vật chất và tinh thần trong đời
sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi, thái độ của mình, khích lệ con
người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng đồng xã hội tôn vinh.
Bên cạnh những giá trị tổng quát (yêu nước, cộng đồng, cần cù, hiếu
học, gắn bó huyết thống và làng bản) còn tồn tại giá trị bộ phận. Giá trị này
được thể hiện trong từng lĩnh vực hoạt động của con người như: khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong ăn uống, đi lại, phong tục tập quán, lễ
hội... Những giá trị bộ phận không phải là những thực thể riêng biệt mà chúng
góp phần chung đúc nên giá trị văn hóa tổng quát và ngược lại.
1.1.1.3.Khái niệm về làng nghề và làng nghề truyền thống
Khái niệm làng nghề:
Đã có rất nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về làng nghề, tuy
nhiên hiện nay, định nghĩa, khái niệm về làng nghề vẫn chưa có sự thống
nhất. Theo Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo“làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ
8
khác như đan lát, gốm, làm tương… xong đã nổi trội một nghề truyền thống,
tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công nghiệp, có phường ( cơ cấu tổ chức),
có ông trùm, ông cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã có chuyên tâm, có quy
trình công nghệ nhất định” [5,tr.12].
Xét theo góc độ kinh, trong cuốn[11] của Dương Bá Phượng cho rằng:
“ Làng nghề là làng ở nông thôn có một số hoặc một số nghề thủ công tách
hẳn ra thủ công nghiệp và kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các làng nghề đó
chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị toàn làng.[11,tr.3]
Khái niệm làng nghề truyền thống
Hiện nay chưa có khái niệm chính xác và thống nhất nhất về làng nghề
truyền thống cho nên nhóm tác giả sử dụng một số quan niệm về các làng
nghề truyền thống như sau:
Quan niệm 1: Làng nghề truyền thống là một đơn vị hành chính cổ xưa
mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ
cương tập quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng
sống chuyên nghề mà cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp
quần thể để phát triển công ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là
sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và
các cá biệt của địa phương
Quan niệm 2: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm nghề thủ
công có truyền thống lâu năm thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này
cũng chưa đầy đủ bởi vì khi nói đến làng nghề truyền thống ta không thể chú
ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và
thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghe đó.
trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kĩ thuật sản xuất và thủ
pháp nghè thuật.
Quan niệm 3: Làng nghề truyền thống là những làng có tuyệt đại đa số
bộ phận dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển
lâu đời trong lịch sử được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha
9
truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn lại hàng chục năm. Trong làng sản xuất
mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay
nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Đồng thời sản phẩm làm ra mang
tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng vả đậm nét văn hóa dân tộc.
1.1.2 Vai trò của làng nghề truyền thống
1.1.2.1 Vai trò làng nghề truyền thống trong sự phát triển kinh tế - xã hội
Làng nghề đóng vai trò tích cực trong việc gia tăng sản xuất các ngành
phi nông nghiệp (các ngành tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ) cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH đất nước. Góp phần chuyển lao
động từ sản xuất có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu
nhập cao hơn. Chuyển đổi tập quán sản xuất từ sản xuất nhỏ mang tính độc
canh, tự túc sang sản xuất hàng hóa với qui mô lớn đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp nhận công nghệ sản xuất có trình độ ngày càng cao.
Xét về góc độ phân công lao động thì làng nghề không những cung cấp
tư liệu sản xuất mà còn dịch chuyển cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp như các
ngành nghề chế biến. Tạo điều kiện cho một đội ngũ lao động có điều kiện
trình độ tay nghề cao hơn. Giờ đây khi chuyển dịch sang công nghệ cao tạo ra
khối lượng hàng hóa lớn, chất lượng ngày một cao.
Sự đa dạng hóa các hình thức kinh doanh trong quá trình phát triển làng
nghề (sự ra đời các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và sự liên kết giữa các loại hình
sản xuất để thành những cơ sở doanh nghiệp mạnh ngay trên địa bàn.Tăng thu
nhập, thu hẹp mức sống giữa thành thị và nông thôn. Phát triển làng nghề góp
phần tăng thu nhập của người dân đồng thời tạo ra nguồn tích lũy khá lớn và
ổn định cho ngân sách địa phương cũng như các hộ gia đình..
Phát triển làng nghề là cơ hội cho người nông dân tăng thu nhập của
nguồn thu hai cách: Hoặc là tham gia vào làng nghề và nhận thu nhập do
ngành nghề đem lại hoặc tham gia hoạt động dịch vụ phục vụ cho làng nghề
và nhận thu nhập từ hoạt động đó. Các dịch vụ phát sinh phục vụ cho sản xuất
làng nghề cũng rất phong phú, có thể là dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu,
10
công cụ sản xuất, dịch vụ chuyên khâu hỗ trợ sản xuất, dịch vụ tiêu thụ.
Với các làng nghề thu nhập từ phi nông nghiệp đặc biệt là lao động từ
làng nghề ngày càng trở nên quan trọng. Bởi thu nhập tăng lao động sản xuất
cơ sở cho các đơn vị sản xuất đầu tư nâng cấp các loại máy móc, nâng cấp
yếu tố đầu vào, năng suất, sản lượng sản xuất kéo gần khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị.
Đây là mục tiêu của công cuộc CNH-HĐH ở nông nghiệp nông thôn
mà nước ta đã đề ra. Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi
thế nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nói chung và CNH-HĐH nông thôn nói riêng.
Cùng với các nghề thủ công, làng nghề phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động
dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động, thu hút nhiều lao
động sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục vì vậy đòi hỏi dịch
vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm phải thường xuyên.
Như vậy sự phát triển làng nghề có tác dụng quan trọng đối với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.Tăng thu nhập cho người lao động trong làng nghề thu nhập bằng 2,1-2,3
lần lao động nông nghiệp thuần nông. Góp phần hạn chế di dân tự do ra thành
thị , giảm các tệ nạn xã hội và mất trật tư an ninh do không có việc làm gây ra
1.1.2.2 Vai trò của làng nghề truyền thống trong sự phát triển làng
nghề và quảng bá hình ảnh và thương hiệu
Trong việc quảng bá hình ảnh và thương hiệu của làng nghề rất được
chú trọng, trong nền công nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa này sẽ có rất
nhiều sự cạnh tranh trong các vấn đề liên quan xung quanh đến tên tuổi
thương hiệu của làng nghề đúc đồng.
Khuyến khích các hộ làm nghề tổ chức khu sản xuất gắn với xây dựng
các gian hàng giới thiệu sản phẩm để tạo thành khu trung tâm thương mại
quảng bá sản phẩm làng nghề.
Cùng với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các hộ làm nghề đúc
11
đồng đã đóng góp xây dựng trung tâm giới thiệu và quảng bá sản phẩm làng
nghề đúc đồng truyền thống và thành lập ban quản lý. Đối với các sản phẩm
được trưng bày tại trung tâm, ban quản lý thống nhất với các hộ sản xuất có
cùng mức giá chung cho mỗi loại sản phẩm.
1.1.2.3 Vai trò của làng nghề gắn kết với cộng đồng
Có thể nói lịch sử phát triển của văn hóa làng nghề đúc đồng tại làng
Tống xá luôn luôn gắn liền với quá trình phát triển kinh – xã hội của người
dân. Các phương thức sản xuất truyền thống có bề dày lịch sử lâu đời, là nơi
hội tụ và kết tinh các giá trị và nét văn hóa độc đáo về lịch sử và quá trình
hình thành.
Văn hóa làng nghề đúc đồng được thể hiện qua các hoạt động lễ hội,
hoạt động mua bán sản phẩm và phong cảnh của làng nghề, các hoạt động lễ
hội hưởng thụ các thành quả của quá trình lao động sau một năm làm việc vất
vả hay hoạt động giỗ tổ nghề bày tỏ sự tri ân đến ông tổ của làng nghề hàng
năm là những hoạt động đậm nét văn hóa cộng đồng. Bên cạnh những mối
quan hệ truyền thống tương trợ lẫn nhau giữa những người sản xuất và người
bán. Cảnh quan của làng nghề với hình ảnh cây đa, bến nước sân đình và chùa
chiền cũng thể hiện nét văn hóa đặc trưng của làng nghề.
Yếu tố cộng đồng thể khá nó nét qua các hoạt động đặc trưng tại làng
Tống xá qua khảo sát thực tế nhóm tác giả đã đưa ra được một số quan điểm
điểm riêng về tính cộng đồng tại địa phương nơi đây:
Thứ nhất: Được hình thành từ rất sớm trong lịch sử xây dựng và phát
triển của làng – huyện Ý Yên.
Thứ hai: Gắn liền với tiến trình đấu tranh của dân tộc, là nét văn hóa
đặc trưng của người dân nơi đây đúng với tinh thần đoàn kết tương trợ, tình
tập thể hòa đồng, nếp sống dân chủ bình đẳng. Tính cộng đồng làng xã
“Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần” đã tạo nên
tình làng nghĩa xóm và nét văn hóa cộng đồng cực kỳ đậm sâu với người
dân nơi đây.
12
1.2.Khái quát về làng nghề đúc đồng thị trấn Lâm - Yên Xá - Ý
Yên - Nam Định
1.2.1. Vị trí địa lý
Huyện Ý Yên nằm ở phía tây nam tỉnh Nam Định, phía bắc tiếp giáp
tỉnh Hà Nam, phía tây giáp tỉnh Ninh Bình, phía đông giáp huyện Vụ Bản,
phía nam giáp huyện Nghĩa Hưng. Tọa lạc giữa hai trung tâm kinh tế chính trị
của tỉnh Nam Định và Ninh Bình, có tuyến quốc lộ 10, đường sắt xuyên Việt
đi qua… trong đó:
Diện tích: 241, 23 km2
Dân số: 247718 người (2008)
Về hành chính một thị trấn Lâm - huyện lỵ và 31 xã như sau:
Yên Thọ, Yên Thành, Yên Trung, Yên Nghĩa, Yên Phương, Yên Tân,
Yên Chính, Yên Phú, Yên Hưng, Yên Phong, Yên Bình, Yên Minh, Yên
Dương, Yên Xá, Yên Hồng, Yên Quang, Yên Tiến, Yên Bằng, Yên Cường,
Yên Đồng, Yên Mỹ, Yên Lợi, Yên Khánh, Yên Ninh, Yên Khang, Yên Lộc,
Yên Phúc, Yên Trị, Yên Nhân, Yên Lương.
Làng Tống Xá ngày nay thuộc xã Yên Xá, huyện Ý Yên tỉnh Nam
Định, nằm ở vị trí trung tâm của huyện và được tách ra từ xã Vạn Xá - Yên
Xá trước đây.
Về địa giới, phía đông giáp thôn Khả Lang của xã Yên Dương; phía
nam giáp xã Yên Ninh, thôn Cổ Liêu và một phần Thị Trấn Lâm; phía tây
giáp đường 57, Thị Trấn Lâm và huyện Ý Yên; phía bắc giáp đường 12, thôn
Tu Cổ của xã Yên Khánh và thôn Vàng của xã Yên Bình. Với vị trí này Tống
Xá được coi là cửa ngõ của tỉnh Nam Định, là vị trí chiến lược trong lịch sử,
đặc biệt là trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm của tỉnh Nam Định.
Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thời tiết ở đây tương đối ổn định do đó
cây cối sinh sôi và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên khí hậu ở đây cứ nắng
lắm mưa nhiều nên gây ra tình trạng khô hạn vào mùa khô và ngập lụt vào
mùa mưa ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Bên
cạnh đó hiện tượng lúa bị bệnh như (sâu cuốn lá, vàng lá, nấm…) làm cho
13
năng suất và sản lượng lúa ngày càng giảm. Ngoài ra trung bình mỗi năm
huyện Ý Yên phải đón nhận từ 3,4 cơn bão; từ 5,6 trận áp thấp nhiệt đới (tập
trung vào tháng 6 và tháng 7), những hiện tượng bất thường khác như mưa đá
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoa màu vào vụ đông. Đặc biệt nhân
dân Tống Xá là vùng chiêm 5 trũng, thường xuyên bị ngập úng vào những
ngày thu hoạch. Đời sống nhân dân lúc nào cũng chịu ảnh hưởng nhiều hơn
so với một số địa điểm cùng trong tỉnh. Trong điều kiện đó nhân dân Tống Xá
đã có nghề phụ bổ trợ thêm đó là nghề đúc đồng do ông cha ta dạy và truyền
lại cho con cháu và được lưu truyền và ngay nay đã trở thành làng nghề
truyền thống.
Làng Tống Xá có tổng diện tích là 126, 33 ha trong tổng số diện tích xã
Yên Xá 199,26 ha với các loại đất như sau:
Các loại đất (ha ) Trƣớc 1945 Sau 1945
Đất thổ cư 8 10,88
Đất nông nghiệp 147 92.71
Đất công nghiệp 0 5,16
1 0,80 Đất dành cho công trình văn hóa
2 16,78 Các loại đất khác ( ao hồ, sông mương…..)
176 126,3 Tổng
Bảng 1: Bảng tổng hợp số liệu về sử dụng đất tại xã Yên Xá
Như vậy qua bảng thống kê các loại đất ở trên thì chúng ta thấy đất
nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế hơn hẳn so với các loại đất khác, trong đó đất
nông nghiệp là 92, 71 (ha), đất công nghiệp là 5,16 (ha). Điều đó chứng tỏ
hoạt động sản xuất kinh tế ở Tống Xá chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công
nghiệp còn chiếm tỉ lệ khá nhỏ. Tuy nhiên xu thế phát triển một nền kinh tế
thủ công nghiệp, công nghiệp đang được cư dân Tống Xá đặc biệt quan tâm.
Tống Xá hầu như không được ưu đãi về tài nguyên khoáng sản như
các địa phương khác trong huyện và trong tỉnh nên hoạt động công nghiệp
hầu như không diễn ra vào trước năm 1945. Tuy nhiên Tống Xá lại có rất
nhiều tài nguyên đất, nhất là đất sét - đây là thứ nguyên liệu rất cần cho sản
14
xuất công nghiệp (nghề đúc đồng). Chính sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên
này đã giúp cho nghề thủ công đúc đồng ở Tống Xá có điều kiện để phát
triển. Với điều kiện tự nhiên, đặc điểm và tích chất địa hình đã đem lại cho
Tống Xá những điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi để phát triển nghề đúc
của mình.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế
Làng Tống Xá là một vùng quê chiêm trũng do đó hoạt động sản xuất
kinh tế của Tống Xá hầu như chưa có điều kiện để phát triển do trình độ dân
trí lúc đó còn thấp nên hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, công nghiệp
chưa phát triển nên cuộc sống của cư dân nơi đây còn vất vả, cực nhọc, nghèo
túng. Nhưng sau năm 1945 nền kinh tế của làng có sự khởi sắc: nông nghiệp
không còn chiếm vị trí chủ đạo nữa mà thay vào đó là ngành thủ công nghiệp,
công nghiệp. Đó là chiều hướng để xây dựng kinh tế và xác định ngành kinh
tế mũi nhọn của huyện.
Nền kinh tế của Tống Xá tương đối đa dạng bao gồm:
Thứ nhất về nông nghiệp: Nghề sống chính của người dân Tống Xá là
nông nghiệp năm này qua năm khác, đời sống hàng ngày đều phải trông chờ
vào sản phẩm nông nghiệp như: (lúa gạo, ngô khoai, sắn, đậu đỗ…). Mặc dù
khi ra đời từ Trang Kiến Hòa và làng Tống Xá, ông cha ta đã khai khẩn nhiều
nhưng số lượng ruộng đất có hạn, dân cư từ nơi khác chuyển đến nhiều nên số
lượng ruộng đất bình quân theo đầu người vẫn còn thấp hơn nhiều so với các
địa phương khác trong huyện. Mặt khác địa hình canh tác không thuận lợi, đất
đai không màu mỡ, ruộng chiêm trũng chiếm nhiều, quanh năm lụt lội nên
năng suất lúa và hoa màu thấp. Bà con nông dân chân lấm tay bùn, làm ăn vất
vả, hai sương một nắng, quần quật trên cánh đồng mà vẫn không đủ thóc gạo,
hoa màu. Một số người tháng ba ngày tám phái đi mò cua bắt ốc, hoặc phải đi
làm thuê, làm mướn quanh năm mà vẫn không đủ ăn.
Thứ hai về nghề phụ : Trước Cách mạng tháng tám, cả làng có khoảng
14 gia đình vừa làm nông nghiệp vừa mở lò đúc tư nhân, tự quản lý toàn bộ từ
khâu đầu vào đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Do trình độ công nghệ của cả nước
15
còn lạc hậu, nên nghề đúc ở quê cũng rất đơn giản. Tất cả dụng cụ đồ nghề,
nhà xưởng rất thô sơ, các khâu kĩ thuật đều là kinh nghiệm và thủ công, chủ
yếu dựa vào sức lao động của con người.
Mua bán đồng nát, nghề hàn nồi, hàng năm cứ sau mồng 10 tháng
giêng là các ông, các bác với đòn gánh trên vai mang theo các sản phẩm làng
nghề như: đồ thờ cúng, lưỡi cày, diệp cày, nồi niêu, xoong chảo… bằng gang,
đồng đi bán hoặc làm nghề hàn nồi và thu mua các nguyên vật liệu như: đồng
nát, sắt vụn và các loại phế liệu về đổ cho các lò đúc. Đồng thời với các nghề
trên dân làng còn có nghề bưng trống. Sản phẩm của nghề này gồm đủ các
loại trống, cỡ trống lớn mang đi bán cho các đình chùa, hội làng, còn các cỡ
trống nhỏ mang đi bán cho các cháu nhỏ. Những người làm nghề đúc phải vất
vả cật lực nhưng đời sống kinh tế và sinh hoạt gia đình cũng chẳng được cải
thiện là bao. Đa số các gia đình nghề đúc vẫn phải sống trong những căn nhà
lợp dạ đơn sơ, đời sống vẫn vất vả, ăn bữa này đã phải lo bữa mai.
Thứ ba về công nghiệp: Hiện nay ở Tống Xá - Yên Xá có doanh thu từ
sản xuất công nghiệp chiếm 94% tổng doanh thu của toàn xã. Tính đến năm
2018, toàn xã có trên 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có 57 công ty
trách nhiệm hữu hạn, 8 doanh nghiệp tư nhân và 1 công ty cổ phần, chiếm
70% doanh nghiệp của huyện và 14% tổng số doanh nghiệp của tỉnh. Thu
nhập bình quân đầu người đạt gần 16 triệu đồng / người / năm [ 2]; cả xã có
trên 100 chiếc xe hơi hạng sang… Nếu có ai nói với bạn: nhiều gia đình ở
Yên Xá có vài chục tỷ đồng tiền mặt trong nhà thì bạn đừng vội kết luận họ
“nói khoác”, đó là sự thật 100%.
STT Năm Thu nhập bình quân
1 2010 3 triệu/ người
2 2015 5,5 triệu/ người
3 2018 10 triệu/ người
4 2020 12 – 15 triệu/người
Bảng 2: Thu nhập bình quân đầu ngƣời
16
Với gần 800 hộ, Yên Xá hiện chỉ có một số ít hộ “chuyên” về nông
nghiệp và dịch vụ.Một loạt doanh nghiệp mới đã ra đời ở Yên Xá mà những
người đứng đầu còn rất trẻ. Họ tìm ra những sản phẩm chưa ai làm hoặc chưa
ai làm được như sản xuất chi tiết, phụ tùng của nhiều loại máy móc, thiết bị
thuộc các 8 ngành xi măng, đường, kính, xây dựng, thủy tinh, cơ khí… Con
đường đầy khó khăn, trở ngại, nhưng bằng quyết tâm và sức trẻ, họ đã đạt
được những thành công bất ngờ.
Trước sự phát triển nhanh, mạnh về số lượng và chất lượng doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, không gian sau lũy tre làng Yên Xá đã không
còn đủ sức quần tụ. Ngay từ năm 1992, khi tỉnh chưa có chủ trương xây dựng
cụm công nghiệp nông thôn, Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân xã đã phải xin các
cấp có thẩm quyền cắt gần 2 ha đất nông nghiệp làm mặt bằng sản xuất cho
16 doanh nghiệp có nhu cầu cấp thiết nhất. Đến cuối năm 2001, cụm công
nghiệp đã điều chỉnh lên 10 ha, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của các
doanh nghiệp. Trước thực tế đó, xã Yên Xá đang lập dự án phát triển quy mô
cụm công nghiệp lên 30 ha
Làm công nghiệp trong cơ chế thị trường, người Yên Xá đã liên tục đầu
tư để đổi mới, kể cả đầu tư đón đầu công nghệ, thiết bị và nguồn nhân lực.
Trên một chục doanh nghiệp ở Yên Xá đã đầu tư các lò luyện thép trung tần
và nhiều dây chuyền rút thép. Hiện nay, cả xã có hàng trăm máy móc, thiết bị
hiện đại, các cơ sở đúc đều chuyển sang công nghệ khuôn cắt với sản phẩm
đạt độ chính xác cao. Không dừng lại ở đó, nhiều chủ doanh nghiệp đã tiếp
cận công nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực với các chế độ ưu đãi nhằm thu
hút nhân tài. Hơn 20 doanh nghiệp đã vào công nghiệp với tổng mức đầu tư
trên 100 tỷ đồng, thu hút trên một chục kỹ sư luyện kim, gần 30 nghệ nhân
nghề đúc và khoảng 100 công nhân kỹ thuật có trình độ tạo mẫu bậc cao.
Người Yên Xá tự hào đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, thay thế hàng
nhập khẩu. Đặc biệt, với những sản phẩm hoành tráng, có giá trị nghệ thuật
cao như tượng Phật tổ Như Lai lớn nhất Đông Nam Á, được đặt tại núi Sóc
17
Sơn - Hà Nội; cụm tượng đài mừng 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ…
Là một xã nghề, nông nghiệp được xác định “vừa làm, vừa chơi” hay
“làm để cho đất khỏi nhàn rỗi” nên tiến độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã
Yên Xá tăng nhanh tới mức “chóng mặt”. Trong 5 năm (1998 - 2003), giá trị
sản xuất nông nghiệp đã giảm từ 20% xuống còn 6% tổng doanh thu của toàn
xã, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 3 lần. Đời sống vật chất, tinh thần
của người dân Yên Xá có bước tăng trưởng vượt bậc. Những ngôi nhà cao
tầng, biệt thự sang trọng mọc lên san sát. Đằng sau lũy tre làng, sau những
đồng lúa, ruộng màu là những khu dân cư sầm uất, âm thanh của cuộc sống
hiện đại rộn ràng trên từng ngõ xóm, đường thôn. Làng nghề Yên Xá không
chỉ giải quyết vấn đề việc làm cho lao động trên địa bàn mà còn thu hút số
lượng lớn lao động từ các vùng khác.
Yên Xá hôm nay không chỉ là một làng nghề thủ công truyền thống mà
còn là một cụm công nghiệp, một trong những vùng công nghiệp trọng điểm
của huyện Ý Yên và tỉnh Nam Định. Nhưng một thực tế đau lòng đang diễn
ra ở đây, Bác Nguyễn Thanh Vân - Chủ tịch xã Yên Xá xót xa: “chúng tôi
đang phải trả giá thầm lặng bằng chính sự sống của con người và hơn hết là
bằng thế hệ tương lai của Yên Xá”. Gần như toàn bộ nguồn nước ở đây đã và
đang bị ô nhiễm độc nặng, tiếng ồn gấp 5 - 10 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
Giải quyết những hạn chế, tồn tại đang nằm ngoài khả năng của xã, của huyện
và cả của tỉnh.
1.2.3. Đặc điểm xã hội
Từ các làng quê sống trên một nghìn năm nghèo nàn lạc hậu, ngày nay
Tống Xá đã vươn lên thành một thôn có dáng dấp của một đô thị thu nhỏ với
nhiều thay đổi nhanh chóng, theo nhịp sống của xã hội văn minh hiện đại và
luôn vươn lên là một địa điểm làng nghề truyền thống của tỉnh Nam Định.
Ai cũng biết: “Cây phải có cội, nước phải có nguồn”. Cội nguồn là kính
cẩn và linh thiêng. Song do mải mê bươn trải với cuộc sống, nhiều người chưa
nhớ ra rằng: làng Tống Xá đã 1230 tuổi . Với một làng quê đổi mới như ngày
18
nay, mỗi người dân nơi đây đã cùng nhau hướng về lịch sử cội nguồn họ.
Cội nguồn thứ nhất đó là sự ra đời của làng Tống Xá với cái tên khai
sinh là Trang Kiến Hòa, cùng với quá trình vật lộn qua bao năm tháng, từ
nghèo đói bần hàn, từ chết chóc đâu thương, trải qua đoạn trường dâu bể, cho
đến ngày nay đã bước vào 1235 tuổi (tính đến năm 2020).
Cội nguồn thứ hai đó là sự ra đời của nghề đúc truyền thống, một nghề
đã ba chìm bẩy nổi, cháy thịt nung da, song tự nó đã làm cho Yên Xá thực sự
thoát nghèo, thay da đổi thịt, để có cuộc sống sung túc và hiện đại như ngày
nay, khi tuổi nghề đã sấp xỉ 900 năm (889 năm tuổi). Người dân Yên Xá cũng
có những đặc điểm chung của mọi người dân Việt Nam, tuy nhiên do ra đời từ
vùng đất chiêm trũng nghèo đói và do đặc tính làng nghề nên họ mang trong
mình những đặc điểm sau: Có ý thức ham muốn học hỏi nâng cao kiến thức
hiểu biết về nhiều mặt, đặc biệt là khoa học và kỹ thuật về công nghệ đúc và
luyện kim. Luôn có nhiệt tình mến khách thập phương. Do tính chất nghề
nghiệp, người dân Yên Xá phải giao lưu rộng rãi và tiếp xúc với các nhà máy,
xí nghiệp, với mọi tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng quan chức từ cấp xã,
huyện, tỉnh đến các Bộ ngành ở trung ương.
Trong quan hệ giao tiếp nói chung, luôn nhiệt tình, thẳng thắn và thể
hiện lòng mến khách, nên thu hút được nhiều khách đến hợp tác làm ăn.
Không chịu sống khổ cực trong lũy tre xanh mà luôn luôn hướng đến mọi nơi,
khắp chân trời cuối bể. Cũng do tính chất làng nghề, nên người dân Yên Xá
luôn luôn nay đây mai đó. Ngày trước quê hương còn nghèo đói, nhiều người
phải tha phương cầu thực, hoặc di cư đến những vùng đất xa xôi để lập
nghiệp và kiếm sống.
Tống Xá hiện nay là nơi cư trú của rất nhiều dòng họ với tất cả 22 dòng
họ, với 2344 nhân khẩu, trong đó có số dân lớn nhất là các họ Nguyễn Văn
(498 khẩu), Dương Doãn (392 khẩu), Nguyễn Đức (222 khẩu), Nguyễn Hữu
(211 khẩu), Đỗ Văn (203 khẩu)….Các dòng họ ở đây đều sống vui vẻ, hòa
đồng với nhau. Đặc biệt là họ thường giúp đỡ nhau những lúc gặp khó khăn,
19
hoạn nạn nên họ đã đoàn kết với nhau hơn trong đấu tranh cũng như phát triển
kinh tế, xã hội. Cư dân Tống Xá nói riêng và cư dân huyện Ý Yên nói chung
đều theo đạo phật có từ thời nhà Lý ( 1010 - 1225 ). Mỗi gia đình đều thờ
cúng tổ tiên thể hiện sự tôn kính người đã mất. Đặc biệt vào những ngày giỗ,
ngày rằm… người dân nơi đây đều làm cơm mời con cháu, cầu trời phật cho
họ phúc lộc, sức khỏe, làm ăn phát đạt…. Đặc biệt hơn do tính chất nghề
nghiệp nên những người làm ăn kinh doanh thường ra chùa để cầu xin đức
phật cho làm ăn thuận lợi, xin lộc vào đầu năm để cả năm được may mắn.
Trong khoảng thời gian gần 700 năm (1120 - 1802) nghề đúc của Tống
Xá dần dần phát triển và giao lưu rộng rãi với nhiều địa phương khác. Với
quê hương “Đất lành chim đậu” nhiều người ở nơi khác đã đến Tống Xá lập
nghiệp, khu dân cư dần phát triển về phía đông làng, hình thành thêm 4 xóm
nữa. Như vậy cả làng Tống Xá có 7 xóm đó là: xóm Hà, xóm Cừ, xóm Đình,
xóm Đá, xóm Đương… Có thể nói, đâu đâu cũng có bàn chân của người dân
Yên Xá, mỗi chuyến đi có thể vài tuần, hoặc vài tháng. Có người làm ăn phát
tài, có người không gặp vận may thì vợ con không được nhờ, nhưng vẫn không
bỏ nghề. Đa số người dân xóm Đình, xóm Đá, xóm Đương, từ những ngày xa
xưa đã phải chịu đựng kiếp sống lang thang, nay đây mai đó để kiếm sống, như
câu cao dao của các cụ ở Tống Xá vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay:
“Xóm Đình, xóm Đá, xóm Đương
Trong ba xóm đó đi sương về mù”.
Như vậy, từ các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý đã chi phối
tới hoạt động kinh tế và phát triển đa dạng các ngành nghề trong đó hoạt động
sản xuất thủ công nghiệp truyền thống đúc đồng đang trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của huyện. Đồng thời còn tác động đến tình hình xã hội, sự quần cư
và đời sống của nhân dân.
1.3. Nguồn gốc làng nghề
Làng Tống Xá thuộc huyện Ý Yên tỉnh Nam Định được xem là một
trong những cái nôi của nghề đúc đồng ở nước ta.
20
Làng Tống Xá ra đời năm 791, nhưng nghề sống chính vẫn là nông
nghiệp với cây lúa trồng màu. Do dân số ngày càng tăng, ruộng đất không
khai phá được nhiều, địa hình canh tác không thuận lợi, ruộng chiêm trũng
nhiều, nên năng suất rất thấp. Người dân lao động làm ăn quần quật quanh
năm mà vẫn đói rách, nghèo khổ. Cuộc sống trên 300 năm chỉ với đồng
ruộng, không có gì thay đổi.
Mãi đến năm 1118, sau 327 năm ra đời, dân làng mới có thêm một
nghề mới đó là nghề đúc đồng. Ngày tháng trôi qua, lúc đầu nghề mới này
còn hết sức lạc hậu, song rồi từng bước phát triển vượt bậc kể từ năm 1986 đã
tăng tốc rất mạnh mẽ như một bước ngoặt lớn về phát triển kinh tế của quê
hương chiếm tới 97% doanh thu của xã.
Nghề đúc đồng Tống Xá gắn với một truyền thuyết. Chuyện rằng, cách
đây gần 900 năm, tại Phủ Yên Khánh (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) , có ông
Nguyễn Chí Thành ngay từ nhỏ đã xuất gia theo hầu Thiền sư Giác Không.
Ông là người học rất giỏi, đi nhiều nơi, đem học vấn dạy cho mọi người.
Trong một lần qua Tống Xá, vào ngày 12 tháng 2 Âm lịch tương đương
với năm 1118, nhà sư Nguyễn Chí Thành (43 tuổi) đã đến vãng cảnh chùa
Tống Xá ở xứ đường Leo, trước cửa làng và ngụ cư ở tại chùa này. Trong thời
gian ở chùa, ông đã đi thăm các cánh đồng của làng, nhận thấy ở phía đông
bắc làng có một khu ruộng khoảng vài ba mẫu có loại đất sét dùng được làm
khuôn đúc. Ông đã cùng dân làng đào một hố sâu để lấy đất làm khuôn và dậy
cho người 19 dân Tống Xá nghề đúc, kéo bễ thổi lò, chế tạo ra các dụng cụ
bằng gang, đồng như cày, nồi chậu để cung cấp cho nông nghiệp và sinh hoạt
gia đình. Cánh đồng lấy đất làm khuôn đó là cánh đồng Cầu Hố. Nhiều thế kỷ
đã trôi qua, lịch sử cũng nhiều thăng trầm, dâu bể nhưng nghề đúc đồng vẫn
trường tồn như chính chất liệu đanh rắn của nó. Để nhớ ơn công lao của ông,
dân làng đã lập đền thờ. Hàng năm, vào giữa tháng 2 Âm lịch, làng mở hội để
tưởng nhớ công lao người đã truyền nghề, đem lại sự nghiệp cho làng.
Đình thờ Đức Thánh Tổ ở Tống Xá chỉ là một đền nhỏ của riêng làng
21
dựng lên để ghi nhớ công lao của ông trong thời gian 7 tháng về ở chùa
Đường Leo - Tống Xá và dậy nghề đúc cho dân làng vào năm 1118. Qua bao
thăng trầm của lịch sử, đình đã xuống cấp do nhiều nguyên nhân như: năm
1948 tòa đệ tam của đình bị rỡ để xây hầm kháng chiến, năm 1950 đạn đại
bác bắn vào tòa đệ nhị. Sau đó đình đã được tu sửa vào các năm: 1986, 2000,
2004, 2005, 2007, trong đó năm 2000 là sửa chữa lớn, có nâng cấp và dịch
chuyển đình từ ngoài mặt đường vào trong khoảng 30m.
Chính vì vị trí, vai trò to lớn của nghề đúc đồng ở Tống Xá - Ý Yên mà
các cấp chính quyền địa phương, các ban ngành, các chủ đầu tư đã tích cực
ủng hộ, giúp đỡ và khuyến khích cư dân nơi đây tiếp tục sản xuất và không
ngừng mở rộng, nâng cao trình độ tay nghề. Việc đẩy mạnh các mặt hàng đúc
đồng, không những phát huy thế mạnh của địa phương, giải quyết công ăn
việc làm, nâng cao đời sống, cân đối ngành nghề mà còn có những hiểu biết
cần thiết về bản sắc dân 20 tộc, hiểu rõ những hình thức chủ yếu về các nghề
thủ công truyền thống, thêm yêu quý đất nước, yêu quý những con người tài
hoa làm nên những sản phẩm tô đẹp thêm đời sống văn hóa - tinh thần chung
của dân tộc, nhân dân địa phương. Vì những sản phẩm làm ra chứa đựng lòng
nhiệt thành, đam mê; ẩn chứa, gửi gắm ngụ ý, tâm hồn đời sống nhân dân,
toát lên vẻ đẹp tài hoa trí tuệ, góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.[7]
1.3.1. Sự thay đổi của làng nghề đúc đồng xưa và nay
1.3.1.1. Làng nghề đúc đồng xưa
Tống Xá là vùng đất cổ với hơn 1.200 năm lịch sử mở đất, lập thôn
được hình thành vào thế kỷ VIII do hai ông Tống Phúc Thành và Dương Vạn
Hợp đem theo gia thất về đây khai hoang, vỡ đất, trồng cấy lập trang ấp có tên
là Kiến Hoà, sau này đổi tên là làng Tống Xá. Sau 327 năm ra đời trang Kiến
Hòa, đến năm 1118, vào ngày 12-2 nhà sư Nguyễn Chí Thành tu ở chùa Điềm
Xá, Gia Viễn, Ninh Bình đã đến thăm cảnh chùa ở đường leo của Tống Xá và
ở lại chùa này trong thời gian 7 tháng. Sau khi tìm thấy ở cánh đồng phía
Đông làng có chứa loại đất sét có thể làm được khuôn đúc, Ông đã dạy dân
22
làng Tống Xá đào thành những hố sâu để lấy đất đem về làm khuôn và dạy
nghề đúc kim loại. Từ đó cánh đồng đào hố làm đất sét này được gọi là cánh
đồng Cầu Hố.
Đồng thời với dạy nghề đúc, Ông đã cho tu sửa lại chùa đường leo và đặt
tên chùa là “Cổ Liêu tự” (có nghĩa là ngôi chùa cổ đã có từ rất xa xưa không rõ
năm tháng). Ngày 12-9 cùng năm, tự nhiên Ông bỏ ra đi. Để tưởng nhớ công
lao của Ông, dân làng đã lập đền thờ Ông cạnh đền thờ Ông Tống và Ông
Dương gọi là đền thờ Đức Thánh Tổ. Sau khi chùa ở đường leo có tên là Cổ
Liêu thì khu vực dân cư phía Đông Nam làng Tống Xá (tách ra từ trang Kiến
Hòa), đa số là dòng họ Dương của ông Dương Vạn Hợp ở gần chùa đã đặt tên
chùa, đó là làng Cổ Liêu (tên Cổ Liêu do nhà sư Minh Không đặt năm 1118).
Kể từ năm 1118, sau khi thầy Minh Không ra đi, các học trò như: Ông
Lâm, Ông Thường, Ông Tường, Ông Tâm, Ông Hòa, Ông An, Ông Phúc đã
tiếp thu được tinh hoa của Người, rồi hướng dẫn cho con cháu đời này qua
đời khác. Từ đó nghề đúc của làng Tống Xá ngày càng mở mang phát triển
thịnh vượng, cuộc sống ngày càng ấm no sung túc. Chính vì thế, dân làng đã
xây dựng đình thờ Ông rất trang nghiêm và tôn kính. Công đức của Ông đã
được thể hiện bằng năm lần sắc phong cấp nhà nước.
Hầu hết các gia đình sống chủ yếu bằng nghề nông, nhưng mở thêm
một lò ú để có thêm việc làm và tăng thêm thu nhập. Đây là các lò tư nhân, tự
quản lý toàn bộ về công nghệ và tiêu thụ. Mặc dù công việc đúc hoàn toàn là
của các gia đình, nhưng ngay từ thời đó, đã có tính cộng đồng khá cao. Các cụ
nghệ nhân cao tuổi thường được cử ra để điều hòa các công việc lớn từ khâu
đầu vào, sản xuất và tiêu thụ như: ấn định ngày đúc hàng tháng cho các lò;
thống nhất hàng ngày buổi sáng từ giờ mới được nổi lửa, buổi chiều 7h phải
tắt lửa; quy định giá cả và nơi mua, nơi bán cho các lò trong thời gian này đã
hình thành nên các phường như: phương Cày, phường Đồng......
1.3.1.2. Làng nghề đúc đồng ngày nay
Mấy chục năm qua, nghề đúc ở Yên Xá đã phát triển vượt bậc, làm
thay đổi cơ bản bộ mặt của một làng quê chiêm trũng nghèo nàn, lạc hậu. Với
số lượng 62 công ty và doanh nghệp đúc (không kể các công ty ở tỉnh khác),
23
có doanh thu hàng năm trên 150 tỉ đồng (năm 2007 lên tới 250 tỉ), đã làm thay
da đổi thịt hàng chục gia đình nghề đúc.
Quá trình trưởng thành và phát triển của nghề đúc đã xuất hiện nhiều
tài năng, nhiều nghệ nhân có trình độ chuyên môn cao, có năng lực tổ chức
sản xuất kinh doanh giỏi, được đông đảo nhân dân làng nghề tự suy tôn và lưu
truyền qua các thời kỳ. Bàn tay và khối óc của các nghệ nhân đang làm cho
nghề đúc ở làng Tống Xá, Yên Xá ngày càng phát triển, công nghiệp địa
phương Ý Yên ngày càng mở rộng
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, đề tài đã trình bày một số vấn đề về khái niệm , các
chính sách của nhà nước,vai trò của làng nghề đối với sự phát triển và giữ gìn
các giá tri văn hóa. Đồng thời, chương 1 đã trình bày tổng quan về về Thị Trấn
Lâm – Yên Xá – Ý Yên cũng như làng nghề truyền thống đúc đồng (nguồn gốc
của làng nghề). Những nội dung được trình bày trong chương 1 chính là cơ sở
lí luận và thực tiễn giúp nhóm tác giả triển khai nội dung chương 2.
24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ ĐÚC ĐỒNG - THỊ TRẤN LÂM -
Ý YÊN - NAM ĐỊNH
2.1. Các giá trị văn hóa của làng nghề đúc đồng làng Tống Xá– Thị
trấn Lâm -Ý Yên – Nam Định.
2.1.1. Phong tục, tập quán, lễ hội gắn với làng nghề.
Một trong những giá trị văn hóa tiêu biểu của làng nghề đúc đồng – Thị
trấn Lâm – Yên Xá – Ý Yên – Nam Định là tín ngưỡng thờ tổ nghề, lễ hội
làng truyền thống, lễ hội đền Tống Xá, gắn với di tích lịch sử đền thờ Đức
Thánh tổ:
Lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ còn có tên gọi khác là Lễ hội làng nghề
truyền thống xã Yên Xá; Lễ hội đền Tống Xá... là lễ hội truyền thống của cư
dân thôn Tống Xá thuộc xã Yên Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là nơi tôn
vinh, ngưỡng vọng vị Thánh tổ, thiền sư Nguyễn Minh Không và nghề đúc
truyền thống. Vào dịp lễ hội hàng năm tại các di tích, đều diễn ra nghi lễ
“hiến xảo” để tấu, trình với các vị tổ nghề những sản phẩm làng nghề. Trước
lễ hội từ 2-3 tháng, các gia đình làm nghề sẽ đầu tư tâm sức chế tác thủ công
một sản phẩm tiêu biểu và có giá trị nhất. Khi tổ chức nghi lễ “hiến xảo” các
gia đình mang sản phẩm ra đình, đền thờ tổ nghề làm lễ yết cáo, dâng trước
ban thờ các vị tổ những sản phẩm có tính thẩm mỹ cao và kỹ thuật tinh xảo.
Cùng với nghi lễ “hiến xảo”, nghi thức “rước lửa”, “kéo lửa” khai hội cũng là
một hoạt động không thể thiếu tại mỗi làng nghề dịp đầu năm.
Lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ có từ lâu đời do cộng đồng làng nghề đúc
kim loại Tống Xá sáng tạo, thực hành, được kế tục qua nhiều thế hệ. Đây là
dịp để dân làng thể hiện sự tri ân, lòng tự hào về một nhân vật lịch sử, một
danh nhân đã có những đóng góp quan trọng đối với quốc gia Đại Việt thời
Lý, đặc biệt là công lao truyền nghề đúc kim loại cho địa phương.
Vì thế thiền sư Nguyễn Minh Không còn được dân làng tôn là Thánh
Tổ, có vai trò quan trọng bảo trợ cuộc sống tinh thần của dân làng, trong đó
25
có nghề đúc truyền thống.
Lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ được diễn ra trong các ngày 10, 11, 12 tháng 2
âm lịch, với các nghi lễ tiêu biểu như: Lễ mục dục, lễ rước kiệu Đức Thánh
Tổ, Thực hành tế nam quan và tế nữ quan.
Trong đặc điểm sinh hoạt văn hóa tinh thần của làng nghề hầu như đều
gắn liền với các hoạt động văn hóa dân gian khác nhau. Trên kênh báo Nam
Định có viết:
Trong lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ diễn ra rất nhiều hoạt động hội,
thu hút đông đảo cộng đồng địa phương và du khách đến xem, cổ vũ như:
Biểu diễn các tích chèo về lịch sử lập làng và nghề đúc, vật cầu bùn, leo cột
mỡ, cờ tướng...
Biểu diễn tích chèo: Ý Yên là vùng đất cổ với nhiều di sản văn hóa phi vật
thể, trong đó có nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, dân ca, dân vũ phong
phú, đa dạng như: nghệ thuật chầu văn, ca trù, xẩm…đặc biệt là nghệ thuật
hát chèo, với sự giúp đỡ của Nghệ nhân ưu tú Trần Quang Lộc, đội văn nghệ
xã Yên đã dàn dựng được nhiều tiết mục hát chèo, hát văn đặc sắc, trong đó
tiêu biểu phải kể đến vở chèo “Kiến Hòa mở hội” và “Chín trăm năm vàng
son Thánh Tổ Minh Không truyền nghề”, “Thánh Tổ Minh Không truyền
nghề đúc Tống Xá”.
Vật cầu bùn: Đây là trò chơi dân gian truyền thống có từ lâu đời thu hút
đông đảo mọi tầng lớp nhân dân đến xem và cổ vũ náo nhiệt. Trò chơi được
tổ chức trong 2 ngày 11 và 12 tháng Hai âm lịch.
Thông qua các nghi lễ và các hoạt động trong lễ hội Đức Thánh Tổ đã
phản ánh lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Kiến Hòa xưa - Tống
Xá nay; về quá trình ra đời phát triển của nghề đúc kim loại truyền thống của
địa phương. Tri ân công đức to lớn của Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không -
ông Tổ của nghề đúc truyền thống.Thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn
quả nhớ người trồng cây” mang đậm giá trị nhân văn, thể hiện bản sắc truyền
thống văn hóa Việt Nam.
26
Lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ còn là dịp để gắn kết cộng đồng, phát
huy tinh thần đoàn kết, tình làng nghĩa xóm, yêu thương giúp đỡ nhau trong
cuộc sống, là dịp con em quê hương làm ăn sinh sống ở xa tìm về nguồn cội.
Đặc biệt đối với cộng đồng nghề đúc kim loại, đây còn là dịp trao đổi kinh
nghiệm, khích lệ các nghệ nhân và gia đình quyết tâm bảo tồn, phát huy nghề
truyền thống của ông cha truyền lại, góp phần xây dựng phát triển kinh tế của
gia đình và địa phương.
Phỏng vấn Bác Phạm Quang Ngọc có cảm nghĩ như nào khi đến với lễ
hội khi là một vị khách đến nơi đây: Đến với lễ hội cộng đồng và du khách
lưu lại những ấn tượng sâu sắc về những tình cảm thân thiện, mến khách của
người dân, về không khí vui tươi đặc sắc của lễ hội, là hình ảnh quê hương
Yên Xá đẹp giàu và đang trên đà phát triển thịnh vượng. Lễ hội đền thờ Đức
Thánh Tổ vì thế còn là một sản phẩm du lịch văn hóa đăc trưng, hấp dẫn của
tỉnh Nam Định.
Hay như phỏng vấn Anh Phan Trung Quyết cảm nghĩ về quy mô lễ hội
như thế nào, anh cho hay: Lễ hội đền thờ Đức Thánh Tổ là lễ hội truyền
thống, với quy mô lớn, có vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của
cộng đồng, nó đã trở thành tài sản chung, được cộng đồng sáng tạo, thực hành
và trao truyền qua nhiều thế hệ, đến nay vẫn duy trì và phát triển, trở thành di
sản văn hóa đặc trưng tiêu biểu của cộng đồng dân cư làng Tống Xá nói riêng
và của tỉnh Nam Định nói chung. Hiện nay những người đại diện cộng đồng
trực tiếp thực hành lễ hội lên tới hàng trăm người và số người tham dự mỗi kỳ
lễ hội lên tới hàng vạn người tham gia.
Như vậy làng nghề đúc Tống Xá ngoài yếu tố sản xuất còn mang đậm
yếu tố văn hóa và yếu tố tâm linh phù hợp. Ở đó những người dân làng nghề
đã hình thành nên những hội, phường buôn. Cho dù buôn đâu, bán đâu, những
người này vẫn có sự liên kết chặt chẽ với những người làng
Tín ngưỡng và lễ hội tại làng Tống xá thường gắn liến với các điều kiện
tự nhiên và có quy luật riêng của làng. Nó được thể hiện qua các giá trị văn
27
hóa – xã hội tại làng Tống Xá, tái xác định những mối quan hệ mật thiết giữa
gia đình với xã hội ngày càng gắn bó và liên kết cộng động, các thành viên
trong cùng một làng với nhau và thể hiện rõ nét qua các mùa lễ hội tại làng
Tống Xá.
2.1.2. Giá trị nghệ thuật
Tống Xá là làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất về nghệ thuật đúc
đồng, tạc tượng, sản xuất ra các sản phẩm tinh xảo bậc nhất. Công đoạn đúc
đồng theo Ông Nguyễn Văn Khanh - một nghệ nhân ở làng Tống Xá với
truyền thống ba đời làm nghề - cho biết, có 7 công đoạn chính để tạo ra một
sản phẩm làm bằng đồng. Đó là tạo mẫu, tạo khuôn, nấu chảy nguyên liệu, rót
khuôn, hoàn thiện sản phẩm, cuối cùng là đánh bóng. Đầu tiên là tạo mẫu,
người thợ sẽ dùng đất sét hay thạch cao dẻo để tạo thành mẫu đã định sẵn.
Bước thứ hai là tạo khuôn, dùng đất phù sa trộn đất sét, tro trâu và bông vụn
đắp ngoài vật mẫu. Thứ ba, nấu chảy nguyên liệu: dùng đồng vụn và các hợp
kim với tỉ lệ phù hợp đun nóng chảy và trộn lẫn với nhau. Công đoạn nấu
đồng rất cầu kỳ, người thợ phải luôn quan sát và tính toán để đồng chảy đều,
độ chảy vừa phải, khi nấu vừa chín tới thì sẽ rót đồng vào khuôn. Tiếp theo là
rót khuôn, đây là khâu khó nhất và đòi hỏi trình độ của tay nghề cao của
người thợ Khi rót đồng thì phải diễn ra liên tục, đều tay, để đảm bảo sản phẩm
ra lò được mịn màng, nhẫn nhụi và sáng bóng. Bước cuối cùng là hoàn thiện
sản phẩm, sau khi nguội, dỡ sản phẩm ra khỏi khuôn, mài, giũa, đục,
chạm, tách và đánh bóng theo ý tưởng của nghệ nhân. Để sản phẩm mượt mà,
sáng bóng không bị gờ, không lẫn đồng sóng hay đồng cháy phụ thuộc nhiều
vào khả năng của những người thợ. Công đoạn hoàn thiện sản phẩm mang
yếu tố quyết định phần “hồn” của mỗi sản phẩm đúc. “Công đoạn này phụ
thuộc hoàn toàn vào bàn tay nghệ nhân từ những chạm trổ tạo nên đường nét
của vật phẩm, thật sự thổi hồn cho mỗi bức tượng”.Làm khuôn, nấu đồng, rót
đồng vào khuôn. Sản phẩm sau khi hoàn tất phải đồng sắc – đồng khí mới đạt
yêu cầu kỹ thuật. Còn về tính nghệ thuật lại đòi hỏi cao trong khâu chế tác,
28
những chi tiết chạm trổ hay tạo hình sản phẩm là yếu tố cốt lõi tạo thành giá
trị nghệ thuật. Kỹ thuật chạm bạc, chạm đồng, ghép tam khí, hay ngũ khí
(đồng, vàng, bạc, đồng xanh, đồng đen) hoặc đắp nổi đều dựa trên sự phát
triển của nghề gò đồng. Sinh ra ở vùng đất truyền thống, mỗi thế hệ, mỗi
ngành đều hành thạo với công việc và trở thành những người mang tinh hoa
đến mọi miền đất nước.
2.1.3. Tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất của làng nghề
Đã từ thời xa xưa, những nghệ nhân đúc đồng của Làng nghề đúc đồng
Ý Yên chỉ đúc những sản phẩm đơn giản như các đồ thờ cúng, đỉnh đồng, lư
hương. Cho đến ngày nay, do sự phát triển của làng nghề truyền thống nói
chung trên cả nước, và nghề đúc đồng nói riêng.
Tại Ý Yên, đã cho ra đời những tượng phật, danh nhân, lãnh tụ dân tộc,
đồ thờ cúng, chuông, tượng, đồ phong thủy bằng đồng vô cùng tinh xảo. Và
để có được những sản phẩm như vậy, cần phải có những yếu tố vô cùng quan
trọng để tạo lên bản sắc riêng cho làng nghề đó là kinh nghiệm và những tri
thức để lại cho đến ngày nay:
+ Tay nghề đúc đồng của những nghệ nhân Đồng Ý Yên Nam
Định rất điêu luyện do có được những kinh nghiệm lâu năm được truyền lại
của những người đời trước.
+ Trí sáng tạo của những nghệ nhân rất lớn nên tạo ra cái hồn cho mỗi
sản phẩm.
+ Những người nghệ nhân đúc đồng tại Ý Yên luôn đầu tư những kiến
thức thực tiễn cùng với lý thuyết của nghề. Thêm vào đó, sự đầu tư trang thiết
bị công nghệ, máy móc để góp phần mang đến sự sáng tạo và thành công cho
mỗi sản phẩm họ làm ra.
+ Nhiệt tình với khách hàng, ham học hỏi và tiếp thu những kiến thức
cùng ý kiến đóng góp của khách hàng. Biết tìm tòi, sáng tạo để mang đến
những sản phẩm mới vô cùng độc đáo.
29
2.1.4. Văn hóa ứng xử trong làng nghề.
2.1.4.1 Sự biến đổi văn hóa ứng xử với làng nghề.
Nếu như trước đây Tống Xá việc giữ gìn bí quyết và truyền nghề chủ
yếu được giữ gìn trong gia đình thì hiện nay phương thức truyền nghề tương
đối mở rộng hơn so với trước.
Nghề đúc đồng vốn là một nghề đòi hỏi nhiều kỹ thuật, nên ở Tống Xá
nếu đã muốn theo nghề và gắn bó với nghề, thì cần một thời gian rất dài để
học tập cũng như rèn luyện các kỹ năng cần thiết. Mỗi nhà, mỗi cơ sở lại
có những thế mạnh, một thị trường tiêu thụ riêng, nên việc giữ gìn mẫu mã
cũng như bí mật về khuân mẫu, hay cách thức, tỷ lệ được bàn giao lại rất
nghiêm ngặt.
Quan niệm về trình độ học vấn của các nghệ nhân đúc đồng ở Tống
Xá:Trước đây nếu như chỉ dựa vào nông nghiệp thì người dân Tống Xá chỉ có
thể đủ ăn, có khi còn thiếu đói và không phải ngẫu nhiên mà dân gian xưa có
câu “ có thực mới vực được đạo”, gia đình không đủ của ăn thì con cái cũng
kém phần học tập đi đôi chút. Trong thời kỳ bao cấp cũng thế và cho đến hiện
tại là thế kỷ thứ 21 người dân làng nghề chú trọng hơn trong việc đầu tư cho
con em đi học hành đầy đủ, nghiêm túc để đào tạo ra những lứa nghệ nhân có
trình độ không chỉ ở tay nghề mà còn là ứng xử có thái độ tốt, trân trọng làng
nghề đúc đồng.
Quan niệm trong mối quan hệ gia đình: Người thợ thủ công ở Tống Xá
hầu hết các công việc do hai vợ chồng bàn bạc và quyết định, chỉ trừ công
việc nhà cửa do người phụ nữ quyết định, còn lại do đôi bàn tay của người
đàn ông đảm nhiệm, điều này cho thấy xu hướng bình đẳng giữa vợ chồng.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng có sự tôn trọng, kính
trên nhường dưới nhưng sự độc lập về kinh tế dẫn đến quyền giám sát của thế
hệ trước đó có xu hướng giảm đi.
Quan niệm trong quan hệ làng xóm: Trong cuộc sống người dân làng
Tống Xá, ngoài mối quan hệ gia đình và họ hàng còn mối quan hệ xóm giềng
30
là mối quan hệ xã hội mang tính truyền thống của người dân ở làng. Trong
thời xưa, mỗi con người sinh ra đều bị rằng buộc bởi các mối quan hệ dòng
họ, hương ước, .....và cho đến bây giờ nó đã nhạt dần đi và thay vào đó là sự
sẻ chia, đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái được nêu lên rất rõ.
2.1.4.2 Văn hóa ứng xử của người dân làng nghề với xã hội.
Ứng xử của những người làm nghề tại Tống Xá với xã hội được thể
hiện qua chữ tín trong kinh doanh.
Chữ tín đối với người dân làng Tống Xá được đánh giá qua chất lượng
sản phẩm, bởi từ thời gian nhận làm và đưa ra sản phẩm hoàn chỉnh, kể cả
quan hệ cung cầu trong lúc sản xuất. Tất cả những yếu tố này thể hiện rõ nét
nhất qua sản phẩm cũng như số lượng sản phẩm tiêu thụ và chất lượng sản
phẩm. Muốn giữ uy tín thì phải tạo ra sản phẩm tốt, mà muốn làm được như
vậy thì người thợ thủ công phải tỉ mỉ, chính xác từng công đoạn một.
Ứng xử với xã hội của người dân làng Tống Xá còn được thể hiện qua
ý thức bảo tồn các giá trị văn hóa. Lịch sử phát triển của làng nghề đúc đồng
luôn gắn liền với lịch sử phát triển nền văn hóa Việt Nam nhiều bản sắc.
Nhiều sản phẩm của làng Tống Xá được sản xuất mang tính nghệ thuật cao,
mang tính đặc trưng riêng của làng nghề vượt qua hơn cả những giá trị đơn
thuần nó còn thể hiện nó là những hiện vật được coi là biểu tượng đẹp đẽ
truyền thống của làng.
Nhưng sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến sự cạnh tranh
giữa các cơ sở sản xuất, giữa các gia đình trong làng nghề với nhau. Do sản
xuất cùng một loại mặt hàng hóa, các gia đình trong làng nghề thường cạnh
tranh nhau trong việc thu hút khách hàng, giá cả sản phẩm, ....do đó nhiều khi
xảy ra các hành vi ứng xử không lành mạnh trong kinh doanh buôn bán để
tranh giành khách hàng. Mặt trái ấy đó vô hình ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ
ứng xử xã hội với nhau.
Tình trạng này sẽ diễn ra mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai nếu
không có sự điều tiết kịp thời của cơ quan quản lý và cộng đồng cư dân tại
31
chính làng nghề. Như vậy trong quan hệ ứng xử với tự nhiên, con người đã
vươn lên làm chủ tự nhiên nhưng cũng chính do con người phá hoại đi nó,
phá tan môi trường tự nhiên như việc đổ xả chất thải ra hệ thống làm sông
ngòi và nguồn nước... trong quan hệ xã hội thì con người làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân. Tính cá nhân, tính thực dụng dần dần được khẳng định trong
ứng xử với cộng đồng nghề.
2.1.5. Văn hóa tổ chức sản xuất của làng nghề.
Triển khai kế hoạch và định hướng của huyện Ý Yên về phát triển các
khu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tâp trung cho sản xuất Làng nghê
Tống Xá nói riêng và các làng nghề khác trên địa bàn nói chung
Toàn huyện hiện có 5.576 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong các cụm, điểm công nghiệp, làng
nghề; đều xây dựng và định vị được thương hiệu trên thị trường, sản xuất,
kinh doanh hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương và các
vùng lân cận.
Để đạt được những kết quả trên,
Ban Thường vụ Huyện ủy Ý Yên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra
nhiều giải pháp hữu hiệu trong đó, về nguồn lực đất đai, huyện chỉ đạo khảo
sát xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp cho phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tích cực cùng nhà đầu tư tháo gỡ kịp
thời những khó khăn trong công tác giải tỏa, đền bù để sớm có mặt bằng sạch
bàn giao cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Về nguồn lực tài chính, khi các cơ sở sản xuất có nhu cầu mở rộng quy
mô, huyện chỉ đạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi, cải cách thủ tục hành chính để
các công ty, doanh nghiệp, tổ hợp tiếp cận nhanh với các nguồn vốn. Về
nguồn nhân lực, huyện có nguồn lao động khá dồi dào, nhân dân cần cù, sáng
tạo; đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý
kinh tế và xã hội.
Hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển tốt và đồng đều, đào tạo nguồn
32
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đáp ứng nhu cầu
lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Về các nguồn lực khác, huyện
thực hiện xã hội hóa trong xây dựng nông thôn mới, nhất là việc nâng cấp hệ
thống đường giao thông để việc đi lại và vận chuyển hàng hóa được thuận
tiện, đảm bảo an toàn... Việc phát triển các cụm, điểm công nghiệp và làng
nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập
cho nhân dân, là động lực, nền tảng vững chắc để huyện tiếp tục phát triển
bền vững.
Chủ trương của huyện trong giai đoạn 2020-2025 là tiếp tục thu hút
đầu tư xây dựng thêm các cụm, điểm công nghiệp mới; phối hợp triển khai
Khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ; hoàn thiện cơ sở hạ tầng Cụm công
nghiệp Yên Dương; lập hồ sơ dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Cụm công
nghiệp Yên Bằng với quy mô 50ha, khu tiện ích thương mại dịch vụ tại xã
Yên Hồng, quy mô 25ha; bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gắn với
xây dựng nông thôn mới nâng cao; tiếp tục khai thác các tiềm năng, lợi thế
của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương hiệu
của làng nghề Ý Yên.
Để tiếp tục thu hút đầu tư, phát triển các cụm, điểm công nghiệp và
làng nghề truyền thống, Huyện ủy Ý Yên đã đề ra nhiều giải pháp mới. Trong
đó, trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương, ưu tiên phát triển
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và quy hoạch sản xuất tại các làng
nghề theo hướng tập trung. Trước mắt, ưu tiên quy hoạch quỹ đất để phát
triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề truyền
thống đúc đồng Tống xá,. Bên cạnh đó huyện tạo môi trường đầu tư thông
thoáng, minh bạch, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư đối với các nhà đầu tư có tiềm
lực. Đến nay, huyện tiếp tục có 50 dự án đầu tư trên địa bàn trong các lĩnh
vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ; bao gồm 47 dự án được
UBND tỉnh chấp thuận phê duyệt chủ trương đầu tư và 3 dự án đầu tư nước
ngoài đi vào hoạt động với số vốn trên 200 tỷ đồng, giải quyết việc làm
33
khoảng 3.000 lao động.
Huy động thu hút các nhà đầu tư, đư nhà đầu tư, hút đầu tư, phát triển
các cụm, điểm công nghiệp và làng nghề truyền thống, Huyện ủy Ý Yên đã đề
ra nhiều giải pháp mới. Trong đó, trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của
địa phương, ưu tiên phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu tểđ thu hút đn đư
hút đD ttư, phát tritn các cụm, điểm c. Chg ngg bn đư hút đD ttư, phát tritn
các cụm, điểm công nghiệp và làng nghề truyền thống, Huyện ủy Ý Yên đã đề
ra nhiều giải pháp mới.công…
2.1.6. Giá trị kinh tế của làng nghề
Kết quả sản xuất của các cơ sở hoặc cửa hàng do nhóm tác giả khảo sát
cho thấy, thu nhập hỗn hợp bình quân một lao động rất cao, đạt khoảng hơn
120.000.000 đồng/lao động/năm. Bình quân thu nhập một tháng khoảng
10.000.000 triệu đồng/ tháng, 330.000 đồng/ ngày. Như vậy giá trị kinh tế của
làng nghề Tống Xá, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định bao gồm:
Thứ nhất tạo việc làm, tăng thu nhập
Việc phát triển ngành nghề, làng nghề đúc đồng là hướng chủ yếu để
tạo việc làm cho lao động. làng nghề trong cả nước đã thu hút trên hàng nghìn
lao động làm việc thường xuyên, ngoài ra, còn tận dụng được số lao động trên
và dưới độ tuổi. Hiện nay, nhiều làng nghề đã thu hút trên 70% lao động thu
nhập từ nghề đúc đồng, đem lại giá trị sản xuất tiểu thủ công vượt trội so với
nông nghiệp trước đây.
Thứ hai góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Phát triển nghề đúc đồng truyền thống chính là con đường chủ yếu để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển từ lao động nông
nghiệp năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động ngành nghề có năng suất
và chất lượng cao với thu nhập cao hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của nhân
dân tại làng Tống Xá một cách toàn diện cả về kinh tế và văn hóa cũng chỉ có
thể đạt được nếu trong nông thôn có cơ cấu hợp lý của nông thôn mới, có
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, có nông thôn vận động và phát triển
thanh bình với hệ thống làng nghề tiếp nối truyền thống văn hóa làng nghề
34
với chuỗi đô thị nhỏ văn minh, lành mạnh.
Bên cạnh đó, sản phẩm làng nghề còn góp phần quan trọng vào kim
ngạch xuất khẩu. Nhiều nước rất ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ của
làng Tống Xá vì những kiểu dáng độc đáo, mới lạ, bắt kịp được xu hướng
người dùng.
Thứ ba kinh tế gắn liền với phát triển xã hội
Làng nghề đúc đồng là một lực lượng có vị thế, một cộng đồng có sự
liên kết bền chặt bởi những mối liên hệ khăng khít, nhiều mặt: về lãnh thổ,
dòng họ, về hoạt động kinh tế, có chung Thành hoàng làng và Tổ nghề; có
chung văn hóa và tâm linh.
Người thợ thủ công trong làng nghề gắn bó với làng, không chỉ vì yếu
tố kinh tế mà do nhiều yếu tố tâm linh, thiêng liêng, hình thành một cộng
đồng đoàn kêt, gắn bó từ nhiều đời, hình thành “vốn xã hội” của cộng đồng
dân cư trong làng nghề
2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc
đồng Tống Xá-Thị trấn Lâm-Ý Yên-Nam Định.
2.2.1. Công tác quy hoạch, sử dụng các nguồn lực, cơ chế, chính
sách để bảo vệ và phát triển làng nghề.
Căn cứ Quyết định số 3044/QĐ-UBND tỉnh Nam Định ngày
26/12/2017 về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng huyện Ý Yên đến
năm 2030, tầm nhìn 2050 xác định vị trí, ranh giới, diện tích và thời hạn quy
hoạch trong đó có thị trấn Lâm, về tích chất là vùng đất phát triển đa ngành,
trong đó thế mạnh là phát triển dịch vụ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
làng nghề với quan điểm dành quỹ đất để phát triển khu công nghiệp, xây
dựng cơ sở hạ tầng làng nghề truyền thống, thị Trấn Lâm là một trong những
tiểu vùng trung tâm phát triển, làng Tống Xá trở thành một trong 10 cụm công
nghiệp phát triển của huyện.
Đảng ủy, UBND huyện Ý Yên đã chỉ đạo huyện đã xây dựng được 3
cụm công nghiệp gồm: Tống Xá, La Xuyên, thị trấn Lâm với tổng diện tích
35
hơn 28ha và 37 điểm công nghiệp tại 20 xã, tổng diện tích hơn 73ha. Trên địa
bàn huyện hiện có 27 làng nghề truyền thống, trong đó có những làng nghề
nổi tiếng trong nước như: Đúc đồng Vạn Điểm; Đúc kim loại Tống Xá (thị
trấn Lâm);
Ban Thường vụ Huyện ủy Ý Yên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra
nhiều giải pháp hữu hiệu trong đó, về nguồn lực đất đai, huyện chỉ đạo khảo
sát xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp cho phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Tích cực cùng nhà đầu tư tháo gỡ kịp
thời những khó khăn trong công tác giải tỏa, đền bù để sớm có mặt bằng bàn
giao cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh. Về nguồn lực tài
chính, khi các cơ sở sản xuất có nhu cầu mở rộng quy mô, huyện chỉ đạo, tạo
mọi điều kiện thuận lợi, cải cách thủ tục hành chính để các công ty, doanh
nghiệp, tổ hợp tiếp cận nhanh với các nguồn vốn. Về nguồn nhân lực, huyện
có nguồn lao động khá dồi dào, nhân dân cần cù, sáng tạo; đội ngũ cán bộ,
đảng viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý kinh tế và xã hội. Hệ
thống giáo dục, đào tạo phát triển tốt và đồng đều, đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đáp ứng nhu cầu lao
động cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Về các nguồn lực khác, huyện thực
hiện xã hội hóa trong xây dựng nông thôn mới, nhất là việc nâng cấp hệ thống
đường giao thông để việc đi lại và vận chuyển hàng hóa được thuận tiện, đảm
bảo an toàn... Việc phát triển các cụm, điểm công nghiệp và làng nghề góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân
dân, là động lực, nền tảng vững chắc để huyện tiếp tục phát triển bền vững.
Chủ trương của huyện trong giai đoạn 2020-2025 là tiếp tục thu hút đầu
tư xây dựng thêm các cụm, điểm công nghiệp mới; bảo tồn và phát triển làng
nghề truyền thống gắn với xây dựng nông thôn mới; tiếp tục khai thác các
tiềm năng, lợi thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang
dấu ấn, thương hiệu của làng nghề Ý Yên. Để tiếp tục thu hút đầu tư, phát
triển các cụm, điểm công nghiệp và làng nghề truyền thống, Huyện ủy Ý Yên
36
đã đề ra nhiều giải pháp mới. Trong đó, trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế
của địa phương, ưu tiên phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và quy hoạch sản xuất tại các làng nghề theo hướng tập trung. Trước mắt, ưu
tiên quy hoạch quỹ đất để phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp tại các làng nghề truyền thống gồm có đúc kim loại Tống xá. Hiện
nay, huyện Ý Yên đã xây dựng được 3 cụm công nghiệp gồm: Tống Xá, La
Xuyên, thị trấn Lâm với tổng diện tích hơn 28ha và 37 điểm công nghiệp tại
20 xã, tổng diện tích hơn 73ha. Trước mắt, ưu tiên quy hoạch quỹ đất để
phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề Tống
xá. Bên cạnh đó huyện tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, đẩy
mạnh xúc tiến đầu tư đối với các nhà đầu tư có tiềm lực. Huyện tăng cường
chỉ đạo các cấp, các ngành, UBND các xã, thị trấn tập trung cho công tác giải
phóng mặt bằng, hỗ trợ các nhà đầu tư; mở rộng các hình thức cung cấp thông
tin về đất đai, tài nguyên môi trường, công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đai, quy hoạch hạ tầng giao thông, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của huyện; đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, công bằng giữa các doanh
nghiệp của địa phương, trong và ngoài nước. Chỉ đạo cải thiện môi trường
đầu tư, sản xuất kinh doanh, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhà đầu tư, doanh
nghiệp tiếp cận với các dịch vụ công; thúc đẩy các chính sách khuyến công
trong cụm công nghiệp. Tổ chức các hội nghị xúc tiến thương mại, thu hút
mạnh mẽ vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực của địa phương để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Tập trung cao cho các
dự án phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp,
làng nghề để nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng, hiệu quả phát triển kinh tế -
xã hội.
Đây là trung tâm thể hiện chính sách của Nhà Nước hỗ trợ làng nghề
đúc đồng Tống Xá, Thị Trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định nói riêng và
các cơ sở sản xuất trên địa bàn bảo tồn và phát triển.
37
2.2.2. Áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động phát
triển nghề đúc đồng Tống Xá-Thị trấn Lâm-Ý Yên-Nam Định
Nghề đúc đồng truyền thống ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là một
trong những làng nghề lâu đời được truyền qua nhiều thế hệ và duy trì cho
đến nay. Các sản phẩm đồng đúc vẫn giữ nguyên vai trò quan trọng trong đời
sống văn hóa dân gian truyền thống, vì vậy làng nghề luôn được quan tâm gìn
giữ và phát triển, đến nay các cơ sở trên địa bàn đã sản xuất được hàng loạt
sản phẩm đa dạng, phong phú, chất lượng cao. Hiện nay, sản phẩm không chỉ
phục vụ nhu cầu của khách hàng trong nước mà các sản phẩm của làng nghề
đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Mặc dù đã đạt được những thành
công nhất định nhưng hầu hết các cơ sở đúc đồng còn sản xuất theo phương
pháp truyền thống, đặc biệt là việc sử dụng lò nấu đồng còn thô sơ, công suất
nhỏ, chủ yếu sử dụng nguyên liệu như than, củi…gây ô nhiễm môi trường.
Ngoài những nhược điểm trên, lò nấu đồng truyền thống chỉ có thể đáp ứng
được nguyên liệu sản xuất được các sản phẩm kích cỡ nhỏ như các đồ thờ
cúng…còn với các sản phẩm có kích cỡ lớn việc tổ chức sản xuất rất vất vả,
mất thời gian trong khi giá trị những hợp đồng, đơn hàng này cao hơn rất
nhiều so với các sản phẩm khác.
Nhiều cơ sở đúc đồng phát triển thành những doanh nghiệp, các công
ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân sản xuất kim loại với các sản phẩm đồng mỹ
nghệ truyền thống như: tượng đồng, chuông đồng… Qua đánh giá và nghiên
cứu thị trường hiện nay các đơn hàng lớn đòi hỏi việc đáp ứng cao hơn về
máy móc thiết bị. Họ đã đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại để có thể đưa công
ty ngày càng phát triển. Trong những năm qua, ngoài nội lực bản thân các
doanh nghiệp còn có hỗ trợ rất lớn của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn
phát triển công nghiệp 1 luôn đồng hành và hỗ trợ rất nhiều cho các công ty
như việc áp dụng công nghệ thông tin vào công tác mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, tham gia những chương trình tập huấn về thiết kế mẫu mã sản
phẩm, đầu tư mua mới lò nấu thép trung tần (dùng để nấu đồng) bằng điện để
38
thay thế lò nấu bằng than trước đây. Hệ thống lò nấu mới có nhiều ưu điểm so
với lò truyền thống như: thời gian nấu nguyên liệu được rút ngắn do đó giúp
cho công ty tăng được sản lượng, đồng thời có thể nấu đồng liên tục mà vẫn
bảo đảm an toàn, rất thuận tiện khi rót đồng vào khuôn; không tốn nhiều nhân
lực; nhiệt độ của lò trung tần luôn được đảm bảo và đáp ứng được yêu cầu kỹ
thuật về nhiệt lượng trong quá trình nấu đồng do đó tiết kiệm được chi phí
nhiên liệu nấu đồng do giảm được lượng hao hụt nguyên liệu đồng, đảm bảo
được chất lượng của nguyên vật liệu…. vì thế sản phẩm ngày càng đa dạng,
mẫu mã đẹp, sản phẩm đạt chất lượng cao, nâng cao năng suất, đồng thời giải
quyết cơ bản được tình trạng ô nhiễm môi trường do công nghệ lò nấu cũ, lạc
hậu trước đây.
Trên một chục doanh nghiệp đúc đồng ở thị trấn Lâm đã đầu tư các lò
luyện thép trung tần và nhiều dây chuyền rút thép. Hiện nay, cả xã có hàng
trăm máy móc, thiết bị hiện đại, các cơ sở đúc đều chuyển sang công nghệ
khuôn cắt với sản phẩm đạt độ chính xác cao.
Trải qua nhiều năm phát triển, nghề đúc làng Tống Xá phát triển vượt
bậc. Công nghệ hiện đại dần thay thế những công đoạn thủ công truyền thống
như máy cắt CNC hiện đại thay thế cho công đoạn tạo mẫu, máy phân tích
quang phổ chuyên dụng phân tích thành phần hóa học của vật liệu tạo nên
những sản phẩm đa dạng cho làng nghề với giá trị thương mại cao, có tính
thẩm mỹ phục vụ các công trình sản xuất công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp,
hầm mỏ khai thác... Sản phẩm của làng nghề đúc Tống Xá có mặt khắp cả
nước và xuất khẩu
2.2.3. Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến, phát triển
làng nghề
Sản phẩm làng nghề huyện Ý Yên rất tinh xảo, có uy tín trên thị trường
song việc kinh doanh, quảng bá còn nhỏ lẻ, manh mún theo hộ sản xuất
“mạnh ai nấy làm” nên hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm. Hầu hết người làm
nghề đều có tư tưởng truyền thống hàng trăm năm của làng nghề đã là sự
39
quảng bá sản phẩm hiệu quả nhất nhưng thực tiễn không như vậy. Bên cạnh
đó, Trong bối cảnh các sản phẩm làng nghề phải cạnh tranh gay gắt với sản
phẩm hiện đại, các cơ sở sản xuất đã nhận thức được vai trò của quảng bá,
xúc tiến thương mại nên đã Marketing truyền miệng và bán hàng trực tiếp là 2
công cụ truyền thống và được các hộ sử dụng nhiều nhất. Hai công cụ này chỉ
phát huy hiệu quả khi sản phẩm có chất lượng tốt và người bán có kỹ năng
chào hàng, thuyết phục khách hàng
Lãnh đạo huyện Ý Yên đã quyết định xây dựng các mô hình trung tâm
thương mại - dịch vụ để hỗ trợ người dân quảng bá tiêu thụ sản phẩm làng
nghề. Hiện tại trên địa bàn huyện Ý Yên đã hình thành được 2 trung tâm
thương mại quảng bá sản phẩm làng nghề Trong đó khu trung tâm dịch vụ -
thương mại của làng nghề truyền thống đúc đồng Thị trấn Lâm với hơn 30
gian hàng tương ứng với các xưởng sản xuất nằm ngay trục đường trung tâm
huyện trưng bày hàng nghìn sản phẩm của các thế hệ thợ làng nghề.
Trong chiến lược xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề
chính, ngoài đăng ký nhãn hiệu độc quyền và quảng bá trên các phương tiện
thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng internet, huyện Ý Yên muốn thúc đẩy
phát triển du lịch làng nghề giúp du khách hiểu về lịch sử làng nghề, quy trình
sản xuất và những giá trị tinh túy trong từng sản phẩm làng nghề. Thị trấn
Lâm nói riêng, huyện Ý Yên nói chung có nhiều tiềm năng phát triển làng
nghề gắn với du lịch, do nơi đây là vùng đất cổ, còn lưu giữ nhiều di sản văn
hóa, nhưng số cơ sở sản xuất xúc tiến bán hàng qua du lịch chiếm tỷ lệ nhỏ.
Nguyên nhân do cơ sở hạ tầng không đáp ứng, ô nhiễm môi trường, tác phong
làm du lịch của người dân thiếu chuyên nghiệp, ít dịch vụ phục vụ khách
tham quan... Tỷ lệ hộ bán hàng qua Internet và quảng cáo thấp, do chủ hộ có
trình độ học vấn không cao, độ tuổi lớn, mức độ hiểu biết về thương mại điện
tử của chủ hộ hạn chế, chủ hộ ngại đổi mới,… Đây cũng là một cản trở khi áp
dụng hình thức xúc tiến thương mại hiện đại.
40
2.2.4. Nguồn nhân lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của làng nghề.
Hiện nay trên địa bàn làng Tống Xá có 82 cơ sở sản xuất làm nghề đúc
đồng. Người trực tiếp lãnh đạo các cơ sở làm nghề đúc đồng và phát triển
làng nghề Tống Xá hiện nay chính là các chủ doanh nghiệp tư nhân.Tuy
nhiên, nhiều trong số họ lại xuất thân từ nông dân, từ người thợ thủ công đúc
đồng chưa được đào tạo bài bản nên cũng có nhiều hạn chế trong quản lý, sử
dụng nhân lực lao động.
Nhân lực lãnh đạo: Đội ngũ cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công
tác quản lý kinh tế và xã hội. Trên thực tế địa bàn huyện hiện có 27 làng nghề
truyền thống, trong đó có những làng nghề nổi tiếng trong nước như: Đúc
đồng Vạn Điểm; Đúc kim loại Tống Xá (thị trấn Lâm); Sơn mài Cát Đằng (xã
Yên Tiến); Chạm khắc gỗ Ninh Xá, La Xuyên (xã Yên Ninh). Toàn huyện
hiện có 5.576 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Các doanh
nghiệp hoạt động trong các cụm, điểm công nghiệp, làng nghề…Đảng ủy,
UBND huyện mặc dù rất sát sao trong chỉ đạo phát triển làng nghề, phát triển
các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhưng vì đội ngũ chuyên
viên của các phòng ban liên quan còn hạn chế về số lượng do quy định biên
chế cũng như trình độ chuyên môn nên việc quản lý các cơ sở sản xuất làng
nghề đúc đồng Tống Xá đang chung chung, mẫu mã, số lượng, chất lượng sản
phẩm, thị trường tiêu thụ sản phẩm...chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp tư
nhân là chủ yếu.
Về nguồn lực lao động: Ý Yên còn có nguồn lao động khá dồi dào,
nhân dân cần cù lao động, sáng tạo. Nghề đúc đồng truyền thống ở Làng
Tống Xá, Thị Trấn Lâm, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định được truyền nghề
theo phương pháp truyền theo kinh nghiệm từ các nghệ nhân cao tuổi, theo
phương pháp cha truyền con nối, cầm tay chỉ việc, hoặc thợ cũ dạy thợ mới.
Đối với những người mới vào nghề chỉ cần sáu tháng đến một năm là có thể
thạo việc và làm được những công đoạn khó như làm khuôn mẫu, thiết kế
mẫu đáp ứng nhu cầu thị trường. Để sản phẩm đạt đến độ tinh xảo hơn về
41
nghệ thuật và kỹ thuật cơ khí, nhiều gia đình ở làng nghề đúc đồng Tống Xá
đã cho con em theo học ở các Trường đại học Mỹ thuật, Bách khoa. Đồng
thời, chính quyền địa phương cũng đã có nhiều chính sách hấp dẫn thu hút lao
động có trình độ cả về mỹ thuật, tiếp thị kinh doanh… về làm việc tại làng
nghề. Hiệu trưởng Trường trung cấp Thủ công mỹ nghệ truyền thống tỉnh
Nam Định thì: Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư các loại máy móc hiện
đại, sử dụng phức tạp, đòi hỏi lao động phải được đào tạo cách sử dụng, vận
hành. Dựa trên nhu cầu của doanh nghiệp, trường đã mở các lớp đào tạo nghề
cho phù hợp.
2.2.5. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đúc đồng hiện nay
Tình hình sản xuất và kinh doanh các sản phẩm đúc đồng tại làng Tống
Xá phát triển rất mạnh mẽ tập trung cao vào sản xuất theo các mô hình kinh
doanh nhất định tập trung được sức mạnh như: sản xuất theo hộ, cơ sở và sản
xuất tập thể tập trung. Khi các sản phẩm được đưa đến thị trường người tiêu
dùng rất đón nhận nhưng bên cạnh đó thì việc sản xuất các hàng giả mạo, kém
chất lượng khá nhiều trên thị trường hiện nay. Chính vì thế đã làm giảm uy tín
và giá trị sản phẩm đồng thời làm cho sản phẩm thiếu sức cạnh tranh trên thị
trường từ đó có thể gây ra nguy cơ mai một làng nghề .
Hiện người dân ở Làng Tống Xá sản xuất các mặt hàng theo ba hình
thức chính:
Thứ nhất tự làm và tự kinh doanh: là hình thức tổ chức sản xuất khá
phổ biến với quy mô nhỏ chiếm khoảng 50% trong tổng số hộ làm nghề đúc
đồng tại làng. Loại hình thức này có ưu điểm là kiểm soát và quản lý trong
cùng một không gian và chủ hộ kinh doanh, sản xuất dễ lắm bắt và chuộng
theo nhu cầu của khách hàng rất cao.
Thứ hai kinh doanh theo hộ buôn bán: là hình thức kinh doanh cửa
hàng và lấy các mặt hàng khác nhau từ nhiều nguồn và tự định giá cho các sản
phẩm khi bày bán loại hình này chiểm khoảng 20% trong tổng số sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Loại hình kinh doanh này khá kén người mua vì do chất
42
lượng sản phẩm và nguồn gốc của sản phẩm đúc đồng.
Thứ ba kinh doanh theo các đơn vị đặt thi công: Loại hình này chiếm
đến 30% số khách hàng. Đặc biệt khách hàng ở đây chủ yếu là các chùa chiền,
hay các công trình phật giáo lớn tại ở Việt Nam thống kê cho thấy mỗi năm
việc sử dụng các đồ trang trí bằng đồng tại nơi đây ước lượng khoảng trên
1000 sản phẩm lớn nhỏ và đây chúng chính là thị trường tiềm năng của các hộ
kinh doanh sản xuất tại làng.
Thị trường tiêu của các sản phẩm đúc đồng của làng Tống Xá được trải
dài khắp miền Bắc thậm chí là miền Trung và miền Nam các tỉnh như là
Ninh Bình, Hà Nam, Hà Nội, Bắc Ninh..... Các sản phẩm đúc đồng còn được
xuất khẩu sang Trung Quốc qua con đường tiểu ngạch. Theo ước tính, tại
cửa khẩu Lạng Sơn và Cao Bằng chiếm tầm khoảng 30% tổng số sản phẩm.
Ngoài ra, nón còn được xuất sang các nước Lào (5%), Campuchia (5%),
Thái Lan (6%).
Lao động trong làng nghề : chủ yếu là những người có tay nghề cao,
được rèn luyện và có trình độ thâm niên cao với nghề.
Theo kết quả điều tra các hộ làm nghề cho thấy tổng số lao động trong
các hộ điều tra chiếm tới 70% là lao động nam. Do yếu tố nghề nghiệp nên
nam giới chiếm đa số và nữ chiếm khoảng 30% còn lại.
Quy mô sản xuất lớn và vừa nên việc sản xuất được hoạt động hết công
suất và coi đây là một nghề chính hái ra tiền. Tỷ lệ lao động từ 18 tuổi trở nên
chiếm 100% ,điều này cho thấy tính chất của nghề đúc đồng đòi hỏi sự khỏe
mạnh cũng như chịu được các áp lực khác nhau. Với nghề này, lứa tuổi từ 18
trở nên, hầu như đều là nam giới và không dành cho những người có sức chịu
đựng kém và yếu sẽ rất dễ bỏ nghề vì áp lực cao.
* Chi phí và doanh thu của nghề làm đúc đồng
Doanh thu và chi phí là hai yếu tố được quan tâm rất lớn trong mỗi quá
trình sản xuất kinh doanh. Nghề đúc đồng cũng không nằm ngoài quy luật đó,
quá trình làm ra một sản phẩm rất là kỳ công vậy chi phí và người lao động
43
thu lại như thế nào ? Và giá trị của sản phẩm sẽ được lấy đâu làm tiêu chuẩn
để đua ra thị trường.
Để làm được một sản phẩm hoàn thiện phải cần rất nhiều công đoạn
như chuẩn bị khuân, nung đồng, đổ đồng và gò đồng, trải qua rất nhiều công
đoạn mới có thể ra một sản phẩm hoàn chỉnh.
Giá trị của sản phẩm nó nhằm ở yếu tố đặc biệt và giá trị nghệ thuật của
sản phẩm đem lại trung bình một sản phẩm có bán giá từ 300.000 đến
500.000vnđ/sản phẩm thậm chí có thể lên đến trục triệu hoặc trăm triệu cho
một sản phẩm.
2.2.6. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường
UBND tỉnh và Huyện Ủy, UBND huyện Ý Yên rất quan tâm đến vấn
đề quản lý và bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện, tỉnh nói chung và của các
làng nghề nói riêng. Ngày 26/12/2017 UBND tỉnh ra Quyết định số 3044/QĐ-
UBND tỉnh Nam Định về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng huyện Ý
Yên đến năm 2030, tầm nhìn 2050 xác định giải pháp quản lý và bảo vệ môi
trường như sau:
Thực hiện các giải pháp quản lý, kiểm soát môi trường cụ thể trong
từng giải pháp về tổ chức quản lý, bảo vệ môi trường nước ngầm, giải pháp
bảo vệ môi trường đất,bảo vệ môi trường nước mặt, giải pháp bảo vệ môi
trường không khí và giảm tiếng ồn, bảo vệ môi trường trong sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp.
Giám sát, xử lý các vi phạm gây ô nhiễm, đánh giá tác động môi
trường và cam kết bảo vệ môi trường đối với từng dự án, tuyên truyền vận
động,, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ thích hợp trong các hoạt động bảo vệ môi trường.
Xây dựng quy chế quản lý bảo vệ môi trường và có biện pháp kiểm
soát chặt chẽ ô nhiễm môi trường đối với các vùng bảo tồn, hạn chế phát
triển, vùng dân cư đô thị và khu du lịch, vùng trồng rừng, vành đai xanh, hành
lang xanh và hệ thống cây xanh công cộng, vùng nông thôn.
Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định thông tin, tỉnh
44
Nam Định đang thực hiện nhiều dự án nhằm cải thiện, phục hồi môi trường
tại làng nghề cơ khí Tống Xá, làng nghề tái chế nhôm xã Nam Thanh. Đồng
thời, đầu tư xây dựng hạ tầng Cụm Công nghiệp tại các địa phương trong tỉnh
để chuyển làng nghề ra khu sản xuất tập trung nhằm giải quyết các vấn đề môi
trường. Tỉnh cũng đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải cho hai Cụm
Công nghiệp Xuân Tiến và Tống Xá; hỗ trợ xây dựng bãi chôn lấp rác thải
sinh hoạt tại 12 xã, thị trấn có làng nghề. Nam Định. Đến năm 2020, vẫn chưa
kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề.
Thực tiễn làng nghề cơ khí, đúc đồng Tống Xá, xã Yên Xá, huyện Ý
Yên hơn 60% hộ dân làm nghề. Nghề đúc đồng phát triển mạnh tạo nên sức
bật cho sự phát triển kinh tế tại địa phương song cũng để lại những vấn đề ô
nhiễm môi trường trong nhiều năm qua. Đa số các xưởng cơ khí, đúc đồng
điều kiện làm việc thiếu thốn, không gian chật hẹp, không khí nồng nặc từ các
lò nấu kim loại, nhất là nguồn nước thải từ những cơ sở sản xuất làm cho các
dòng sông, kênh trên địa bàn bị ảnh hưởng. Người dân địa phương phản ánh,
các cơ sở sản xuất thường hoạt động vào ban đêm, lợi dụng thời điểm người
dân đã ngủ, không có ai để ý, giám sát để xả nước thải, khí thải độc hại ra môi
trường. Người dân nơi đây, đặc biệt là các lao động trực tiếp làm việc tại các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đang phải sống chung với ô nhiễm nguồn nước,
tiếng ồn từ khu, cụm công nghiệp, làng nghề và đối mặt với nguy cơ ảnh
hưởng đến sức khỏe.
Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Ý Yên thừa nhận,
hàng ngày các làng nghề trên địa bàn thải ra môi trường nhiều loại chất thải
độc hại chưa được xử lý, tác động xấu tới môi trường và người dân. Bên cạnh
đó, nhiều làng nghề sản xuất đơn lẻ nằm rải rác ở các địa phương khiến công
tác quản lý Nhà nước về thực hiện các quy định an toàn, đảm bảo các tiêu
chuẩn môi trường gặp nhiều khó khăn. Kết quả quan trắc hiện trạng môi
trường năm 2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cho thấy,
nước thải của các làng nghề trên địa bàn tỉnh bị ô nhiễm. Các thông số: COD,
Sunfua, Amoni... đều vượt giới hạn.Ô nhiễm có xu hướng nghiêm trọng hơn tại
45
các làng nghề đúc nhôm Bình Yên ở xã Nam Thanh, làng rèn Vân Chàng, cơ
khí Đồng Côi ở thị trấn Nam Giang (huyện Nam Trực); làng nghề cơ khí, đúc
đồng Tống Xá ở xã Yên Xá (huyện Ý Yên); làng nghề cơ khí Xuân Tiến
(huyện Xuân Trường)... Chưa có nghiên cứu hay kết luận chính thức nào về tác
động của môi trường đến sức khỏe từ phía các cơ quan chức năng. Tuy nhiên,
thực tế tại địa phương những năm gần đây chỉ ra rằng, số người mắc các bệnh
hiểm nghèo và các bệnh liên quan đến đường hô hấp có xu hướng tăng.
2.2.7 Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại làng nghề
Theo Quyết định số 1788/QÐ-TTg đã có sự chuyển biến tích cực. Ðến
nay, đã có 20 trong số 100 cơ sở gây ô nhiễm theo cơ bản hoàn thành biện
pháp xử lý triệt để, tăng 10 cơ sở so với năm 2015.
Hầu hết các cơ sở ở đây gây ô nhiễm môi trường theo quyết định này
đều phải thực hiện ngay các biện pháp giảm thấp nhất tình trạng ô nhiễm
trong thời gian xử lý triệt để theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ,
nhằm góp phần giảm tác động ô nhiễm môi trường tới cộng đồng, làng xã.
Ðối với làng nghề đúc đồng, đã tập trung điều tra, rà soát hàng loạt các cơ
sở sản xuất gây ô nhiễm trên phạm toàn huyện, đến nay đã xác định được hơn 20
hộ nghề cần phải có kế hoạch giám sát chặt chẽ và ưu tiên nguồn lực xử lý triệt
để ô nhiễm cho đến năm 2030. Tính đến tháng 12-2020, toàn huyện có 27 làng
nghề được công nhận. Đã kiểm tra thông báo các thông báo về bảo vệ môi
trường cũng như giảm thiểu về các hoạt động gây ô nhiễm khác tại địa phương.
Hoạt động kiểm soát, giảm ô nhiễm môi trường tại các xưởng sản xuất,
khu công nghiệp, làng nghề thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực.
Hiện nay, trên địa bàn có khoảng hơn 100 hộ sản xuất, với tổng lượng nước
phát thải gần 5 nghìn m3/ngày/đêm. Trong đó, có hơn 70 hộ sản xuất đã hoàn
thành việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung (đạt tỷ lệ 75%), với
hệ thống xử lý nước thải tập trung đã được lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải
tự động (đạt tỷ lệ 39%). Đẩy mạnh, nhất là tập trung nâng cao chất lượng
quản lý. Cụ thể, tỷ lệ thu gom chất rác thải sinh hoạt tại khu vực làng nghề
của huyện đạt khoảng 85%.
46
Tuy nhiên công tác thanh tra, kiểm tra chưa trở thành công cụ sắc bén
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật; chưa tập trung
giải quyết được các vấn đề bức xúc trong công tác quản lý nhà nước về môi
trường gây bức xúc trong chính địa phương. Nhận thức, ý thức trách nhiệm về
bảo vệ môi trường của các chủ hộ sản xuất, các doanh nghiệp kinh doanh, cấp
chính quyền, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư còn hạn chế; tình trạng chú
trọng lợi ích trước mắt, coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường còn khá phổ biến.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, sẽ tập trung tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, nhất là
tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước tại làng nghề, gây bức
xúc trong dư luận xã hội. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hệ thống xả nước thải,
khí thải không đạt quy chuẩn cho phép.
2.2.8. Công tác nghiên cứu định hướng phát triển sản phẩm đúc đồng
Làng nghề đúc đồng có truyền thống lâu đời nên UBND huyện Ý Yên
đã có chủ trương xây dựng thương hiệu cho làng nghề.
Trong Quy hoạch phát làng nghề đến năm 2020, định hướng đến năm
2030, thành phố Nam Định cũng xác định các phương hướng phát triển cho
làng nghề. Chào đón thu hút các nhà đầu tư đến với các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất để tiếp tục phát huy các thế mạnh của làng nghề.
Định hướng và đưa ra các giải pháp phát triển ngành nghề nông thôn,
làng nghề tại địa phương:
Phát triển nghề phải kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với xây
dựng nông thôn mới trên cơ sở phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển bền vững.
Phát triển nghề truyền thống phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp; phát huy giá trị văn hóa, nâng
cao giá trị sản phẩm.
Bảo tồn và phát triển nghề, trên cơ sở bảo tồn và phát huy các truyền
thống văn hóa, tập quán của từng địa phương gắn với quá trình công nghiệp
47
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh đầu tư tăng năng lực
cạnh tranh, đa dạng hóa sản phẩm và ứng dụng các công nghệ mới; kết hợp
chặt chẽ giữa công nghệ cổ truyền và công nghệ hiện đại để tạo ra sản phẩm
vừa truyền thống nhưng phải tinh xảo vừa hiện đại mang tính thương mại cao.
Bên cạnh đó cần phải tập trung khôi phục, phát triển các nghề và làng
nghề có nhiều tiềm năng và lợi thế so sánh về nguyên vật liệu, kỹ năng, kỹ
xảo sản xuất, có khả năng cạnh tranh trên thị trường, thu hút nhiều nhóm
khách hàng tiềm năng và cải thiện cho thị trường lao động,… nhằm góp phần
tích cực giải quyết việc làm để nâng cao đời sống và thu nhập cho cư dân ở
các địa phương.
Tiểu kết chƣơng 2
Ở chương 2, đề tài đã nhận diện những giá trị văn hóa của làng nghề,
mô tả, phân tích những công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
của nhân dân và chính quyền địa phương. Đây là những cơ sở thực tiễn để tác
giả đề tại phân tích những thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong công tác bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề và đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác này ở chương
48
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ
ĐÚC ĐỒNG - THỊ TRẤN LÂM - YÊN XÁ - Ý YÊN - NAM ĐỊNH
3.1 Những cơ hội và thách thức cho làng nghề đúc đồng
3.1.1 Những thuận lợi, cơ hội để phát triển
Thứ nhất, làng Tống Xá nằm trong địa bàn tương đối thuận lợi về mặt
địa lý. Là nơi giao lưu mua bán giữa 3 tỉnh ( Nam Định – Ninh Bình – Hà
Nam ). Các sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ dễ dàng
cho khâu tiêu thụ, nâng cao hiệu quả kinh tế cho vùng.
Thứ hai, làng Tống Xá có điều kiện, địa hình đất đai phù hợp thuận lợi
cho việc sản xuất
Thứ ba, Tống Xá là một xã có truyền thống văn hóa lâu đời, nhân dân
cần cù chịu khó. Đến nay cơ bản đời sống đại bộ phận người dân trong làng
ổn định. Hệ thống điện nước được chú trọng đầu tư. Văn hóa giáo dục ngày
càng được quan tâm nhiều hơn, từng bước đa dạng.
Thứ tư, Các chủ chương chính sách, nghi quyết của đảng được HĐN,
UBND xã quan tâm bám sát với điều kiện thực tế của địa phương, công tác
điều hành đã kịp thời và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng nơi nhất định.
Thường xuyên triển khai thực hiện các nội dung pháp lệnh 34/2007/PL
– UBTVQH11 trên các lĩnh vực được bàn bạc công khai dân chủ, cán bộ đảng
viên và nhân dân đều tích cực tham gia và xây dựng chính quyền.
3.1.2 Khó khăn và thách thức
Dù có nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều thách thức:
Thứ nhất về cơ chế chính sách: Hiện nay trên địa bàn làng Tống Xá có
gần 100 cơ sở làm nghề đúc đồng, tuy nhiên công tác phổ biến cơ chế chính
sách đến các chủ cơ sở vẫn chưa có, nên các doanh nghiệp làm việc chủ yếu
vẫn là tự tìm hiểu. Bên cạnh đó, ta thấy chính sách của Trung Ương và đến
tỉnh đã có những quy định rất rõ về bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa làng
nghề, tuy nhiên tính áp dụng chưa cao và chính sách khuyến khích nghệ nhân
49
chưa được cụ thể, vấn đề truyền dạy chưa có những đầu tư đích đáng
Thứ 2 về việc phát huy giá trị văn hóa: Qua mô tả, phân tích thực trạng
bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng Tống Xá, chúng ta thấy
rõ ràng nhất là trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
Tống Xá, chính quyền địa phương rất quan tâm đến sự phát triển làng nghề
và khai thác giá trị kinh tế của văn hóa, nhưng lại chưa quan tâm nhiều đến
phát triển giá trị văn hóa của làng nghề như phong tục tập quán, tri thức dân
gian, nghệ thuật dân gian để tạo ra sản phẩm đặc trưng
Thứ 3 về nhân lực: Chất lượng lao động còn hạn chế, chủ yếu lao động
là nam giới. Số nghệ nhân ngày càng ít đi do quy luật tư nhiên, một số cách
thức càng ngày càng bị mai một đi… do giới trẻ không còn hứng thú với nghề
làm đúc đồng truyền thống và chỉ thích công nghệ thay thế cho con
người.Trình độ học vấn, tay nghề của các chủ cơ sở và người lao động còn
thấp chưa được nâng cao và cả thiện nhiều nên gặp khó khăn khi tiếp cận thị
trường và đưa các mẫu mã mới vào sản xuất. Các cơ sở sản xuất nhìn chung
còn nhỏ, chủ yếu dưới hình thức các hộ gia đình. Tổ chức theo kiểu tự phát, ít
có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ 4: Về công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến thương mại: Mặc dù
chính quyền đã quan tâm đến công tác này như cho thành lập Trung tâm
thương mại ở vị trí đắc địa, dành nhiều gian hang trưng bày sản phẩm của
làng nghề đúc đồng Tống Xá và cũng đã quảng bá bằng các phương tiện
thông tin đại chúng khác, tuy nhiên vẫn chưa đa dạng hình thức quảng bá, đặc
biệt là quảng bá bằng văn hóa
Thứ 5: Về công tác bảo vệ môi trường: Chính quyền địa phương đã có
nhiều biện pháp bảo vệ môi trường nhưng do đặc thù của làm nghề đúc đồng
tạo ra môi trường khói bụi, ý thức người dân về bảo vệ môi trường chưa cao.
Tiếp xúc và làm việc trực tiếp với các chất hóa học có tác động trực tiếp tới
sức khỏe của các nghệ nhân cũng như các lao động phổ thông của làng nghề.
Thứ 6; Về công tác thanh tra kiểm , xử lý vi phạm trong việc bảo vệ và
50
phát huy giá trị của làng nghề đúc đồng Tống Xá chưa được kịp thời và có
tính răn đe cao và công tác khen thưởng cũng vậy.
3.2 Các giải pháp khai thác giá trị văn hóa làng nghề đúc đồng
3.2.1 Tăng cường áp dụng Chính sách của Đảng, Nhà nước và địa
phương đối với phát triển làng nghề
Hiện nay, Đảng và Nhà nước cũng như tỉnh Nam Định rất quan tâm
đến công tác bảo tồn và phát triển làng nghề, nên đã ban hành rất nhiều văn
bản quy định nội dung, chính sách phát triển làng nghề, UBND thị trấn Lâm,
huyện Ý Yên tăng cường áp dụng và thực hiện Luật di sản, Nghị định số
52/2018/NĐ-CP, ngày 12 tháng 4 năm 2018 về phát triển ngành nghề nông
thôn, Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính
phủ về việc hỗ trợ đào tạo trình độ nghề sơ cấp…Chủ tịch UBND Tỉnh Nam
định vừa ban hành Quyết định số: 21/2020/QĐ-UBND, ngày 23 tháng 6 năm
2020 về việc Quy định hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn và làng nghề
trên địa bàn tỉnh Nam Định…Về các nội dung tiêu chí công nhận nghề truyền
thống, làng nghề, làng nghề truyền thống, quản lý và phát triển làng nghề
nông thôn. Mặt bằng sản xuất; đầu tư, tín dụng; tạo điều kiện và hỗ trợ xúc
tiến thương mại; áp dụng khoa học công nghệ; đào tạo nhân lực; hỗ trợ phát
triển ngành nghề nông thôn, chính sách từ ngân sách địa phương, hỗ trợ,đầu
tư kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề...
3.2.2 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và lao động truyền thống
cho làng nghề
Trong bối cảnh hội nhập với sự cạnh tranh mạnh mẽ, nhu cầu phải có
đội ngũ nhân lực với tay nghề tinh xảo nhằm tạo ra các sản phẩm phong phú
về mẫu mã, bảo đảm chất lượng, có khả năng cạnh tranh trên thị trường được
đặt ra ngày càng cấp thiết. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng tốt thì mới giữ
và phát triển các làng nghề truyền thống ngày càng phát triển
Thứ nhất, cần hoàn thiện chính sách đào tạo nghề. Hình thức đào tạo và
nâng cao tay nghề cho lao động phải xuất phát từ đặc điểm và nhu cầu sản
51
xuất của các làng nghề, đồng thời áp dụng đa dạng hình thức đào tạo và kết
hợp các thành phần tham gia.
Hai là, thay đổi nội dung chương trình đào tạo nghề theo hướng thiết
thực, hiệu quả. Sở dĩ trình độ của lao động trong các làng nghề còn thấp là do
công tác đào tạo nghề cho người lao động còn chưa gắn chặt với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Ba là, cần song hành đào tạo tập trung và truyền nghề tại nơi sản xuất.
Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp phối hợp với địa
phương, đoàn thể, hợp tác xã, doanh nghiệp nghiên cứu nhu cầu học nghề,
xây dựng chương trình chuẩn về giáo trình, giáo cụ thực hành, kết hợp dạy
nghề và khởi nghiệp, các doanh nghiệp giúp hợp tác xã về điều kiện sản xuất
như góp vốn, cho vay bao tiêu sản phẩm, bán thành phẩm.
Bốn là, tích cực ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào
quá trình đào tạo nghề. Khoa học - công nghệ không chỉ cải tiến công cụ lao
động, tạo ra những đối tượng lao động mới theo hướng thân thiện và bền
vững với môi trường, thúc đẩy sự phát triển của phương tiện sản xuất, hạ tầng
kỹ thuật trong sản xuất mà còn góp phần đáng kể trong nâng cao trình độ, tay
nghề cho người lao động ở làng nghề.
Thứ năm, Phối kết hợp phương pháp trao chuyền theo kinh nghiệm của
các nghệ nhân cao tuổi ở lạng nghề để tạo ra những sản phẩm đặc trưng của
làng nghề Tống Xá, đồng thời lồng ghép các trang thiết bị khoa học - kỹ thuật
với việc đào tạo bài bản ở các trường nghề
3.2.3 Xây dựng mô hình phát triển làng nghề gắn liền với các yếu tố
kinh tế - xã hội - môi trường
Với xu hướng hiện đại hóa như hiện nay thì làng nghề không đơn giản
là phát triển về mặt kinh mà bên cạnh đó nó còn có yếu tố trở thành mô hình
chung để mọi làng nghề nhìn vào đó và học tập trên mọi phương diện
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường tuyên truyền giới thiệu về tiềm năng của
các sản phẩm đúc đồng, nhất là tuyên truyền về cảnh quan, văn hoá, làng nghề
52
của xã Yên Xá. Xuất bản rộng rãi các tập gấp, sách ảnh, các bộ phim ngắn về
làng nghề đúc đồng trong xã, huyện. Tổ chức lễ hội làng nghề hằng năm là
một dịp để quảng bá sản phẩm và thương hiệu làng nghề, để du khách, khách
hàng hiểu được chiều sâu văn hóa trong mỗi sản phẩm của làng nghề đúc
đồng Tống Xá, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Thêm vào nội dung của lễ hội là trình diễn kỹ thuật, nghệ thuật đúc
đồng đặc biệt là giai đoạn hoàn thiện nghệ thuật điêu khắc, tạo tác, đánh
bóng…Đây chính là hồn cốt của một sản phẩm văn hóa.
Liên kết với các tour du lịch lữ hành ở huyện, thành phố để khai thác
đối tượng khách quốc tế hoặc khách hàng đối tượng là sinh viên chuyên
ngành. Đối với thị trường gần: Có biện pháp kích cầu tăng trưởng quảng bá
thông qua đoàn thể quần chúng, ngành Giáo dục Đào tạo, Y tế, thể dục Thể
thao, Văn hoá - Thông tin...
Tuyên truyền, vận dộng, hướng dần nhân dân đến hình ảnh môi trường
thân thiện, gần gũi với các thực khách khi đến tại làng nghề.
Trước mắt, làng nghề đúc đồng hiện nay có điều kiện thuận lợi trong
phát triển các hình thức (như tour tham quan làng nghề, trải nghiệm tực tế
cho các sinh viên chuyên ngành nghiên cứu, hay trải nghiệm nghề...)
Phát triển mạnh các loại hình tổ chức trình diễn quá trình tạo ra một sản
phẩm đúc đồng, để từ đó có thể quảng bá hiều hơn thông qua mô hình này.
3.2.4. Tăng cường các hình thức để quảng bá bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa làng nghề
Xây dựng trung tâm triển lãm giới thiệu và quảng bá sản phẩm làng
nghề đúc đồng truyền thống để hỗ trợ người dân quảng bá tiêu thụ sản phẩm
làng nghề.
Khuyến khích, động viên người dân tại chính làng nghề có ý thức
tuyên truyền quảng bá mọi lúc, mọi nơi để mọi người khắp nơi đều biết đến
sản phẩm của làng nghề.
Tăng cường quảng bá hình ảnh qua các chương trình hội chợ công
53
nghiệp của tỉnh diễn ra hằng năm, hay như trong các dịp lễ hội truyền thống
của làng đó cũng chính là một phương thức quảng bá vô cùng hiệu quả.
Khuyến khích các hộ làm nghề tổ chức khu sản xuất gắn với xây dựng
các gian hàng giới thiệu sản phẩm để tạo thành khu trung tâm thương mại
quảng bá sản phẩm làng nghề. Cùng với sự hỗ trợ của chính quyền địa
phương, các hộ làm nghề đúc đồng đã đóng góp xây dựng trung tâm giới
thiệu và quảng bá sản phẩm làng nghề đúc đồng truyền thống và thành lập
ban quản lý.
Hay như quảng bá hình ảnh của làng nghề qua các đô vật lưu niệm
được in trên áo, hay các tấm giới thiệu về làng nghề khi khách đến tham quan
và trải nghiệm làng nghề tại đây.
Kết hợp với các tour du lịch địa phương để quảng bá hơn về hình ảnh
của làng nghề thông qua đó cũng có thể vừa làm tăng doanh thu về mặt kinh
tế và vừa tăng về lượt tiếp cận và biết đến làng nghề.
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Trước hết làng Tống Xá phải phối hợp với các đơn vị liên quan thực
hiện quản lý nhà nước đối với làng nghề đúc đồng. Hàng năm, chủ trì, phối
hợp với Ủy ban nhân dân xã Yên Xá – huyện Ý Yên để hướng dẫn xây dựng
và tổng hợp kế hoạch phát triển làng nghề.
Chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp tỉnh Nam Định rà soát các văn bản
quy định của địa phương phù hợp làng nghề đúc đồng; xây dựng, tham mưu
cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách, quy định mức chi và bố trí
nguồn vốn từ ngân sách địa phương hàng năm để hỗ trợ đầu tư phát triển làng
nghề đúc đồng.
Phối hợp với các sở, ngành liên quan hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện các chính sách, quy hoạch phát triển, bảo vệ môi trường làng nghề và
định hướng bảo tồn, phát triển làng nghề; định kỳ 5 năm một lần, rà soát,
thống kê, phân loại, lập quy hoạch (hoặc kế hoạch quản lý) phát triển làng
nghề trên địa bàn làng nghề cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
54
Định kỳ hoặc đột xuất, tổng hợp báo cáo kết quả về phát triển ngành
nghề, làng nghề.
UBND xã, huyện Ý Yên chủ động, tổng hợp dự toán kinh phí phát
triển làng nghề vào dự toán ngân sách hàng năm của địa phương, trình cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật. Ngoài nguồn kinh
phí bố trí trực tiếp thực hiện chính sách, các địa phương có trách nhiệm bố trí,
cân đối thêm từ các nguồn kinh phí các chương trình, dự án khác và nguồn hỗ
trợ từ các tổ chức quốc tế để hỗ trợ phát triển làng nghề.
Tiểu kết chƣơng 3
Chương 3, Tác giả đề tài đã phân tích những thuận lợi, cơ hội để phát
triển làng nghề đúc đồng Tống Xá cũng như phân tích những khó khăn thách
thức mà làng nghề đang gặp phải, nhất là thách thức trong công tác bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa làng nghề. Từ đó, đề tài đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác nay, đó là giải pháp: Tăng cường áp dụng Chính sách của
Đảng, Nhà nước và địa phương đối với phát triển làng nghề; Tăng cường đào tạo
nguồn nhân lực và lao động truyền thống cho làng nghề; Xây dựng mô hình phát
triển làng nghề gắn liền với các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường; Tăng cường
các hình thức để quảng bá bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa làng nghề;
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
55
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài tác giả rút ra những kết luận sau:
Đầu tiên: Trên cơ sở hệ thống hóa lại các lý thuyết về làng nghề, làng
nghề truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề tác giả đi sâu
nhận diện các giá trị văn hóa của làng nghề cũng như mô tả, phân tích nội
dung công tác bảo tồn và phát triển làng nghề đúc đồng Tống Xá, thị trấn
Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, tác giả rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất, Làng nghề đúc đồng Tống Xá, Thị Trấn Lâm, huyện Ý Yên,
tỉnh Nam Định có các giá trị văn hóa bao gồm: Phong tục tập quán gắn liền
với lễ hội, giá trị nghệ thuật, tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất, văn hóa
ứng xử, văn hóa tổ chức sản xuất, kinh doanh và giá trị kinh tế của làng nghề.
Thứ hai, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề đúc
đồng Tống Xá, thị trấn Lâm, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã được chính
quyền, địa phương quan tâm phát triển, tuy nhiên đang chú trọng khai thác giá
trị kinh tế của làng nghề thể hiện qua: Công tác quy hoạch, sử dụng các nguồn
lực, cơ chế, chính sách để bảo vệ và phát triển làng nghề; Áp dụng thành tựu
khoa học công nghệ vào hoạt động phát triển nghề đúc đồng Tống Xá-Thị
trấn Lâm-Ý Yên-Nam Định; . Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến,
phát triển làng nghề; Nguồn nhân lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của
làng nghề; Công tác quản lý và bảo vệ môi trường; Công tác thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm tại làng nghề; Công tác nghiên cứu định hướng phát triển
sản phẩm đúc đồng.
Thứ ba, công tác phát huy những giá trị văn hóa của làng nghề khác
như phong tục tập quán, nghệ thuật, tri thức dân gian chưa được chính quyền
quan tâm đặc biệt là những chính sách ưu đãi nghệ nhân, đầu tư ngân sách
cho việc truyền nghề. Đồng thời, trên địa bàn huyện Ý Yên có 27 làng nghề
thủ công truyền thống, các di tích lịch sử khác, chính quyền địa phương chưa
chú trọng phối kết hợp để khai thác các giá trị văn hóa này để phát triển du
lịch. Cần khai thác phát triển giá trị văn hóa của làng nghề khi đưa nó vào quỹ
56
đạo du lịch.
Thứ tư, Đề tài đã phân tích những ưu điểm và những hạn chế tồn tại,
chỉ ra nguyên nhân, từ đó, đề xuất các giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa làng nghề Tống Xá: 1/Tăng cường áp dụng Chính sách của Đảng,
Nhà nước và địa phương đối với phát triển làng nghề;2/ tăng cường đào tạo
nguồn nhân lực và lao động truyền thống cho làng nghề; 3/Xây dựng mô
hình phát triển làng nghề gắn liền với các yếu tố kinh tế - xã hội - môi
trường; 4/ Tăng cường các hình thức để quảng bá bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa làng nghề; 5/ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm…bên cạnh đó các giải pháp cụ thể tác giả đề tài đã phân tích, đề
xuất trong các mục này như: Tổ chức, sưu tâm, ghi chép, nghiên cứu về nghề
truyền thống đúc đồng từ nguyên liệu, công cụ sản xuất, quy trình và kỹ thuật
của nghề; Tổ chức biên tập thành các bộ tài liệu về nghề truyền thống đúc
đồng dưới dạng văn bản, hình ảnh minh họa, băng đĩa ghi hình; Tổ chức
rộng rãi kết quả sưu tầm, nghiên cứu với đông đảo công chúng, đặc biệt cho
những người thợ thủ công trong làng nghề; xây dựng hệ thống bảo tàng cho
nghề truyền thống đúc đồng và trưng bày một số hiện vật để người dân và
khách tham quan dễ dàng nhận diện được các sản phẩm; Liên kết với nhà du
lịch đi theo tour để phát triển theo khuynh hướng mở cửa. Thúc đẩy nền
kinh tế qua các hình thức tham quan đối với các du khách trong nước và
nước ngoài, kết hợp các tour nghiên cứu của các sinh viên chuyên ngành để
học tập và trải nghiệm
Tóm lại: Nghề đúc đồng Tống Xá - Nam Định từ khi hình thành cho
đến nay có rất nhiều tiềm năng và thách thức. Dân làng Tống Xá nói riêng và
trong toàn huyện nói chung cần phải phát huy hơn nữa những tiềm năng sẵn
có để đưa nghề đúc đồng ngày càng phát triển thịnh vượng, gặt hái được
nhiều thành quả hơn nữa trong công cuộc xây dựng công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước. Đồng thời hạn chế tối đa những mặt tiêu cực do nghề đúc
đồng gây ra để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho cư dân nơi đây.
57
Nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề truyền
thống đúc dồng mang lại ý nghĩa hết sức to lớn trong quy hoạch định hướng
bảo tồn giá trị văn hóa làng nghề mà Đảng và chính quyền địa phương xã,
huyện Ý Yên đang quan tâm. Hàng thủ công đúc đồng là một trong những
ngành tiểu thủ công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng, trước tiên là giải
quyết lao động, giải quyết được chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao thu
nhập, giá trị kinh tế để từ đó chúng ta có cơ sở để bảo tồn lại những giá trị văn
hóa cốt lõi bên trong làng nghề như giá trị lễ hội, giá trị trong phong tục hay
giá trị mối quan hệ ứng xử con người với con người qua quá trình làm nghề...
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bùi Văn Vượng (2002) , Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam,
NXB Văn hóa- Thông Tin, Hà Nội
2. Báo cáo tổng kết thành qủa đạt được trong ngành kinh tế của làng
Tống Xá từ năm (1986 đến 2008)
3. Bài viết PGS.TS Hoàng Bích Nguyệt, về những mặt tích cực, hạn
chế của nghề đúc đồng Tống Xá. Qua đó đưa ra những giải pháp để phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực
4. Hoàng phê ( 2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội –
Đà Nẵng.
5.Đỗ Thị Hảo, Nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam và các vị tổ
nghề, NXB Văn hóa, Hà Nội
.6.Lịch sử Đảng bộ làng Tống Xá - Yên Xá - Ý Yên - Nam Định từ
năm (1945 đến 2006)
7. Lịch sử ra đời làng nghề thủ công truyền thống của tỉnh Nam Định
từ năm
8. Lịch sử Đảng bộ huyện Ý Yên (1975 đến nay)
9. Phương hướng kế hoạch của Đảng bộ huyện Ý Yên về vấn đề bảo
tồn, phát triển nghề đúc truyền thống của quê hương năm (2011)
10.Phạm Côn Sơn ( 2004), Làng Nghề Truyền Thống Việt Nam, NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
11. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa,NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Viết Sự ( 20001),Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt
Nam,NXB Thanh niên, Hà Nội.
13.Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB
Thành phố HCM, Hồ Chí Minh.
14.Trần Ngọc Thêm (2004), Cơ sở văn hóa việt Nam, NXB Giáo Dục
Việt Nam.
59
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI THAM GIA PHỎNG VẤN
1. Bác Nguyễn Thanh Vân – Chủ tịch xã Yên Xá.
2. Thầy Hoàng Duy Liêm – Hiệu Trưởng trường trung cấp thủ công mỹ
nghệ truyền thống tỉnh Nam Định.
3. Nghệ nhân ưu tú Dương Bá Tân – Giám đốc công ty TINH cơ khí
đúc Tân Tiến.
4. Bác Phạm Ngọc Quang – Bí thư Đảng Uỷ, Chủ tịch hội đồng nhân
dân xã. ( người tham gia lễ hội)
5. Anh Phan Trung Quyết – Bác sỹ tại bện viện Đa khoa tỉnh Nam
Định. ( người tham gia lễ hội)
60
PHỤ LỤC 2
CÂU HỎI PHỎNG VẤN
1.Cán bộ UBND xã, huyện.
- Ông có thể cho biết về nguồn gốc lịch sử nghề đúc đồng ở Tống Xá –
Yên Xá – Ý Yên – Nam Định ?
- Ông đánh giá như nào về việc tổ chức lễ hội ?
- Ông có thể chia sẻ cho chúng tôi biết về đặc điểm vùng đất và con
người nơi đây ?
2. Nghệ nhân, chủ cơ sở sản xuất ở làng nghề.
- Ông có thể cho biết chặng đường phát triển nghề đúc đồng tại làng ?
- Ông có thể cho biết nhu cầu thị yếu hàng thủ công hiện nay như
thế nào ?
- Làng nghề đúc đồng nơi đây bắt tay vào làm nghề đã gặp phải những
khó khăn gì ? và trong hoàn cảnh đó người dân có tâm lý ra sao?
3. Phỏng vấn người dạy và đào tạo nghề
- Thầy thấy công tác dạy và truyền nghề hiện nay như thế nào và truyền
nghề theo những phương thức chính nào ?
4. Phỏng vấn khách tham quan
- Anh/Chị có thể đánh giá những điểm khác biệt thi tham dự lễ hội làng
truyền thống với các lễ hội dân gian khác được không ?
61
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CỦA LÀNG NGHỀ
Ảnh 1: Lư hương bằng đồng – Nguồn: Tác giả
Ảnh 2: Đồ thờ bằng đồng – Nguồn: internet
62
Ảnh 3: Tượng chiến thắng Điện Biên Phủ - Nguồn: internet
Ảnh 4: Tượng Phật Bà Quan Âm – nguồn: Tác giả
63
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
Ảnh 1: Nghi lễ đúc tượng trong lễ hội truyền thống làng nghề
Nguồn: Tác giả
Ảnh 2: Nghi lễ rước tại làng nghề - Nguồn: internet
64
Ảnh 3: Quân chúng nhân dân tham gia nghi lễ rước kiệu –Nguồn: internet
Ảnh 4: Lễ hội truyền thống của làng nghề - Nguồn: Internet
65
PHỤ LỤC 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH KỸ THUẬT ĐÚC ĐỒNG
Ảnh 1: Nghệ nhân đang sửa các chi tiết trên sản phẩm đồng
Nguồn internet
Ảnh 2: Quy trình đổ đồng vào khuôn – Nguồn: Tác giả
66
PHỤ LỤC 6
VĂN BẢN QUẢN LÝ