BỆNH LÝ ĐƯỜNG HÔ HẤP Ở TRẺ EM

DO KÝ SINH TRÙNG

TÓM TẮT

Mục tiêu: Chúng tôi báo cáo hai trường hợp bệnh nhi nhiễm KST

.Ca lâm sàng: Báo cáo 2 ca lâm sàng: bệnh nhi có biểu hiện lâm sàng tại

phổi với các triệu chứng ho ra máu; đau ngực. X Quang phổi cho thấy hình ảnh

thâm nhiễm dạng nốt tròn và tràn dịch màng phổi.

Kết quả:Công thức máu có bạch cầu toan tính tăng cao. Huyết thanh chẩn

đoán dương tính với giun đũa chó, giun Gnathostoma , giun lươn.

Kết luận: Cả hai đều được điều trị khỏi với Albendazole.

ABSTRACT

Objectives: We report two cases of children who infected by parasites.

Cases presentations::Report two cases: Children patients who came with

respiratory manifestations: hemopstasis; chest pain. A radiograph of chest revealed

a nodule in the left lung in one case and a pleural effusion in another case.

Results: Laboratory tests showed eosinophilia and the presence of

antibodies against Toxocara Canis, Gnathostoma, Stronggyloides stercoralis.

Conclusions: Both of them were cured with Albendazole.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh ký sinh trùng rất phổ biến trên thế giới, nhất là các nước đang phát

triển ảnh hưởng đến hàng trăm triệu ngưới. Tình trạng nuôi chó mèo rất phổ biến

từ thành thị đến nông thôn, đa số chó mèo được thả rong không được xổ giun định

kỳ, chó mèo phóng uế bừa bãi dễ gây ô nhiễm môi truờng; việc thói quen ăn các

thức ăn không nấu chín như thức ăn nướng, phở tái, vệ sinh cá nhân trong sinh

hoạt và ăn uống không tốt ... nên sự lây nhiễm giun sán sang người là điều tất

nhiên khó tránh khỏi[2]. Chúng tôi xin nêu hai trường hợp lâm sàng minh họa cho

vấn đề nhiễm ký sinh trùng nội tạng ở trẻ em dưới đây

Trường hợp 1

Bệnh nhân nam 11tuổi, nhà ở Quận 8 TP. HCM, lý do đến khám bệnh : ho

ra máu. Bệnh sử 2 ngày không sốt , sáng ngủ dậy sau khi đánh răng thấy ho đàm

lẫn máu tươi , ăn uống bình thường, tối đến ho thêm một lần ra máu tươi lượng ít

khoảng 2,5 ml. Khám lâm sàng tổng trạng tốt, không hạch ngoại biên, phổi không

nghe ran.

Xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy:

Công thức máu : Bạch cầu tăng: 10900/mm3, bạch cầu đa nhân chiếm

26,3%, bạch cầu đơn nhân: 34,1%, bạch cầu toan tính( BCTT) tăng cao chiếm

34,2% DTHC: 43,3% Tiểu cầu tăng nhẹ; 331.000/mm3. Xét nghiệm lao âm tính.

CRP: 10mg/l.

X Quang phổi : đốm mờ tròn cạnh rốn phổi trái, không hạch rốn phổi.

Huyết thanh chẩn đoán Mycoplasma pneumonia và Chlahmydia âm tính

Huyết thanh chẩn đoán ký sinh trùng:

Toxocara canis ( giun đũa chó) dương tính: 0,56 OD (bt < 0,3 OD).

Gnathosthoma dương tính 1/800

Được điều trị Albendazole 15mg/ kg / ngày trong 2 tuần

XQ phổi 2 tuần sau hoàn toàn bình thường, triệu chứng ho ra máu giảm dần

và biến mất sau 7 ngày điều trị

Bạch cầu toan tính giảm còn 13% sau 1 tuần, 0% sau 2 tuần và 1 tháng.

Điều tra dịch tễ học : nhà có nuôi 2 con chó, mỗi ngày đều ăn 1 tô phở tái,

thỉnh thoảng có ăn cá lóc nướng.

Trường hợp 2

Bệnh nhân nam 12 tuổi, nhà ở Đức Huệ Long An. Bệnh sử sốt tái đi tái lại

1 tháng , ăn uống kém, sụt cân, đau ngực, vào bệnh viện Long An điều trị14 ngày

sau đó chuyển đến BV Nhi Đồng 1 với chẩn đoán: tràn dịch màng phổi nghi lao.

Khám lúc vào bệnh nhân da hơi xanh , phế âm giảm đáy phổi phải, gan lách

không to. Các xét nghiệm về lao âm tính,

XQ phổi có hình ảnh Viêm phổi đáy phải và tràn dịch màng phổi lượng ít

bên phải.

Hình 1: XQ phổi mới vào

Huyết thanh chẩn đoán Mycoplasma pneumonia âm tính , IgG Chlahmydia

dương tính 18,2.

Huyết thanh chẩn đoán KST:

-Toxocara canis ( giun đũa chó) dương tính: 1,083 OD .

- Strongyloides stercoralis ( giun lươn) dương tính 1069 OD.

Công thức máu: Bạch cầu tăng cao 36.800/mm3 bạch cầu đa nhân: 10%,

bạch cầu đơn nhân: 17%, Bạch cầu toan tính tăng rất cao: 72%. Hct: 34% Tiểu

cầu: 274.000/mm3. VS: 10-20 mm. Dịch màng phổi là dịch tiết, thành phần đơn

nhân chiếm 60%.

Xét nghiệm lao âm tính. CRP: 14mg/l.

Bệnh nhân đuợc điều trị 14 ngày Ciprotil, sau điều trị kháng sinh vẫn còn

tình trạng tràn dịch màng phổi, sau khi có kết quả huyết thanh dương tính với giun

sán được điều trị với Albendazole liều 15mg/ kg / ngày trong 14 ngày. Sau 2 tuần

điều trị bệnh nhân hết sốt, ăn khá hơn.

XQ phổi kiểm tra hết viêm phổi và tràn dịch màng phổi sau 2 tuần.

Tỷ lệBCTT còn cao: sau 1 tuần 40% sau 2 tuần 66%. Bệnh nhân được điều

trị tiếp tục với Albendazole thêm 2 tuần tỷ lệ BCTT giảm dần còn 56%, 41%,

13%. 6%.

Trong quá trình điều trị, bệnh nhân hoàn toàn không có tác dụng phụ của

thuốc, chức năng gan luôn trong giới hạn bình thường.

Điều tra dịch tễ học : nhà có nuôi 1 con chó , 1 con mèo, bệnh nhân luôn có

thói quen đi chân đất vì nhà ở trong vùng ngập nước.

Hình 2: sau 2 tuần điều trị bằng Ciprotil, còn hình ảnh tràn dịch màng phổi

.

Hình 3: Hết hình ảnh tràn dịch sau 2 tuần điều trị Albendazole

BÀN LUẬN

Ký sinh trùng co thể ảnh hường lên hệ thống hô hấp qua hai cơ chế: (1) Tổn

thuơng cơ học gây ra bởi sư hiện diện của ký sinh trùng. (2) Do đáp ứng miễn dịch

của cơ thể đối với ký sinh trùng hay một thành phần của ký sinh trùng[4].

Biểu hiện đường hô hấp của nhiễm ký sinh trùng rất đa dạng bên cạnh các

triệu chứng cơ năng như ho, khạc đàm, ho ra máu, đau ngực, khó thở, khò khè ...;

các triệu chứng X quang biểu hiện dưới nhiều dạng như: dạng khối u, dạng nang,

thâm nhiễm phổi đốm, viêm phổi kẽ, tràn dịch màng phổi, cao áp phổi...[3]

Cả hai trường hợp trên chúng tôi đều nghĩ đến bệnh cảnh lao trước tiên và

làm các xét nghiệm hướng đến chẩn đoán lao. Dấu hiệu gợi ý nghĩ đến nhiễm ký

sinh trùng là do có sự tăng cao bạch cầu toan tính và từ đó cùng với điều tra về

dịch tễ chúng tôi mới làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán tìm ký sinh trùng gây

bệnh.

Do trình độ vệ sinh kém, do thói quen tiếp xúc với chó mèo, ăn uống sống,

thói quen đi chân đất... , người ta có thể mang trong cơ thể rất nhiều loại giun sán

khác nhau. Như hai trường hợp kể trên mỗi bệnh nhân mang trong người hai loại

giun. Trường hợp 1 là giun đũa chó và giun Gnathostoma; truờng hợp 2 là giun

đũa chó và giun lươn. Cả hai trường hợp này đều có yếu tố dịch tễ rõ ràng.

Về chẩn đoán lâm sàng rất dễ chẩn đoán lầm với những bệnh cảnh khác

như viêm phổi do vi trùng thường, lao phổi, lao màng phổi, hen phế quản, kén

phổi bội nhiễm.

Chẩn đoán xác định, dựa vào các triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán ký

sinh học bằng hai phương pháp: (1) Xét nghiệm trực tiếp tìm giun sán trong bệnh

phẩm (phân, máu, đàm...). (2) Xét nghiệm gián tiếp bằng phương pháp miễn dịch

vì có nhiều trường hợp khó tìm thấy giun sán trong bệnh phẩm ví dụ như giun sán

đang ở giai đoạn di chuyển trong mô (chưa trưởng thành), giun sán đang ở trong

giai đoạn ấu trùng, giun sán ở những mô không thể lấy được như não, mắt..hoặc ở

sâu trong gan, phổi.[1]

Triệu chứng bạch cầu toan tính tăng trong máu,chỉ là xét nghiêm định

hướng, không phải là triệu chứng đặc hiệu mà đây là triệu chứng gợi ý để làm xét

nghiệm huyết thanh học. Nếu lâm sàng và dịch tễ gợi ý thì dù không tăng bạch cầu

toan tính cũng nên chỉ định xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán (ví dụ tỷ lệ tăng

bạch cầu toan tính rất thấp ở thể mắt)[2].

Về điều trị chúng tôi sử dụng Albendazole cho cả hai trường hợp, Albendazole

tác động lên cả ba giai đoạn trứng, ấu trùng và giai đoạn trưởng thành[4]. Thời gian

điều trị thay đổi tùy trường hợp, riêng trường hợp có nhiễm giun lươn đi kèm chúng

tội phải điều trị trong thời gian một tháng thì bạch cầu toan tính mới giảm gần như

bình thường.

KẾT LUẬN

Biểu hiện hô hấp trong bệnh cảnh nhiễm ký sinh trùng đa dạng. Cần nghĩ

đến trong những trường hợp có tổn thương phổi kèm bạch cầu toan tính tăng cao.

Chẩn đoán bệnh dựa vào xét nghiệm huyết thanh. Albendazole tỏ ra có hiệu quả

trong điều trị tổn thương phổi do nhiễm các ký sinh trùng kể trên. Cần giáo dục

cộng đồng về cách lan truyền bệnh, mối nguy hại của bệnh , và cách phòng tránh

nhiễm ký sinh trùng.