
GIÁO DỤC HỌC
114
SOLUTIONS TO IMPROVE THE TEACHING QUALITY OF
VOCAL MUSIC TO STUDENTS OF MUSIC EDUCATION
Do Thi Lam
Thanh Hoa University of Culture, Sports and Tourism
Email: dothilam@dvtdt.edu.vn
DOI: https://doi.org/10.55988/2588-1264/205
Improving the teaching quality of vocal music is the most concerned issue given by
many educational institutions today. With actual experiences, the author proposes a number
of solutions to improve the quality of vocal teaching for students majoring in Music Education
at Thanh Hoa University of Culture, Sports and Tourism.
Key words: Vocal Music; Teaching quality; Music Education.
1. Giới thiệu
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc, đặt nền móng
cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ em từ 6 đến 14 tuổi. Giai đoạn tiểu
học ảnh hưởng mạnh mẽ đến tương lai của mỗi con người và là điều kiện tiên quyết để phát
triển liên tục nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Theo đó, giáo dục tiểu học đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong nền giáo dục quốc dân, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững.
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược đề ra, việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên tiểu học là nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt cấp thiết trong quá trình đổi mới và phát triển
chương trình giáo dục phổ thông hiện nay. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các trường đào tạo
giáo viên tiểu học là phải đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo trên cơ sở cập nhật xu
hướng phát triển giáo dục phổ thông cùng hệ thống kiến thức mới về sự phát triển của người
học cũng như cung cấp các kỹ năng, năng lực cần thiết, góp phần tạo nền móng vững chắc
cho sự phát triển của học sinh tiểu học đáp ứng yêu cầu xã hội.
2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Chương trình giáo dục tiểu học thuộc chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển
khai bắt đầu ở lớp 1 từ năm học 2020 - 2021. Trong năm học này, các khối lớp còn lại (lớp
2,3,4,5) vẫn tiếp tục áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2006. Năm học 2023 -2024,
lớp 5 vẫn áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2006; các lớp 1, 2, 3, 4 được triển khai
theo chương trình giáo dục tiểu học 2018. Theo đó, đến năm 2025 sẽ hoàn thành đổi mới
chương trình giáo dục ở bậc tiểu học.
Received:
23/5/2024
Reviewed:
24/5/2024
Revised:
30/5/2024
Accepted:
06/01/2025
Released:
15/01/2025

GIÁO DỤC HỌC
115
Định hướng xây dựng Chương trình giáo dục tiểu học 2018, cụ thể như sau:
- Xây dựng chương trình theo hướng mở, bảo đảm thống nhất nội dung giáo dục cốt lõi
và bắt buộc với học sinh toàn quốc; phát huy tính tự chủ, giao quyền chủ động và trách nhiệm
cho mỗi địa phương, nhà trường và giáo viên trong việc chọn lựa, bổ sung nội dung giáo dục
và triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp đối tượng giáo dục cũng như điều kiện thực tiễn địa
phương và cơ sở giáo dục.
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo của tác giả sách giáo khoa và giáo viên trong quá
trình triển khai thực hiện chương trình trên cơ sở định hướng chung những yêu cầu về phẩm
chất và năng lực cần đạt được ở học sinh, cùng những định hướng chung về nội dung giáo
dục, phương pháp giáo dục và phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Mục tiêu chương trình nhằm hình thành kiến thức đồng thời phát triển hài hòa phẩm
chất và năng lực, phát triển nhân cách và tư duy của học sinh tiểu học nhằm bảo đảm tính ổn
định và khả năng phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, với sự tiến bộ của khoa học và
công nghệ.
Theo đó, Chương trình giáo dục tiểu học 2018 đã quán triệt nghiêm túc, triệt để các
quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, thể hiện quyết tâm đổi mới của
ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay hướng tới xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện
đại và hội nhập.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cách tiếp cận
- Tiếp cận hệ thống: Chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học là nội dung quan trọng trong
hệ thống đào tạo giáo viên phổ thông; từ đó xác định hệ thống những giải pháp đảm bảo chất
lượng đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực giáo viên ở tiểu học.
- Tiếp cận hoạt động: Năng lực nghề nghiệp của sinh viên ngành giáo dục tiểu học được
hình thành và phát triển thông qua quá trình học tập và rèn luyện tại nhà trường sư phạm.
Việc nghiên cứu năng lực nghề nghiệp của sinh viên phải thông qua thực tiễn hoạt động thực
hành, rèn luyện năng lực chuyên môn, nghiệp vụ trên lớp của người học; như: quan sát hành
vi, đánh giá kết quả hoạt động thực hành chuyên môn nghiệp vụ, thực tế, thực tập sư phạm,
xử lý tình huống sư phạm...
- Tiếp cận phát triển: Quá trình đào tạo phải phát triển tối đa năng lực nghề nghiệp của
người học, giúp họ chủ động, sáng tạo đương đầu trước những tình huống, thách thức và
những đổi mới sẽ gặp trong thực tiễn cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp của bản thân.
- Tiếp cận thực tiễn: Quá trình đào tạo sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học xem xét trong
môi trường đào tạo giáo viên với những đặc điểm và yêu cầu thực tiễn dạy - học bậc tiểu học.
- Tiếp cận chuẩn đầu ra: Quá trình đào tạo phải căn cứ mục tiêu chuẩn đầu ra của
chương trình đào tạo ngành Giáo dục Tiểu học làm đích, hướng tới hình thành những phẩm
chất, năng lực, mức độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho sinh viên; để sau khi tốt nghiệp,
người học thực hiện hiệu quả nhiệm vụ giáo dục đáp ứng yêu cầu xã hội.

GIÁO DỤC HỌC
116
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Phân tích, tổng hợp, khái quát hệ thống tư liệu về thực trạng và
những đổi mới trong giáo dục tiểu học.
- Quan sát sư phạm: Quan sát hoạt động giáo dục ở bậc học tiểu học và quá trình đào
tạo sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học trong các giờ thực hành chuyên môn nghiệp vụ (thiết
kế giáo án, thiết kế đồ dùng dạy học, thực hành nghiệp vụ sư phạm), thực tế, kiến tập, thực tập
sư phạm... nhằm thu thập thông tin về chất lượng đào tạo giáo viên tiểu học.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn giáo viên tiểu học, sinh viên và giảng viên ngành
Giáo dục Tiểu học nhằm thu thập thông tin về thực trạng chất lượng giáo dục tiểu học hiện nay.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Những điểm mới trong nội dung Chương trình giáo dục tiểu học 2018
Chương trình giáo dục tiểu học 2018 quy định:
“Môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc (gồm 10 môn học và 1 hoạt động): Tiếng Việt;
Toán; Đạo đức; Ngoại ngữ 1 (lớp 3,4,5); Tự nhiên và Xã hội (lớp 1,2,3); Lịch sử và Địa lí (lớp
4,5); Khoa học (lớp 4,5); Tin học và Công nghệ (lớp 3,4,5); Giáo dục thể chất; Nghệ thuật (Âm
nhạc, Mĩ thuật); Hoạt động trải nghiệm (tích hợp nội dung giáo dục địa phương)” [1].
“Môn học tự chọn (dạy ở nơi có đủ điều kiện dạy học và phụ huynh học sinh có nguyện
vọng), gồm: Tiếng dân tộc thiểu số (lớp 1,2,3,4,5); Ngoại ngữ 1 (lớp 1,2)” [1].
So sánh nội dung Chương trình giáo dục tiểu học hiện hành (2006) và Chương trình
giáo dục tiểu học mới 2018:
- Chương trình giáo dục 2018 thực hiện chủ trương tích hợp cao ở các lớp dưới nên ít
môn học hơn Chương trình giáo dục tiểu học 2006. Môn Tin học thêm nội dung Công nghệ
(với tên môn là Tin học và Công nghệ) trở thành môn học bắt buộc. Môn Thể dục đổi tên là
Giáo dục thể chất. Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc. Làm quen tiếng Anh lớp 1, lớp 2 hiện
đang là môn học bắt buộc chuyển thành môn học tự chọn.
- Bổ sung môn Hoạt động trải nghiệm: trên cơ sở tổng hợp kiến thức và kỹ năng của bản
thân cùng với sự hướng dẫn và tổ chức của giáo viên, học sinh trải nghiệm thực tiễn đời sống,
qua đó hình thành phẩm chất và năng lực chung cùng với một số năng lực đặc thù (năng lực
thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực thích ứng với những biến động trong thực tiễn nghề
nghiệp và cuộc sống).
Hoạt động trải nghiệm được thiết kế gồm 5 chủ đề: 1/ Phát triển cá nhân; 2/ Cuộc sống
gia đình; 3/ Đời sống nhà trường; 4/ Quê hương, đất nước và cộng đồng xã hội; 5/ Nghề
nghiệp và phẩm chất người lao động. Các chủ đề được thiết kế trên nguyên tắc tích hợp, đồng
tâm và tuyến tính; mang tính mở, trong đó có những nội dung bắt buộc cho tất cả học sinh và
những nội dung mang tính phân hóa tuỳ thuộc nhu cầu, năng lực, sở trường của người học và
khả năng tổ chức và điều kiện thực tiễn từng cơ sở giáo dục.
- Giáo dục thể chất một mặt góp phần hình thành những phẩm chất chủ yếu và năng lực
chung cho học sinh; mặt khác, giúp người học hình thành và phát triển tố chất và năng lực thể
chất, kỹ năng vận động, văn hóa thể chất, có cuộc sống khoẻ mạnh về thể lực và tinh thần, ý
thức trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng.

GIÁO DỤC HỌC
117
- Chương trình giáo dục tiểu học 2018 thực hiện 2 buổi/ ngày, 35 phút/ tiết và không
quá 7 tiết/ ngày; số tiết trong một năm học đều tăng lên ở các khối lớp: Lớp 1, 2 có 7 môn học
và 1 hoạt động bắt buộc với 25 tiết/ tuần (chưa tính môn tự chọn), trong khi chương trình hiện
hành có 10 môn và 23 tiết/ tuần. Lớp 3 có 8 môn học và 1 hoạt động bắt buộc với 28 tiết/ tuần
(Chương trình hiện hành có 10 môn, 24 tiết/ tuần). Lớp 4, 5 có 10 môn học và 1 hoạt động bắt
buộc, 30 tiết/ tuần (chương trình hiện hành có 11 môn, 26 tiết/ tuần).
- Phương pháp giáo dục hướng tới mục tiêu tích cực hóa hoạt động của học sinh dưới
vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình
huống có vấn đề để khuyến khích người học tích cực, sáng tạo tham gia hoạt động học tập, tự
phát hiện năng lực, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học để phát triển và hoàn thiện bản thân.
- Đánh giá kết quả giáo dục (đánh giá sản phẩm, đánh giá quá trình học tập, rèn luyện
của học sinh) nhằm xác định chính xác, kịp thời về mức độ đạt chuẩn của chương trình và sự
tiến bộ của người học để quản lý và phát triển chương trình, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt
động dạy học. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy
định trong chương trình giáo dục tổng thể và chương trình môn học (bắt buộc và tự chọn) theo
định hướng phát triển năng lực với 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng
cao. Kết quả giáo dục được đánh giá thường xuyên (giáo viên phụ trách môn học thực hiện),
đánh giá định kỳ (do nhà trường tổ chức) bằng hình thức đánh giá định lượng và định tính.
Thực hiện đánh giá thông qua quá trình quan sát hoạt động học tập trên lớp, qua hồ sơ học
tập, vở hoặc sản phẩm học tập... nhằm bảo đảm độ tin cậy, khách quan, phù hợp đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi, không gây áp lực lên người học, hạn chế tốn kém cho nhà trường, gia đình
học sinh và xã hội.
4.2. Thực trạng chất lượng giáo dục tiểu học hiện nay
Những năm qua, trong chiến lược phát triển, mỗi địa phương cả nước đều xác định phát
triển giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trọng tâm. Theo đó, việc nâng cao trình
độ cho đội ngũ cán bộ giáo viên, nhất là đội ngũ giáo viên tiểu học nằm trong định hướng
chiến lược của các địa phương, bên cạnh đó, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị
dạy học, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; cải tiến chế độ tiền lương; xã hội
hóa giáo dục... tạo mọi điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục. Nhìn chung, chất lượng
giáo dục tiểu học đã có bước chuyển biến tích cực:
- Quy mô, mạng lưới trường tiểu học được mở rộng và ngày càng phát triển, chất lượng
giáo dục tiểu học có nhiều chuyển biến tích cực. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
được bổ sung về số lượng và từng bước nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cơ bản
đáp ứng được yêu cầu thực hiện đổi mới chương trình giáo dục bậc tiểu học.
- Các trường học đã chú trọng, linh hoạt đổi mới công tác quản trị nhà trường theo
hướng phát huy tính chủ động và năng lực tự chủ của nhà trường, sự sáng tạo, hiệu quả của
hoạt động chuyên môn, của giáo viên trong việc thực hiện chương trình giáo dục tiểu học, tập
trung triển khai những nội dung giáo dục cốt lõi, nội dung giáo dục bắt buộc và tự chọn theo
hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo trên cơ sở khai thác, lựa chọn và sử dụng sách giáo

GIÁO DỤC HỌC
118
khoa, các nguồn học liệu, thiết bị dạy học hiệu quả, phù hợp năng lực thực tiễn của nhà
trường và địa phương.
- Vận dụng linh hoạt, hiệu quả phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương pháp
kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học; chuyển từ hoạt động truyền thụ kiến thức sang tổ chức
hoạt động học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phát triển phẩm chất, năng lực
ở học sinh. Thực hiện rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa theo hướng tinh giản nội
dung không phù hợp, tích hợp một số nội dung tương đồng giữa các môn học và trong cùng
một môn học thành các chủ đề học tập trên cơ sở đảm bảo yêu cầu về chuẩn kiến thức và kỹ
năng của chương trình của từng khối lớp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước về giáo dục tiểu học địa bàn toàn quốc nói chung, các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nam
sông Hồng và Thanh Hóa nói riêng, đã bộc lộ một số hạn chế cần phải giải quyết:
- Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực giáo viên tiểu học ở các trường chuyên nghiệp vẫn
tồn tại tình trạng chạy đua về số lượng hơn là bảo đảm về chất lượng dẫn đến chất lượng giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong việc
quản trị nhà trường, quản lý lớp học và tổ chức các hoạt động giáo dục.
- Chất lượng cán bộ quản lí giáo dục và đội ngũ nhà giáo ở các trường tiểu học không
đồng đều. Số lượng đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên còn thừa thiếu cục bộ, chưa cân đối
giữa các môn học, giữa các vùng miền có điều kiện địa lý và kinh tế xã hội khác nhau...
nhưng chậm được khắc phục. Chỉ tiêu phân bổ giáo viên cho các địa phương chưa đồng bộ về
cơ cấu, đa số thấp hơn so với quy định và nhu cầu thực tế, nhất là khi triển khai thực hiện
Chương trình Giáo dục 2018 có bổ sung một số môn học mới ở cấp tiểu học. Tình trạng số
lượng giáo viên thiếu trong khi cơ sở vật chất chưa đầy đủ đã đẩy sĩ số lớp học nhiều nơi vượt
quá mức so với chuẩn quy định, tỷ lệ giáo viên/ lớp còn thấp hơn so với quy chuẩn.
- Chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn có sự
chênh lệch đáng kể so với các vùng miền có điều kiện địa lý và kinh tế xã hội thuận lợi nên tác
động và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục tiểu học những năm học vừa qua.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tại nhiều trường tiểu học vẫn chưa đáp ứng điều
kiện để triển khai và thực hiện chương trình giáo dục hiệu quả.
- Việc biên soạn, lựa chọn, tập huấn, bồi dưỡng và in ấn, phát hành, sử dụng sách giáo
khoa, tài liệu giáo dục địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Thông tin được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra tại “Báo cáo đánh giá việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 - 2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học
2023 - 2024”: “Tính đến hết năm học 2022 - 2023, cả nước còn thiếu 118.253 giáo viên, tăng
thêm 11.308 người thiếu so với năm học trước đó. Số lượng giáo viên tiểu học thiếu tăng lên
một mặt do số lượng giáo viên nghỉ chế độ trong năm, mặt khác chương trình tiểu học 2018
quy định tỉ lệ lớp học 2 buổi/ngày tăng 4,6% so với năm học trước (tương ứng tăng thêm
khoảng 3.000 giáo viên)” [6].