BẮT GIỮ, XỬ LÝ VÀ TRÌNH DIỆN
KHÁNG NGUYÊN
(Kỳ 1)
Các đáp ứng miễn dịch thích ứng bắt đầu khi các thụ thể của các tế bào
lympho dành cho kháng nguyên nhận ra kháng nguyên. Các tế bào lympho T và B
nhận diện các loại kháng nguyên khác nhau. Các th thể của tế bào lympho B
dành cho kháng nguyên, vbản chất thì chính các kháng thgắn trên màng tế
bào lympho B nên còn được gọi là c kháng thmàng (membrane antibody - viết
tắt là MIg) hay kháng thbề mặt (surface antibody - viết tắt SIg) (để phân biệt
với các kháng thể chế tiết). Các thụ thể này khnăng nhận diện nhiều loại đại
phân t khác nhau (ví dụ như các protein, polysaccharide, lipid, và các nucleic
acid) cũng như các chất hoá học kích thước nhỏ dưới dạng chất hoà tan hoặc
dạng gắn trên b mặt các tế bào. thế các đáp ứng miễn dịch dịch thể do các tế
bào lympho B thực hiện có thể chống lại rất nhiều loại kháng nguyên hoà tan cũng
như kháng nguyên trên vách của vi sinh vật. Ngược lại thì hầu hết các tế bào
lympho T chthể nhận diện được các mảnh peptide của c kháng nguyên
bản chất là protein cũng chỉ thể nhận diện được khi các peptide này được
trình diện cho chúng bởi các phân tử chuyên biệt làm nhiệm vụ trình diện peptide
trên các tế bào của túc chủ. Vì thế đáp ng miễn dịch qua trung gian tế bào T ch
thchống lại các kháng nguyên protein ca vi sinh vật gắn với các tế bào
của túc chủ. Trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất của các kháng
nguyên được nhận diện bởi các tế bào lympho. Chương 4 sẽ tvề các thụ th
mà các tế bào lympho dùng để nhận diện các kháng nguyên này.
Việc tạo ra các đáp ứng miễn dịch chống lại một kháng nguyên bất kỳ là
một quá trình đặc biệt phải vượt qua rất nhiều rào cản tưởng chừng như không thể
ợt qua được. Trở ngại đầu tiên chmột tỷ lệ rất thấp các tế bào lympho
“trinh nữ” trong thể đặc hiệu với một kháng nguyên nhất định. Tỷ lệ này
ththấp n mức 1 trên 100.000 tế bào. Slượng ít ỏi các tế bào lympho này của
thể phải định vị và phản ứng một cách nhanh chóng với kháng nguyên, bất kỳ
khi o kháng nguyên y m nhập vào thể. Trở ngại thứ hai là các loại vi
sinh vật khác nhau thì cần phải các đáp ứng miễn dịch thích ứng khác nhau để
chống lại chúng. Trên thực tế hthống miễn dịch phải hoạt động dưới nhiều hình
thức khác nhau để chống lại cùng một loại vi sinh vật các giai đoạn khác nhau
trong vòng đời của nó. dụ nvới virus, khi virus đã thâm nhập vào vòng tuần
hoàn tồn tại tự do trong máu thì hthống miễn dịch cần phải tạo ra các kháng
th khnăng bám vào virus này để ngăn cho không thâm nhập vào các tế
bào của túc chủ và th loại bỏ được virus đó. Tuy nhiên nếu như virus đó đã
thâm nhập được và bên trong tế bào thì các kháng th không còn tác dụng với
virus nữa và lúc này lại cần phải hoạt hoá c tế bào lympho T gây độc (cytolytic
T lymphocyte viết tắt CTL) đtiêu diệt tế bào đã nhiễm virus đó và loại bỏ
nguồn gốc lây nhiễm. Vì thế có hai câu hỏi lớn được đặt ra là.
· Làm thế nào s lượng hiếm hoi các tế bào lympho đặc hiệu với
một kháng nguyên bất kỳ của vi sinh vật nào đó lại tìm ra được vi sinh vật ấy, đặc
biệt là vi sinh vật này có thể thâm nhập vào bất kỳ chỗ nào của thể?
· Làm thế nào hthống miễn dịch thể tạo ra các tế bào phân
tử có chức ng thực hiện tốt nhất để loại bỏ một loại nhiễm trùng nhất định, ví dụ
như các kháng thể để chống lại các vi sinh vật ngoại bào các tế bào lympho T
gây độc để tiêu diệt các tế bào bnhiễm vi sinh vật có chứa các vi sinh vật ấy trong
bào tương của chúng?
Câu trlời cho cả hai u hỏi này nm chỗ hệ thống miễn dịch đã phát
triển thành một hệ thống có tính chuyên biệt cao để bắt giữ và trình diện các kháng
nguyên cho các tế bào lympho. Hàng loạt những nghiên cứu miễn dịch học, tế bào
học và sinh hoá học đã giúp chúng ta hiểu một cách cặn kẽ quá trình các kháng
nguyên protein bbắt giữ, bị phá vỡ cấu trúc sau đó được trình diện cho các tế
bào lympho T nhận diện chúng như thế nào. Đây nội dung chính sẽ được trình
bầy trong chương này. Tuy nhiên những hiểu biết vquá trình bắt giữ và nhận
diện kháng nguyên của các tế bào lympho B còn rất hạn chế, cuối chương này
chúng ta sđiểm qua những hiểu biết ấy về quá trình các tế bào lympho B nhn
diện các kháng nguyên có bản chất là protein và không phi protein.
Các kháng nguyên được nhận diện bởi các tế bào lympho T
Hầu hết các tế bào lympho T nhận diện các kháng nguyên các peptide
được gắn vào và trình diện bởi các phân tprotein được mã hoá bởi phức hợp
gene hoà hp mô chủ yếu (major histocompatibility complex - gọi tắt là phức hợp
MHC) của các tế bào trình diện kháng nguyên. Phức hợp MHC là một locus nằm
trong b gene di truyền mà các sản phẩm do chúng mã hoá chức năng như
những phân tử trình din peptide cho hệ thống miễn dịch. mỗi thể, các clone
tế bào T khác nhau chcó thể nhận diện các peptide khi các peptide này được trình
diện bởi các phân tử protein được mã hoá bi phức hợp MHC (gọi tắt là các phân
tMHC) của chính thể đó. Đặc điểm nhận diện này của tế bào T được gọi là
nhận diện kháng nguyên trong giới hạn của phân tử MHC (MHC restriction). Như
vậy tế bào T đặc điểm lưỡng đặc hiệu, nghĩa là ththể của tế bào T dành
cho kháng nguyên đồng thời nhận diện một số gốc hoá học của peptide kháng
nguyên cũng nhận diện một số gốc hoá học trên phân tMHC làm nhim vụ
trình diện peptide kháng nguyên đó (hình 8.1). Đặc điểm của phân tử MHC và tm
quan trọng của việc giới hạn bởi MHC sẽ được trình bầy trong phần tiếp theo của
chương này. Bằng cách nào các tế bào T “học” được cách nhận diện các
peptide được trình diện bởi chỉ các phân tử MHC của cơ thể sẽ được trình bầy
trong chương 9. Cần lưu ý trong cơ thể còn một lượng nhỏ các tế bào T
khnăng nhận diện c kháng nguyên bn chất là lipid các kháng nguyên
khác không phải là peptide. Các kháng nguyên này được trình diện bởi các phân tử
giống như phân tử MHC lớp I. Tuy nhiên nhng hiểu biết về chức ng của các tế
bào T này còn rất hạn chế.
Hình 8.1: hình một thụ thể của tế bào T dành cho kháng nguyên nhận
diện
phức hợp peptide được trình diện bởi một phân tử MHC
Các tế bào chuyên biệt khả năng bắt giữ các kháng nguyên của vi sinh
vật rồi trình diện chúng cho các tế bào lympho T nhận diện được gọi là các tế bào
trình diện kháng nguyên (antigen-presenting cell viết tắt là APC). Các tế bào
lympho T “trinh nữ” cần phải “nhận mặt” c kháng nguyên do các tế bào trình