BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƢƠNG
LÊ XUÂN HẢO
DẠY HỌC HÁT CA KHÚC NGA CHO HỌC VIÊN
THANH NHẠC TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA
NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
Khóa 5 (2015 - 2017)
Hà Nội, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƢƠNG
LÊ XUÂN HẢO
DẠY HỌC HÁT CA KHÚC NGA CHO HỌC VIÊN
THANH NHẠC TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA
NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và Phƣơng pháp dạy học Âm nhạc
Mã số: 60140111
Ngƣời hƣơng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Nghị
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn chƣa đƣợc ai công bố ở bất kỳ nơi nào khác.
Nếu có điều gì trái với lời cam đoan, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2017
Tác giả luận văn
Đã ký
Lê Xuân Hảo
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GS : Giáo sƣ
GV : Giảng viên
NGƢT : Nhà giáo ƣu tú
NSND : Nghệ sĩ nhân dân
NSƢT : Nghệ sĩ ƣu tú
Nxb : Nhà xuất bản
THPT : Trung học phổ thông
TS : Tiến sĩ
tr : trang
Vd : Ví dụ
VHNT : Văn hóa nghệ thuật
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC
THANH NHẠC ................................................................................................ 7
1.1. Một số khái niệm ....................................................................................... 7
1.1.1. Thanh nhạc .............................................................................................. 7
1.1.2. Dạy học ................................................................................................... 7
1.1.3. Phƣơng pháp dạy học .............................................................................. 9
1.1.4. Phƣơng pháp dạy học thanh nhạc ......................................................... 10
1.1.5. Giọng nam trung ................................................................................... 11
1.1.6. Ca khúc ................................................................................................. 14
1.1.7. Ca khúc Nga ......................................................................................... 16
1.2. Vai trò của ca khúc Nga trong đời sống xã hội Việt Nam ....................... 19
1.2.1. Trong đời sống xã hội ........................................................................... 19
1.2.2. Trong thanh nhạc ................................................................................... 22
1.3. Thực trạng dạy học Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội ................................................................................................. 27
1.3.1. hái quát về Nhà trƣờng ...................................................................... 27
1.3.2. Khoa Thanh nhạc .................................................................................. 30
1.3.3. Đặc điểm khả năng thanh nhạc của học viên giọng nam trung hệ
Trung cấp ........................................................................................................ 31
1.3.4. Nội dung chƣơng trình môn Thanh nhạc hệ Trung cấp ...................... 33
1.3.5. Thực trạng dạy và học Thanh nhạc cho giọng nam trung ................... 36
Tiểu kết ........................................................................................................... 42
Chƣơng 2: BIỆN PHÁP DẠY HỌC CA HÚC NGA CHO GIỌNG
NAM TRUNG ................................................................................................ 43
2.1. Đặc điểm ca khúc Nga ............................................................................. 43
2.1.1. Cấu trúc ................................................................................................. 43
2.1.2. Điệu thức ............................................................................................... 47
2.1.3. Giai điệu ................................................................................................ 50
2.1.4. Nội dung lời ca ...................................................................................... 57
2.2. Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc ................................................................. 59
2.2.1. Khẩu hình .............................................................................................. 59
2.2.2. Hơi thở................................................................................................... 64
2.2.3. Cộng minh ............................................................................................. 67
2.2.4. Vấn đề đóng giọng ................................................................................ 70
2.2.5. Kỹ thuật legato ...................................................................................... 74
2.2.6. Kỹ thuật staccato ................................................................................... 78
2.2.7. Luyện tập kỹ thuật marccato (nhấn tiếng) ............................................ 80
2.3. Phát âm nhả chữ khi hát bài hát Nga ....................................................... 83
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm .............................................................................. 85
2.4.1. Mục đích ................................................................................................ 85
2.4.2. Nội dung và đối tƣợng thực nghiệm ..................................................... 85
2.4.3. Tiến hành thực nghiệm .......................................................................... 86
2.4.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................. 87
Tiểu kết ............................................................................................................ 87
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 92
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
hông phải đợi đến thời kỳ hội nhập mà từ hàng chục năm trƣớc,
những bản tình ca Nga đã hòa vào tâm hồn, đời sống văn hóa của một bộ
phận không nhỏ ngƣời Việt. Những ca khúc nhạc Nga nói chung và một mảng
lớn các ca khúc nhạc cách mạng Nga nói riêng đã đóng góp rất nhiều vào nền
âm nhạc Việt Nam.
Đến nay, đã có hơn 100 bài hát Nga đƣợc dịch sang tiếng Việt, trong
đó, những ca khúc bất tử trong tâm hồn ngƣời Việt nhƣ: Triệu đóa hồng, Đôi
bờ, Tình ca du mục, Kachiusa, Chiều ngoại ô Matxcơva, Mẹ yêu dấu của tôi,
Thời thanh niên sôi nổi, Cây thùy dương, Xiberi nở hoa, Nụ cười, Đỉnh núi Lê
- nin, Cuộc sống ơi ta mến yêu người...
Các ca khúc nhạc Nga hiện nay đã không còn dừng lại ở việc đƣợc
ngƣời Việt Nam yêu thích nữa, mà còn đƣợc đƣa vào chƣơng trình dạy học ở
một số trƣờng VHNT chuyên nghiệp tại nƣớc ta, trong đó có trƣờng Đại học
VHNT Quân Đội.
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội có số lƣợng lớn học viên so với các
trƣờng đào tạo nghệ thuật khác. Hệ đào tạo thanh nhạc của nhà trƣờng có từ
thấp đến cao, với nội dung chƣơng trình giảng dạy cho học viên đƣợc nghiên
cứu, sắp xếp phù hợp với từng hệ đào tạo và khả năng của mỗi cấp học. Việc
đƣa các ca khúc Nga vào giảng dạy trong chƣơng trình thanh nhạc của trƣờng
đã đƣợc thực hiện một thời gian dài, tuy nhiên vẫn chƣa thật sự chuyên sâu và
chƣa có giáo trình cũng nhƣ nội dung chƣơng trình cụ thể.
Trong số ca khúc Nga có rất nhiều bài phù hợp với chất giọng nam
trung (về tầm cữ, về màu giai điệu…), cho nên chọn một số ca khúc Nga đƣa
vào chƣơng trình dạy học thanh nhạc cho học viên giọng nam trung hệ
Trung cấp Thanh nhạc tại các trƣờng đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp là một
2
hƣớng phù hợp, vừa giúp học viên hiểu đƣợc những nét đẹp trong văn hóa
âm nhạc Nga, vừa giúp các em rèn luyện đƣợc những kỹ thuật cơ bản của
thanh nhạc. Ngoài ra, các bài hát Nga hiện vẫn đƣợc một số lƣợng khá lớn
khán thính giả Việt Nam yêu thích, vì vậy, học thể hiện các bài hát Nga cũng
là để đáp ứng nhu cầu thƣởng thức của một bộ phận công chúng Việt Nam.
Bản thân tôi hiện nay đang trực tiếp tham gia vào công tác giảng dạy
thanh nhạc tại trƣờng Đại Học VHNT Quân Đội, tôi nhận thấy việc dạy học
các ca khúc nhạc Nga cho học sinh trung cấp, trong đó có giọng nam trung
còn nhiều vấn đề khúc mắc. Đặc biệt là vấn đề hƣớng dẫn về phƣơng pháp thể
hiện các ca khúc Nga cho học viên hệ trung cấp chƣa đƣợc quan tâm chú
trọng, học viên hệ trung cấp còn nhiều lúng túng đối với vấn đề phƣơng pháp
thể hiện. Một phần là do kiến thức của các em học sinh còn nhiễu lỗ hổng,
đồng thời giáo viên giảng dạy cũng chƣa hƣớng dẫn các em một cách bài bản
về những phƣơng pháp thể hiện các ca khúc Nga.
Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng dạy học các
ca khúc Nga trong Trƣờng Đại học VHNT Quân đội, tôi chọn đề tài Dạy học
ca khúc Nga cho học viên Thanh nhạc tại Trường Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Lý luận và
Phƣơng pháp dạy học âm nhạc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ sau Cách mạng tháng Mƣời đã hình thành một nền âm nhạc Xô
Viết đa dạng, phong phú với nhiều màu sắc dân tộc khác nhau. Trong đó, có
thể nói âm nhạc Nga trở thành trụ cột quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình
thành và phát triển các nền âm nhạc dân tộc khác trong cộng đồng Liên bang
Xô Viết.
Trong thế kỷ XVIII, các trung tâm âm nhạc ở châu Âu nhƣ Áo, Đức,
Pháp, Ý đã khẳng định nền âm nhạc cổ điển chuyên nghiệp của mình và với
3
sự thay đổi về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng phức tạp. Từ
cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, âm nhạc của các nƣớc này từng bƣớc
từ chủ nghĩa cổ điển chuyển sang chủ nghĩa lãng mạn. Trong bối cảnh lịch sử
đó, cùng với ý thức giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc âm nhạc, bƣớc sang
thế kỷ XIX, nhiều nƣớc ở châu Âu đã lần lƣợt xuất hiện và khẳng định tính
chuyên nghiệp và bản sắc dân tộc độc đáo của mình, nhƣ Glinka ở Nga, F.
Chopin ở Ba Lan, F. Liszt ở Hungary, Gric ở Na Uy...
Dù trải qua những thăng trầm, có thể nói trong thế kỷ XXI này, nền
âm nhạc Nga dân tộc, hiện đại vẫn tiếp tục phát triển, sánh vai cùng với nhiều
nền âm nhạc khác trên thế giới.
Nƣớc Nga có một nền âm nhạc dân tộc, dân gian vô cùng phong phú.
Các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận Nga đã dày công sƣu tầm, chỉnh biên,
phân tích, tổng hợp, nêu lên những đặc trƣng quan trọng từ thang âm, điệu
thức, tiết tấu đến hòa âm, phức điệu, cách thức phối âm cho hợp xƣớng và dàn
nhạc mang phong cách Nga...
Đội ngũ các nhà soạn nhạc, các nghệ sĩ biểu diễn, các nhà nghiên cứu,
lý luận đƣợc đào tạo toàn diện trong môi trƣờng âm nhạc thuận lợi, kiến thức,
nghề nghiệp vững chắc, thế hệ trẻ đủ sức kế thừa thế hệ đi trƣớc. Công tác
nghiên cứu khoa học trên mọi lĩnh vực âm nhạc đƣợc khuyến khích, cổ vũ và
giới thiệu rộng rãi. Những thiết chế về âm nhạc không ngừng đƣợc hoàn thiện
và phát triển nhƣ: xây dựng nhà hát, các phòng hòa nhạc, trang bị đầy đủ hoàn
chỉnh các nhạc khí cho các loại dàn nhạc.
Việc giảng dạy các ca khúc nhạc Nga hiện nay tuy đã có nhiều đổi
mới, song chƣa có nhiều công trình nghiên cứu chi tiết về việc giảng dạy các
ca khúc nhạc cách mạng Nga cho học sinh trung cấp. Những tƣ liệu tác giả
nghiên cứu thu thập chủ yếu xoay quanh việc rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc.
Có thể kế đến một số công trình nhƣ sau:
4
Phạm Lê Hòa (2013), Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
Nguyễn Trung iên (2001), Phương pháp sư phạm thanh nhạc, Bộ
Văn hóa Thông tin, Nhạc Viện Hà Nội, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
Nguyễn Trung iên (2001), iáo trình gi ng dạy thanh nhạc hệ Trung
Cấp, Bộ Văn hóa Thông tin, Nhạc Viện Hà Nội, Viện Âm nhạc, Hà Nội
Mai Khanh (1976), iáo trình đại học thanh nhạc, Trƣờng Âm nhạc
Việt Nam, Hà Nội.
Hồ Mộ La (2008), Phương pháp dạy thanh nhạc, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1981), Các thể loại âm nhạc (Lan Hƣơng dịch), Nxb
Văn hóa, Hà Nội.
Nguyễn Thị Nhung (1996), Thể loại âm nhạc, Nxb Âm nhạc, Nhạc
viện Hà Nội.
Nguyễn Thị Nhung (1997), Hình thức âm nhạc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phạm Thị Kim Thoa (2016), Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cho giọng
nữ cao hệ Trung cấp Trường Đại học VHNTQuân đội, Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lý luận và phƣơng pháp dạy học Âm nhạc, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Nghệ thuật Trung ƣơng.
Trần Diệu Thúy (1999), Tính khoa học trong gi ng dạy và giáo trình
thanh nhạc, Luận văn Cao học chuyên ngành Thanh nhạc, Học viện Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
Nhìn chung, những tài liệu trên, đã đề cập đến nhiều vấn đề trong
nhiệm vụ giảng dạy và phát triển giọng hát nhƣ: mục đích, yêu cầu, nội dung
của công tác đào tạo ca sĩ; những nguyên tắc của sƣ phạm thanh nhạc; giáo
trình sƣ phạm thanh nhạc; cơ quan phát âm... đều là những nội dung quan
trọng giúp cho nhiệm vụ giảng dạy và phát triển giọng hát nói chung và công
tác dạy hát các ca khúc nhạc Nga nói riêng. Tuy nhiên, chƣa đề cập đến việc
5
dạy hát ca khúc nhạc Nga cho từng đối tƣợng học sinh nói riêng. Chính vì
vậy, những công trình nghiên cứu ở trên là tài liệu vô cùng quý giá để tôi thực
hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp dạy học nhằm nâng cao khả năng thể hiện các
ca khúc Nga cho giọng nam trung hệ Trung cấp Thanh nhạc Trƣờng Đại học
VHNT Quân đội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về các ca khúc Nga.
Nghiên cứu thực trạng dạy hát ca khúc Nga tại Trƣờng Đại học VHNT
Quân đội.
Đề xuất các biện pháp, phƣơng pháp dạy học ca khúc Nga cho giọng
nam trung hệ Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các biện pháp dạy học ca khúc
Nga cho giọng nam trung hệ Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học
VHNT Quân đội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội, riêng chuyên ngành thanh nhạc có
đào tạo hệ trung cấp và hệ đại học. Tuy nhiên trong luận văn này, chúng tôi
chỉ nghiên cứu kỹ thuật dạy hát ca khúc Nga cho giọng nam trung hệ Trung
cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội. Phần lời ca, do học
viên không biết tiếng Nga, vậy nên trong quá trình dạy học hát, chúng tôi chỉ
cho các em hát bài hát Nga bằng tiếng Việt.
Ca khúc Nga trong luận văn này là những bài hát của các nhạc sĩ Nga
và cả của các nhạc sĩ từ thời Liên Xô (cũ) sáng tác, đƣợc ngƣời Việt Nam sử
6
dụng từ thế kỷ XX đến nay. Do Liên Xô ngày nay không tồn tại, nên các bài
hát từ thời còn nƣớc Liên Xô đƣợc sử dụng trong đề tài gọi chung là ca
khúc/bài hát Nga.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phƣơng pháp phân tích, thông qua phƣơng pháp này sẽ giúp cho
chúng tôi phần tích để thấy đƣợc cấu trúc âm nhạc trong từng ca khúc, để khi
áp dụng vào dạy học sẽ có hiệu quả hơn.
Phƣơng pháp điều tra, chúng tôi dùng phƣơng pháp này để tìm hiểu
thực trạng dạy và học của thày trò Trƣờng CĐVHNT Quân Đội, đó sẽ là cơ
sở giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm, sẽ giúp chúng tôi vận dụng trong
luận văn để thuyết trình các thao tác trong giảng dạy và thực nghiệm sƣ phạm
để kiểm chứng tính khả thi trong luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn này đƣa ra các biện pháp, phƣơng pháp thể hiện các ca khúc
Nga cho học sinh Trung cấp một cách hiệu quả, nhằm góp phần nâng cao chất
lƣợng đào tạo của nhà trƣờng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
có 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực trạng dạy học thanh nhạc
Chƣơng 2: Biện pháp dạy học ca khúc Nga cho giọng nam trung
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG DẠY HỌC THANH NHẠC
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Thanh nhạc
Về thuật ngữ thanh nhạc, trong T điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên có viết: Thanh nhạc là âm nhạc đƣợc biểu hiện bằng giọng hát, phân
biệt với khí nhạc (do nhạc khí phát ra) 33, tr.881].
Cuốn Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc của nhóm tác giả Đào Trọng Từ -
Đỗ Mạnh Thƣờng - Đức Bằng biên soạn cũng nêu khái niệm về thanh nhạc,
cơ bản ý giống với T điển tiếng Việt của Hoàng Phê: Thanh nhạc là âm
nhạc đƣợc thể hiện bằng giọng ngƣời 40, tr.92].
Qua hai ý kiến trên cho thấy, thanh nhạc là một lĩnh vực của nghệ
thuật âm nhạc, do giọng ngƣời thể hiện, khác với khí nhạc là do nhạc cụ thể
hiện. Chúng tôi cũng đồng nhất với các quan điểm đó.
Thanh nhạc có thể đƣợc xem là lĩnh vực âm nhạc cổ xƣa nhất của con
ngƣời. Thanh nhạc là âm nhạc có lời ca, là loại hình lâu đời nhất của nghệ
thuật âm nhạc, cùng tuổi với tiếng nói của loài ngƣời [29, tr.14]. Khi con
ngƣời biết nói thì cũng có thể biết hát. Bất cứ một ngƣời nào biết nói thì đều
có thể biết hát, nhờ đó mà thanh nhạc (ca hát) trở thành bộ môn nghệ thuật có
tính đại chúng cao nhất. Tác giả Trung iên trong cuốn Phương pháp sư phạm
thanh nhạc đã viết về vai trò của thanh nhạc nhƣ sau: là một môn nghệ thuật phối
hợp âm nhạc và ngôn ngữ… có sức mạnh biểu hiện lớn lao, khả năng phổ cập
rộng rãi, đã làm cho nghệ thuật ca hát trở thành một phƣơng tiện truyền cảm giáo
dục tƣ tƣởng, đạo đức, thẩm mỹ và giải trí vô cùng quan trọng 12, tr.7].
1.1.2. Dạy học
Từ khi loài ngƣời xuất hiện cho đến nay, con ngƣời đã lao động, sáng
tạo để tồn tại và phát triển. Một trong những con đƣờng để tồn tại và phát
8
triển đó là dạy học. Các kiến thức, kinh nghiệm, sáng tạo mà con ngƣời có
đƣợc cần đƣợc lƣu giữ, bảo tồn và truyền lại cho nhau để rồi những ngƣời sau
lại tiếp tục kế thừa phát triển bằng con đƣờng dạy học: thầy dạy cho trò, anh
em bạn bè dạy cho nhau, thế hệ trƣớc truyền dạy lại cho thế hệ sau…
Nhƣ vậy, có thể nói, dạy học là một hiện tƣợng xã hội có chức năng
phát triển cá nhân và cộng đồng thông qua việc truyền thụ kinh nghiệm lịch
sử - xã hội đến ngƣời học. Trong T điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên)
có nêu khái niệm về dạy học nhƣ sau: dạy để nâng cao trình độ văn hóa và
phẩm chất đạo đức, theo chƣơng trình nhất định 33, tr.236]. Định nghĩa này
cho thấy khái quát về dạy học nhƣng chƣa thật sự đi sâu vào nội hàm của khái
niệm. Hoạt động dạy học là một quá trình bao gồm hai mặt: dạy và học, hai
mặt này luôn tồn tại biện chứng với nhau.
Để đi đến khái niệm về dạy học một cách đầy đủ hơn, chúng tôi muốn
tìm hiểu riêng hai khái niệm dạy và học.
Cũng trong T điển tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên, dạy đƣợc nêu
ở nhiều nghĩa, chúng tôi chọn một nghĩa sát nhất với đề tài là: truyền lại tri
thức hoặc kỹ năng một cách ít nhiều có hệ thống, có phƣơng pháp 33,
tr.236]; còn học là thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng do ngƣời khác
truyền lại 33, tr.437]. Mặc dù rất ngắn gọn nhƣng khái niệm dạy và học nêu
trên cho chúng ta thấy những ý cốt lõi nhất. Một cách cụ thể hơn, trong Tài
liệu bài gi ng Lý luận dạy học của tác giả Nguyễn Văn Tuấn Trƣờng ĐHSP
Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh có viết: dạy là hoạt động của giáo viên, không
đơn thuần chỉ là một tiến trình truyền thụ những nội dung đáp ứng mục tiêu
đề ra mà là hoạt động giúp đỡ chỉ đạo và hƣớng dẫn học sinh trong quá trình
lĩnh hội 38, tr.12]. Và cũng trong tài liệu này nêu học là hoạt động nhận
thức độc đáo của ngƣời học, thông qua đó ngƣời học chủ yếu thay đổi chính
bản thân mình và ngày càng có năng lực hơn trong hoạt động tích cực nhận
thức và cải biến hiện thực khách 38, tr.12].
9
Nhƣ vậy, quá trình dạy bao gồm các hoạt động tổ chức, điều khiển,
chỉ dẫn… hoạt động học của ngƣời học; quá trình học bao gồm hoạt động
nhận thức, chiếm lĩnh tri thức dƣới sự tổ chức, điều khiển của ngƣời dạy.
Từ những ý kiến nêu trên, chúng tôi rút ra: Dạy học là quá trình hoạt
động phối hợp thống nhất giữa người dạy và người học, bao gồm các hoạt
động tổ chức, điều khiển, chỉ dẫn…của thầy và hoạt động nhận thức, lĩnh hội
tri thức… của trò, nhằm giúp người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu qu
nội dung học vấn.
1.1.3. Phương pháp dạy học
Để đạt đƣợc hiệu quả dạy học, hoạt động dạy học cần phải có phƣơng
pháp. Phƣơng pháp rất quan trọng trong dạy học, thực tế có những ngƣời kiến
thức giỏi nhƣng phƣơng pháp kém dẫn đến hiệu quả dạy học thấp. Quá trình
phát triển của dạy học trên thế giới đã đƣợc các nhà nghiên cứu, các nhà sƣ
phạm tổng kết và đã chỉ ra tầm quan trọng của phƣơng pháp dạy học.
hông chỉ có dạy học mới cần đến phƣơng pháp mà bất cứ tiến hành
một hoạt động nào, con ngƣời cũng đều cần đến phƣơng pháp. Vậy phƣơng
pháp là gì?
Từ thời cổ đại, Hy Lạp là nƣớc có nền văn minh rực rỡ, họ quan tâm
tới nhiều lĩnh vực trong đó có giáo dục, phƣơng pháp đạt hiệu quả trong các
hoạt động và thuật ngữ phƣơng pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, méthodos
- nguyên văn là con đƣờng đi tới một cái gì đó; có nghĩa là cách thức để đạt
tới mục đích 24,tr.151].
T điển tiếng Việt của Hoàng Phê cũng nêu phƣơng pháp là hệ thống
các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó 33, tr.766].
Nhƣ vậy, phƣơng pháp chính là cách thức tiến hành hoạt động nhằm
đạt đƣợc hiệu quả tốt nhất cho hoạt động đó.
Về phƣơng pháp dạy học, có khá nhiều nhà nghiên cứu đƣa quan
điểm: Phƣơng pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích
10
của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh,
đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn 39, tr.38]. Trong bài giảng Lý
luận dạy học hiện đại, TS.Trịnh Thúy Giang, Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà
Nội, có trích dẫn khái niệm của Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt nhƣ sau:
Phƣơng pháp dạy học là tổ hợp cách thức hoạt động của thầy và trò trong
quá trình dạy học đƣợc tiến hành dƣới vai trò chủ đạo của thầy, nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ dạy học [3, tr.51].
Từ những ý kiến ở trên, chúng tôi thấy tuy khác nhau nhƣng đều nêu
đƣợc các khía cạnh của bản chất về phƣơng pháp dạy học. Chúng tôi xin đƣợc
tổng kết nhƣ sau: Phương pháp dạy học là hệ thống cách thức hoạt động của
thầy và trò, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy nhằm giúp học sinh
chiếm lĩnh tri thức, thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
1.1.4. Phương pháp dạy học thanh nhạc
Thanh nhạc là lĩnh vực của nghệ thuật âm nhạc, bản thân nó có những
nét đặc thù riêng và vì vậy, việc dạy học thanh nhạc cũng có những đặc điểm
riêng từ tổ chức, cách thức cho tới phƣơng pháp dạy học.
Từ các khái niệm đã đƣợc trình bày ở các mục trên nhƣ thanh nhạc,
dạy học, phƣơng pháp dạy học, chúng ta có thể hiểu phƣơng pháp dạy học
Thanh nhạc là hệ thống cách thức hoạt động của thầy và trò, là con đƣờng
chuyển tải những kiến thức về khoa học thanh nhạc; hình thành, phát triển các
kỹ năng nhận thức và hoạt động thanh nhạc cho ngƣời học; là một hệ thống
những hành động có mục đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận
thức và thực hành thanh nhạc (hát) của học sinh nhằm đạt đƣợc mục tiêu dạy
học [23, tr.6]. Cụ thể, đó là những cách thức hƣớng dẫn để ngƣời học có thể
lĩnh hội và thực hành hát đƣợc các tác phẩm thanh nhạc, đáp ứng các yêu cầu
về kỹ thuật cũng nhƣ nghệ thuật theo tiêu chí của các cấp học, bậc học.
Dạy học Thanh nhạc về cơ bản ứng dụng các phƣơng pháp dạy học
Âm nhạc nói chung là: Phƣơng pháp dùng lời; hƣớng dẫn thực hành - luyện
11
tập; sử dụng phƣơng tiện dạy học; kiểm tra - đánh giá; trình bày tác phẩm âm
nhạc. Tuy nhiên, do đặc thù là môn cần nhiều kỹ năng thực hành nên các
phƣơng pháp đƣợc dùng nhiều trong dạy học Thanh nhạc là hƣớng dẫn thực
hành - luyện tập, trình bày tác phẩm và kiểm tra - đánh giá.
1.1.5. Giọng nam trung
1.1.5.1. Phân loại giọng nam trung
Phân loại giọng hát không phải là một vấn đề đơn giản, thực tế đó là
một việc khá phức tạp. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu thanh nhạc cũng phân
chia giọng hát của con ngƣời thành những dạng cơ bản khác nhau. Trong
thanh nhạc phƣơng Tây, giọng hát đƣợc chia làm nhiều loại: giọng nữ có nữ
cao (soprano), nữ trung (mezzo), nữ trầm (alto); giọng nam cũng tƣơng tự nhƣ
giọng nữ là có nam cao (tenor), nam trung (baryton), nam trầm (bass).
Giọng nam trung (baryton): Là loại giọng có âm vực và màu sắc nằm
giữa giọng nam cao và nam trầm.
hi nói đến giọng nam cao (tenor) ngƣời ta có thể hình dung giọng hát
nam có màu sắc âm thanh trong sáng, bay bổng và có thể hát đƣợc những nốt
có âm vực cao nhất trong các loại giọng nam. Giọng nam trầm (bass) là giọng
trầm, dày, ấm áp, đầy đặn và có thể hát đƣợc những nốt có âm vực thấp nhất
trong các loại giọng nam. Còn giọng nam trung đứng ở giữa hai loại giọng
này, về âm vực giọng có thể hát xuống đƣợc những âm thấp hơn giọng tenor
nhƣng cao hơn giọng bass và lên đƣợc những nốt cao hơn giọng bass nhƣng
thấp hơn giọng tenor.
Về màu sắc, giọng baryton không sáng nhƣ tenor, hơi trầm, khá dày
và ấm nhƣng không trầm, dày bằng giọng bass. Giọng baryton chủ yếu sử
dụng giọng ngực (chest-voice) ở thanh khu tự nhiên, ít khi sử dụng giọng đầu
(head-voice) và giọng giả thanh (falsetto), khi lên cao không chuyển giọng mà
chỉ pha chữ và đóng tiếng để hát đều giữa thanh khu tự nhiên và thanh khu
giọng đầu.
12
Trong các sách nghiên cứu về thanh nhạc nhƣ Phương pháp sư phạm
thanh nhạc của Nguyễn Trung iên, Phương pháp dạy thanh nhạc của Hồ
Mộ La, Hát của Ngô Thị Nam đều nêu âm vực của giọng baryton thƣờng ở trong khoảng từ A đến g1 (theo âm thanh thực tế, còn viết thông thƣờng trên bản nhạc với khóa sol thì là a- g2).
Vd số 1:
Dựa vào các sách đã nêu ở trên cho thấy, giọng baryton đƣợc phân
thành 2 loại là nam trung trữ tình và nam trung kịch tính. Việc phân chia này
đƣợc căn cứ vào âm vực, độ dày và màu sắc của giọng baryton:
Nam trung trữ tình (lirico baryton): Đặc điểm dễ nhận biết là giọng
hát ấm, vang tròn, mềm mại, truyền cảm, gần với giọng nam cao.
Nam trung kịch tính (dramatic baryton): Đặc điểm nhận biết là âm sắc
tối hơn nam trung trữ tình,giọng vang khỏe, có âm lƣợng lớn, nghe dày gần
bằng giọng bass.
1.1.5.2. Đặc điểm giọng nam trung của người Việt Nam
Do đặc điểm về chủng tộc, nòi giống cộng với các điều kiện về địa lý,
khí hậu nóng nhiều cũng nhƣ do những hoàn cảnh xã hội của một đất nƣớc
phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh triền miên, nên về tầm vóc (chiều cao,
cân nặng…) của ngƣời Việt Nam nói chung là thấp bé hơn khá nhiều so với
các quốc gia châu Âu nói chung nhƣ Anh Nga, Đức, Pháp… và so với cả
nhiều nƣớc ở châu Á và Đông Nam Á (trong những năm gần đây) nhƣ Trung
Quốc, Nhật Bản, Singapore…
13
Sau chiến tranh (từ 1975 đến nay), đời sống vật chất của ngƣời dân
Việt Nam đã có nhiều cải thiện, không chỉ là ăn no mặc ấm nhƣ trƣớc kia nữa
mà là ăn ngon mặc đẹp, tầm vóc của ngƣời Việt đã đƣợc nâng lên khá nhiều.
Ở những năm 60-70 thế kỷ XX, phụ nữ cao 1m60 còn bị chê là cao quá, là
không đẹp so với ngƣời Việt Nam, đến nay phụ nữ có chiều cao 1m65 đƣợc
coi là đẹp, hoa hậu còn cao tới trên 1m70. Mặc dù vậy, tầm vóc của ngƣời
Việt Nam so với thế giới vẫn thuộc loại thấp bé. Báo Vnexpress đăng ngày
27/6/2016 nêu: chiều cao ngƣời Việt nằm trong top thấp nhất thế giới [2].
Do tầm vóc của ngƣời Việt Nam thấp bé nhƣ vậy nên các số đo vòng
ngực, vòng bụng, phổi, thanh đới, vòm họng… cũng nhỏ bé theo một tỷ lệ
tƣơng ứng. Một lồng ngực vạm vỡ, to khỏe thì lƣợng không khí đƣợc hít thở
chắc chắn sẽ nhiều hơn lồng ngực nhỏ, lép… Tầm vóc nhỏ bé có ảnh hƣởng
nhất định tới sức khỏe và chất lƣợng giọng hát, sẽ có những hạn chế hơn so
với ngƣời to khỏe. Sức khỏe của ca sĩ rất quan trọng, chỉ cần cơ thể yếu đi
một chút thôi, họng hơi viêm cũng có thể làm cho đêm diễn bị thất bại. Bên
cạnh đó, ngƣời có tầm vóc to lớn thì các xoang cộng minh có độ to, dày cũng
thƣờng tạo nên giọng hát đầy đặn, vang khỏe hơn so với ngƣời nhỏ bé. Nhƣ
vậy, tầm vóc nhỏ bé của ngƣời Việt Nam cho thấy những điều không thuận
lợi trong thanh nhạc và cũng lý giải vì sao trong các cuộc thi hát quốc tế, nƣớc
ta ít giành đƣợc giải cao.
Tầm vóc của ngƣời Việt cũng góp phần quyết định loại giọng hát. Do
cơ thể thấp nên chiều dài của cổ và kèm theo đó là thanh đới cũng ngắn và
dẫn đến giọng hát phần lớn thƣờng là giọng cao mà ít giọng trung và giọng
trầm lại càng hiếm. Điều đó phần nào ảnh hƣởng đến sự phát triển các thể loại
hợp xƣớng, opera ở nƣớc ta.
Tuy tầm vóc thƣờng là ảnh hƣởng đến chất lƣợng giọng hát, loại
giọng… song không hoàn toàn nhƣ vậy. Vẫn có những ngƣời tầm vóc không
14
cao lớn nhƣng có giọng hát khỏe, vang, đầy đặn. Vấn đề là còn phụ thuộc kỹ
thuật thanh nhạc và năng khiếu bẩm sinh nữa. Nƣớc ta vẫn có những giọng
nam trung đƣợc nhiều ngƣời biết đến và hâm mộ, nhƣ trƣớc đây có nghệ sĩ
Quý Dƣơng, Trần Thụ, Trần Chất; giờ đây có nghệ sĩ Quang Thọ, lớp trẻ có
ca sĩ Mạnh Dũng là giọng nam trung của Nhà hát opera Việt Nam. Ca khúc
Việt Nam có một số bài hát viết cho giọng nam trung rất đặc sắc và thực tế
chúng ta thấy các nghệ sĩ Quý Dƣơng, Quang Thọ… đã thể hiện rất thành
công nhƣ: Ta tự hào đi lên ôi Việt Nam (Chu Minh), Lá đỏ (Hoàng Hiệp, thơ
Nguyễn Đình Thi), Xe ta đi trong đêm Trường Sơn (tân Huyền), Bài ca xây
dựng (Hoàng Vân)…
Giọng nam trung và trầm ở Việt Nam không nhiều nên việc dàn dựng
các tiết mục hợp xƣớng đôi khi có những khó khăn nhất định nhƣ phải lấy
giọng nam trung hát bè bass và ngay cả nam trung cho bè bass có khi cũng
không đủ số lƣợng ngƣời, nhất là với những hợp xƣớng lớn, đồ sộ. Hơn nữa,
đa số giọng nam trung của Việt Nam mới chỉ đạt đến tiêu chuẩn Việt Nam,
còn theo tiêu chuẩn thế giới thì vẫn có những điểm khác biệt lớn về độ dày,
độ vang so với chất giọng châu Âu.
Nhƣ vậy, để giọng hát nói chung và giọng nam trung nói riêng của
ngƣời Việt Nam đạt đến độ chuẩn quốc tế thì vấn đề đào tạo kỹ thuật giọng
hát ở các cơ sở chuyên nghiệp hết sức quan trọng. Vấn đề đƣợc đặt ra là làm
sao hạn chế đƣợc những điểm yếu từ tầm vóc bẩm sinh để nâng cao hơn nữa
chất lƣợng giọng hát?
1.1. . a khúc
Phân tích nghĩa của cụm từ ca khúc cho thấy ca là hát, khúc là nhạc, có
thể hiểu đơn giản ca khúc là khúc nhạc dùng để hát.
Theo cuốn Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng của Đào Trọng
Từ, Đỗ Mạnh Thƣờng, Đức Bằng, ca khúc là bài hát ngắn có bố cục mạch lạc
[40, tr.81].
15
Định nghĩa trên cho thấy ca khúc là bài hát có hình thức nhỏ, tuy nhiên,
chúng tôi thấy chƣa rõ nghĩa lắm. hái niệm ca khúc của tác giả Nguyễn Thị
Nhung trong cuốn Thể loại âm nhạc cho thấy hơn rõ về thể loại này: Ca
khúc là danh từ dùng để gọi những tác phẩm âm nhạc khác nhau: ca khúc dân
ca và ca khúc của các nhạc sĩ chuyên nghiệp. Những tác phẩm này đƣợc thể
hiện bằng giọng ngƣời 31, tr.12].
Qua ý kiến của một số tác giả, có thể khái niệm ca khúc là một thể loại
thanh nhạc - tác phẩm âm nhạc có lời ca, đƣợc thể hiện bằng giọng hát của
con ngƣời, ca khúc có hình thức nhỏ (thƣờng cấu trúc ở các dạng 1 đoạn, 2
đoạn hoặc ba đoạn đơn).
Ca khúc là thể loại âm nhạc có tính quần chúng cao. Hầu nhƣ bất cứ
ngƣời nào cũng có thể thƣởng thức đƣợc ca khúc, trong khi không phải ai
cũng thƣởng thức đƣợc khí nhạc, nhất là những thể loại khí nhạc mang tính
bác học chuyên nghiệp nhƣ giao hƣởng hay concerto… Sở dĩ nhƣ vậy trƣớc
hết là do ca khúc có lời ca, đây là một thế mạnh riêng của ca khúc so với khí
nhạc. Với lời ca, ngƣời nghe dễ hiểu, dễ cảm nhận hình tƣợng âm nhạc. Thứ
hai là do ca khúc thƣờng cấu trúc ở các hình thức nhỏ khiến cho đại đa số
quần chúng dễ dàng thƣởng thức đƣợc, từ trẻ em cho tới ngƣời lớn, từ những
ngƣời không yêu thích cho đến ngƣời yêu thích âm nhạc. Đặc biệt, ca khúc do
giọng ngƣời thể hiện nên có một sức hấp dẫn độc đáo. Giọng ngƣời có thể
phát ra đƣợc ý nghĩa của ngôn từ mà không nhạc cụ nào làm đƣợc. Hơn nữa,
ca khúc do giọng ngƣời thể hiện nên ai cũng có thể tự hát đƣợc (trừ những
ngƣời không thể nói đƣợc), trong khi không phải ai cũng có thể chơi đƣợc
nhạc cụ. Những dặc điểm đó đã làm nên sức mạnh riêng có của ca khúc.
Ca khúc ra đời sớm nhất trong lịch sử các thể loại âm nhạc. Ở mục
trên chúng tôi đã dẫn ý trong cuốn Các thể loại âm nhạc của nhiều tác giả
ngƣời Nga nêu thanh nhạc là loại hình lâu đời nhất của nghệ thuật âm nhạc
16
và đó cũng chính là nói về ca khúc. Bất cứ một quốc gia, dân tộc nào cũng
đều có một nền ca khúc của mình. Đó có thể là những ca khúc đƣợc các nhạc
sĩ chuyên nghiệp sáng tác hay là bài dân ca đƣợc sáng tác khuyết danh trong
dân gian. Theo chặng đƣờng lịch sử, ca khúc phản ánh cuộc sống, tâm tƣ tình
cảm, ghi dấu những sự kiện lịch sử, quan điểm thẩm mỹ của thời đại…
Những bài dân ca phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt, phong tục tập
quán, truyền thống… của một cộng đồng, một tộc ngƣời…
Với những ƣu thế riêng có, ca khúc trở thành thể loại có một ý nghĩa
và vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Ca khúc thƣờng đƣợc
dùng để giáo dục tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, tình yêu giữa con ngƣời với
con ngƣời… Ca khúc là tiếng lòng, là ngƣời bạn tâm tình của con ngƣời
những khi vui, khi buồn… hi đất nƣớc có chiến tranh, ca khúc đóng vai trò
đi đầu trong mặt trận tƣ tƣởng, thông qua những giai điệu hùng tráng, ca khúc
kích thích lòng tự hào dân tộc, tinh thần đấu tranh, tăng thêm lòng dũng cảm,
thúc giục ngƣời chiến sĩ ra chiến trƣờng, sẵn sàng đi chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc; động viên những ngƣời ở hậu phƣơng vững tin và góp phần vào công
cuộc bảo vệ Tổ quốc…
1.1. . a khúc Nga
Ca khúc Nga là những bài hát do các nhạc sĩ Nga sáng tác, song khái
niệm ca khúc Nga trong luận văn này không phải chỉ là những ca khúc của
các nhạc sĩ Nga mà với một nội hàm rộng hơn. Đó là ca khúc của các nhạc sĩ
Nga và cả của các nhạc sĩ từ thời Liên Xô (cũ). Do Liên Xô ngày nay không
tồn tại nên các bài hát từ thời còn nƣớc Liên Xô đƣợc ngƣời Việt Nam sử
dụng, chúng tôi đề cập khái niệm chung là bài hát Nga.
Nƣớc Nga đƣợc thế giới biết đến là quê hƣơng của những cánh rừng
bạch dƣơng rì rào, của đại thi hào thơ ca A. Puskin với những áng thơ trữ tình
nồng cháy, của danh họa I. Levitan với những bức tranh đặc sắc về phong
cảnh Nga, của nhà soạn nhạc P.I. Tchaikovsky với những giai điệu lãng mạn
17
đậm chất tinh thần Nga. Là một đất nƣớc rộng lớn, trải dài từ Á tới Âu, Nga
có sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông và Tây. Nƣớc Nga có truyền
thống âm nhạc chuyên nghiệp, tuy không phải là sớm nhƣng thuộc vào nƣớc
khá nổi bật trên thế giới. Thế kỷ XVII trƣờng phái âm nhạc chuyên nghiệp
của Nga mới xuất hiện nhƣng tới thế kỷ XIX, âm nhạc Nga bƣớc vào thời kỳ
thành thục và đƣợc thế giới công nhận thông qua những sáng tác của Glinka
[22, tr.229]. M.I. Glinka (1804-1857) là nhạc sĩ cổ điển đầu tiên của Nga, ông
đƣợc coi là ngƣời đặt nền móng cho âm nhạc cổ điển Nga. Glinka đã tạo ra
bƣớc ngoặt lớn và đƣợc ví là Puskin của âm nhạc Nga. Tiếp sau Glinka, nhiều
thế hệ nhạc sĩ nổi tiếng của Nga đã làm nên một trang sử rạng danh cho đất
nƣớc với tên tuổi của rất nhiều nhạc sĩ nhƣ: Ở thế kỷ XIX có A. Aliabiev, A.
Varlamov, các nhạc sĩ nhóm hỏe M.P. Mussorgsky, A.P. Borodin, N.A.
Rimsky- orsakov…và đặc biệt phải kể tới nhạc sĩ P.I. Tchaikovsky.
Tchaikovsky (1840-1893) là nhà soạn nhạc Nga vĩ đại, ông đã đƣa âm nhạc
Nga lên đến đỉnh cao [22, tr.240]. Thế kỷ XX, nền âm nhạc nƣớc Nga thực
sự nhƣ một vƣờn hoa muôn màu sắc với sự phát triển mạnh mẽ từ đội ngũ
nhạc sĩ sáng tác cho tới số lƣợng tác phẩm, thể loại âm nhạc cũng nhƣ chất
lƣợng nghệ thuật; từ các lĩnh vực sáng tác, biểu diễn cho tới nghiên cứu phê
bình, đào tạo… Thế giới đã nhìn nhận những nhạc sĩ tài năng của nƣớc Nga ở
thế kỷ XX nhƣ I. Stravinsky, A. Scriabin, S. Rachmanhinov, S. Prokofiev, D.
Shostakovich, A. hachaturian… Họ không chỉ đóng góp cho nƣớc Nga và
cả cho âm nhạc thế giới.
Nga là nƣớc có nền âm nhạc dân gian phong phú, có văn hóa truyền
thống đặc sắc, lâu đời. Sự giao thoa của hai nền văn hóa Đông - Tây đã làm
nên một nền âm nhạc dân gian độc đáo riêng có của Nga. Có lẽ những ngƣời
yêu âm nhạc Nga (trong đó có ngƣời Việt Nam) đều ít nhiều biết đến những
bài dân ca Nga nhƣ bản Kalinka rộn ràng, bốc lửa, bài Volga xinh đẹp (Волга-
18
реченька глубока) hay Hoa Calina nở trữ tình, tha thiết…; biết những điệu
múa dân gian tƣng bừng với những động tác đánh gót độc đáo đƣợc biểu diễn
trong các dịp lễ hội; biết tiếng đàn balalaika réo rắt cùng với hình ảnh của cây
thùy dƣơng thơ mộng nhƣ một biểu trƣng cho nƣớc Nga.
Trên nền tảng của một đất nƣớc rộng lớn, có nền văn hóa, âm nhạc lâu
đời và phong phú nhƣ vậy, nên lĩnh vực sáng tác ca khúc của Nga cũng đạt
đƣợc những thành tựu có thể nói là rực rỡ. Cũng nhƣ nhiều nhạc sĩ nổi tiếng
trên thế giới, ngoài thời gian dành cho sáng tác các thể loại âm nhạc chuyên
nghiệp bác học có hình thức đồ sộ nhƣ opera, oratorio, giao hƣởng, concerto,
sonate… và các thể loại nhạc thính phòng khác, thì nhiều nhạc sĩ Nga đã dành
thời gian cho sáng tác thanh nhạc, trong đó có thể loại ca khúc. Tiêu biểu nhƣ
Glinka có tới khoảng 80 romance thanh nhạc với những bản đặc sắc nhƣ Tôi
nhớ phút giây diệu kỳ, Làn gió nhẹ trong đêm..., ca khúc Chim sơn ca...;
Tchaikovsky có nhiều romance thanh nhạc mà nổi bật nhƣ Bài hát của cô gái
Digan, Ph i chăng là ánh ban mai..., a cappella Mây ngủ, những ca khúc của
ông cũng rất nổi tiếng nhƣ Ru con trong bão tố, Tiếng chim hót họa mi
(соловушка)…Các nhạc sĩ Rachmanhinov, Rimsky - Corsacov, Mussorgsky,
Sostakovich… cũng sáng tác nhiều tác phẩm thanh nhạc nhƣ romance, liên
khúc thanh nhạc, ca khúc…
Ngoài ra, nƣớc Nga còn nổi bật tên tuổi của nhiều nhạc sĩ viết cho ca
khúc. Có thể kể đến Solovyov Sedoi(1907-1979) mà những ca khúc nhƣ
Chiều ngoại ô Moskova (1957, Подмосковные Вечера), Chim họa mi
(соловьu), Chiều h i c ng (Вечер на рейде) … của ông đã trở thành bất hủ,
có sức sống vƣợt biên giới; nhạc sĩ Aleksandr Vasilyevich Aleksandrov
(1883-1946) với bài hát Cuộc chiến thần thánh (Священная война) viết trong
những ngày chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941), sau này đã trở thành quốc ca
của Liên xô; nhạc sĩ Isaak Dunayevsky - ngƣời đƣợc mệnh danh là nhà cổ
19
điển ca khúc , các bài hát Bài ca Tổ quốc, Hãy bay đi hỡi những chim câu của
ông đƣợc nhiều ngƣời biết đến; nữ nhạc sĩ Aleksandra Nikolaeva Pakhmutova
với bài hát Bài ca thời thanh niên sôi nổi (Песня о тревожной молодости)
thơ Oshanin, Tạm biệt Moskova (До свиданья, Москва) đã làm nức lòng bao
thế hệ trẻ…
Trong ca khúc Nga là những hình ảnh về đất nƣớc Nga hùng vĩ, tƣơi
đẹp, thơ mộng; là tiếng lòng tha thiết của những đôi trai gái yêu nhau; là
những điệu nhảy đậm chất dân gian nhiệt thành, sôi nổi; là chân dung những
con ngƣời Nga giản dị, nồng hậu, thông minh trong xây dựng đất nƣớc nhƣng
quả cảm và nghị lực trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc… Ca khúc Nga đã đóng
một vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân Nga, giúp ngƣời dân Nga
tự hào về quê hƣơng, đất nƣớc, thêm tình yêu cuộc sống và nghị lực trong
cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Thực tế đã chứng minh, những bài hát nhƣ
Cuộc chiến thần thánh của A.V. Aleksandrov, Cachiusa (1938) của M. I.
Blanter - lời của M.V. Isakovsky, các bài Chiều h i c ng (1941), Chim họa
mi của Solovyov Sedoi… đã có tác dụng to lớn trong chiến tranh thế giới thứ
hai giúp Hồng quân Liên Xô chiến thắng phát xít Đức.
Tóm lại, Nga là một nƣớc rộng lớn, có truyền thống văn hóa lâu đời,
có nền âm nhạc nổi bật với nhiều nhạc sĩ xuất sắc của thế giới. Sáng tác ca
khúc của Nga rất phong phú, nhiều bài không chỉ nổi tiếng ở Nga mà còn
đƣợc nhiều nƣớc khác biết đến, trong đó có Việt Nam.
1.2. Vai trò của ca khúc Nga trong đời sống xã hội Việt Nam
1. .1. Trong đời sống hội
Việt Nam và Nga vốn có tình hữu nghị gắn bó keo sơn từ giữa thế kỷ
XX, lúc đó là Liên Xô. Liên Xô xƣa và Nga ngày nay có những mối quan hệ
với Việt Nam trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, quân sự chính trị… Giai đoạn
khoảng giữa thế kỷ XX, nhiều cán bộ, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, du học
20
sinh… của Việt Nam đã sang Nga để học tập, nhiều chuyên gia Nga đã sang
làm việc tại Việt Nam. Vì thế, văn hóa, giáo dục và đặc biệt là âm nhạc của
Nga đã có ảnh hƣởng khá lớn đến nƣớc ta.
Nƣớc ta đã tiếp thu và biết đến rất nhiều nhà văn, nhà thơ cũng nhƣ
những tác phẩm văn học nổi tiếng của Nga. Những tên tuổi nhƣ A. Puskin,
F.M. Dostoievsky, L. Tolstoy, A. Tchekhov, M.A. Solokhov, C. Aitmatov…
đã một thời là thần tƣợng của nhiều ngƣời yêu văn học Việt Nam. Các tác
phẩm nhƣ Năm đêm trắng của F. Dostoievsky, Chiến tranh và hòa bình của
L. Tolstoy, Sông Đông êm đềm của M. Solokhov, Tuyển tập truyện ngắn của
A. Tsekhov, Tuyển tập thơ, truyện ngắn của A. Puskin, Cây phong non trùm
khăn đỏ của C. Aitmatov, Cánh buồm đỏ thắm của A. Grin, tập truyện ngắn
thiếu nhi Bình minh mưa của . Pautovsky… đã trở thành sách gối đầu
giƣờng, là niềm đam mê của nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam.
Ngƣời Việt Nam những năm 70, 80 của thế kỷ XX say mê với những
phim truyện của Nga với đủ các thể loại phim về chiến tranh, tâm lý xã hội,
phim khoa học, hoạt hình, thần thoại… mà có thể kể không hết nhƣ Chiến
tranh và hòa bình, i i phóng, Chàng ngốc, Khi đàn sếu bay qua, Bài ca
người lính, Năm đêm trắng, B n sonate ven hồ, Moskova tình yêu của tôi,
Cánh buồm đỏ thắm, Lửa nước và ống đồng, Câu chuyện vua Saltan…
Trong lĩnh vực âm nhạc, sau năm 1954, ở miền Bắc, âm nhạc của Liên
Xô cùng với văn hóa - nghệ thuật của các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em đƣợc
giới thiệu rộng rãi và phổ biến thƣờng xuyên trên Đài phát thanh, các sân
khấu ca nhạc, ở các câu lạc bộ sinh hoạt văn nghệ của học sinh, sinh viên…
Nghệ thuật âm nhạc Nga có sự ảnh hƣởng đến một số lĩnh vực nhƣ biểu diễn,
đào tạo, nghiên cứu… âm nhạc của nƣớc ta. Nhiều giáo trình, sách về phƣơng
pháp dạy học âm nhạc của Nga đƣợc các nhà sƣ phạm, nghiên cứu chọn lọc
tiếp thu từ Nga nhƣ giáo trình Lý thuyết âm nhạc của V.A. Va hrameev, sách
21
giáo khoa Hòa âm của bốn tác giả ngƣời Nga (Y. Dubovsky, S. Evseev, Y.
Sposobin, V. Sokolov); tƣ liệu lịch sử âm nhạc, thể loại âm nhạc, phân tích
tác phẩm, xƣớng âm, sách dạy học thanh nhạc; nhiều sách dạy học piano,
violon và cho nhiều nhạc cụ phƣơng Tây khác… Trong thời kỳ chiến tranh,
kinh tế khó khăn, Nga đã hỗ trợ Việt Nam trong đào tạo, cử chuyên gia sang
dạy tại Trƣờng Âm nhạc Việt Nam, cho các học sinh, sinh viên sang học tại
các trƣờng âm nhạc của Nga trong đó có Nhạc viện Tchaikovsky. Nghệ sĩ
nhân dân Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất kỳ thi quốc tế âm nhạc Chopin tại Ba
Lan năm 1980 cũng nhờ có sự hỗ trợ giúp sức của giáo sƣ ngƣời Nga khi anh
học ở Nga, anh đã đƣợc giáo sƣ dạy và chuẩn bị cho kỳ thi quốc tế.
Chính vì mối quan hệ nhƣ nêu trên mà âm nhạc Việt Nam những năm
60-90 thế kỷ XX có sự ảnh hƣởng lớn của Nga. Các tác phẩm của Nga, phong
cách âm nhạc Nga, phƣơng pháp dạy học âm nhạc của Nga… đƣợc ngƣời
Việt Nam tiếp thu và có thể nói, đời sống âm nhạc Việt có một phần không
nhỏ dấu ấn của âm nhạc Nga, trong đó có ca khúc.
Ngƣời Việt Nam những năm khoảng nửa sau thế kỷ XX rất quen
thuộc với nhiều bài hát Nga. Âm nhạc Nga trữ tình, hồn hậu, giai điệu đẹp,
phù hợp với thẩm mỹ và tâm hồn của ngƣời Việt Nam. Ca khúc Nga mang
đến cho ngƣời nghe những cảm xúc chân thành, niềm tin yêu và tinh thần lạc
quan phơi phới. Chất nhân văn ấy đã khiến cho những giai điệu đẹp từ nƣớc
Nga vƣợt qua muôn trùng khoảng cách, đến với trái tim hàng triệu ngƣời yêu
nhạc Việt Nam dù đã hay chƣa một lần đặt chân tới nƣớc Nga. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, những bài hành khúc nhƣ Cachiusa, Bài ca thời thanh
niên sôi nổi, Cuộc sống ơi ta mến yêu người và cả những bài hát trữ tình nhƣ
Đôi bờ (A. Eshpai, thơ: G. Pozhenyan), Sibery nở hoa (V. Muradeli, thơ: E.
Iodkovsky), Cây thùy dương (E. Rodygin)… đã cùng hành quân trên đƣờng
Trƣờng Sơn, cùng ra trận với ngƣời chiến sĩ, là niềm vui tinh thần của ngƣời
dân Việt Nam nơi hậu phƣơng. Có lẽ, những năm 70, 80 của thế kỷ XX, hầu
22
nhƣ những ngƣời Việt Nam yêu âm nhạc ai cũng từng hát một bài hát Nga
nào đó. Trong các trƣờng học cấp 3 phổ thông, các trƣờng Đại học, học sinh
và sinh viên gần nhƣ ai cũng thuộc hay ít nhất thì cũng biết các bài hát Bài ca
thời thanh niên sôi nổi, Cachiusa, Cuộc sống ơi ta mến yêu người. Tiết tấu
hành khúc, tính chất tập thể dễ hát, dễ thuộc, giai điệu lôi cuốn của các ca
khúc đó đã hấp dẫn các bạn thanh niên. Trong những ngày hội trƣờng, hội
diễn, biểu diễn văn nghệ… các bài hát Nga có mặt trên sân khấu trở nên hết
sức thân thuộc.
Từ sau năm 1975 và đến nay, đầu thế kỷ XXI, chiến tranh đã qua đi,
mối quan hệ quốc tế của nƣớc ta đã vô cùng rộng mở, chúng ta không chỉ
quan hệ với các nƣớc XHCN mà còn với nhiều nƣớc khác trên thế giới. Nhạc
nhẹ đã vào Việt Nam, với sự mới mẻ, hấp dẫn của nó đã mở ra một thời đại
mới trong âm nhạc, nhất là trong đời sống ca khúc quần chúng. Tuy vậy, vẫn
có nhiều ngƣời thuộc làu và thích hát các bài hát Nga. Sức sống của các bài
nhƣ Chiều ngoại ô Moskova, Cây thùy dương, Syberi nở hoa, Đôi bờ, Đỉnh
núi Lê nin, Chiều h i c ng… dƣờng nhƣ bất diệt trong lòng ngƣời Việt. Các
bài hành khúc tạm thời lắng xuống, bù vào đó, các ca khúc trữ tình đƣợc
hƣởng ứng hơn, ngƣời ta hát thêm những bài nhƣ Tình ca du mục (B. Formin,
thơ: K. Podrevsky), Triệu bông hồng (R. Pauls, thơ: A. Voznesensky)…
Những giai điệu trữ tình của các bài hát đó đã làm rung động thế hệ trẻ hiện
nay, dù họ không sống trong thời kỳ trƣớc đó. Nhiều bài hát thiếu nhi của Nga
cũng đƣợc trẻ em Việt Nam yêu thích nhƣ Hãy để mặt trời chiếu sáng, Ở
trường cô dạy em thế, Nụ cười…, các bài hát này còn đƣợc lựa chọn vào
trong chƣơng trình dạy học âm nhạc ở Trung học cơ sở hiện nay.
1. . . Trong thanh nhạc
Trƣớc khi có âm nhạc mới, ca hát cổ truyền Việt Nam là những thể
loại nhƣ Ca trù, Chèo, Quan họ, Xoan, Ghẹo, Ví, Dặm… và những thể loại
Hò, Lý, Hát ru… của nhiều vùng nhiều dân tộc trải dài từ Bắc tới Nam. Lối
23
hát cổ truyền theo đặc trƣng của từng thể loại nhƣ Quan họ hát vang, rền,
nền, nảy; Chèo cũng gần tựa nhƣ Quan họ những khác đôi chút về cách
luyến láy, nảy, ngân rung; Ca trù hát ém hơi, đổ con kiến… nhƣng quy tụ lại
có một số điểm chung nhƣ hát tròn vành, rõ chữ, chủ yếu hát bạch thanh
(giọng tự nhiên).
Nền thanh nhạc mới Việt Nam đƣợc hình thành từ khi có nền âm
nhạc mới (âm nhạc tiếp thu lối sáng tác của châu Âu) vào khoảng những
năm 30 thế kỷ XX. hi có những sáng tác ca khúc theo kiểu châu Âu thì
thanh nhạc Việt Nam cũng học tập lối hát châu Âu.
Sau khi ra đời nền nhạc mới Việt Nam, bên cạnh ca hát cổ truyền,
chúng ta có thêm ca hát nhạc mới theo phong cách châu Âu. Lúc
đầu đội ngũ những ngƣời hát nhạc mới đƣợc đào tạo trong các
trƣờng học của Pháp hoặc là những ca sĩ ca hát trong các quán bar,
các phòng trà, tiệm nhảy [21, tr.133].
Trong cuốn Opera Việt Nam của Nguyễn Thị Tố Mai có nêu tên một
số nghệ sĩ hát nhạc mới đầu thế kỷ XX nhƣ nghệ sĩ nhân dân Mai hanh,
nghệ sĩ nhân dân Thƣơng Huyền là những ngƣời đã từng hát ở quán Thiên
Thai, quán Tân Nghệ Sĩ... 21, tr.133]. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp thì những ngƣời hát nhạc mới là những ngƣời đã từng ca hát trƣớc đó và
họ tham gia phục vụ kháng chiến. Họ là: những diễn viên của các đoàn nghệ
thuật kháng chiến hoặc là những ngƣời nổi lên trong các phong trào nghệ
thuật quần chúng. Dần dần, họ có kinh nghiệm trong ca hát, trở thành lực
lƣợng nòng cốt của nền thanh nhạc mới Việt Nam [21, tr.133]. Những ca sĩ
có tên tuổi thời kỳ đó và cả đến sau này có thể nói đến ngoài Thƣơng Huyền,
Mai hanh có thêm Quốc Hƣơng, hánh Vân...
Từ khi học tập lối hát châu Âu, các khái niệm về cộng minh, chuyển
giọng, thanh khu giọng đầu, giọng ngực, giọng pha, giọng chuyển… hát
24
legato (liền tiếng), staccato (nảy tiếng), passage (nhanh, nhiều nốt) là những
khái niệm mới mẻ và dần đƣợc ngƣời Việt Nam tiếp thu.
Kỹ thuật thanh nhạc châu Âu thực sự trở thành một lối hát và đƣợc
đƣa vào giảng dạy trong các trƣờng âm nhạc chuyên nghiệp của Việt Nam từ
sau năm 1954, nhất là sau khi trƣờng Âm nhạc Việt Nam đƣợc thành lập
năm 1956. Khoa Thanh nhạc trong các trƣờng này đào tạo ca hát nhạc mới
theo mô hình của châu Âu, có chƣơng trình, giáo trình, đội ngũ giáo viên là
những ca sĩ nổi danh từ những thời kỳ trƣớc Cách mạng hoặc là ngƣời đƣợc
đào tạo từ trong hoặc ngoài nƣớc và có các chuyên gia nƣớc ngoài nhƣ Nga,
Trung Quốc, Triều Tiên...
Về các bài hát Nga đƣợc đƣa vào chƣơng trình đào tạo thanh nhạc ở
Việt Nam ta thấy có một số nguồn nhƣ sau. Trƣớc hết, đó là do chiến lƣợc
phát triển âm nhạc của đất nƣớc. Nƣớc ta thời kỳ sau 1954 có sự bang giao
thân thiết với với các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Vì thế, ngoài các mối quan hệ
hợp tác về chính trị, quân sự, kinh tế thì giáo dục trong đó giáo dục âm nhạc
cũng có chiến lƣợc hợp tác với các nƣớc XHCN, mà sự hợp tác với Liên Xô
rất chặt chẽ. Từ đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc, các nhà quản lý, lãnh đạo
các trƣờng chuyên nghiệp có những chính sách trong vấn đề học tập tiếp thu
xây dựng chƣơng trình đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp dựa vào chƣơng
trình của các nƣớc bạn. Sự hợp tác đƣợc biểu hiện ở nhiều mặt trong đó đầu
tiên phải kể đến sự giúp đỡ của các chuyên gia thanh nhạc. Các chuyên gia
thanh nhạc sang Việt Nam tham gia giảng dạy, phổ biến các phƣơng pháp
thanh nhạc. Đi đôi với sự giúp đỡ của các chuyên gia nƣớc ngoài nhƣ Nga,
Trung Quốc, Triều Tiên... về phƣơng pháp dạy thanh nhạc thì nội dung
chƣơng trình đào tạo thanh nhạc cũng có sự tiếp thu của các nƣớc đó và kèm
theo là các giáo trình, sách dạy học thanh nhạc và các tác phẩm âm nhạc tiêu
25
biểu của các nƣớc bạn cũng đƣợc phổ biến, lƣu truyền sang Việt Nam. Đây là
nguồn chính để các bài hát Nga đƣa vào chƣơng trình đào tạo thanh nhạc ở
Việt Nam.
Một nguồn nữa để các bài hát Nga đƣợc đƣa vào chƣơng trình đào tạo
thanh nhạc ở Việt Nam là do các ca sĩ, giảng viên ngƣời Việt Nam đƣợc đi
đào tạo ở Nga. Do đƣợc hát, đƣợc tiếp xúc với nền âm nhạc Nga trong quá
trình học tập ở Nga, các ca sĩ, giảng viên Việt Nam nhận thấy những ƣu điểm,
những kỹ thuật quan trọng trong thanh nhạc phƣơng Tây có thể áp dụng phù
hợp với giọng hát của ngƣời Việt Nam để phát triển kỹ thuật thanh nhạc
chuyên nghiệp. Chính vì thế, họ đã mang những tác phẩm mà họ đƣợc học về
nƣớc để biểu diễn, để giảng dạy cho học sinh của mình.
Các bài hát Nga không chỉ có giai điệu đẹp, trữ tình, lôi cuốn, hấp dẫn
hay hào hùng, rực lửa, thôi thúc ý chí nghị lực kiên cƣờng mà ở đó còn tập
trung những kỹ thuật thanh nhạc phong phú nhƣ legato, staccato, marccato,
ngân dài, hát nhanh... có âm vực rộng với những quãng phức tạp để có thể
phát triển điêu luyện cho giọng hát cá nhân cũng nhƣ hòa bè hát tập thể. Đơn
cử dẫn chứng bài Chim họa mi của Solovyov Sedoi chúng ta thấy, để hát đƣợc
bài này phải có kỹ thuật thanh nhạc bel canto tốt, đặc biệt là kỹ thuật legato,
âm vực của bài rộng, có những quãng nhảy xa và nhiều tổ mô tiến đi xuống
liên tiếp đòi hỏi cách hát các âm khu trầm, trung, cao phải rất đều màu, giữ
chắc vị trí âm thanh… Ngoài ra, sắc thái trong bài cũng khá phong phú: p, f,
to dần, nhỏ dần… nên ngƣời hát phải có kỹ thuật xử lý tinh tế.
26
Vd số 2: Chim họa mi
Ở trên chúng tôi đã nêu, trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, nhiều
bài hát Nga đƣợc ngƣời Việt Nam yêu thích và hát trong đời sống hàng ngày.
Điều đó cũng là động lực, một sự đòi hỏi với các nghệ sĩ, ca sĩ luyện tập, học
hát các bài hát Nga để biểu diễn cho công chúng trong những ngày lễ, hội,
liên hoan, trong các cuộc giao lƣu, gặp gỡ...
Các bài hát Nga đƣợc dùng trong thanh nhạc về đại thể là những bài
đƣợc phổ biến trong đời sống xã hội Việt Nam mà chúng tôi đã đề cập ở trên
nhƣ Cây thùy dương, Chiều ngoại ô Moskova, Chiều h i c ng, Bài ca Tổ
quốc, Cuộc sống ơi ta mến yêu người, Bài ca thời thanh niên sôi nổi, Triệu
đóa hồng, Đôi bờ, Tình ca du mục, Khúc ca ban chiều, Nghệ sĩ với cây đàn...
thì còn có một số bài khác nữa. Đó là những bài trong chƣơng trình thanh
nhạc của Nhạc viện nhƣ aria, romance, ca khúc... của các nhạc sĩ nổi tiếng thế
giới nhƣ P.I. Tchaikovsky, M.I. Glinka...
27
Ca khúc Nga không chỉ đƣợc sử dụng để dạy học trong Nhạc viện mà
còn ở nhiều cơ sở đào tạo âm nhạc của các trƣờng nghệ thuật và cả ở các
trƣờng sƣ phạm âm nhạc, trong môn Thanh nhạc và cả một số môn khác nhƣ
Xƣớng âm, Hợp xƣớng, Phân tích tác phẩm...
Tóm lại, ca khúc Nga có một vị trí khá đáng kể trong đời sống âm
nhạc Việt Nam, đặc biệt là ở những năm nửa sau thế kỷ XX. Ca khúc Nga
đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình dạy học âm nhạc nói chung và thanh nhạc
nói riêng và có những hiệu quả tích cực cho chƣơng trình giáo dục âm nhạc
mang tính hội nhập.
1.3. Thực trạng dạy học Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội
1.3.1. hái quát về Nh trường
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị - Bộ
Quốc phòng Việt Nam, nơi chuyên đào tạo các nghệ sĩ biểu diễn, nhạc sĩ sáng
tác, biên đạo múa, quản lý văn hóa… cho Bộ Quốc phòng. Đào tạo cho Quân
đội là nhiệm vụ chính của Trƣờng, song gần đây, trong xu thế phát triển mở
rộng, Trƣờng còn đảm nhiệm thêm đào tạo cho dân sự, các học viên của
Trƣờng sau khi tốt nghiệp không chỉ phục vụ trong Quân đội mà còn có thể
phục vụ ngoài Quân đội, cho các đơn vị dân sự. Tuy nhiên, đây không phải là
nhiệm vụ chính.
Tính đến năm 2017, Trƣờng Đại học VHNT Quân đội đã có chặng
đƣờng phát triển trên 60 năm. Dựa vào cuốn sách Trường Đại học VHNTQuân
đội - 60 năm xây dựng và trưởng thành (1955-2015) xuất bản năm 2015, chúng
tôi xin đƣợc tóm tắt lại quá trình phát triển của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội
nhƣ sau:
Ngày 23/9/1955, Chủ nhiệm tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân
Việt Nam quyết định tổ chức các lớp tập huấn - đào tạo chuyên ngành nghệ
28
thuật, đặt nền móng cho sự hình thành, phát triển của Trƣờng Nghệ thuật
Quân đội - nay là Trƣờng Đại học VHNT Quân đội 37, tr.5]. Nhƣ vậy, năm
1955 là năm đánh dấu cho sự ra đời của Trƣờng với nhiệm vụ đào tạo cán bộ,
diễn viên đáp ứng yêu cầu của các đoàn văn công, các đội xung kích nghệ
thuật trực tiếp phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Từ năm 1955
đến 1984, Trƣờng đào tạo ở hai hình thức: tập trung và mở các lớp bồi dƣỡng
ngắn hạn tại các cơ sở, các đoàn văn công Quân đội của địa phƣơng.
Đến năm 1984, Trƣờng đƣợc ra Quyết định là Trƣờng Trung cấp Nghệ
thuật Quân đội. Năm 1995, Trƣờng Trung cấp VHNT Quân đội hợp nhất với
Trƣờng Quân nhạc Quân khu Thủ đô thành Trƣờng Cao đẳng VHNT Quân
đội. Trƣớc yêu cầu phát triển sự nghiệp VHNTcủa Quân đội ngày càng nâng
cao hơn, ngày 3/1/2006, Phó thủ tƣớng Phạm Gia hiêm ký quyết định
thành lập Trƣờng Đại học VHNT Quân đội trên cơ sở Trƣờng VHNT Nghệ
thuật quân đội 37, tr.112].
Hiện nay, Trƣờng Đại học VHNTQuân đội có 12 khoa, 5 phòng chức
năng, 8 tiểu đoàn quản lý học viên, sinh viên và các ban trực thuộc. Giảng dạy
các môn chung có các khoa: Quân sự - Thể chất, Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Văn hóa cơ bản. Đào tạo các chuyên ngành VHNTcó 09 khoa là: Thanh
nhạc, Âm nhạc, Nghệ thuật dân tộc và miền núi, Quân nhạc, Múa, Sƣ phạm
Nhạc - Họa, Sân khấu - Điện ảnh, Viết văn, Kiến thức Nghệ thuật cơ bản,
Quản lý Văn hóa.
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội đào tạo ở ba bậc học là Đại học, Cao
đẳng và Trung cấp với các ngành: Sáng tác âm nhạc, Chỉ huy âm nhạc, Thanh
nhạc, Biểu diễn nhạc cụ phƣơng Tây, Biểu diễn nhạc cụ truyền thống, Biên
đạo múa, Huấn luyện múa, Đạo diễn sân khấu, Diễn viên kịch - điện ảnh,
Diễn viên sân khấu kịch hát, Quay phim, Đạo diễn điện ảnh truyền hình, Sƣ
29
phạm âm nhạc - Mỹ thuật, Khoa học thƣ viện, Bảo tàng học, Quản lý văn hóa,
Sáng tác văn học, Báo chí.
Hình thức đào tạo của Trƣờng cũng khá đa dạng: chính quy tập trung;
tại chức; liên thông từ trung cấp, cao đẳng lên đại học; bồi dƣỡng tập huấn
nghệ thuật cho các đoàn văn công quân đội trong nƣớc và cho một số nƣớc
bạn nhƣ Quân đội nhân dân Lào, Quân đội Hoàng gia Campuchia…
Trải qua trên 60 năm xây dựng và phát triển, Trƣờng Đại học VHNT
Quân đội đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, khẳng định đƣợc vị thế của một
Trung tâm phát triển những tài năng nghệ thuật của Quân đội và xã hội, đào
tạo đƣợc nhiều thế hệ chiến sĩ - nghệ sĩ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng đời sống văn hóa của Quân đội cũng nhƣ toàn xã hội. Nhiều thế hệ
nghệ sĩ, nhạc sĩ, quản lý văn hóa… đã trƣởng thành từ đây. Tên tuổi của
những ngƣời đã từng làm việc hay đƣợc đào tạo tại Trƣờng Đại học VHNT
Quân đội đƣợc nhiều ngƣời trong giới âm nhạc biết đến nhƣ: các bậc lão
thành Trần Chất, Tạ Đôn, Hồ Mộ La, Lƣơng Ngọc Trác, Lê Quang Hƣng,
Tƣờng Vi, Ngọc Dậu, Quốc Hƣơng, Thanh Huyền, Tân Nhân, Linh Nhâm...
Tiếp đến là thế hệ của An Thuyên, Lê Dung, Dƣơng Minh Đức, Ma Bích
Việt, Đức Trịnh, Xuân Thủy… và giờ đây là lớp trẻ hơn nhƣ Hồ Trọng Tuấn,
Mai iên, Hồ Quỳnh Hƣơng, asim Hoàng Vũ…
Trong những năm tháng chiến tranh, những ngƣời chiến sĩ - nghệ sĩ
đƣợc đào tạo tại nhà trƣờng đã góp công lao qua lời ca, tiếng hát, điệu múa
nơi chiến trƣờng khốc liệt, giúp bộ đội thêm vững vàng thêm tinh thần chiến
đấu. Ngày nay, trong hòa bình, khi đa số ngƣời dân đƣợc an lành làm việc,
vui chơi thì những ngƣời chiến sĩ - nghệ sĩ đƣợc đào tạo từ mái trƣờng này
sẵn sàng đi tới những vùng hải đảo xa xôi, vùng biên cƣơng… để động viên
tinh thần ngƣời lính đang ngày đêm canh giữ đất trời của Tổ quốc.
30
1.3.2. Khoa Thanh nhạc
Đƣợc thành lập từ những ngày đầu tiên (cùng với thành lập Trƣờng
năm 1955), với hơn 60 năm trƣởng thành. Khoa Thanh nhạc tự hào là Khoa
có truyền thống và đi đầu trong đào tạo của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội
mà những thế hệ giảng viên nhƣ Hồ Mộ La, Dƣơng Minh Đức, Rơchăm
Phiang, Ma Bích Việt, im Phúc, Hà Thủy… đã có nhiều công lao vun đắp.
hông chỉ có thành tựu trong đào tạo mà cả trong biểu diễn, Khoa
Thanh nhạc cũng đạt đƣợc những thành tích xuất sắc. Nhiều ca sĩ, nghệ sĩ
hàng đầu của Quân đội và toàn quốc, đoạt các giải cao trong các cuộc thi nghệ
thuật chuyên nghiệp trong nƣớc và quốc tế, đã mang vinh dự về cho Khoa
Thanh nhạc nói riêng và nhà trƣờng nói chung. Trong đó, có sự góp phần của
chính các giảng viên hoa Thanh nhạc nhƣ: Rơchăm Phiang đoạt giải nhất thi
âm nhạc quốc tế tại Bình Nhƣỡng năm 1990, giải nhất thi âm nhạc cổ điển
Asian, năm 1996; Ngô Hƣơng Diệu đoạt giải nhất thính phòng - Festival quốc
tế tại Romania năm 2014; Lê Xuân Hảo giải nhất dòng thính phòng Sao Mai
2009; Lê Huy Hoàng giải ba dòng thính phòng toàn quốc 2003; Nguyễn Thị
Hồng Hạnh giải khuyến khích dòng thính phòng toàn quốc 1996…
Nhà trƣờng luôn tạo điều kiện tốt cho các giảng viên của Khoa về cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học, có sân khấu để giảng viên hƣớng dẫn học
viên tập luyện; tạo điều kiện để giảng viên học tập nâng cao trình độ tại các
cơ sở uy tín cả ở trong và ngoài nƣớc.
Hiện nay, Khoa Thanh nhạc có 19 giảng viên, trong đó có 17 giảng
viên trong biên chế và 02 giảng viên diện hợp đồng bảo hiểm. hoa có 3 Tổ
bộ môn: Bộ môn hát cổ điển, Hát nhạc nhẹ và Hát dân gian. Tất cả đều tốt
nghiệp Đại học trở lên, trong đó có 01 giảng viên là Tiến sĩ, 09 giảng có trình
độ Thạc sĩ, nhiều giảng viên hiện đang theo học Sau đại học tại các cơ sở đào
tạo chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam. Bên cạnh đó còn có 06 giảng viên
đƣợc phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ƣu tú.
31
Hầu hết các giảng viên tại Khoa Thanh nhạc đều đƣợc đào tạo ở nƣớc
ngoài và tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, nên có thể đáp ứng tốt
nhiệm vụ giảng dạy trong công việc đào tạo các nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên thanh
nhạc cho Trƣờng. Ngoài ra, hàng năm hoa còn mời nhiều cộng tác viên có
uy tín và trình độ cao nhƣ: GS.NSND Nguyễn Trung iên, NSND Quang
Thọ, NSƢT Quang Huy, NSƢT Mạnh Tuấn, NSƢT Thanh Vinh, ca sĩ Hồ
Quỳnh Hƣơng… Các giảng viên của nhà trƣờng có trình độ chuyên môn tốt
đã về hƣu cũng đƣợc mời tham gia giảng dạy nhƣ trƣớc đây có NGƢT Hồ Mộ
La, hiện nay là NSƢT Minh Đức, NSƢT Ma Bích Việt, NSƢT im Phúc…
Hiện nay, để chuyên môn hóa sâu trong đào tạo thanh nhạc, nên hoa
Thanh nhạc đã phân chia thành ba Tổ bộ môn giảng dạy theo ba dòng: Cổ
điển thính phòng, Dân gian và Nhạc nhẹ, song đội ngũ giảng viên đáp ứng
cho ba dòng này chƣa thực sự đồng đều. Đội ngũ giảng dạy Cổ điển thính
phòng vẫn là mạnh nhất, có bề dày cả về tuổi đời và tuổi nghề nên nhiều kinh
nghiệm. Còn hai tổ Dân gian và Nhạc nhẹ chủ yếu là các giảng viên trẻ cả
tuổi đời và tuổi nghề, nên chƣa theo kịp Tổ Cổ điển thính phòng.
1.3.3. Đặc điểm khả năng thanh nhạc của học viên giọng nam trung hệ
Trung cấp
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội tuyển sinh hệ Trung cấp Thanh
nhạc, chủ yếu là học sinh phổ thông và có cả trình độ văn hóa hết cấp
THCS (số này nếu trúng tuyển sẽ tiếp tục học văn hóa cho hết phổ thông).
Đối tƣợng thi tuyển thƣờng là nữ có độ tuổi từ 16 đến 22, nam từ 17 đến
23. Đây là lứa tuổi có bộ máy phát âm đã đáp ứng đƣợc việc học thanh
nhạc với những kỹ thuật phức tạp, giọng nam đã ổn định và giọng nữ phù
hợp với giai đoạn chuyển giọng. Về thể lực của lứa tuổi này đã phát triển
tƣơng đối hoàn thiện, sung sức nhất trong các giai đoạn của đời ngƣời nên
hoàn toàn thuận lợi cho việc học thanh nhạc.
32
Nội dung thi tuyển hệ Trung cấp Thanh nhạc gồm các môn: Hát và
Năng khiếu (thẩm âm - tiết tấu). Tiêu chí tuyển sinh đặt giọng hát là hàng đầu
để sau này ra trƣờng, học viên chủ yếu trở thành diễn viên ca hát chuyên
nghiệp phục vụ quân đội, nên việc tuyển chọn rất khắt khe, đòi hỏi các em
phải có giọng hát và có khả năng phát triển giọng hát. Ngoài ra, còn phải có
hình thể và sức khỏe để phù hợp với công việc biểu diễn và phục vụ quân đội
sau này. Trong số học viên trúng tuyển đa số là có chất giọng bẩm sinh chƣa
qua đào luyện, song có một số em đã đƣợc đào tạo âm nhạc ở các trƣờng Trung
cấp VHNT ở các địa phƣơng, một số chiến sĩ đi học đã từng hoạt động qua các
phong trào nghệ thuật quần chúng và cả những em đã đƣợc trải qua các kỳ thi
giọng hát hay. Những em này đã đƣợc rèn luyện ít nhiều về thanh nhạc, nên rất
thuận lợi để tiếp tục học chƣơng trình Thanh nhạc Trung cấp trong nhà trƣờng
cả về kỹ thuật cũng nhƣ biểu diễn. Đặc biệt với các em học nhạc nhẹ, sân khấu
thực tế rèn luyện các em trở nên dạn dĩ, tự tin hơn so với những em mới vào
nghề. Tuy vậy, đó cũng có thể là điểm yếu với em nào bị nhƣợc điểm mà trở
thành cố tật, khó sửa chữa thì khó khăn cho giáo viên dạy.
Nhìn chung, đa số học viên Thanh nhạc hệ Trung cấp đƣợc tuyển vào
có giọng bẩm sinh tốt, đáp ứng đƣợc mục đích đào tạo để trở thành diễn viên
chuyên nghiệp. Một số em có chất giọng xuất sắc, có thể đạt đƣợc giải cao
trong các kỳ thi chuyên nghiệp sau khi đƣợc rèn luyện học tập. Cá biệt, có một
số em đã doạt đƣợc giải cao trong các kỳ thi giọng hát hay trƣớc khi vào
trƣờng, nhất là chất giọng nhạc nhẹ. Những em này vào học nếu phát triển có
thể trở thành ca sĩ xuất sắc.
Học viên học thanh nhạc đến từ mọi miền trên khắp đất nƣớc, có trình
độ văn hóa khác nhau, có em đã ở trong quân ngũ, có em ngoài dân sự, có em
chƣa học thanh nhạc và nhƣ trên đã nêu là một số em đã học thanh nhạc và có
những em đã đoạt giải của các kỳ thi giọng hát hay. Vì vậy, năng lực có sự
33
không đồng đều. Trình độ nhận thức cũng khá chênh lệch, các em ở thành phố
thì năng động hơn các em ở vùng sâu vùng xa, nhất là về năng lực sân khấu.
Các học viên là quân nhân đã qua luyện tập trong quân đội thì có kỷ luật tốt
trong môi trƣờng quân đội, còn những em chƣa qua quân ngũ thƣờng ở giai
đoạn đầu rất khó khăn trong rèn luyện kỷ luật quân đội, có em không chịu nổi
bỏ ngang giữa chừng.
Các học viên Thanh nhạc đa số có chất giọng nữ cao và nam cao. Điều
này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm cấu tạo cơ thể của ngƣời Việt Nam mà
chúng tôi đã phân tích ở trên. Số học viên giọng nam trung cũng có, nhƣng
không nhiều. Một khóa Trƣờng Đại học VHNT Quân đội thƣờng tuyển vào
khoảng 30 học viên Trung cấp, thì trong số đó có khoảng 5 đến 7 em là giọng
nam trung. Nhìn chung, chất giọng của học viên nam trung khá đẹp, ấm và
tròn, độ dày và vang có thể không đƣợc nhƣ chất giọng châu Âu. Về tầm cữ giọng có thể đạt đƣợc theo chuẩn quốc tế, nghĩa là ở trong tầm A-g1.Tuy vậy,
các em có xu hƣớng xuống đƣợc thấp hơn nốt A có thể đến G nhƣng lên cao đến g1 thì âm sắc không còn đẹp, thƣờng là lên nốt e1 thì đẹp nhất, nốt f1 phải luyện một thời gian mới đạt khá tốt, còn nốt g1 thì âm sắc có thể bị chói, một vài em chỉ lên đƣợc cao nhất là f1 hoặc e1.
1.3.4. Nội dung chương trình môn Thanh nhạc hệ Trung cấp
Chƣơng trình thanh nhạc hệ Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại
học VHNT Quân đội đƣợc thực hiện trong 4 năm, 8 học kỳ, thời lƣợng 256
tiết, phƣơng thức học cá nhân (một thầy, một trò): 02 tiết/tuần/01 HV/01 GV).
Nội dung của chƣơng trình nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo ngành
Trung cấp Thanh nhạc của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội, đó là đào tạo
những chiến sĩ - nghệ sĩ chuyên nghiệp có khả năng biểu diễn thanh nhạc để
phục vụ cho Quân đội nhân dân Việt Nam, cho sự nghiệp quốc phòng và văn
hóa của đất nƣớc.
34
- Năm thứ nhất
Nội dung của chƣơng trình năm thứ nhất nhằm giúp học viên đạt tới
những kiến thức cơ bản nhƣ: khái niệm về tƣ thế, hơi thở, các khoảng vang,
cách phát âm... Bƣớc đầu giải phóng đƣợc hình thể, các cơ trên mặt, cằm,
hàm, thanh quản… khi hát. Làm quen, rèn luyện cách phát âm chuẩn nguyên
âm tiếng việt: a, o, e , i, u.
Chƣơng trình năm thứ nhất yêu cầu thực hiện đƣợc ít nhất là 10 bài:
Kỳ I gồm có 5 bài: 2 bài vocalise, 1 bài dân ca, 1 tác phẩm nƣớc
ngoài, 1 tác phẩm Việt Nam.
Kỳ 2 gồm có 5 bài: 2 bài vocalise, 1 romance, 1 bài hát Việt Nam và 1
tác phẩm (tùy chọn).
- Năm thứ hai
Nội dung chƣơng trình năm thứ hai nhằm đạt tới để học viên tiếp tục
phát triển kỹ thuật cơ bản từ năm thứ nhất (legato, staccato) và thêm một số
kỹ thuật nhƣ luyến, to-nhỏ..., luyện tập đều các âm khu, thống nhất vị trí âm
thanh, mở rộng âm vực của giọng, biết bật âm thanh chính xác, vận dụng
đƣợc kỹ thuật hát vào xử lý tác phẩm.
Chƣơng trình nămthứ hai cũng gồm có 10 bài nhƣ năm thứ nhất: 4 bài
vocalise, 2 bài dân ca, 2 romance, 2 ca khúc Việt Nam (mỗi loại đƣợc chia
đều cho 2 kỳ).
- Năm thứ ba
Nội dung chƣơng trình năm thứ hai nhằm đạt tới để học viên tiếp tục
rèn luyện phát triển kỹ thuật cơ bản từ các năm thứ nhất và thứ hai (legato,
staccato…) và thêm những kỹ thuật khó hơn nhƣ passage (hát nhanh), mở
rộng âm vực, phát triển sự linh hoạt của giọng, phát triển khả năng thể hiện,
biểu cảm tác phẩm… nghệ thuật để học viên có khả năng hát những tác phẩm
khó hơn nhƣ aria, các đoạn trích nhỏ trong nhạc kịch, các bài có kỹ thuật
tƣơng đối phức tạp…; có kỹ năng thực hành biểu diễn trên sân khấu.
35
Nội dung chƣơng trình môn Thanh nhạc của nămthứ ba gồm 12 bài: 4
bài vocalise, 2 aria, 2 romance, 3 ca khúc Việt nam, 1 tác phẩm biểu diễn thực
hành với sân khấu (tùy chọn theo phong cách âm nhạc).
- Năm thứ tư
Chƣơng trình năm thứ tƣ là sự tiếp tục rèn luyện những kỹ năng của
năm thứ ba nhƣng ở mức độ khó hơn: rèn luyện thống nhất âm thanh trong
toàn bộ âm vực của giọng hát, khả năng biểu hiện nghệ thuật, kỹ năng thực
hành biểu diễn trên sân khấu. Phần tác phẩm ở mức độ khó hơn các năm trƣớc
nhƣ aria, trích đoạn trong nhạc kịch, các bài có kỹ thuật phức tạp…
Học viên giỏi có thể chọn những tác phẩm cao hơn quy định của
chƣơng trình.
Năm học thứ 4 gồm 12 bài: 2 bài luyện thanh, 2 aria, 3 romance, 3 ca
khúc Việt nam, 2 tác phẩm thực hành biểu diễn tự chọn hát với ban nhạc.
Chƣơng trình thi tốt nghiệp gồm 2 phần: Phần 1 là kỹ thuật cơ bản
gồm 1 aria, 2 romance, 2 ca khúc Việt Nam, phần 2 là thực hành biểu diễn
một tác phẩm tự chọn hát với ban nhạc.
Qua nội dung chƣơng trình của hệ Trung cấp của Trƣờng Đại học
VHNT Quân đội cho thấy: chƣơng trình học mang tính chuyên nghiệp rõ nét,
có sự xâu chuỗi liên tục từ năm thứ nhất đến năm cuối, có yêu cầu bắt buộc
mức tối thiểu, có sự phân hóa cho học viên giỏi, khá và trung bình… Thời
gian học là 2 tiết/tuần đối với mỗi HV thì ngƣời học hoàn toàn có thể tiếp thu
đƣợc lƣợng kiến thức của môn học. Số lƣợng bài của các năm là tƣơng đối
nhiều, nên HV sẽ có điều kiện đƣợc tập luyện ở nhiều thể loại và phong cách
âm nhạc khác nhau. Ở năm thứ 3 và thứ 4, các HV bắt buộc phải hát aria, vì
vậy, các em có nhiều cơ hội hơn trong việc phát triển và thể hiện giọng hát
của mình.
36
Tuy vậy, chƣơng trình chƣa thấy rõ sự phân loại cho các giọng hát:
cao, trung, trầm. Đặc biệt, Trƣờng Đại học VHNT Quân đội đang giảng dạy
theo 3 dòng Cổ điển thính phòng, Dân gian, Nhạc nhẹ nhƣng chƣơng trình
viết chung nhƣ vậy sẽ có những hạn chế nhất định. Chƣơng trình này phù hợp
nhất cho các giọng hát thuộc dòng thính phòng, còn các dòng khác phải tự
điều chỉnh cho phù hợp trong khâu chọn bài.
Về các bài hát Nga đƣợc lựa chọn vào chƣơng trình chủ yếu là do
giảng viên thấy phù hợp với giọng của học viên. Nhiều giảng viên chọn các
bài hát Nga cho giọng nữ cao, nam cao và nam trung, trong số đó có ca khúc,
aria, romance trong nhạc kịch của M.I. Glinka. P.I. Tchaikovsky; một số ca
khúc nổi tiếng nhƣ Chiều h i c ng, Chim họa mi, Chiều Moscova, Đỉnh núi
Lênin, Khúc ca ban chiều… Tuy nhiên, Tổ bộ môn trong khoa Thanh nhạc
chƣa đƣa ra nhiều bài để giảng viên có thể lựa chọn, nhất là các bài cho nam
trung còn khá ít ỏi, nghèo nàn.
1.3.5. Thực trạng dạy v học Thanh nhạc cho giọng nam trung
1.3.5.1. Thực trạng dạy của gi ng viên
GV Khoa Thanh nhạc của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội là những
ngƣời có năng lực chuyên môn tốt và có nhiều thành công trong giảng dạy.
Chỉ cần dẫn ra những kết quả các thế hệ diễn viên, nghệ sĩ mà họ đã đào tạo
trong nhiều năm qua và những năm gần đây đủ để nói lên điều đó. Tên tuổi
của những ca sĩ nổi tiếng trƣớc đây hầu nhƣ đƣợc cả nƣớc biết đến nhƣ Quang
Hƣng, Tƣờng Vi, Ngọc Dậu, Quốc Hƣơng, Thanh Huyền, Tân Nhân, Linh
Nhâm… đều trƣởng thành từ mái trƣờng này. Và thế hệ sau này có một số ca
sĩ đƣợc rất nhiều bạn trẻ yêu mến trên khắp cả nƣớc nhƣ Hồ Quỳnh Hƣơng,
asim Hoàng Vũ, Thái Thùy Linh, hánh Linh, Xuân Hảo, Nguyễn Ngọc
Anh… cũng là những ngƣời học tập tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội.
Trong số đó, nhiều ca sĩ đạt giải Sao Mai, huy chƣơng vàng toàn quân, Sao
37
Mai điểm hẹn, Việt Nam Idol...
Ngay trong những năm gần đây có một số ca sĩ là học sinh, sinh viên
của Khoa Thanh nhạc đã mang lại cho trƣờng trong các cuộc thi Toàn quốc
nhƣ: Hoàng Hồng Ngọc giải nhất dòng nhạc nhẹ Sao Mai (2015). Trần Thị
Bích Ngọc giải nhì dòng nhạc thính phòng Sao Mai (2015), giải nhất tiếng hát
Việt Trung (2016). Nguyễn Thị Hồng Duyên giải nhì dòng nhạc dân gian Sao
Mai (2015)…
GV Thanh nhạc luôn có ý thức trong việc nâng cao trình độ chuyên
môn và tìm ra các phƣơng pháp nhằm khai thác và phát triển tối đa khả năng
thanh nhạc của HV. Dƣờng nhƣ các cuộc thi lớn toàn quốc mặc dù không
thành văn, nhƣng trở thành thƣớc đo chất lƣợng đào tạo của Nhà trƣờng nói
chung, hoa nói riêng và khẳng định trình độ chuyên môn cũng nhƣ phƣơng
pháp, thậm chí là thƣơng hiệu của ngƣời thầy. Vì thế, ngƣời thầy luôn phải
trăn trở, suy nghĩ, tìn ra những phƣơng pháp tốt nhất để học viên của mình
tiến bộ. Nếu HV không tiến bộ, không làm đƣợc nghề, chính bản thân ngƣời
GV cũng khó thể tồn tại đƣợc trong nghề của mình.
Bên cạnh việc trau dồi kiến thức chuyên môn tốt, tìm tòi phƣơng pháp
dạy học thanh nhạc phù hợp, GV còn phải là nhà sƣ phạm nhà tâm lý biết
khích lệ tinh thần học tập, biết phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo, dấu ấn
cá nhân của HV, bởi trong lĩnh vực biểu diễn không sáng tạo, không có bản
sắc thì không thể thành công, chỉ là cái bóng của ngƣời khác. Việc khích lệ
HV rất quan trọng, phải làm sao tạo cho HV có lửa nhiệt tình, lửa sáng tạo và
mong muốn cống hiến, tìm tòi. Thực tế, có những GV đã làm HV cảm thấy
thất vọng, chán nản vì cách dùng từ, cách khen chê nhận xét khiến HV hoặc là
quá tự tin vào bản thân dẫn đến không tiến bộ do GV đề cao quá học trò của
mình, hoặc HV cảm thấy chán nản do GV chê nhiều làm HV mất tự tin. Dạy
Thanh nhạc nhiều khi giữa ngƣời thầy với trò không thể lạng lùng xa cách,
38
đạo mạo nhƣ nhiều môn học khác. Nhiều khi, những tâm sự, tình cảm của
ngƣời học ảnh hƣởng lớn đến việc thể hiện bài trong biểu diễn. Lúc đó, ngƣời
thầy có khi còn nhƣ một ngƣời cha hay ngƣời mẹ, nâng bƣớc cho ngƣời học
trò hay có thể nói là ngƣời con của mình, trong cách thể hiện tác phẩm cũng
trao đổi hết sức cởi mở, không e dè và HV có thể đƣa ý kiến một cách thoải
mái không sợ thầy phật ý.
Qua trao đổi kinh nghiệm ở Tổ bộ môn và dự giờ, chúng tôi thấy trong
các giờ dạy thanh nhạc, GV thƣờng tuân theo quy trình luyện thanh, luyện bài
vocalise (nếu có) và sau đó vào hát tác phẩm. GV thƣờng cho luyện thanh rất
kỹ với nhiều dạng mẫu âm, với các kỹ thuật tƣơng ứng với tác phẩm nhƣ:
legato, non legato, staccato… Đến những năm thứ ba, thứ tƣ hệ Trung cấp thì
luyện hát nhanh, xử lý ngân dài… GV rất chú ý đến xử lý hơi thở, vị trí âm
thanh, cộng minh và đặc biệt là kỹ thuật làm đều màu âm giữa các thanh khu,
âm khu với giọng nữ và đóng tiếng khi lên cao với giọng nam.
hi vào luyện tác phẩm, GV cũng không chỉ chú ý đến làm sao cho
âm thanh đúng kỹ thuật, mà còn rất chú ý âm thanh phải đẹp, phải tình ,
đúng tính chất, sắc thái tình cảm của bài hát. Đó mới là cái đích của việc dạy
thanh nhạc.
Đối với giọng nam trung, chúng tôi thấy, các GV ngoài chú ý kỹ thuật
đóng tiếng thì còn quan tâm đến mở rộng âm vực cho học viên. Nhiều học
viên có màu giọng nam trung đẹp, nhƣng âm vực có khi lại bị hạn chế nhất là
thể hiện những nốt cao, vì thế vấn đề mở rộng âm vực là thiết yếu. Có những
em khi hát ở âm khu tự nhiên giọng rất đẹp, nhƣng khi lên cao buộc phải
chuyển sang giọng đầu thì âm sắc khác hẳn, bé hẳn đi hoặc có một màu khác
với giọng tự nhiên thì phải luyện tập rất nhiều để đều màu giọng. Hoặc có
những em hát lên đƣợc cao nhƣng bị vỡ tiếng, chói tiếng do kỹ thuật đóng
giọng không tốt. Những vấn đề này rất cần phƣơng pháp giỏi của ngƣời thầy.
39
Trong việc dạy các bài hát Nga, chúng tôi thấy GV chọn lựa bài hợp
giọng cho HV. Các bài hát Nga cho giọng nam trung thƣờng trữ tình và chủ
yếu hát ở các năm thứ nhất, thứ hai với kỹ thuật không quá khó, nên cả thầy
và trò đều không khó khăn khi dạy và học. HV tiếp thu tốt các bài hát Nga và
học đƣợc những kỹ thuật cơ bản từ những bài hát này nhƣ legato, non legato,
ngân dài, xử lý to, nhỏ… Tuy nhiên, chủ yếu chỉ hát bằng lời dịch ra tiếng
Việt mà ít khi hát tiếng Nga vì HV không học tiếng Nga.
Bên cạnh những ƣu điểm thì GV thanh nhạc còn một số những hạn
chế trong dạy học nhƣ:
- Tính nghệ sĩ cao và cái tôi lớn của GV nhiều khi dẫn đến bảo thủ
trong phƣơng pháp, có GV nhất nhất buộc HV nghe theo mình trong thể hiện
một tác phẩm hay thực hiện một kỹ thuật nào đó.
- Một số GV thị phạm hơi nhiều, quan điểm của họ là phải thị phạm
để HV nắm đƣợc, trong khi lẽ ra cần gợi mở trƣớc, gợi mở để HV tự hiểu ra
đến khi nào HV không thể tự làm hãy thị phạm. Điều đó dẫn đến HV bị thụ
động, có thể trở thành cái bóng của ngƣời thầy.
- Một số trƣờng hợp GV khó khăn trong việc tìm ra phƣơng pháp phát
triển giọng cho HV, số này thƣờng rơi vào lớp GV trẻ do ít kinh nghiệm, dẫn
đến HV có thể chán nản và xin đổi thầy dạy.
- Trong sử dụng phƣơng pháp dùng lời, một số GV dùng từ hoặc khó
hiểu, hoặc dài dòng làm HV khó hình dung nhất là trong vấn đề cộng minh và
vị trí âm thanh.
- GV cũng ít khi dùng băng đĩa ghi hình cùng xem với HV để trao đổi
cách biểu diễn, cách hát của các ca sĩ khác và của chính HV của mình, để rút
ra bài học, phần lớn chỉ thực hiện điều này khi có các kỳ đi thi biểu diễn.
Trong đá bóng, các huấn luyện viên thƣờng xem băng ghi hình các trận đấu
rất kỹ để phân tích cùng các cầu thủ, thì trong dạy biểu diễn thanh nhạc cũng
vậy, rất cần làm điều này.
40
- Một điều quan trọng nữa là GV chƣa quan tâm lắm đến vấn đề yêu
cầu HV phân tích tác phẩm thanh nhạc, hiểu tác phẩm, nhất là những tiết mục
nhƣ aria trong nhạc kịch mà mình hát, với các bài hát Nga cũng nhƣ vậy. Đa
số cả HV lẫn thầy/cô dạy vẫn nghe tác phẩm và cảm nhận một cách cảm tính
là chính. Điều này cũng còn phụ thuộc vào kiến thức âm nhạc của các thầy/cô.
Thầy/cô nào chịu khó tìm hiểu về nội dung, phong cách của tác phẩm, thậm
chí là nắm bắt chuẩn về cấu trúc, câu nhạc, tiết nhạc thì dựng bài cho HV
thƣờng sâu sắc hơn và cũng hấp dẫn ngƣời học hơn.
1.3.5.2. Tình hình học tập của học viên
Học viên hệ Trung cấp Thanh nhạc Trƣờng Đại học VHNT Quân đội
khi đã xác định theo nghề diễn viên hát thì họ hiểu tƣơng lai của họ là gì, trở
thành ngƣời ca sĩ thì giọng hát phải nổi bật, phải có dấu ấn với ngƣời nghe thì
sự nghiệp mới có thể phát triển và tồn tại. Đặc biệt hơn, HV thanh nhạc học
tập trong môi trƣờng quân đội để trở thành ngƣời chiến sĩ - nghệ sĩ. Bộ Quốc
phòng và Trƣờng Đại học VHNT Quân đội đặt chữ chiến sĩ trƣớc chữ nghệ sĩ
để nhấn mạnh nhiệm vụ của HV trƣớc tiên là trở thành ngƣời chiến sĩ rồi mới
thành ngƣời nghệ sĩ. Vì thế, vấn đề rèn luyện kỷ luật học tập cũng nhƣ rèn
luyện để trở thành ngƣời chiến sĩ luôn đƣợc chú trọng. Hàng năm, cả GV và
HV đều có những tháng tập luyện để có thể đạt đƣợc nhiệm vụ khi đi chiến
trƣờng, thậm chí là đi tuyến lửa, vào cuộc chiến đấu. Điều đó đã hình thành ở
HV ý thức học tập, rèn luyện nghiêm túc.
Từ những yếu tố nhƣ phân tích ở trên cho thấy đó là hai trong số
những nguyên nhân thúc đẩy HV thanh nhạc ham mê với nghề, đa phần HV
đều chăm chỉ học, chịu khó cả trên lớp cũng nhƣ trong thực tiễn biểu diễn.
Sau khi kết thúc khóa học, phần lớn HV đều đáp ứng đƣợc mục tiêu đào tạo
chuyên ngành Thanh nhạc, có giọng hát hay, có thể biểu diễn đƣợc và một số
còn có sự nghiệp nổi bật nhƣ đã dẫn chứng ở trên.
41
hông chỉ rèn luyện ở trên lớp, HV Thanh nhạc nói chung và giọng
nam trung nói riêng đều say mê tham gia biểu diễn trong thực tế. Điều đó
giúp họ cọ xát khả năng của mình nhƣ một sự thực tập nghề nghiệp và bên
cạnh đó còn cải thiện về kinh tế mang lại niềm vui trong cuộc sống. hoa và
Nhà trƣờng cũng rất chú trọng rèn luyện kỹ năng biểu diễn sân khấu cho HV,
thi học kỳ bằng chƣơng trình biểu diễn, hàng năm tổ chức thi biểu diễn ngay
trong trƣờng, yêu cầu các GV phải luyện tập cho HV để chọn các hạt nhân
xuất sắc cho các kỳ thi trong nƣớc và cả quốc tế. Đây chính là một vấn đề hết
sức quan trọng, nếu nhƣ SV các trƣờng kỹ thuật đƣợc đi thực tập ở nhà máy
công xƣởng, SV sƣ phạm đi thực tập giảng dạy thì biểu diễn trong thực tế
chính là thực tập nghề nghiệp của HV thanh nhạc.
Trong vấn đề tự học, HV cũng chịu khó học hỏi nhau, tự tìm tòi về
phƣơng pháp, mạnh dạn trao đổi với thầy dạy những khó khăn vƣớng mắc trong
thể hiện tác phẩm hay thực hiện kỹ thuật… Thời đại hiện nay internet rất phát
triển, HV cũng tự tìm tòi để học tập qua internet rất bổ ích cho việc học. Khi học
bài hát Nga, HV thƣờng tự mở youtube để nghe ca sĩ hát mẫu để học theo.
Tuy vậy, HV còn những hạn chế sau:
- Với các bài hát Nga, HV học theo cảm tính, rất ít tìm hiểu nộ dung, phân
tích đặc điểm âm nhạc để nắm bắt phong cách tác phẩm.
- Một số HV vẫn ngại trao đổi về phƣơng pháp trong học tập với thầy dạy
dẫn đến có khi không hiểu ý thầy và khó khăn trong học tập, chậm tiến bộ.
- Một số HV ham biểu diễn ở ngoài nên dẫn đến học chính bê trễ.
Thực tế có HV do ham biểu diễn mà bỏ dở giữa chừng không hoàn thành
khóa học.
- HV nam trong đó có nam trung ảnh hƣởng môi trƣờng quân đội là
tập trung nhiều thời gian ở đơn vị nên khi rảnh rỗi uống rƣợu và hút thuốc
làm ảnh hƣởng đến giọng hát và sức khỏe.
42
- hó khăn nhất với giọng nam trung là mở rộng âm vực và kỹ thuật
đóng tiếng, đặc biệt là tạo đƣợc một màu giọng ấn tƣợng. Muốn vậy phải
chăm chỉ rèn luyện và nhanh nhạy trong phƣơng pháp luyện tập, nhƣng một
số HV khi thấy mình chậm tiến bộ thì không kiên trì và buông xuôi, nên
không bật lên đƣợc trong học tập, ra trƣờng chỉ là những giọng hát bình
thƣờng, ít để lại dấu ấn cho ngƣời nghe.
Tiểu kết
Chúng tôi đã xác định ca khúc Nga có vai trò khá quan trọng trong
đời sống tinh thần của ngƣời dân nƣớc ta từ những năm 60 của thế kỷ XX
đến nay. Chọn dạy những ca khúc Nga cho học viên giọng nam trung hệ
Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội là một hƣớng
nghiên cứu đúng đắn vừa là giúp sinh viên hiểu đƣợc những nét đẹp trong
văn hóa âm nhạc Nga, vừa là giúp sinh viên rèn luyện đƣợc những kỹ thuật
cơ bản của kỹ thuật thanh nhạc, để các em thể hiện tốt nhƣng bài hát Nga.
Vì vậy, trong chƣơng này chúng tôi đã đi vào giải quyết những vấn
đề cơ bản nhất liên quan tới luận văn. Trƣớc hết là những khái niệm công cụ
nhƣ: dạy học, dạy học thanh nhạc, ca khúc, ca khúc nga, giọng nam trung,
đặc điểm của giọng nam trung… Sau khái niệm, chúng tôi tiếp tục khái quát
qua vai trò của ca khúc Nga trong đời sống xã hội và trong dạy học thanh
nhạc. Vấn đề cuối mà chúng tôi đề cập tới trong chƣơng 1 này là thực trạng
dạy và học các bài hát Nga cho giọng nam trung tại Đại học VHNT Quân
đội. Vấn đề này đƣợc trình bày khái quát trên hai phƣơng diện đó là tình
hình dạy của giảng viên và tình hình học của học viên.
Tất ca vấn đề nêu trên đều có mặt mạnh và mặt yếu. Mặt mạnh sẽ
đƣợc phát huy, mặt yếu sẽ đƣợc chúng tôi khắc phục trong các biện pháp
dạy học các bài hát Nga trong chƣơng 2 của luận văn. Nói cách khác từ
những mặt mạnh và yếu trong chƣơng 1, chúng tôi coi đó sẽ là cơ sở để giải
quyết trong chƣơng 2 của luận văn.
43
Chƣơng 2
BIỆN PHÁP DẠY HỌC CA KHÚC NGA CHO GIỌNG NAM TRUNG
2.1. Đặc điểm ca khúc Nga
Trong chƣơng 1, khi phân tích thực trạng, luận văn đã nêu một số bất
cập trong dạy và học thanh ở Trƣờng Đại học VHNT Quân đội nhƣ GV và
HV ít quan tâm đến phân tích đặc điểm bài hát mà cảm nhận chủ yếu theo
cảm tính. Để việc dạy học tốt hơn, chúng tôi thấy cần có sự phân tích đặc
điểm tác phẩm trong khi dạy học thanh nhạc. Vì vậy, trƣớc khi đƣa ra các
biện pháp dạy học ca khúc Nga cho giọng nam trung, luận văn đi vào tìm hiểu
một số đặc điểm của ca khúc Nga nhằm hỗ trợ cho việc dạy học, đồng thời
làm sáng tỏ việc thể hiện kỹ thuật thanh nhạc trong bài hát. Phần phân tích
đặc điểm âm nhạc chúng tôi chỉ đi vào một số vấn đề liên quan đến thanh
nhạc nhƣ cấu trúc, âm vực, giai điệu…
Chúng tôi xin đƣợc đƣa ra 12 bài ca khúc Nga tiêu biểu [xem phụ lục
từ số1 đến số12, tr.98-110], là những bài đã đƣợc sử dụng trong dạy học
Thanh nhạc hệ Trung cấp Thanh nhạc Trƣờng Đại học VHNT Quân đội và
phù hợp với giọng nam trung.
2.1.1. Cấu trúc
Phân tích cấu trúc để khi học thanh nhạc, HV có thể xử lý đƣợc các
đoạn nhạc với những tính chất khác nhau, biết phân chia hơi thở theo câu
nhạc, tiết nhạc.
Các ca khúc/ bài hát Nga cho giọng nam trung (sau đây chỉ gọi tắt là
các bài hát Nga) có cấu trúc không phức tạp, đa số viết ở hình thức 2 đoạn
đơn, có bài 2 đoạn nhƣng có đoạn a đƣợc nhắc lại thêm một lần nữa nhƣ bài
Tạm biệt Moskova; một số ít viết ở hình thức 1 đoạn.
2.1.1.1. Hình thức 1 đoạn
Các bài ở hình thức 1 đoạn có Khúc ca ban chiều của S. Sedoy, Đ ng
hát người đẹp ơi khi có mặt tôi của M. Glinka, Chiều ngoại ô Moskova của S.
44
Sedoy. Trong đó, bài Khúc ca ban chiều [xem phụ lục 6, tr. 103] có cấu trúc 2
câu rất cân phƣơng, mỗi câu 4 nhịp, gồm 2 tiết nhạc (2n + 2n). Phân chia để
lấy hơi ở bài này hoàn toàn theo tiết nhạc.
Bài Đ ng hát người đẹp ơi khi có mặt tôi [xem phụ lục 4, tr.101] đƣợc
viết ở hình thức 1 đoạn nhƣng đƣợc nhắc lại 2 lần, gồm 2 câu nhạc, mỗi câu 4
nhịp nhƣng ở cuối bài có 2 nhịp kết bổ sung:
Câu 1: 2n + 2n. Câu này lấy hơi theo tiết nhạc. Câu 2: 2n + 2n + 2n BS. Bài viết ở B-dur nhƣng cuối câu 2 là nốt g1,
khi giai điệu ở kết bổ sung cuối bài mới về âm chủ là b. Câu này khi hát chia
thành 3 hơi, cứ 2 nhịp một hơi.
Bài Chiều ngoại ngoại ô Moskova [xem phụ lục 2, tr.99] đƣợc viết ở
hình thức 1 đoạn 3 câu:
Câu 1: 4n + 3n
Câu 2: 5n + 3n
Câu 2: 5n + 4n
Về cách lấy hơi của bài Chiều ngoại ngoại ô Moskova thì phân chia
theo tiết nhạc.
2.1.1.2. Hình thức 2 đoạn
Các bài viết ở hình thức 2 đoạn là Chiều h i c ng S. Sedoy), Nước
Nga Tổ quốc tôi (V. Murađêli), Đỉnh núi Lênin (I. Miliutin), Giờ này anh ở
đâu (S. Sedoy), Nghệ sĩ với cây đàn, Tạm biệt Moskova (Pakhmutôva), Bài ca
thời thanh niên sôi nổi (Pakhmutôva), Tôi yêu em (B. Seremechiep), Cuộc
sống ơi ta mến yêu người (E. ônmanôpxki)
Trong số 9 bài nêu trên, các bài đều cấu trúc rất cân phƣơng, chỉ duy
có bài Tạm biệt Moskova (a a’b) là cấu trúc không cân phƣơng [xem phụ lục
9, tr.106]. Bài này có a đƣợc nhắc lại 1 lần có thay đổi (a’), đoạn b là sự phát
triển so với a, không có tái hiện. Đoạn a’ nhắc lại a nhƣng có thay đổi một
45
chút về mặt trƣờng độ ở đầu mỗi câu: đầu câu 1 của a’ có nốt si giáng ở quãng
tám nhỏ (b) kéo dài trƣờng độ là nốt trắng so với câu 1 của đoạn a là nốt đen; đầu câu 2 lại rút ngắn trƣờng độ nốt si giáng ở quãng tám thứ nhất (b1) thành
nốt đen so với câu 2 của đoạn a là nốt trắng.
Sơ đồ của bài Tạm biệt Moskova nhƣ sau:
a a’ b
Câu 1 + Câu 2 Câu 1 + Câu 2 Câu 1 + Câu 2
(4n+3n) + (4n+4n) (5n+3n) + (4n+3n) (4n+4n) + (4n+4n)
Về cách lấy hơi của bài này cũng đƣợc phân chia cứ hết tiết nhạc thì
lấy hơi.
Các bài cấu trúc cân phƣơng ở hình thức 2 đoạn là một lối cấu trúc
điển hình trong âm nhạc cổ điển phƣơng Tây, cấu trúc mạch lạc, rõ ràng, số
nhịp trong các tiết nhạc thƣờng là 2 hoặc 4, tạo sự vuông vắn, khúc chiết
trong cấu trúc. Xin dẫn một số bài nhƣ sau:
Bài Chiều h i c ng [xem phụ lục 1, tr.98] đƣợc viết ở hình thức 2
đoạn có tái hiện (a b), cấu trúc rất cân phƣơng. Một đoạn có 2 câu, mỗi câu
gồm 2 tiết, mỗi tiết có 2 nhịp.
Đoạn a: câu 1 (2n + 2n), câu 2 (2n + 2n). Đoạn này lấy hơi không theo
tiết nhạc mà mỗi câu chia thành 3 hơi. Câu 1 lấy hơi sau chữ tôi , chữ
minh và chữ dịch ở cuối câu 1. Câu 2 lấy hơi sau chữ đi , chữ sƣơng
và chữ qua ở cuối đoạn a.
46
Vd số 3: Chiều hải cảng (Đoạn a)
Đoạn b: câu 1 (2n + 2n), câu 2 (2n + 2n). Câu 1 lấy hơi theo tiết nhạc,
câu 2 là tái hiện của đoạn a và cũng chia thành 3 hơi thở nhƣ câu 2 của a.
Bài Đỉnh núi Lê nin [xem phụ lục 3, tr.100] cấu trúc 2 đoạn, 2 câu, 4
tiết nhạc và cách lấy hơi cũng lấy sau mỗi tiết nhạc:
Câu 1 + Câu 2 Câu 1 +
Câu 2
(2n + 2n) + (2n + 2n) + (2n
(2n + 2n) + 2n)
Bài Nước Nga của tôi cấu trúc 2 đoạn gồm 2 câu cân phƣơng nhƣng
cách lấy hơi ở đoạn b giống đoạn a bài Chiều h i c ng là không theo tiết
nhạc, một số chỗ lấy hơi nhẹ sau 2 chỗ có dấu lặng đen Ôi nƣớc Nga , còn
đoạn a thì vẫn lấy hơi sau mỗi tiết nhạc:
47
Câu 1 + Câu 2 Câu 1 + Câu 2
(4n + 4n) + (4n + 4n) (4n + 4n) + (4n + 4n)
Vd số 4: Nƣớc Nga của tôi
Các bài Thời thanh niên sôi nổi [xem phụ lục 10, tr.108], Tôi yêu em
[xem phụ lục 11, tr.110], Cuộc sống ơi ta mến yêu người [xem phụ lục 12,
tr.110] có cấu trúc cân phƣơng và bài nào cũng có 2 câu, mỗi câu 2 tiết, mỗi
tiết 2 nhịp. Cách lấy hơi là lấy sau mỗi tiết nhạc.
Phần 2.1.1. luận văn đã phân tích cấu trúc của 12 bài hát Nga cho
giọng nam trung hệ Trung cấp Trƣờng Đại học VHNT Quân đội, với các nội
dung về hình thức, câu nhạc, tiết nhạc và sự liên quan về cách lấy hơi trong
thanh nhạc. Đa số viết ở hình thức 2 đoạn đơn, gồm 2 câu, một số ít viết ở
hình thức 1 đoạn. Cấu trúc các bài phần lớn là cân phƣơng. Cách lấy hơi chủ
yếu dựa theo tiết nhạc, song cũng có vài bài không tuân thủ quy tắc này mà
theo quy luật của giai điệu chi phối.
.1. . Điệu thức
Về vấn đề điệu thức, các bài hát Nga đƣợc đề cập đến trong luận văn
này đều viết ở điệu thức 7 âm của âm nhạc phƣơng Tây là điệu thức trƣởng và
điệu thức thứ (trƣởng tự nhiên, thứ hòa thanh hoặc giai điệu). Đây là những
điệu thức tiêu biểu đƣợc sử dụng trong âm nhạc cổ điển phƣơng Tây.
48
2.1.2.1. Điệu thức trưởng
Trong số 12 bài hát Nga có 3 bài viết ở điệu thức trƣởng là Đỉnh núi Lê
nin, Đ ng hát người đẹp ơi khi có mặt tôi và Tôi yêu em.
Bài Đỉnh núi Lê nin đƣợc viết ở giọng E-dur, tính chất của điệu trƣởng
đã góp phần làm cho bài hát trở nên trong sáng, cả bài không có chuyển điệu,
ly điệu.
Bài Đ ng hát người đẹp ơi khi có mặt tôi đƣợc viết ở B-dur, cùng với
các yếu tố khác, tạo cho bài hát sự trong sáng, vui tƣơi. Toàn bài không có
chuyển điệu, song ở câu 2 của bài có màu của điệu thứ song song (g-moll),
tạo cho âm nhạc câu này mềm mại hơn xem phụ lục 4, tr.101].
Bài Tôi yêu em đƣợc viết ở G-dur, song cách sử dụng điệu thức phức
tạp hơn đôi chút so với hai bài trên. Đó là, có một số chỗ sử dụng biến âm. Ở
ô nhịp lấy đà đầu tiên và các nhịp 4, 12… có âm cis là bậc IV# của G-dur,
tiến hành bán âm thêu (d-cis-d) và ở nhịp 11 có âm eis cũng là bƣớc đi bán
âm thêu (fis-eis-fis), tạo cho giai điệu cảm giác chơi vơi.
2.1.2.2. Điệu thức thứ
Trong 12 bài hát Nga có 9 bài viết ở điệu thứ (tự nhiên, hòa âm và có
cả thứ giai điệu). Điệu thứ thƣờng phù hợp với những bài có tính chất mềm
mại, trữ tình hoặc u buồn… Việc sử dụng điệu thứ trong các bài hát Nga cho
thấy, đa số giai điệu có màu sắc trữ tình. Tuy vậy, có một số bài hành khúc
vẫn viết ở điệu thứ, khác với các bài hành khúc ở điệu trƣởng thƣờng khỏe
khoắn, mạnh mẽ hoặc trong sáng. Còn bài hành khúc viết ở điệu thứ làm cho
chất nhịp đi, mạnh mẽ của thể loại này pha thêm chất trữ tình hoặc bi hùng.
Bài ca thời thanh niên sôi nổi và Cuộc sống ơi ta mến yêu người đều viết ở
giọng thứ. Chất hành khúc của bài vẫn rắn rỏi, nhƣng pha chút trữ tình và sâu
lắng hơn.
49
Các bài viết ở thứ tự nhiên không có ly điệu, chuyển điệu là Bài ca thời
thanh niên sôi nổi (c-moll), Giờ này anh ở đâu (e-moll), Chiều ngoại ô
Moskova (c-moll), Chiều h i c ng (e-moll). Riêng Chiều h i c ng có bè giai
điệu chính là e-moll tự nhiên, song bè 2 lại viết ở e-moll hòa thanh.
6 bài còn lại viết ở thứ hòa thanh, thứ giai điệu hoặc trong bài có ly
điệu, chuyển điệu: Cuộc sống ơi ta mến yêu người (c-moll hòa thanh). Tạm
biệt Moskova ở đoạn a và a’ viết ở b-moll hòa thanh, đoạn b chuyển điệu sang
giọng D-dur. Nước Nga của tôi (d-moll hòa thanh và giai điệu), bài này cũng
có sử dụng biến âm fis tạo bán âm thêu (g-fis-g), tạo cho giai điệu tính chất
buồn da diết; Chiều ngoại ô Moskova (c-moll giai điệu). Khúc ca ban chiều
(c-moll hòa thanh). Nghệ sĩ với cây đàn có đoạn a và a’ viết ở e-moll hòa
thanh, đoạn b ly điệu sang giọng cùng tên E-dur (hóa biểu của bài chỉ có 3
dấu thăng không có nốt rê thăng song các bƣớc tiến hành giai điệu là ở E-dur
chứ không phải là A-dur), cuối bài lại về e-moll:
Vd số 5:
Nghệ sĩ với cây đàn
(Trích đoạn b)
50
.1.3. Giai điệu
2.1.3.1. Âm vực
Âm vực của tác phẩm thanh nhạc liên quan chặt chẽ đến việc lựa chọn
bài hát cho học viên, nếu chọn không hợp về âm vực có thể dẫn tới HV không
thể hát đƣợc. Làm sao nốt cao nhất và thấp nhất của bài phải nằm trong tầm
cữ giọng của HV. Không nên chọn bài hát có âm vực đúng bằng kịch điểm
nốt thấp nhất và cao nhất trong giọng của HV, mà gần bằng thì tốt hơn để HV
thể hiện không bị với khi lên cao hoặc bị xỉn khi xuống thấp. Cũng có thể
chọn bài có nốt cao nhất bằng âm vực của giọng hát thì tốt hơn là cả nốt thấp
và cao đều đúng bằng âm vực của giọng. Trƣờng hợp bài hát có âm vực quá
rộng thì mới buộc phải lựa chọn sao cho đúng bằng tầm cữ. Cũng không nên
chọn bài mà âm vực hẹp quá so với giọng HV, nhất là không có nốt cao vì
những nốt cao với cƣờng độ mạnh hoặc thật nhẹ thƣờng tạo ra mỹ cảm về kỹ
thuật điêu luyện, gây cảm xúc cho ngƣời nghe.
Nốt cao nhất và thấp nhất trong âm vực của bài cũng chỉ là một yếu tố
khi chú ý về âm vực của bài hát. Một yếu tố nữa cũng phải tính đến là các nốt
trong đƣờng tuyến của giai điệu chủ yếu nằm ở âm khu nào, có hợp với HV
đó không. Có những bài chỉ hợp với giọng HV này mà không hợp với HV
khác, không chỉ bởi phong cách âm nhạc mà còn bởi giai điệu của bài đƣợc
viết ở âm khu nào đó có thể gây bất lợi cho ngƣời này hoặc thuận lợi cho
ngƣời kia. Điều này rõ nhất với giọng nữ, khi những nốt của bài có nhiều âm
ở âm khu chuyển giọng, sẽ rất bất lợi vì âm chuyển giọng (giọng mix) màu
thƣờng không đẹp bằng các âm ở âm khu tự nhiên hoặc âm khu giọng đầu.
Các bài hát Nga cho HV nam trung hệ Trung cấp Trƣờng Đại học
VHNT Quân đội có âm vực thƣờng là trong tầm quãng 10-12, với âm thấp nhất là thƣờng là nốt a và cao nhất là f2, đây là âm vực thƣờng thấy của giọng
nam trung nói chung và HV nam trung hệ Trung cấp Trƣờng Đại học VHNT
51
Quân đội nói riêng. Một số ít bài có âm vực hẹp hơn hoặc rộng hơn. Bài có âm vực hẹp nhất là Khúc ca ban chiều chỉ trong 1 quãng 8 (c1-c2), bài này để
luyện kỹ thuật legato và hát đều giọng ở âm khu trung. Bài có âm vực quãng 9 là Chiều ngoại ô Moskova (c1-d2). Bài có âm vực rộng nhất là Bài ca thời thanh niên sôi nổi, trong tầm quãng 13 thứ (g-es2); bài có âm vực khá rộng (quãng 12) là Cuộc sống ơi ta mến yêu người (a-e2). Cả hai bài này đều thuộc
thể loại hành khúc, có những quãng nhảy khá rộng và phù hợp với năm thứ 2
và thứ 3 để bật âm thanh, đồng thời luyện mở rộng âm vực giọng hát. Các bài
còn lại có âm vực rộng quãng 10 hoặc quãng 11.
2.1.3.2. Tính chất giai điệu
Đa số các bài hát Nga cho giọng nam trung có giai điệu trữ tình: trữ
tình mƣợt mà, bay bổng hoặc trữ tình sâu lắng… Một số ít có chất mạnh mẽ
thuộc thể loại hành khúc.
- Các bài trữ tình mượt mà, bay bổng:
Số này có Chiều ngoại ô Moskova, Khúc ca ban chiều, Đ ng hát
người đẹp ơi khi có mặt tôi. Đây là những bài có giai điệu thƣờng mƣợt mà,
nhiều quãng liền bậc, ít nhảy, tiết tấu bình ổn, nhịp độ andante hoặc
andantino, rất phù hợp với cách hát legato. Chẳng hạn nhƣ câu 1 của bài Khúc
ca ban chiều dƣới đây cho thấy rõ đặc điểm đó:
Vd số 6: húc ca ban chiều (Trích câu 1)
52
Bài viết ở c-moll, nhịp C, giai điệu đi liền bậc nhiều, trƣờng độ bình
ổn với nhiều móc đơn. Bài này có âm vực chỉ trong 1 quãng 8.
Bài Chiều ngoại ô Moskova cũng có đặc điểm tƣơng tự nhƣ trên:
Vd số 7: Chiều ngoại ô Moskova (Trích)
Bài này cũng ở giọng c-moll, nhịp 2/4, cấu trúc 1 đoạn, âm vực trong
quãng 9, giai điệu chủ yếu liền bậc, mƣợt mà ở câu 1, bay bổng hơn ở câu 2.
Bài Đ ng hát người đẹp ơi khi có mặt tôi, tính chất âm nhạc mƣợt mà
nhƣng nhịp nhàng, trong sáng hơn bài Chiều ngoại ô Moskova và Khúc ca
ban chiều, bởi viết ở giọng B-dur nhƣng giai điệu vẫn rất bay bổng do sử
dụng nhịp 6/8 với lối tiến hành quãng, tiết tấu uyển chuyển:
Ví dụ số 8:
Đừng hát ngƣời đẹp ơi khi có mặt tôi
(Trích)
53
- Các bài trữ tình trong sáng:
Dạng này có bài Đỉnh núi Lê nin, Nghệ sĩ với cây đàn, Tạm biệt
Moskova, Tôi yêu em. Các bài này giai điệu vẫn trữ tình nhƣng trong sáng bởi
đa số viết ở giọng trƣởng hoặc đoạn a ở điệu thứ, đoạn b sang điệu trƣởng;
nhịp độ vừa phải hoặc hơi chậm; giai điệu có thể tiến hành ít liền bậc hơn
dạng trên. Những bài này cũng chủ yếu sử dụng kỹ thuật hát legato và một số
chỗ là kỹ thuật hát ngân dài.
Bài Nghệ sĩ với cây đàn viết nhịp 3/4, đoạn a trữ tình sâu lắng với
giọng e-moll hòa thanh, các bƣớc tiến giai điệu chủ yếu theo các hợp âm rải
của các công năng chủ (Em) và D (H7), khá uyển chuyển và không khó hát:
Vd số 9:
Nghệ sĩ với cây đàn
(Trích đoạn a)
Moderato
Đoạn b của bài có ly điệu sang E-dur nên tƣơi sáng hơn. Tuy nhiên,
giai điệu không thuận tai, không tạo ổn định ở E-dur nên dễ hát chênh phô,
nếu ngƣời hát không vững vàng cần luyện thuộc chuẩn giai điệu [xem phụ lục
7 tr.104].
Bài Đỉnh núi Lênin viết ở giọng E-dur, nhịp C với giai điệu hình sóng uyển chuyển bay bổng mềm mại, có chỗ giai điệu vút cao lên nốt e2 tạo tính
chất trong sáng và tự hào xem phụ lục 3 tr.100]:
54
Vd số 10:
Đỉnh núi Lê nin
(Trích đoạn a)
- Các bài trữ tình sâu lắng:
Đó là bài Chiều h i c ng, Nước Nga Tổ quốc của tôi, iờ này anh ở
đâu. Các bài này viết ở điệu thứ, nhịp độ thƣờng chậm hoặc hơi chậm, cách
tiến hành quãng trong giai điệu phảng phất buồn man mác hoặc có chất tự sự.
Dạng bài trữ tình sâu lắng cũng sử dụng kỹ thuật legato.
Bài Nước Nga Tổ quốc của tôi đƣợc viết ở nhịp 3/4, tiết tấu uyển
chuyển, nhịp nhàng, giọng d-moll giai điệu trữ tình tha thiết, ở cuối câu 1 có quãng sáu thứ (d1-b1) và ngân dài 4 phách ở nốt si giáng, tạo cảm giác chơi vơi, hơi tối và buồn; nốt biến âm fis1 cũng tạo cảm giác da diết, chơi vơi cho
giai điệu:
Vd số 11:
Nƣớc Nga Tổ quốc của tôi (Trích đoạn a)
55
Bài Giờ này anh ở đâu viết ở e-moll, nhịp 2/4, giai điệu có chất tự sự,
sâu lắng, nốt fa bình ở nhịp thứ 9 làm giai điệu thêm da diết, chơi vơi:
Vd số 12:
Giờ này anh ở đâu
(Trích đoạn a)
- Các bài hành khúc, mạnh mẽ:
Các bài hành khúc có Bài ca thời thanh niên sôi nổi và Cuộc sống ơi
ta mến yêu người. Hai bài này theo tiết tấu nhịp đi nhƣng viết ở giọng thứ nên
tính chất trầm hùng và phảng phất chất trữ tình, tha thiết:
56
Vd số 13:
Bài ca thời thanh niên sôi nổi
(Trích)
Đoạn a của bài Bài ca thời thanh niên sôi nổi tính chất trầm hùng
mạnh mẽ, hơi tối bởi tiết tấu và giai điệu đƣợc viết ở âm khu trung trầm
nhƣng sang đoạn b, giai điệu bừng sáng lên tha thiết ở âm khu cao. Đây là bài
có âm vực rộng nhất (quãng 13).
Bài Cuộc sống ơi ta mến yêu người viết ở giọng d-moll, nhịp C. Cũng
là bài hành khúc, nhƣng so với thì nhịp độ thong thả hơn, giai điệu có chất trữ
tình rõ nét, đặc biệt ở đoạn b khi lên âm khu cao và viết ở d-moll hòa thanh có quãng 2 thứ (cis2-d2):
57
Ví dụ 14:
Cuộc sống ơi ta mến yêu ngƣời
(Trích)
Các bài thuộc dạng hành khúc phù hợp để luyện kỹ thuật hát nhấn
(marccato).
Nhƣ vậy, các bài hát Nga cho giọng nam trung chủ yếu là ở dạng trữ
tình: mƣợt mà, sâu lắng, trong sáng và có hai bài hành khúc. Xem xét đặc
điểm giai điệu của bài để nhận thấy các bài hát Nga phù hợp với luyện kỹ
thuật legato, marccato và một số bài sử dụng kỹ thuật ngân dài, không thấy có
bài hát nhanh và trong giai điệu cũng có luyến nhƣng không nhiều, không
thành đặc điểm nổi bật. Phần kỹ thuật sẽ đƣợc bàn đến ở các nội dung sau của
chƣơng 2.
2.1.4. Nội dung lời ca
Về lời ca, nhìn chung các bài hát Nga sử dụng trong dạy học thanh
nhạc tại Đại học VHNT Quân đội là những bài đã đƣợc dịch ra tiếng Việt.
58
Học viên không học tiếng Nga, vì thế rất hiếm khi học hát từ bài nguyên bản
tiếng Nga.
Nội dung lời ca trong các bài hát Nga ở đây chủ yếu nói về tình yêu
đất nƣớc Nga, thiên nhiên Nga, về tình yêu cuộc sống hoặc lý tƣởng sống…
Một số ít bài nói về tình yêu.
Có thể nói, hình ảnh nƣớc Nga hiện lên qua các bài hát thật thân
thƣơng gần gũi và xinh đẹp. Đó là những giai điệu tràn đầy niềm kiêu hãnh,
tự hào:
ìa bao nhà máy, khói loang ngập trời nhƣ áng mây chiều.
Đẹp xinh rực rỡ ngôi sao đỉnh tháp remlanh
Tỏa ánh hy vọng, ngôi sao bừng chiếu bao niềm tin
Bạn ơi Mạc Tƣ hoa, thành phố hòa bình
(Đỉnh núi Lênin)
Đó là những cảm xúc đằm thắm tha thiết trƣớc vẻ đẹp của ngoại ô
Moskova vào cảnh hoàng hôn:
Vƣờn cây lúc chiều buông không còn tiếng rì rào
Chìm sâu trong im ắng dƣới trăng sao
Ôi thân thiết những chiều, ngoại thành Maxcơva
(Chiều ngoại ô Moskova)
Hoặc đó là những cảm xúc chân thành sâu lắng, da diết khi nghĩ về Tổ
quốc, đất nƣớc:
Ôi nƣớc Nga! Ôi nƣớc Nga! Dạt dào trong tim tình yêu tha thiết
Ôi nƣớc Nga! Ôi nƣớc Nga! Tổ quốc thân thƣơng mến yêu muôn đời
(Nước Nga - Tổ quốc tôi)
Trong bài Cuộc sống ơi ta mến yêu người là tình yêu cuộc sống, là
niềm lạc quan trƣớc cuộc sống tƣơi đẹp, còn trong Bài ca thời thanh niên sôi
59
nổi là nhiệt huyết của tuổi trẻ, không ngại gian khổ, khó khăn, mong muốn
đƣợc cống hiến đƣợc sống theo lý tƣởng vì Tổ quốc đất nƣớc:
Dù sƣơng gió tuyết rơi, dù vắng ngôi sao giữa trời
ìa trái tim với tiếng ca, thúc ta nhịp chân bƣớc đƣờng xa
(Bài ca thời thanh niên sôi nổi)
Một số bài nói về tình yêu là Tôi yêu em, Đ ng hát người đẹp ơi khi
có mặt tôi. Bài Đ ng hát người đẹp ơi khi có mặt tôi sáng tác của M.I. Glinka
phỏng thơ của A. Puskin, vì vậy lời ca có hình tƣợng rất đẹp, phù hợp với tính
chất uyển chuyển, nhịp nhàng của giai điệu âm nhạc: Đừng cất tiếng hát hỡi
em xinh đẹp, khúc hát thắm thiết với bao giai điệu buồn .
Bài Tôi yêu em của B. Seremetiev cũng đƣợc phổ thơ của Puskin. Lời
thơ bóng bảy, tha thiết làm tăng thêm vẻ đẹp trữ tình của giai điệu:
Bao ngày ôm ấp trong tôi con tim yêu thiết tha
Cuộc đời từ đây, xin hiến dâng cả cho em
Khi học hát các bài hát Nga, cần yêu cầu HV nghiên cứu kỹ nội dung
để nắm đƣợc hình tƣợng trong bài và thể hiện cho phù hợp, đặc biệt trong xử
lý sắc thái (to, nhỏ, mạnh nhẹ…). Ngoài ra, lời ca của bài đã đƣợc dịch ra
tiếng Việt thì cũng cần nắm đƣợc để hát sao cho rõ lời.
2.2. Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc
Rèn luyện khẩu hình, hơi thở, các kỹ thuật legato, staccato, marccato,
hát nhanh, ngân dài, xử lý to - nhỏ… là những vấn đề cơ bản của kỹ thuật
thanh nhạc. Với các bài hát Nga nhƣ phân tích ở trên là không thấy các bài hát
nhanh, ít luyến láy nên luận văn sẽ chỉ bàn đến một số kỹ thuật liên quan mà
không đi vào tất cả các loại kỹ thuật.
2.2.1. Khẩu hình
Thuật ngữ khẩu hình là một từ ghép: khẩu là miệng, hình là hình dáng,
vậy ta có thể hiểu khẩu hình là hình dáng của miệng. Tuy vậy, không nên hiểu
60
khẩu hình chỉ là hình dáng của miệng mà còn bao hàm cả những hoạt động
đƣợc kết hợp của nhiều bộ phận khác nữa nhƣ: môi, răng, lƣỡi, hàm ếch (trên
và dƣới), khoang miệng... Những hoạt động của các bộ phận này khi hát mới
tạo thành khẩu hình.
Luyện tập khẩu hình có vai trò quan trọng trong dạy học thanh nhạc
bởi vì:
- Khẩu hình là một trong những yếu tố ảnh hƣởng chất lƣợng âm
thanh của giọng hát. Hát với khẩu hình đúng thì giọng hát có thể đạt đến
vang, tròn, đẹp. Khẩu hình liên quan đến khoang cộng minh trong miệng, và
sự vận động của khẩu hình liên quan đến lƣỡi gà của họng cũng khiến âm
thanh sẽ không thể tạo ra chuẩn ở các khoang cộng minh phía trong, đƣa lên
hốc mũi, xoang trán... hẩu hình mở hẹp có thể làm âm thanh bị bẹt tiếng, bí
tiếng... không vang và kết quả là làm xấu âm thanh. hẩu hình mở rộng quá
hoặc mở ngang quá cũng sẽ ảnh hƣởng âm thanh
- Khẩu hình ảnh hƣởng tới thẩm mỹ của ngƣời hát. Trong luận văn
Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cho giọng nữ cao hệ Trung cấp Trường Đại
học VHNTQuân đội của Phạm Thị im Thoa khóa 4 Cao học Lý luận và
PPDH Âm nhạc đã viết về sự ảnh hƣởng của khẩu hình trong thẩm mỹ nhƣ
sau: Mở khẩu hình bị hẹp khiến khuôn miệng trông bí bách, cứng; mở khẩu
hình quá to khiến môi bị chuyển động liên tục cũng làm cho khuôn miệng
không đẹp 35, tr.46]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này, thực tế hoạt
động nghề nghiệp trong dạy học thanh nhạc, tôi nhận thấy, khi hát không mở
rộng miệng có thể sẽ âm thanh rít qua hai hàm răng, làm cho âm thanh
không thoát tự nhiên, lời hát không tròn đẹp và trông rất xấu. Ngƣợc lại, mở
khẩu hình quá to trong cũng không đẹp, nhƣ bị nhai âm thanh liên tục.
Vấn đề khẩu hình cũng có rất nhiều quan điểm, mở khẩu hình thế
nào là hợp lý cũng có những tranh cãi khác nhau. Trƣớc tiên, việc mở rộng
61
hay hẹp, ngang hay dọc thì chỉ cần dẫn chứng một số thể loại trong âm nhạc
cổ truyền Việt Nam cũng thấy có sự khác nhau rõ rệt. Quan điểm của thanh
nhạc phƣơng Tây lại phải mở khẩu hình dọc, tròn... nhƣng Quan họ hay
Chèo của Việt Nam lại mở ngang, không cần mở rộng nhƣ thanh nhạc
phƣơng Tây, thậm chí hát Quan họ trông còn nhƣ mấp máy môi.
Ở đây, chúng tôi không thể bàn rộng về khẩu hình cho nhiều phong
cách hát, nhiều thể loại thanh nhạc, mà chủ yếu bàn đến khẩu hình và cả các
kỹ thuật bel canto liên quan đến luận văn là thanh nhạc liên quan đến nghiên
cứu dạy học các bài hát Nga.
Ngay cả với thanh nhạc bel canto cũng có nhiều quan niệm về mở
khẩu hình, có ý kiến khẩu hình phải mở to, có ý kiến lại chỉ cần mở vừa
phải… Theo Hồ Mộ La trong cuốn Phương pháp gi ng dạy thanh nhạc thì
phải mở to khẩu hình cả về chiều dọc và chiều ngang… mở nhƣ ngáp để
nâng hàm ếch mềm và treo cao lƣỡi gà 16, tr.157]. Còn với Nguyễn Trung
iên lại quan niệm: khi hát, mồm phải mở thoải mái, rộng rãi, mềm mại
[12,tr.90]. Chúng tôi đồng ý với quan niệm khẩu hình là khoang miệng đƣợc
mở rộng phía trong, bên ngoài mở rộng một cách thoải mái, vừa phải, không
mở ngang và làm sao trông khuôn miệng tròn. hi khoang miệng bên trong
đƣợc mở rộng sẽ tạo cho âm thanh đi vào các xoang cộng hƣởng và ra ngoài
một cách thanh thoát, đồng thời tạo sự đẹp mắt.
Để khẩu hình mở đúng và đẹp phải mở tựa nhƣ khi ngáp, lƣỡi gà hay
hàm ếch mềm phải nhấc treo lên, cuống lƣỡi hạ xuống một cách mềm mại;
lƣỡi đặt một cách tự nhiên, hàm dƣới buông lỏng. Điều quan trọng là tất cả
phải phối hợp nhịp nhàng, tâm lý ngƣời hát phải thoải mái, không căng thẳng.
Ở trƣờng Đại học VHNT Quân đội và nhiều ngƣời học hát ở nơi khác cũng
vậy, khi mới học thanh nhạc thƣờng bị ảnh hƣởng tâm lý, khẩu hình hay bị
cứng, gò bó. Đó là nguyên lý chung trong mở khẩu hình. Tuy vậy, không phải
62
lúc nào cũng mở to và mở dọc khẩu hình đƣợc mà còn phụ thuộc nhiều yếu
tố, vào các trƣờng hợp cụ thể:
Thứ nhất, cách mở khẩu hình của giọng nữ cũng có một số điểm không
giống nam. huôn miệng của nữ nhỏ hơn, cần thể hiện sự tinh tế và độ vang dày
của giọng cũng không nhƣ nam nên không nhất thiết mở rộng nhƣ nam.
Thứ hai, tùy từng loại giọng, cách mở khẩu hình cũng không nhƣ
nhau. Nữ trung hay trầm mở khẩu hình có thể rộng hơn nữ cao vì hai loại
giọng này khẩu hình cần mở to để âm thanh dày, đầy đặn. Trong giọng nữ cao
cũng chia làm nhiều loại: nữ cao trữ tình, nữ cao kịch tính, nữ cao màu sắc...
thì cách mở khẩu hình cũng không hoàn toàn giống nhau. Giọng nam cũng
vậy, nam trầm và trung cần âm lƣợng dày nên khẩu hình thƣờng phải mở rộng
hơn so với nam cao.
Thứ ba, khẩu hình còn phụ thuộc vào nhịp độ của tác phẩm, khi hát
những giai điệu có nhịp độ chậm, mạnh mẽ, cƣờng độ lớn thì khẩu hình cần
mở to để âm thanh vang, khỏe; với giai điệu có nhịp độ nhanh thì khẩu hình
nhỏ mới linh hoạt, còn với giai điệu tính chất nhẹ nhàng, tự sự thì khẩu hình
cũng không cần phải mở rộng nhƣ giai điệu có cƣờng độ lớn.
Thứ ba, khẩu hình còn phụ thuộc vào lời ca của tác phẩm, khi hát
những lời ca có các chữ cuối từ là nguyên âm o, ô, u thì khẩu hình cần mở
rộng và mở dọc còn với các nguyên âm i, e, ê thì muốn mở rộng và dọc cũng
không làm đƣợc mà phải mở ngang. Đó là chƣa kể với hát tiếng Việt còn có
các phụ âm đóng ở cuối từ nhƣ ch, nh, ng, n, m, c, t... thì vấn đề khẩu hình
cần phải xử lý sao cho phù hợp và rất linh hoạt.
Nhƣ vậy, khẩu hình đúng là mềm mại, không căng cứng, làm nét mặt
tƣơi tắn, đảm bảo chất lƣợng âm thanh: vang, sáng, rõ lời trong nhả chữ. Khẩu
hình cần đƣợc thực hiện linh hoạt theo từng trƣờng hợp nhƣ đã nêu ở trên.
63
Riêng với giọng nam trung thì do đặc điểm là chất giọng thƣờng dày,
ấm hơn so với nam cao, nên thƣờng phải mở rộng hơn để có thể có hơi thở
sâu, đầy đặn, tạo luồng hơi đi vào các xoang cộng minh đƣợc nhiều hơn.
Luyện tập khẩu hình cho giọng nam trung hệ Trung cấp Thanh nhạc
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội là hết sức quan trọng. GV cần chú ý
luyện tập cho HV một cách bài bản, thƣờng xuyên và ngay từ ban đầu cho
đến khi đạt đƣợc nhƣ mong muốn, khi dựng tác phẩm cũng luôn phải chú ý
đến khẩu hình vì chỉ cần khẩu hình không chuẩn sẽ làm ảnh hƣởng chất
lƣợng âm thanh.
Khi mới học, cần luyện khẩu hình cho HV với các mẫu có âm ô và a ở
nhịp độ chậm hoặc vừa phải và hát liền tiếng. Nhƣ vậy, HV sẽ học đƣợc cách
mở dọc khẩu hình với âm ô, tiếp sẽ là âm a. Hai âm ô và a có thể cùng có
trong một mẫu luyện thanh. Với âm a cần pha thêm âm ơ để không bị mở
ngang làm tiếng phát ra bị bẹt:
Vd số 15:
Andantino
Sau đó, cho HV luyện khẩu hình với các có âm i hoặc ê cũng với cao
độ của mẫu âm trên:
Vd số 16:
Andantino
Mi … mê…. mi
Đối với mẫu âm này với âm mi cần mở ngang khẩu hình, môi hơi
hé, hơi pha ê để âm thanh không bị bẹt. hi hát âm mê miệng hơi cƣời,
khoang miệng bên trong vẫn phải mở rộng và thoải mái, nét mặt tự nhiên,
64
tƣơi tỉnh. Có thể cho tập một cao độ và thay đổi các âm khác nhau để luyện
khẩu hình:
Vd số 17:
Ma Mê Mi Mô Mu
Hƣớng dẫn HV hát chậm và rõ từng chữ, hát liền tiếng, đều âm lƣợng,
giữ nguyên vị trí âm thanh trong suốt mẫu âm. hẩu hình xử lý cho hợp với
từng nguyên âm.
. . . Hơi thở
Trong thanh nhạc chuyên nghiệp, có những nhà sƣ phạm cho rằng, hơi
thở quan trọng bậc nhất, ngƣời có giọng tốt nhƣng không biết vận dụng hơi
thở cũng không thành công. Có thể cách quan niệm trên hơi quá đề cao vai trò
của hơi thở, song không thể phủ nhận là hơi thở rất quan trọng trong thanh
nhạc. Chúng ta thấy một nghệ sĩ cải lƣơng ca một câu với hơi rất dài, thì khán
giả thƣờng hoan nghênh với những tràng pháo tay để tán thƣởng sự tài tình
trong kỹ thuật hơi thở cuả ngƣời nghệ sĩ đó. Trong hát bel canto cũng vậy,
câu hát có âm lƣợng to hay nhỏ, dài hay ngắn, mạnh hay nhẹ, có biểu cảm hay
không phụ thuộc rất nhiều vào hơi thở. Hơi thở đầy đặn, chắc chắn, dƣ thừa
thì ngƣời ca sĩ thoải mái trong xử lý cảm xúc theo ý mình; còn nếu hơi không
tốt, thiếu hụt, không đều… thì không thể biểu hiện tốt theo ý mong muốn
đƣợc. Ngoài ra, hơi thở còn liên quan đến sự chính xác cao độ của giai điệu
trong tác phẩm. Hơi thở đẩy ra nhiều và mạnh quá có thể làm âm thanh bị
chênh cao lên, bị già hơn; hơi thở bị thiếu thì âm thanh dễ bị thấp hơn, bị
non so với độ cao cần thiết.
65
Theo nhà sƣ phạm thanh nhạc Nguyễn Trung iên thì trong thực hành
ca hát đúc kết lại có bốn kiểu hơi thở: 1.Thở ngực; 2. Thở ngực kết hợp với
bụng; 3. Thở ngực dƣới và bụng; 4. Thở bụng [12, tr.52].
Với giọng nam trung thì chủ yếu là thở loại 3 và 4 là thở ngực dƣới
kết hợp với bụng và thở bụng. Sử dụng hơi thở bằng cách lấy hơi thật sâu,
phổi của ngƣời hát sẽ phồng lên theo chiều dọc, sử dụng lực phần lớn từ cơ
hoành, phần cơ hoành này hạ sâu xuống để tạo lực hút, giúp lƣợng hơi lấy vào
sẽ nhiều hơn, mạnh hơn và nhanh hơn. Cơ hoành hạ xuống do đó những bộ
phận bên dƣới cơ hoành sẽ bị nén, phồng về phía trƣớc và sẽ có cảm giác tức
ở cơ hoành. Sử dụng cách lấy hơi bằng cơ bụng để có đƣợc hơi thở sâu và lợi
dụng lực đẩy của cơ hoành trong quá trình đẩy ra khi ta hát giúp hơi thở,
giọng hát ổn định và chắc chắn. Cần tránh sự thả lỏng của hơi thở làm cho khi
hát từ câu nọ sang câu kia không đủ lực dẫn đến âm thanh bị mờ, yếu đi.
Tránh gồng ngƣời, căng cứng cơ ngực, cơ cổ, vai gáy làm mất sự đàn hồi của
dây thanh và hoạt động thở sẽ bị ảnh hƣởng.
Muốn đạt đƣợc nhƣ vậy thì phải luyện hít hơi, nén hơi và đẩy hơi.
2.2.2.1. Hít hơi và nén hơi
Việc luyện tập hơi thở và đề ra phƣơng pháp luyện tập hơi thở là rất
cần thiết và quan trọng, đối với giọng nam trung cần hát dày dặn thì hơi thở
lại càng phải tốt. Đặc biệt, đối với những sinh viên năm thứ nhất phải luyện
đúng cách ngay từ đầu, do mới học chƣa biết đến nhiều về kỹ thuật thanh
nhạc nên thƣờng lấy hơi tự nhiên, vì thế lƣợng hơi vào ít dẫn đến không đủ để
thể hiện một câu hát dẫn đến đuối hơi, ngân không đủ trƣờng độ. Muốn có
nhiều hơi đầu tiên cần hít hơi từ từ nhẹ nhàng và lấy sâu xuống bụng. Nếu
nhƣ để tay bên cạnh sƣờn sẽ thấy bụng phình sang hai bên. Đến giai đoạn đã
luyện tốt về hơi thở thì phải luyện hít hơi nhanh mà vẫn sâu và đƣợc nhiều
hơi. Hít hơi chủ yếu qua đƣờng mũi, qua đƣờng miệng chỉ rất ít để tránh khô
66
cổ họng ảnh hƣởng giọng hát. Hít làm sao để không nghe thấy tiếng hít.
Nhiều ngƣời hít hơi nghe thấy rõ tiếng hít bị gọi là không kín hơi .
hi đã lấy đƣợc đầy hơi sâu xuống bụng thì phải khống chế giữ đƣợc
hơi hay còn gọi là nén hơi. Tập giữ hơi thở càng lâu càng tốt, trƣớc tiên cần
giữ hơi thở không quá 10 hoặc 15 giây, sau đó tiếp tục tới 20 giây và từ từ
tăng lên. Thực hiện hít và nén một cách tự nhiên, thoải mái, tránh gây mệt
mỏi cho học viên.
2.2.2.2. Đẩy hơi
Hít hơi vào cần nhanh nhƣng đẩy hơi ra thì ngƣợc lại, cần phải từ từ,
xì nhẹ qua chân răng, trữ lƣợng hơi ở trong phổi xẹp xuống chậm đến mức
cảm giác nhƣ gần nhƣ không thấy sự thay đổi. Mốn vậy phải nén hơi tốt,
không cảm thấy căng hay áp lực khi nén hơi.
Khi mới luyện tập về hơi thở thì nhìn thấy rõ sự phồng lên của bụng
khi hít vào và xẹp xuống rõ khi đẩy ra. Nhƣng luyện tập hơi thở đạt đến tốt thì
lại không còn tình trạng đó nữa. Tuy nhiên, không nên nén hơi ngay khi mới
học vì khi phối hợp điều tiết hơi thở với âm thanh chƣa nhịp nhàng có thể tạo
hiệu quả xấu. Theo nhà sƣ phạm thanh nhạc Hồ Mộ La, quá trình luyện hơi
thở có thể thành ba giai đoạn: giai đoạn một là hít vào rồi thở ra, tạm xẹp
bụng thoải mái; giai đoạn hai giữ hơi rồi thở ra xẹp bụng dần dần; giai đoạn
ba là khi hát hoàn toàn không xẹp bụng 16, tr.155]. Nhƣ vậy, giai đoạn hơi
thở hoàn hảo là lấy vào phải nhanh, khống chế tốt nhƣng không thấy rõ bụng
phồng lên và thở ra cũng không thấy bụng xẹp xuống.
Một điều cũng cần lƣu ý của đẩy hơi là khi hát không sử dụng hết
nhẵn hơi thở cho một câu hát, cần phải giữ lại một lƣợng hơi thở nhất định
cho câu hát tiếp theo để việc lấy hơi cho câu hát sau không bị vội vàng, ảnh
hƣởng đến tiếng hát và cả những vấn đề xử lý tình cảm trong giai điệu.
67
Cần hƣớng dẫn học viên cách khởi động hơi thở, giao nhiệm vụ thƣờng
xuyên luyện tập hơi ở nhà để củng cố về kỹ thuật hơi. Có thể dùng mẫu âm sau
để luyện hơi thở cho giọng nam nói chung và nam trung nói riêng.
Vd số 18:
Mi… Ma
Luyện với 2 âm mi, ma ngân tự do, mỗi âm một hơi thở, ngân càng
lâu càng tốt. Ban đầu cố gắng nén đƣợc hơi khoảng 13-15 giây, sau đó tăng
dần. Nhà giáo Hồ Mộ La đã viết: Thời gian đầu chúng tôi chỉ nén đƣợc 15
giây. Sau một thời gian kiên trì rèn luyện, chúng tôi có thể nén đƣợc 50-55
giây. Vậy mà khi hát, chúng tôi chỉ khống chế đƣợc 11-13 giây 16,
tr.154]. Nhƣ vậy, khi luyện tập hơi thở riêng có thể giữ hơi đến đƣợc 50
giây mà khi hát cũng chỉ khống chế đƣợc 11-13 giây, điều đó cho thấy, tập
riêng rất quan trọng, Tập riêng mà nén hơi không đƣợc lâu thì khi hát càng
hết hơi nhanh hơn.
2.2.3. Cộng minh
Vị trí âm thanh là một thuật ngữ chuyên môn dùng để chỉ những điểm
vang khi ta hát. Vị trí đúng và đƣợc cộng minh đúng cách sẽ tạo ra âm thanh
vang, sáng, đẹp, dễ nghe. Vậy ta cần hiểu khái niệm cộng minh nhƣ sau: các
âm thanh đƣợc tạo nên bởi sự cộng hƣởng âm thanh của các xoang mũi,
xoang trán, xoang đáy hốc mũi, xoang hàm... Âm thanh đƣợc phát ra bởi sự
rung của các xoang này còn gọi là giọng có vị trí âm thanh cao.
Có hai cách cộng minh: cộng minh đầu và cộng minh ngực.
2.2.3.1. Cộng minh đầu
Hiểu một cách đơn giản thì cộng minh đầu là vang ở đầu. Tuy nhiên,
vấn đề này phức tạp hơn, khi một ngƣời hát tốt, ta cảm giác nhƣ âm thanh
68
phát ra không phải âm vang từ miệng, mà ở chỗ nào đó cao hơn ở đầu, ở hốc
mũi, ở trán... Hiện tƣợng đó là có thực, âm thanh của giọng hát không chỉ âm
vang ở miệng, mũi, mà truyền đi ở những hốc vang khác nữa 12, tr.95].
Nhƣ vậy, cộng minh đầu không chỉ ở đầu mà có sự liên kết của nhiều xoang
trên mặt nữa bởi các xoang có sự thông nhau, kết nối với nhau. Các xoang
đƣợc bao bọc bởi các niêm mạc và nhiều dây thần kinh chi chít, các dây thần
kinh kích thích rung động gây nên cảm giác đặc biệt đƣợc gọi là cộng minh
đầu” [12, tr.95].
Cộng minh đầu xuất hiện khi có vị trí cao của âm thanh. Do đó, khi
hát những âm thanh cao, muốn có âm thanh vang, đẹp, trong sáng ta phải hát
bằng cộng minh đầu. Cần lƣu ý về cảm giác cộng minh đầu là phải phân biệt
giữa vị trí cao của âm thanh với âm thanh giọng mũi. Nguyên nhân của giọng
mũi là sự làm việc sai lệch của phần truyền âm do hơi thở nông; không nén
hàm cứng, còn âm thanh có vị trí cao của cộng minh đầu chỉ có thể đạt đƣợc
với hơi thở sâu, nén hơi tốt, khoang miệng làm việc tích cực.
Có thể luyện thanh theo mẫu âm sau để cảm nhận vị trí cao của âm
thanh trong cộng minh đầu:
Vd số 19:
Nồ… ô… …ô
Khi luyện âm thanh cộng minh, giảng viên lƣu ý học viên cần luyện từ chậm đến nhanh dần. Với mẫu âm luyện thanh trên, nốt c2, d2 đƣợc hát ở
thanh khu cộng minh đầu. Để thực hiện tốt mẫu luyện thanh trên, GV cần
hƣớng dẫn HV hít hơi thở sâu, nén chặt xuống bụng dƣới, đặt đầu lƣỡi dƣới
chân răng, đồng thời bật âm thanh nhẹ nhàng, hát liền tiếng với nguyên âm ô,
kéo xƣơng hàm xuống, nhấc cơ mặt lên, thu lƣỡi tạo khoảng rộng của vòm
họng để âm thanh đƣợc cộng minh vang sáng. hi làm đúng và ngân dài ở nốt
69
cao nhất sẽ cho âm thanh đẹp, có độ rung, vang mạnh dần ở các hốc xoang
trên trán, trên đầu và xƣơng mặt. Đó chính là khoảng vang của âm thanh cộng
minh đầu.
2.2.3.2. Cộng minh ngực
Cộng minh ngực đƣợc gọi một cách đơn giản là vang ngực. Đó là
cảm giác rung ở lồng ngực khi hát. Hiện tƣợng này xảy ra khi hát ở âm khu
ngực, tức là những nốt trung và thấp của giọng, lúc đó đặt tay lên ngực sẽ
thấy lồng ngực hơi rung [12, tr.97]. Cộng minh ngực là phƣơng pháp hát mà
giọng nam trung phải sử dụng nhiều, nhất là với những âm trầm bởi vì cộng
minh này thƣờng xuất hiện khi thanh đới hát rung lên những âm trầm, khi hát
giọng giả thanh thì không có cộng minh ngực. Thực hiện mẫu âm dƣới đây sẽ
hiểu rõ hơn về cảm giác của cộng minh ngực
Vd số 20:
Allegretto
Nô.. ô nô.. ô... Na... a.. Nô.. ô
Khi thực hiện mẫu âm này lúc đầu có thể ở tốc độ vừa phải, sau với
tốc độ hơi nhanh. Nếu HV đặt tay lên ngực sẽ có cảm giác rung ở lồng ngực,
nhất là với các âm trầm. GV cần hƣớng dẫn HV luyện tập hoạt động môi tích
cực, đặt lƣỡi đúng vị trí. Âm thanh phải mềm, tuôn trào, có vị trí, tránh tình
trạng thô và bẹt tiếng. Thực hiện dần đi xuống lên đến nốt g (ở quãng 8 nhỏ)
hoặc có thể thấp hơn nữa để có cảm giác tốt hơn về cộng minh ngực.
Cộng minh đầu và cộng minh ngực là hai cảm giác quan trọng, qua đó
ngƣời hát có thể đánh giá hoạt động của cơ quan phát âm là đúng hay sai. Ở
mỗi giọng hát, các cảm giác cộng minh này có mức độ nhiều ít khác nhau.
Riêng đối với giọng nam trung luyện cộng minh đầu thƣờng không nhiều nhƣ
70
nam cao và nữ cao, mà chú ý cộng minh ngực nhiều hơn để cho giọng hát dày
dặn ấm áp. Tuy vậy, vẫn phải luyện tập cộng minh đầu để hát đƣợc âm cao,
mở rộng âm vực cũng là một yêu cầu hết sức cần thiết. Nếu chỉ chú trọng đến
một loại cộng minh này mà sơ sài với cộng minh kia thì sẽ hạn chế sự phát
triển hoàn chỉnh của âm vực giọng. Nói một cách khác, nếu giọng nam trung
chỉ tập hát ở âm khu trung và trầm mà không luyện tập thƣờng xuyên ở âm
khu cao thì dần dần âm vực của giọng sẽ bị hẹp lại, không thể lên đƣợc các
nốt cao hoặc lên cao âm thanh bị xấu, chói rít... Cần cân đối sự tập luyện ở cả
hai loại cộng minh để âm vực đƣợc phát triển hoàn chỉnh hơn, đáp ứng đƣợc
mọi yêu cầu kỹ thuật trong các tác phẩm thanh nhạc.
Ban đầu GV không nên quá coi trọng về vị trí âm thanh cũng nhƣ âm
thanh cộng minh, mà để HV phát triển giọng hát với các thanh khu tự nhiên
trƣớc, có thể dẫn tới trừu tƣợng, khó hiểu trong tiếp thu của HV. hi HV đã
có một quá trình tìm hiểu về giọng, âm sắc đã tƣơng đối ổn định thì GV dần
dần mới giới thiệu và hƣớng dẫn phát triển âm thanh cộng minh.
2.2.4. Vấn đề đóng giọng
Hát đóng giọng hay còn gọi là đóng tiếng là kỹ thuật rất phức tạp
nhằm mở rộng âm vực để đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển ca hát trong
lĩnh vực opera từ thế kỷ XIX. Trƣớc thế kỷ XIX, ngƣời ta vẫn áp dụng
phƣơng pháp truyền thống hát âm thanh mở ở tất cả các giọng nam, đặc biệt ở
các giọng nam cao, theo phƣơng châm khi lên những nốt cao thì hát nhỏ đi.
Thời đó, ngƣời ta sử dụng giọng nam castrato để hát bè cao, thực hiện những
nốt cao hay sử dụng lối hát giọng giả (falsetto). Một nam ca sĩ (nam cao hoặc
trung) có thể hát đƣợc giọng giả song sự không đều màu với giọng tự nhiên là
rất rõ nét. ỹ thuật đóng giọng giải quyết đƣợc vấn đề này. Âm thanh hỗn
hợp đóng tiếng của giọng hát (voix mixte sombrée) đã tạo khả năng mới cho
các giọng nam phát đƣợc âm vực của giọng. Bằng phƣơng pháp này có thể
71
hát đƣợc những nốt chuyển giọng và những nốt cao tƣơng đối dễ dàng. Âm
thanh sẽ có đƣợc tính chất đồng nhất trên toàn bộ âm vực giọng 12, tr.77].
Nam trung chủ yếu hát giọng ngực, nhƣng khi lên cao cần hát giọng
đầu, không chuyển giọng mà chỉ pha chữ và đóng tiếng để hát đều màu giữa
khu tự nhiên và thanh khu giọng đầu. Giọng đầu là giọng có vị trí, âm thanh
cao nhất, khi hát những nốt cao mà sử dụng kỹ thuật pha chữ và đóng tiếng để
tạo độ vang, sáng, bởi thế nên muốn hát đƣợc giọng đầu thì cũng nhƣ giọng
nam cao, nam trung cũng phải luyện kỹ thuật đóng giọng.
Đóng giọng là một thuật ngữ chuyên môn, dùng để chỉ việc đóng tiếng
lại ở âm thanh cao, các nguyên âm cần thể hiện có âm thanh tập trung nhất
(tiếng tròn, dựng và chắc chắn) vào một điểm có vị trí cộng minh cao nhất.
Đối với giọng nam trung, thì việc luyện tập đóng giọng chính là phƣơng pháp
luyện tập tốt nhất để mở rộng đƣợc tầm cữ giọng hát và tiếng vang khoẻ.
Theo cuốn Phương pháp dạy thanh nhạc của Hồ Mộ La: Giọng hát
mở , thanh âm sáng, thanh quản ở vị trí cao, lƣỡi gà ở vị trí thấp; giọng hát
đóng , thanh âm tối, thanh quản ở vị trí thấp, lƣỡi gà ở vị trí cao, họng mở
tròn và chắc 16, tr.76].
Có rất nhiều quan điểm về thhủ pháp đóng giọng nhƣ: hát giọng ngực
sang giọng pha rồi đóng giọng ở thanh khu cao (giọng đầu), đóng giọng ở
thanh khu giọng pha, đóng giọng ngay ở thanh khu trầm…Tùy từng quan
điểm song GV tự lựa chọn phƣơng pháp phù hợp nhất và cụ thể với từng
trƣờng hợp của HV.
Để có đƣợc tiếng hát tròn và dựng, chúng ta phải thấy rõ sự khác
nhau khi phát thanh nguyên âm liên quan tới vấn đề đóng giọng và mở
giọng. Ví dụ: vị trí lƣỡi gà của các nguyên âm sẽ cao dần theo trật tự các
nguyên âm nhƣ từ i đến ê đến ô. Từ đó, chúng ta có thể vận dụng các nguyên
âm đóng làm thủ pháp xử lý kỹ thuật đóng giọng .
72
Khi ta muốn luyện để có đƣợc một âm a tập trung âm thanh thì ta
cho HV luyện tập mẫu luyện thanh lần lƣợt theo trật tự âm đóng đến âm mở
(i, ê, ô).
Vd số 21:
Hi i i i i
Sau khi luyện tốt âm i, thì dùng mẫu trên với các âm ê rồi ô. Sau đó,
dựa vào nguyên âm ô để ta chuyển sang âm a. hi đó, âm a sẽ tập trung âm
thanh hơn. Chữ o, ô pha thành chữ u; chữ a, ơ pha thành chữ ƣ:
Vd số 22:
Mô… ô ô ô
Ma a a a
Khi dạy đóng tiếng cho giọng nam trung phải luôn quan tâm đến nốt
chuyển giọng là từ nốt d2 hoặc es2 trở lên, còn nam cao là e2 trở lên. Trên cơ
sở đó, luyện xuyên suốt ở các nốt ở thanh khu cao, rồi từ các nốt cao luyện
chuyển xuống thanh khu trầm để giọng hát đều đặn và nhất quán vị trí âm
thanh. Song song với việc sử dụng các nguyên âm đóng thì việc kết hợp với
hơi thở nén, vững chắc, đều đặn mới có thể cho chúng ta một âm thanh đóng
đạt hiệu quả cao nhất.
Có thể sử dụng mẫu luyện thanh sau luyện tập đóng giọng cho nam
trung với các nguyên âm i, ê, ô, a:
73
Vd số 23:
Mi i i i i i i
Vd số 24:
Mô ô ô ô…………………………………………….ô
Luyện các mẫu trên khi bắt đầu đến nốt es2 thì mới sử dụng nguyên
âm đóng hoặc biến âm ( ê pha i ; ơ pha ƣ ; ô pha u ). Phải hạ thanh
quản xuống nhƣ một phần trong khi lấy hơi, lúc đó cổ họng đƣợc mở, các
xoang thanh quản và cổ họng trở thành một khoang cộng minh tạo nên yếu tố
sáng - vòm. Trong lúc hít hơi sâu, cảm giác lồng ngực đƣợc mở rộng. Cổ
họng đƣợc mở ra, cuống lƣỡi hạ xuống, hàm ếch mềm đƣợc nâng lên, phần
sau của họng đƣợc mở rộng, luôn chú ý hơi thở phải đều đặn.
Các bài hát Nga có nốt es2 là phải sử dụng đóng giọng, chẳng hạn nhƣ
bài Đỉnh núi Lê Nin:
Vd số 25:
Đỉnh núi Lê nin
(Trích đoạn b)
74
Trong ví dụ trên, câu hát ìa bao nhà máy thì đến chữ máy là nốt e2 phải đóng giọng, hát đƣa lên âm i và cộng minh ở giọng đầu, lƣỡi gà treo
cao, hạ thấp thanh quản, hơi thở sâu và giữ chắc và bật đúng vị trí vào cao độ e2 sao cho âm thanh dựng và chuẩn, sáng. Nếu thanh quản không hạ thấp đƣợc
xuống thì không đóng đƣợc giọng và âm thanh sẽ bị tối. Để hát đƣợc bài này,
HV giọng nam trung đã có kỹ thuật tốt, vị trí âm thanh chuẩn, xử lý thanh khu
đều màu, nắm đƣợc kỹ thuật đóng giọng khi lên cao, thƣờng HV năm thứ ba
hay thứ 4 mới giao hát bài này.
2.2.5. ỹ thuật legato
Trong thanh nhạc châu Âu, quá trình luyện giọng đòi hỏi ngƣời học
phải đƣợc luyện các kỹ thuật thanh nhạc nhƣ legato, non legato, staccato…
Luyện tập các kỹ thuật thanh nhạc để ứng dụng vào hát và luyện thanh trƣớc
khi hát có vai trò rất quan trọng, nó làm cho giọng hát thông thoáng, đẹp hơn,
sáng hơn; có vị trí âm thanh đúng và hơi thở tốt hơn.
Legato nghĩa là hát liền tiếng hay hát liền giọng, là cách hát chuyển
tiếp liên tục, đều đặn từ âm nọ sang âm kia, tạo nên những câu hát liên kết
không ngắt quãng 12, tr.104]. Trong thanh nhạc, ngƣời ta còn dùng chữ
cantilena để biểu thị cách hát liền giọng, hàm ý về sự thanh thoát, trong sáng
và mềm mại của âm thanh.
Học viên thanh nhạc nói chung và nam trung của Trƣờng Đại học
VHNT Quân đội là những ngƣời có giọng hát tốt, nhƣng không phải ai cũng
75
thể hiện tốt kỹ thuật legato. Để đạt đƣợc hát legato thì tiếng hát phải quyện
miết, lên bổng xuống trầm có sự liên kết với nhau, không bị ngắt quãng, ngân
vang đều đặn và mềm mại. Ngƣời hát phải hít hơi sâu, khống chế nén chặt hơi
và đẩy ra từ từ. Âm thanh phải đƣợc ổn định ở một vị trí, không bị bập bõm.
Đạt đƣợc những điều này thì phải có một quá trình luyện tập lâu dài, có thể
nói là suốt cả quá trình học và trong suốt cuộc đời hoạt động ca hát của ngƣời
ca sĩ.
Trong các bài hát Nga có rất nhiều giai điệu trữ tình cần đến kỹ thuật
legato nhƣ đã phân tích ở 2.1. Với giọng nam trung hệ Trung cấp Trƣờng Đại
học VHNT Quân đội hát các bài hát Nga, thì có thể tiến hành rèn luyện kỹ
thuật thanh nhạc cơ bản rồi sau đó là ứng dụng vào tác phẩm.
2.2.5.1. Luyện thanh với kỹ thuật legato
Để có đƣợc kỹ thuật hát legato cần có phƣơng pháp luyện thanh có
hiệu quả. Ban đầu rèn luyện những mẫu luyện thanh cơ bản, sau đó dần dần
đến các bài có giai điệu khó hơn. Với những học viên năm thứ nhất, bƣớc đầu
làm quen với kỹ thuật legato, nên cho tập luyện các mẫu luyện thanh đơn giản
nhƣ một số mẫu dƣới đây.
Vd số 26:
Nô…ô Na a…. à.
Với mẫu âm trên, cần hát miết âm thanh sao cho quyện vào nhau. Âm
ô cần mở dọc khẩu hình, a thì pha thêm ơ để tránh bẹt tiếng.
Sau khi khởi động với mẫu âm số 1, vẫn với mẫu luyện thanh đó,
chúng ta chuyển sang phát âm với các âm Mi, Ma, Mô...
76
Vd số 27:
Khi học viên đã làm quen, có thể tập luyện với một số mẫu khó hơn:
Vd số 28:
Với mẫu âm này, phải hát liền tiếng, mềm mại trong ba hơi thở (cứ 2 ô
nhịp một hơi), khoảng âm mở rộng hơn so với mẫu trên nên kỹ thuật khó hơn.
Với nhịp độ chậm, yêu cầu học viên phải nén và điều tiết hơi thở, lấy hơi sao
cho khéo léo, không bị lộ sau dấu lấy hơi sau mỗi 2 ô nhịp.
Để mở rộng dần âm vực cho giọng nam trung, luyện legato với mẫu
theo gam và hát với tốc độ chậm:
Ví dụ số 29
Mi .. i.. i… ma a a a
Với mẫu trên cần đặt vị trí âm thanh cho đúng ngay ở nốt đầu tiên, khi
hát các âm liền bậc đi xuống phải giữ cảm giác đều vị trí âm thanh. Luyện cao
dần đến hết tầm cữ giọng của học viên.
2.2.5.2. Ứng dụng kỹ thuật legato vào bài hát Nga
Đa số các bài hát Nga mà sử dụng trong thanh nhạc cho giọng nam
trung hệ Trung cấp là những bài sử dụng nhiều kỹ thuật legato. Sau đây xin
dẫn chứng một số bài tiêu biểu:
77
Vd số 30:
Tạm biệt Moskova
(Trích)
Bài Tạm biệt Moskova có giai điệu khá uyển chuyển, dễ hát với nhịp
độ vừa phải nên phù hợp với hát kỹ thuật legato năm thứ nhất. Hát các âm đầu
câu ở giọng ngực, hơi thở đầy và vang và không cần phải nén hơi quá sâu,
khẩu hình mở dọc phía trong, miệng tƣơi tắn; các âm đƣợc xâu chuỗi liên tục mềm mại. hi lên cao ở nốt d2 cần pha tiếng và bật âm thanh cho chính xác
độ cao cũng nhƣ đúng vị trí vang trên đầu, lƣỡi gà nhấc cao không để âm
thanh lên mũi.
Vd số 31:
Khúc ca ban chiều
(Trích)
78
Giai điệu của bài Khúc ca ban chiều êm đềm dàn trải, nhịp độ chậm
cần kỹ thuật legato với hơi thở vững vàng vì một tiết nhạc khá dài, đòi hỏi
ngƣời hát phải trải qua giai đoạn nén hơi thành thạo, thƣờng phải năm thứ hai
hoặc năm thứ ba mới học bài hát này. hi thực hiện câu hát âm thanh phải
đều vị trí, hát miết quyện vào nhau.
2.2.6. Kỹ thuật staccato
Các bài hát Nga sử dụng mà đƣợc sử dụng trong cho giọng nam trung
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội dƣờng nhƣ không sử dụng kỹ thuật staccato,
nhƣng trong phần này chúng tôi vẫn đề xuất luyện tập staccato, bởi vì đây là
một kỹ thuật thanh nhạc cơ bản nhằm phát triển giọng hát nhƣ: mở rộng âm
vực, luyện khẩu hình…
Staccato là cách hát nảy tiếng, cũng là một trong những kỹ thuật cơ
bản của thanh nhạc nhƣ legato. Hát nảy tiếng còn đƣợc gọi là hát staccato.
Âm thanh gọn, sáng trong, vang nảy nghe thánh thót nhƣ tiếng sáo, tiếng
chim hót [26, tr.71].
Cũng nhƣ legato, staccato là kỹ thuật rất quan trọng trong thanh nhạc,
nhất là thanh nhạc chuyên nghiệp không thể thiếu kỹ thuật này. hác hẳn với
legato là hát các âm miết, quyện liền vào nhau thì staccato không những hát
các âm tách rời nhau mà còn nảy, ngắt ra rất rõ nét, sau mỗi âm tựa nhƣ có
các dấu lặng.
Vd số 32:
79
Trong mẫu âm trên, nốt nhạc đƣợc viết là các móc đơn nhƣng khi hát
phải nảy và ngắt nhanh, tựa nhƣ móc kép và có các lặng kép sau các nốt:
Vd số 33:
Kỹ thuật staccato thƣờng đƣợc vận dụng cho những bài rộn ràng, vui
hoạt, nhí nhảnh hoặc dí dỏm. Kỹ thuật staccato làm cho thanh đới và bộ phận
truyền âm dần dần hoạt động đƣợc linh hoạt..., âm thanh bật nhẹ nhàng, gọn
tiếng sẽ tạo ra thói quen bật âm thanh đúng khi hát liền giọng. Âm nảy còn là
biện pháp sửa những sai lệch về âm sắc nhƣ tật hát sâu, gằn cổ [12, tr.109].
Hát âm nảy có ý nghĩa hết sức quan trọng, cần đƣợc luyện hàng ngày, trong
tất cả các giờ học hát cùng với kỹ thuật legato và các kỹ thuật khác, nhất là
với giọng nam trung khi cần luyện mở rộng âm vực, chuyển giọng đầu và
luyện kỹ thuật bật âm thanh đúng vị trí.
Hát nảy âm không lấy hơi thở sâu, âm thanh bắt buộc phải có vị trí
nông và cao 12, tr.109], hát nhẹ nhàng, gọn tiếng, linh hoạt, kỹ thuật này
đặc biệt áp dụng tốt khi lên các nốt ở âm khu cao, vì thế rất thuận lợi cho việc
mở rộng âm khu. Ngoài ra, luyện tập kỹ thuật staccato làm âm thanh gọn sẽ
bổ trợ cho cách hát nhấn âm, bật âm thanh đúng vị trí sẽ hỗ trợ cho hát
legato… là những điều kiện để hát tốt các bài Nga. Vì vậy, cần thiết phải
luyện các kỹ thuật thanh nhạc nhƣ legato, non legato, staccato… trƣớc khi
vào hát tác phẩm (dù là ở thể loại nào) và với bất cứ loại giọng nào để giọng
hát thông thoáng, âm thanh sáng hơn, đẹp hơn.
Trong giờ học hát cũng nhƣ quá trình học hát, kỹ thuật staccato
thƣờng đƣợc luyện sau legato. Luyện legato để ngƣời học biết cách cơ bản về
80
lấy hơi, vận dụng hơi thở, khẩu hình, vị trí âm thanh… sau đó mới luyện
staccato, ngƣời mới học vài giờ đầu tiên thƣờng không luyện ngay staccato.
Khi dạy hát âm nảy, giảng viên có thể dùng mẫu luyện thanh ở ví dụ
số 34 và nhiều mẫu âm khác nữa:
Vd số: 34
Mẫu âm trên có thể áp dụng vào thời kỳ đầu tập kỹ thuật staccato,
nên hát ở nhịp độ chậm, sau đó nhanh hơn để HV hiểu cách thực hiện. Bật
hơi ở bụng, ban đầu bật chậm, sau đó nhanh hơn.
Có thể luyện mẫu nảy âm kết hợp với legato nhƣ:
Vd số 35:
2.2.7. Luyện tập kỹ thuật marccato (nhấn tiếng)
Trong học thanh nhạc nói chung luyện tập kỹ thuật marccato để hát
nhấn tiếng là một trong những yêu cầu bắt buộc. Các bài hát Nga có một số
bài hành khúc, vì thế, cần thiết phải luyện tập hát nhấn.
Marccato nghĩa là hát nhấn tiếng, nhấn tiếng cũng là một kỹ thuật
nhƣng không đƣợc sử dụng nhiều nhƣ kỹ thuật hát liền tiếng. hi hát
marccato không hát quyện, liền mạch nhƣ legato mà cần nhấn vào từng âm
một cách rõ ràng, dứt khoát bằng cách hơi ngắt một chút ở cuối mỗi nốt nhạc
nhƣng không ngắt nhanh nhƣ staccato. Trƣớc khi hát vào tác phẩm, cần cho
HV luyện một số mẫu âm marccato nhƣ ví dƣới đây:
81
Vd số 36:
Vd số 37:
hi hát nhấn âm cần giữ chắc hơi, bật nhẹ nhàng ra đầu môi một cách
dứt khoát, nhấn và ngắt ở cuối nốt nhạc. Với những mẫu âm trên, cuối các nốt
có nhấn hát tựa nhƣ có dấu lặng kép.
Thông thƣờng, ngƣời viết nhạc thƣờng sử dụng ở phía trên đầu nốt
nhạc dấu > (giống ký hiệu phách mạnh) và dấu - (giống ký hiệu phách mạnh
vừa) với các âm cần hát nhấn tiếng trong những bài hát có tính trữ tình.
Tuy nhiên, với những bài hành khúc chủ yếu sử dụng kỹ thuật
marccato thì ngƣời ta không cần viết các ký hiệu nhƣ trên, nhƣng ngƣời hát
cũng phải hiểu rằng phải hát nhấn tiếng. Trong số các bài hát Nga cho giọng
nam trung có một số bài hành khúc tiêu biểu cần tới hát nhấn tiếng là Bài ca
thời thanh niên sôi nổi, Cuộc sống ơi ta mến yêu người.
Vd số 38:
Bài ca thời thanh niên sôi nổi
(Trích đoạn a)
82
Bài ca thời thanh niên sôi nổi có giai điệu dứt khoát, mạnh mẽ, tiêu
biểu cho cách hát nhấn tiếng. Mặc dù bản nhạc không ghi các dấu nhấn nhƣng
khi hát, ngoài nhấn vào phách mạnh ở đầu nhịp thì phải nhấn hơi mạnh một
chút cả vào phách thứ hai, khác với cách hát legato chỉ nhấn ở phách mạnh.
Nếu hát không nhấn thì sẽ mất tính chất mạnh mẽ, đều đặn, nhịp đi của giai
điệu. Đoạn a hát rung vang ở ngực vì ở âm khu trung và trầm là chủ yếu.
Khẩu hình mở rộng để âm thanh vang đầy đặn, mạnh mẽ, hơi đẩy dứt khoát.
Sang đoạn b, có sự thay đổi về giai điệu nên cách hát cũng có sự xử lý khác
với a:
Vd số 39:
Bài ca thời thanh niên sôi nổi
(Trích đoạn a)
Giai điệu câu đầu của b đƣợc đƣa lên âm khu cao, nếu HV nào có giọng tự nhiên chỉ lên đƣợc đến nốt es2 thì phải luyện tập mở rộng âm vực để lân đƣợc e2. hi hát lên nốt e2 đòi hỏi hơi thở sâu hơn, dùng kỹ thuật đóng
tiếng, tiếng hát vẫn mạnh mẽ nhƣng tha thiết hơn bởi các nốt trắng ngân dài
hơn so với đoạn a.
Nếu nhƣ Bài ca thời thanh niên sôi nổi hầu nhƣ hát nhấn vào từng âm
một cách đều đặn, bởi giai điệu sử dụng nhiều nốt đen thì Cuộc sống ơi ta
mến yêu người có khác đôi chút trong cách xử lý nhấn âm bởi giai điệu có khá
nhiều nốt ngân dài 3 phách. Các âm đƣợc nhấn chủ yếu ở các nốt có trƣờng
83
độ móc đơn chấm dôi. Vì vậy, giai điệu không hùng tráng đều đều tựa bƣớc
chân hành quân nhƣ Bài ca thời thanh niên sôi nổi mà có pha thêm chất trữ
tình tự sự hơn:
Vd số 40:
Cuộc sống ơi ta mến yêu ngƣời
(Trích)
2.3. Phát âm nhả chữ khi hát bài hát Nga
Hiện nay trong dạy học thanh nhạc, nhiều GV và HV chú trọng đến kỹ
thuật âm thanh mà ít quan tâm đến phát âm nhả chữ. Các bài hát Nga đƣợc sử
dụng cho giọng nam trung Trƣờng Đại học VHNT Quân đội chủ yếu đƣợc
dịch và hát bằng tiếng Việt, lời Việt để ngƣời Việt dễ tiếp thu song có một
thực trạng là hiện nay tiếng Nga không phổ biến ở nƣớc ta. HV của Trƣờng
Đại học VHNT Quân đội không học tiếng Nga. Vì thế vấn đề phát âm tiếng
Việt cũng cần lƣu ý trong các bài hát Nga.
Tiếng Việt (lấy giọng Bắc - giọng Hà Nội) làm chuẩn có đặc điểm là
phát âm tiếng một còn gọi là đơn âm nhƣ lại đa thanh (huyền, sắc, nặng,
hỏi, ngã và thanh không), khác hẳn với tiếng Nga và nhiều nƣớc khác là đa
âm nhƣng đơn thanh (không dấu) nhƣng có trọng âm. Sự đa thanh trong tiếng
Việt tạo ra nghĩa rất khác nhau cho một chữ giống nhau nhƣng khác dấu
84
thanh. Ví dụ: đông, đồng, đổng, động, đống; 5 chữ đó cùng giống chữ đông
nhƣng dấu khác nhau cho nghĩa hoàn toàn khác nhau. Vì thế, phát âm không
rõ lời, rõ dấu sẽ khiến ngƣời nghe hiểu nhầm sang nghĩa khác. Dân ca và các
bài hát Việt Nam luôn có giai điệu tuân theo quy luật của dấu thanh để hát
đƣợc rõ lời, không hiểu sai nghĩa. Để đạt điều đó, quy luật đi lên đi xuống của
giai điệu phụ thuộc vào lời ca, nhiều khi phải sử dụng luyến láy để xử lý dấu
thanh trong lời.
Vì không có dấu thanh nên giai điệu trong các bài hát Nga đa phần chỉ
tuân theo quy luật của từ đa âm tiết, còn giai điệu lên cao hay xuống thấp,
luyến hay láy là để diễn tả cảm xúc chứ không phụ thuộc dấu thanh. Khi dịch
các bài hát Nga sang tiếng Việt, các dịch giả đã chú ý điều này và phải phỏng
dịch ý nghĩa là chính chứ không thể hoàn toàn sát nghĩa lời gốc để phù hợp
dấu thanh trong tiếng Việt. Tuy nhiên, cũng chỉ đạt đƣợc một cách tƣơng đối,
bài Chiều ngoại ô Moskova sau đây là một dẫn chứng:
Vd số 41:
Chiều ngoại ô Moskova
(Trích)
Trong câu hát trên đa số tuân theo quy luật dấu thanh của tiếng Việt
nhƣng chữ rì ứng với nốt f1 sau đó chữ rào xuống c1 nên rì nghe nhƣ chữ ri.
85
Điểm cốt lõi để hát cho ra tiếng Việt thì phải tuân theo phát âm tiếng Việt là
trong vành rõ chữ. Cần luyện tập trƣớc khi hát phải đọc các nguyên âm để
cảm nhận màu sắc, xác định đƣợc vị trí âm thanh của từng nguyên âm. Đặc
biệt cần luyện tập khắc phục lỗi bẩm sinh và phát âm giọng địa phƣơng. Xác
định đƣợc vị trí phát âm của âm đầu. Phân biệt vần mở, vần đóng, vần đóng
nhanh, vần đóng chậm để nhả chữ cho tròn vành, rõ chữ trong các bài hát
tiếng Việt. Chú ý với tác phẩm nƣớc ngoài nói chung và bài hát Nga nói riêng
không đƣợc thêm bất cứ nốt luyến láy hoa mỹ nào.
Trong các bài hát Nga ít luyến láy, kỹ thuật hát lại theo lối hát bel
canto cổ điển, nên nếu nhƣ rõ lời của tiếng Việt một cách thái quá lại có thể bị
khô cứng. Vấn đề làm sao vẫn phải mềm mại, rõ mà không thô, không cứng.
Đôi khi cũng phải chấp nhận nhƣờng chỗ cho sự mƣợt mà, đẹp đẽ của âm
thanh song cũng không nên để lời hát bị mờ.
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích
Trên cơ sở các phƣơng pháp dạy học đã trình bày ở trên, chúng tôi
tiến hành thực nghiệm sƣ phạm, nhằm mục đích: iểm định tính khả thi và
đánh giá hiệu quả của các biện pháp dạy ca khúc Nga đã đƣợc trình bày trong
luận văn.
2.4.2. Nội dung v đối tượng thực nghiệm
Chúng tôi chọn 1 học viên có khả năng hát bài hát Nga.
Sinh viên thực nghiệm: Nguyễn Hữu Trung ( hóa 36 năm thứ ba
Trung cấp Thanh nhạc Trƣờng Đại học VHNT Quân đội).
Việc thực nghiệm đƣợc tiến hành ngay trên 1 HV, học hát 2 bài là
Nước Nga của tôi và Chiều ngoại ô Moskova, mỗi bài trong 3 tuần với 2
phƣơng pháp khác nhau. Bài Nước Nga của tôi hát theo phƣơng pháp mới,
tìm hiểu trƣớc ở nhà về nội dung, cách hát có sự trao đổi về kỹ thuật và cách
86
thể hiện với thầy dạy, tìm hiểu tác phẩm, luyện tập kỹ về các bài tập hơi thở,
luyện thanh. Bài Chiều ngoại ô Moskova thì HV học theo phƣơng pháp cũ,
không tìm hiểu trƣớc ở nhà, không có sự trao đổi về kỹ thuật và cách thể hiện
với thầy dạy, không tìm hiểu tác phẩm.
Giảng viên dạy: Lê Xuân Hảo
Thời gian thực nghiệm dạy trên lớp là 3 tiết từ ngày 03/3/2016 đến
ngày 10/3/2016 (1 tuần 2 tiết) với bài Nước Nga của tôi; 3 tiết từ ngày
14/3/2016 đến 21/3/2016 với bài Chiều ngoại ô Moskova.
2.4.3. Tiến h nh thực nghiệm
Tiến hành các phƣơng pháp rèn luyện kỹ thuật nhƣ đã đề xuất trong
chƣơng 2 với bài Nước Nga của tôi
Sau khi giao bài, GV yêu cầu HV tự học thuộc giai điệu bài Nước Nga
của tôi ở nhà và tự tìm hiểu về cấu trúc, đặc điểm âm nhạc của các ca khúc.
hi lên lớp, HV đã ghép đƣợc lời ca khúc cũng nhƣ nắm đƣợc đặc điểm âm
nhạc của bài hát.
Tiết 1:
Giảng viên yêu cầu học viên trình bày các đặc điểm âm nhạc của bài
hát đã tự tìm hiểu trƣớc khi lên lớp
Luyện tập hơi thở, luyện thanh theo các mẫu của legato và các kỹ
thuật cơ bản khác và bắt đầu hát vào giai điệu của bài.
Tiết 2:
Tiến hành áp dụng những phƣơng pháp rèn luyện kỹ thuật đƣợc
nghiên cứu trong luận văn theo các bƣớc từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá
trình dạy và học, giáo viên và HV có thể trao đổi về các kỹ thuật hát để HV
hiểu và thực hiện một cách đạt hiệu quả.
87
Giáo viên cho HV nghe băng đĩa của một số nghệ sĩ đã thể hiện thành
công bài hát để học viên trực tiếp học hỏi và tiếp thu cách hát, cách xử lý tác
phẩm, tuy nhiên trao đổi với thầy về cách thể hiện chứ không đƣợc bắt chƣớc
giống hệt.
Tiết 3:
Tiếp tục hoàn thiện các kỹ thuật và cách thể hiện và hoàn thiện bài
Nước Nga của tôi. HV thực hiện làm theo những yêu cầu của giảng viên
những kiến thức đã học.
Ngoài giờ học trên lớp, HV tự tìm hiểu và tham khảo thêm (cả phần
nội dung và phƣơng pháp thể hiện các bài hát) qua các tƣ liệu khác (nhƣ các
phƣơng tiện truyền thông, sách báo, nghe đài…).
.4.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Sau khi thực nghiệm 3 tuần với với bài Nước Nga của tôi và so sánh
với 3 tuần sau đó với bài Chiều ngoại ô Moskova cũng do HV đó hát, chúng
tôi thấy: do đƣợc học theo phƣơng pháp rèn luyện mới, HV thể hiện tốt hơn
hẳn, nhạc cảm và ra chất của bài hát, khi hát cảm thấy tự tin và GV ít phải làm
mẫu với những chỗ khó, HV hứng khởi khi học hát, nêu ra những suy nghĩ
của mình về hơi thở, vị trí âm thanh và cách thực hiện các kỹ thuật sao cho
phù hợp với bài hát.
Cũng là HV đó nhƣng ở bài Chiều ngoại ô Moskova do học theo
phƣơng pháp cũ, HV thể hiện kém tự tin hơn, GV phải thị phạm làm mẫu
nhiều với những chỗ khó, HV cảm thấy không hứng khởi khi học. Qua trao
đổi, HV nêu ý kiến thích học với phƣơng pháp của bài Nước Nga của tôi hơn.
Tiểu kết
Chƣơng 2 của luận văn đi vào tìm hiểu các biện pháp rèn luyện kỹ
thuật cho giọng nam trung để hát các bài hát Nga đặc điểm của các bài hát
88
Nga sử dụng cho giọng nam trung và phân tích về các biện pháp, phƣơng
pháp rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cơ bản cho giọng nam trung hệ Trung cấp
Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội.
Đặc điểm của các bài hát Nga đƣợc phân tích ở các khía cạnh: cấu trúc
để HV có thể biết cách phân ngắt lấy hơi, hiểu đƣợc cấu trúc tác phẩm; giai
điệu để tìm hiểu âm vực, tính chất, màu sắc… và áp dụng vào thể hiện tác
phẩm cho phù hợp.
Các biện pháp, phƣơng pháp rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cơ bản của
giọng nam trung đƣợc nghiên cứu là: khẩu hình, hơi thở, cộng minh, đóng
giọng, legato, marccato, staccato, xử lý sắc thái to - nhỏ… Đây là các kỹ thuật
phù hợp để có thể hát tốt các bài hát Nga với đặc trƣng chủ yếu là giai điệu
trữ tình, trong đó kỹ thuật legato đƣợc sử dụng nhiều nhất. Ngài ra, các kỹ
thuật marccato để thực hiện cho một số bài hành khúc. ỹ thuật staccato
không có trong các bài hát Nga nhƣng vẫn đƣợc luyện tập để phát triển giọng
htá, khắc phục cố tật, mở rộng âm vực …
Ngoài ra, chƣơng 2 còn đƣa ra một số lƣu ý trong hƣớng dẫn rèn luyện
kỹ thuật thanh nhạc để thể hiện bài hát Nga đối với GV cho HV để đạt kết quả
tốt nhất.
89
KẾT LUẬN
Thanh nhạc là một trong những chuyên ngành trọng tâm trong chƣơng
trình đào tạo của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội. Và khoa Thanh nhạc là
một khoa truyền thống, đã đạt đƣợc nhiều thành tích, có nhiều đóng góp to
lớn cho sự nghiệp đào tạo diễn viên ca hát chuyên nghiệp của quân đội và
đất nƣớc. Nơi đây đã đào tạo đƣợc rất nhiều thế hệ ca sĩ là chiến sĩ - nghệ sĩ
chuyên nghiệp.
Một trong những hệ đào tạo của hoa là hệ Trung cấp 4 năm. Các HV
giọng nam trung của hệ Trung cấp đƣợc tuyển chọn từ những giọng hát có
chất bẩm sinh tốt, thậm chí một số HV còn có khả năng biểu diễn thanh nhạc
vƣợt trội khi đặc cách tuyển sinh, đƣợc đào tạo bài bản, qua 4 năm đa số đáp
ứng đƣợc tiêu chuẩn của mục tiêu đào tạo, trở thành những diễn viên có kỹ
thuật vững vàng, chủ động, sáng tạo trong phong cách biểu diễn, tạo nên
những dấu ấn riêng của bản thân ngƣời ca sĩ. Tuy nhiên, cũng có những
trƣờng hợp không thành công trong sự nghiệp ca hát. Để thành công trong ca
hát rất cần có sự rèn luyện về mặt kỹ thuật thanh nhạc một cách công phu,
liên tục, và kiên trì.
Từ những ý nghĩa thiết thực đó, đòi hỏi những GV giảng dạy ở Khoa
thanh nhạc vừa phải giỏi chuyên môn giỏi đồng thời phải có phƣơng pháp sƣ
phạm phù hợp để việc đào tạo các HV đạt đƣợc hiệu quả cao nhất.
Giọng nam trung ở Việt Nam không nhiều và đa số chỉ đạt đến tiêu
chuẩn Việt Nam, còn theo tiêu chuẩn thế giới thì vẫn có những điểm khác biệt
lớn về độ dày, độ vang so với chất giọng châu Âu. Để giọng nam trung của
ngƣời Việt Nam và của HV Trƣờng Đại học VHNT Quân đội đạt đến độ
chuẩn quốc tế thì vấn đề đào tạo kỹ thuật giọng hát ở các cơ sở chuyên nghiệp
hết sức quan trọng.
90
Dạy học thanh nhạc cho HV nói chung và HV giọng nam trung hệ
Trung cấp Thanh nhạc của Trƣờng Đại học VHNT Quân đội trong nhiều năm
qua đã có những thành công, HV Trung cấp Thanh nhạc sau khi tốt nghiệp đã
nắm đƣợc những kiến thức và kỹ năng hát cơ bản, biết điều tiết hơi thở, hát
cộng minh, vận dụng các kỹ thuật legato, staccato, hát nhấn… vào thể hiện tốt
các tác phẩm thanh nhạc đƣợc giao... Ra trƣờng, học đã trở thành những chiến
sĩ-nghệ sĩ phục vụ quân đội và đất nƣớc. Nhiều em đã đoạt đƣợc giải trong
các kỳ thi lớn trong nƣớc và cả quốc tế. Tuy nhiên, để thanh nhạc chuyên
nghiệp phát triển và đạt đƣợc những thành tích hơn nữa thực trạng dạy học
thanh nhạc vẫn còn có những bất cập cả về dạy lẫn học, đòi hỏi cần có những
đổi mới.
Trong chƣơng trình dạy học Thanh nhạc hệ Trung cấp Thanh nhạc của
Trƣờng Đại học VHNT Quân đội có sử dụng ca khúc Nga. Ca khúc Nga đã
đóng góp rất nhiều vào nền âm nhạc Việt Nam, đã có hơn 100 bài hát Nga
đƣợc dịch sang tiếng Việt, trong đó, những ca khúc bất tử trong tâm hồn
ngƣời Việt nhƣ: Triệu đóa hồng, Đôi bờ, Tình ca du mục, Kachiusa, Chiều
ngoại ô Matxcơva, Mẹ yêu dấu của tôi, Bài ca thời thanh niên sôi nổi, Cây
thùy dương, Xiberi nở hoa, Nụ cười, Đỉnh núi Lê-nin, Cuộc sống ơi ta mến
yêu người... Các ca khúc Nga không chỉ dừng lại ở việc đƣợc ngƣời Việt Nam
yêu thích nữa mà còn đƣợc đƣa vào dạy học ở một số trƣờng VHNTchuyên
nghiệp tại nƣớc ta trong đó có trƣờng Đại học VHNTQuân Đội.
Luận văn đã đi vào tìm hiểu và phân tích về các biện pháp, phƣơng
pháp rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cơ bản để thể hiện các bài hát Nga cho
giọng nam trung hệ Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT
Quân đội.
Để thể hiện tốt các bài hát Nga, trƣớc khi tìm hiểu các kỹ thuật thanh
nhạc, luận văn đã dành một mục để phân tích đặc điểm âm nhạc của các bài
91
hát Nga dành cho giọng nam trung ở các khía cạnh cấu trúc, giai điệu, âm
vực… nhằm trang bị những kiến thức cần thiết về tác phẩm nhƣ phân ngắt hơi
thở, tính chất giai điệu, từ đó áp dụng vào học thanh nhạc. Các biện pháp,
phƣơng pháp rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cơ bản của giọng nam trung đƣợc
nghiên cứu là: khẩu hình, hơi thở, cộng minh, đóng giọng, legato, marccato,
staccato, phát âm nhả chữ tiếng Việt và tiếng Nga. Đây là các kỹ thuật phù
hợp để có thể hát tốt các bài hát Nga với đặc trƣng chủ yếu là giai điệu trữ
tình, trong đó kỹ thuật legato đƣợc sử dụng nhiều nhất.
Tất cả các kỹ thuật nêu trên chú trọng vào đặc thù giọng nam trung
của HV Trung cấp Thanh nhạc tại Trƣờng Đại học VHNT Quân đội, nhằm
phát triển giọng hát nhƣ mở rộng âm khu, hát đóng tiếng, cộng minh, sửa cố
tật... để cuối cùng là thể hiện tốt bài hát Nga.
Với nền tảng lý luận đã nêu, trên cơ sở tìm hiểu thực tiễn về đặc điểm
khả năng ca hát, thực tiễn trong dạy học thanh nhạc và bằng những phƣơng
pháp nghiên cứu điều tra, quan sát, nghiên cứu kết quả học tập, trao đổi với
GV thanh nhạc..., để từ đó chúng tôi đƣa ra những phƣơng pháp rèn luyện kỹ
thuật, nâng cao chất lƣợng dạy học thanh nhạc cho giọng nam trung trong thể
hiện bài hát Nga.
Qua luận văn này chúng tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong mục
tiêu nâng cao hiệu quả trong rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc,chất lƣợng đào tạo
cho giọng nam trung hệ trung cấp Thanh nhạc Trƣờng Đại Học VHNT Quân
đội nói riêng, và đào tạo thanh nhạc nói chung.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn Cẩn (2003), Những cơ sở khoa học của một nền thanh nhạc dân tộc ,
Thông báo khoa học (số 8), Viện Âm Nhạc, Hà Nội.
2. Báo Vnexpress đăng ngày 27/6/2016, truy cập ngày 20/8/2017.
3. Trịnh Thúy Giang (2013), Bài gi ng Lý luận dạy học hiện đại, ĐHSP Hà
Nội.
4. Phạm Lê Hòa (2013), Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb Âm nhạc, Hà
Nội.
5. Phạm Tú Hƣơng (1997), Lý thuyết âm nhạc cơ b n, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
6. Mai Khanh (1976), Tuyển tập Thanh nhạc, Trƣờng Âm nhạc Việt Nam,
Hà Nội.
7. Mai Khanh (1976), iáo trình đại học thanh nhạc, Trƣờng Âm nhạc Việt
Nam, Hà Nội.
8. Nguyễn Trung iên (2007), iáo trình chuyên ngành thanh nhạc bậc đại
học (Soprano – năm thứ nhất), Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch -
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Nxb Hà Nội.
9. Nguyễn Trung iên (2007), iáo trình chuyên ngành thanh nhạc bậc đại
học (Soprano – năm thứ hai), Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch - Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam Nxb Hà Nội.
10. Nguyễn Trung iên (2007), iáo trình chuyên ngành thanh nhạc bậc đại
học (Soprano – năm thứ ba), Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch - Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam Nxb Hà Nội.
11. Nguyễn Trung iên (2007), iáo trình chuyên ngành thanh nhạc bậc đại
học (Soprano – năm thứ tƣ), Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch - Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam Nxb Hà Nội.
93
12. Nguyễn Trung iên (2001), Phương pháp sư phạm thanh nhạc, Bộ văn
hóa Thông tin, Nhạc Viện Hà Nội, Viện Âm nhạc.
13. Nguyễn Trung iên (2001), iáo trình gi ng dạy thanh nhạc hệ Trung
Cấp, Bộ Văn hóa Thông tin, Nhạc Viện Hà Nội, Viện Âm nhạc.
14. Nguyễn Trung iên (2014), iáo trình chuyên ngành thanh nhạc bậc đại
học (Tái bản lần thứ 2), Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
15. Hồ Mộ La (2005), Lịch sử nghệ thuật Thanh nhạc phương Tây, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
16. Hồ Mộ La (2008), Phương pháp dạy thanh nhạc, Nxb Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
17. Trần Ngọc Lan (2011), Phương pháp hát tiếng Việt trong nghệ thuật ca
hát, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Vũ Tự Lân dịch (1985), Lý thuyết âm nhạc cơ b n, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
19. Hoàng Long – Hoàng Lân (2009), Thực hành Sư phạm Âm nhạc, Nxb Đại
học Sƣ phạm, Hà Nội.
20. Vĩnh Long (1976), Sự tròn vành rõ chữ của tiếng hát dân tộc, Nxb Bộ
văn hóa.
21. Nguyễn Thị Tố Mai (2014), Opera Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Tố Mai (2014), iáo trình Lịch sử âm nhạc thế giới - phần
châu Âu t khởi đầu đến cuối thế kỷ XIX hệ ĐHSP Âm nhạc, Trƣờng
ĐHSP Nghệ thuật TW.
23. Nguyễn Thị Tố Mai (2016), Bài gi ng Lý luận về PPDH Thanh nhạc,
Trƣờng ĐHSP Nghệ thuật TW.
24. Lƣu Xuân Mới, Lý luận DH Đại học, Nxb Giáo dục, 2000.
25. Ngô Thị Nam (2004), Hát (Giáo trình Cao dẳng Sƣ phạm - Phần năm thứ
nhất), Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
94
26. Ngô Thị Nam (2007), iáo trình Hát- Tập2, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà
Nội.
27. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa – văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội.
28. Phan Ngọc (2002), B n sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Nhiều tác giả (1981), Các thể loại âm nhạc (Lan Hƣơng dịch), Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Nhung (1988), Gi ng nhạc, Nxb Âm nhạc và Nhạc viện Hà
Nội, Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Nhung (1996), Thể loại âm nhạc, Nxb Âm nhạc, Nhạc viện
Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Nhung (1997), Hình thức âm nhạc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Hoàng Phê (2010), T điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
34. Lô Thanh (1996), iáo trình đại học thanh nhạc, Học viện Âm nhạc Huế,
Thừa Thiên - Huế.
35. Phạm Thị Kim Thoa (2016), Rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc cho giọng nữ
cao hệ Trung cấp Trường Đại học VHNTQuân đội, Luận văn Thạc
sĩ chuyên ngành Lý luận và phƣơng pháp dạy học Âm nhạc, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Nghệ thuật TW.
36. Trần Diệu Thúy (1999), Tính khoa học trong gi ng dạy và giáo trình
thanh nhạc, Luận văn Cao học chuyên ngành Thanh nhạc, Học viện
Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
37. Trƣờng Đại học VHNTQuân đội, Trường Đại học VHNTQuân đội 60 năm
xây dựng và trưởng thành (2015), Nxb Quân đội nhân dân.
38. Nguyễn Văn Tuấn (2009), Tài liệu bài gi ng Lý luận dạy học, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật TP.HCM
95
39. Thái Duy Tuyên (2008), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới,
Nxb Giáo dục.
40. Đào Trọng Từ - Đỗ Mạnh Thƣờng - Đức Bằng (1984), Thuật ngữ và ký
hiệu âm nhạc thường dùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội
41. Tô Vũ (1996), Sức sống của âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Âm
nhạc, Hà Nội.
42. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1999), Đại t điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
96
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƢƠNG
LÊ XUÂN HẢO
DẠY HÁT CA KHÚC NGA
CHO GIỌNG NAM TRUNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC
VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI
PHỤ LỤC LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội, 2017
97
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Chiều hải cảng ............................................................................ 98
Phụ lục 2: Chiều ngoại ô Moskova ............................................................ 99
Phụ lục 3: Đỉnh núi Lê nin .......................................................................... 100
Phụ lục 4: Đừng hát ngƣời đẹp ơi, khi có mặt tôi ....................................... 101
Phụ lục 5: Giờ này anh ở đâu ...................................................................... 102
Phụ lục 6: húc ca ban chiều ...................................................................... 103
Phụ lục 7: Nghệ sĩ với cây đàn .................................................................... 104
Phụ lục 8: Nƣớc Nga Tổ quốc tôi ............................................................... 105
Phụ lục 9: Tạm biệt Moskova ..................................................................... 106
Phụ lục 10: Thời thanh niên sôi nổi ............................................................ 107
Phụ lục 11: Tôi yêu em ............................................................................... 109
Phụ lục 12: Cuộc sống ơi, ta mến yêu ngƣời .............................................. 110
98
99
CHIỀU NGOẠI Ô MOSKOVA
100
101
102
103
104
105
106
107
vv
108
109
110