Các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ

xuất nhập khẩu trên thế giới

Tác giả

 Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy

định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình.

Đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực

của mình cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân

tán rủi ro các ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp

ứng kịp thời mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn

đồng hành không thể thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá

trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu

Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các

hình thức sau:

Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ

Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất

khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuẩt

khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch)

với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận

một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền

thanh toán do nhà nhập khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời.

Nhà xuất khẩu lúc này có thể yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ

chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.

Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu

chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:

Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một

phần.

Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như

chiết khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.

Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu

từng phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ

ngắn hạn phục vụ nhu câu tiền mặt tạm thời.

Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ

Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được

hưởng lợi. Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể

sử dụng L/C để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp

lưng) hoặc nhà xuất khẩu có thể đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu

các hối phiếu của bộ chứng từ thư tín dụng, ngoài ra với một L/C cho phép

bán lại chứng từ đòi tiền nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng chuyển nhượng toàn

bộ quyền sở hữu một thư tín dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận

được một khoản tín dụng từ ngân hàng.

Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C

điều khoản đỏ, nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập

khẩu vào thời điểm xác định trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá,

các điều khoản ứng trước thường được quy định trong một điều kiện thuận

lợi cho các bên thực hiện.

Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp

cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu

chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng

trước, vật bảo đảm của nhà xuất khẩu khi nhận tiền ứng trước.

Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước

cùng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù

hợp). Nếu nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ

phù hợp với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này

ở ngân hàng mở L/C.

Tín dụng chiết khấu hối phiếu

ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán tức

là mua lại các khoản nợ phải đòi.

Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau khi

trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác

định theo công thức:

Tck: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu

P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu

Lck: lãi chiết khấu

Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ

này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh

toán, hình thức và giá trị hối phiếu.

Ưu điểm:

Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản

tín dụng cung ứng.

Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản

tiền chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn.

Những quy định của luật hối phiếu vẫn cho phép ngân hàng truy thu khoản

nợ từ người xuất trình hối phiếu (nó như một dạng tín dụng ứng trước cho

người xuất khẩu).

Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông

thường nhất trong hoạt động ngoại thương.

Quy trình chiết khấu hối phiếu

Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu

đòi nợ tới nhà nhập khẩu.

Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho

nhà xuất khẩu.

Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu.

Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài

khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ

thu).

Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết

khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.

Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà

nhập khẩu và đề nghị thanh toán.

Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị

thanh toán.

Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài

khoản của mình.

Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, chi

phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được

thực hiện.

Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu

chuyển hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến

Ngân hàng Trung ương.

10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có

thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu.

10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu.

Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá

Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ

hàng hoá trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều

kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu

hối phiếu. Lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu.

Có 2 loại:

Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ,

nếu không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu ->

lãi suất thấp.

Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên

nước ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của

khách hàng.

Cho vay thông thường

Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền

để họ sử dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả

gốc và lãi.

Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng

khác ra đời và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay

ngắn hạn(<12 tháng) và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với

những yêu cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho

vay dài hạn để cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng…

Thông thường, các nhà XNK vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận

chuyển, thu mua hàng xuất khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các

doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại,

nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.

Ưu điểm:

Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối

tượng, mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân

hàng để xin được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi

yêu cầu trong nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay.

Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho

món vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.

Nhược điểm:

Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì

giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng

hóc, mất mát.

Thanh toán “factoring” và “forfaithing”:

+ Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt

động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt

động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ

này là tính miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu

trước đó nếu các chứng từ là bằng chứng cho các khoản nợ không được thanh

toán khi đến hạn. Khác với hoạt động mua lại chứng từ thanh toán, hoạt động

factoring không sử dụng các tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để có thể chào

khách hàng bằng cách tài trợ này, gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập

cơ sở đặc biệt, chuyên dụng vì factoring không phải là nghiệp vụ ngân hàng.

Hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường

xuyên theo định kỳ hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau

trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm.

Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng được những điều kiện sau mới được

phép mua bán:

Những khoản thanh toán phải tồn tại một cách hợp pháp.

Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản

thanh toán này.

Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.

Những khoản thanh toán phải đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền của người

thứ ba.

Không có việc cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập

khẩu hoặc nước nhập khẩu.

Forfaithing: kỹ thuật factoring được chuyên môn hoá cao gọi là forfaithing.

Về cơ bản nghiệp vụ này giống nghiệp vụ factoring ở những đặc điểm sau:

Forfaithing chỉ bao gồm những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn

bộ quá trình xuất nhập dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu nói riêng.

Thời hạn thanh toán của forfaithing là trung và dài hạn, áp dụng với loại tiền

tệ có khả năng chuyển đổi mạnh USD, DEM…

Factoring phục vụ XNK không sử dụng tới chứng từ còn forfaithing dựa vào

chúng và sự đảm bảo của ngân hàng.

Tín dụng nhập khẩu

Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình

thức như cho vay mở L/C, tín dụng chấp nhận hối phiếu…

Cho vay mở L/C

Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết

trả tiền cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát

trong phạm vi số tiền đó khi họ xuất trình toàn bộ chứng từ phù hợp với nội

dung của L/C.

Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ

Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gởi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở

một L/C cho người xuất khẩu hưởng.

Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập L/C và thông qua ngân

hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu thông báo việc mở L/C tới nhà xuất

khẩu.

Sau khi nhận được thông báo, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà

xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì

chuyển ngay cho nhà xuất khẩu.

Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không

thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng.

Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và

xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh

toán.

Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh

toán cho nhà xuất khẩu.

Ngân hàng phát hành kiểm tra toàn bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C

thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối

thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu.

Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà

nhập khẩu sau khi nhận tiền thanh toán.

9. Ngày nhận nợ và tính lãi cho vay mở L/C là ngày nhà nhập khẩu phải

thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C).

10. Đối với nhà nhập khẩu việc mở thư tín dụng đã thể hiện việc ngân hàng

cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở

theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Nhưng thực tế không phải lúc nào nhà nhập

khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Vì

vậy ngân hàng mở L/C phải gánh chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không có

khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền.

10a. Khi ngân hàng mở L/C trả chậm cho nhà nhập khẩu, ngân hàng đã gián

tiếp cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì khi có sự chấp nhận bảo lãnh trả tiền

của ngân hàng thì nhà xuất khẩu mới đồng ý cho nhà nhập khẩu mua chịu

hàng hoá. Nếu nhà nhập khẩu sử dụng vốn tự có để mở L/C đến hạn thanh

toán với bên nước ngoài mà nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì

họ phải nhận nợ với ngân hàng và chịu lãi xuất phạt bằng 150% lãi suất cho

vay. Do vậy nhà nhập khẩu thường sử dụng việc vay để mở L/C trên cơ sở

hợp đồng đã ký.

10b. Khi mở L/C cho nhà nhập khẩu, nếu ngân hàng khống chế số dư có trên

tài khoản của khách hàng thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ

do khoảng cách giữa thời gian mở L/C và thời gian nhận hàng tương đối dài.

Vì vậy, để hạn chế rủi ro ngân hàng thường cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu

theo hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng phải kiểm tra khả năng kinh

doanh của nhà nhập khẩu, tình hình tài chính, đối tượng nhập khẩu… để có

cơ sở vững chắc trước khi mở L/C.

Tín dụng chấp nhận hối phiếu

Đây là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu. Ngân

hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh

toán. Như vậy, nhà xuất khẩu sẽ được đảm bảo thanh toán khi đến hạn.

Hình thức này thường được sử dụng khi người bán thiếu tin tưởng vào khả

năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua có một ngân hàng

đứng ra chấp nhạn trả tiền hối phiếu do họ ký phát.

Đây chỉ là một hình thức bảo đảm về mặt tài chính cho nhà nhập khẩu. Nếu

đến hạn thanh toán, người mua có đủ tiền thanh toán thì ngân hàng được nhận

một khoản phí chấp nhận, thật sự ngân hàng không phải ứng tiền ra. Ngược

lại, nếu đến hạn thanh toán mà người mua không có khr năng thanh toán thì

ngân hàng phải gánh chịu thiệt hại.

Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại rất nhiều ưu điểm cho hoạt động xuất

nhập khẩu:

Đối với nhà xuất khẩu, với sự chấp nhận của nhà nhập khẩu, họ có sự bảo

đảm chắc chắn về khả năng thanh toán của hối phiếu và họ có thể đem hối

phiếu đi chiết khấu lại tại bất kỳ ngân hàng nào. Sự chấp nhận của ngân hàng

đã tạo ra khả năng lưu thông cho hối phiếu đồng thời cũng tạo điều kiện cho

nhà xuất khẩu được hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi.

Đối với nhà nhập khẩu, với hình thức này anh ta sẽ tạo được uy tín đối với

nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu có đủ khả năng thanh toán cho nhà xuất

khẩu khi đến hạn. Mặt khác, nhà nhập khẩu cũng có thể đem chiết khấu hối

phiếu tại một ngân hàng khác có tỷ lệ chiết khấu thấp hơn và từ khoản thu

chiết khấu này nhà nhập khẩu có được mức giá mua ưu đãi nếu thanh toán

trước hạn.

Tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ (kỳ phiếu)

Hối phiếu tự nhận nợ là dạng hối phiếu khống trong đó ngân hàng tự nhận nợ

đối với nhà nhập khẩu. Thông qua hối phiếu này, ngân hàng cấp cho nhà

nhập khẩu một khoản tín dụng đạ biệt gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự

nhận nợ.

Hình thức này giúp cho các nhà nhập khẩu hưởng một khoản ưu đãi do việc

thanh toán nhanh trong giao dịch ngoại thương khi ngân hàng phục vụ họ

không có đủ vốn.

Quy trình chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ

Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với nhà xuất khẩu với điều kiện thanh toán khi

giao chứng từ. Nhà nhập khẩu có thời gian 90 ngày để chi.

Nhà nhập khẩu ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở

hối phiếu tự nhận nợ.

Để thực hiện hợp đồng tín dụng này, ngân hàng nhà nhập khẩu thông báo và

đề nghị một ngân hàng nớc ngoài (phần lớn là ngân hàng chi nhánh của họ)

phát hành một hối phiếu tự nhận nợ có thời hạn thanh toán là 90 ngày và

được phép thanh toán tại ngân hàng nhà nhập khẩu và chuyển ngay hối phiếu

cho nhà nhập khẩu.

Ngân hàng chi nhánh thực hiện đề nghị trên (phát hành hối phiếu tự nhận nợ

và chuyển cho nhà nhập khẩu)

Nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu tự nhận nợ cho chính ngân hàng phục vụ

mình và đề nghị cung cấp hôí phiếu.

Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ và ghi có

vào tài khoản cho nhà nhập khẩu.

Nhà nhập khẩu thực hiện thanh toán theo đúng kỳ hạn cho nhà xuất khẩu.

Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đem hối phiếu giao cho ngân hàng Trung

ương.

Đến thời hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương xuất trình hối phiếu cho

ngân hàng nước ngoài đề nghị thanh toán.

Ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài chấp nhận thanh toán trên cơ sở chuyển

vốn từ ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu hoặc từ tiền mà nhà nhập khẩu trả.

Tín dụng ứng trước cho nhà nhập khẩu

Với hình thức này, ngân hnàg sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm

bảo. Nhà nhập khẩu được cung cấp tín dụng theo hình thức ứng trước khi họ

cần phải thanh toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu hoặc khi nhà nhập khẩu cần

thnah toán bộ chứng từ hàng hoá chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu

thụ được hàng hoá để thu hồi vốn, hình thức này được ngân hàng áp dụng

cho mục đích thanh toán ngắn hạn của nhà nhập khẩu.

Tín dụng theo hiệp định khung

Đây là một hình thức tín dụng dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài nhằm hỗ

trợ cho việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm

của các nước xuất khẩu.

Tín dụng theo hiệp định khung là một hình thức tín dụng có điều kiện, các

ngân hàng nước xuất khẩu ký kết một hiệp định khung với các ngân hàng

nước ngoài cho phép các ngân hàng này sử dụng những khoản tín dụng riêng

rẽ nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền

công nghệ từ nước họ (ít nhất 60% giá trị hàng hoá mua bán được sản xuất

hoặc có xuất sứ từ nước tài trợ).

Hình thức này được các nước phát triển sử dụng để cung cấp tín dụng cho các

nước đang phát triển. Đây là một hình thức có nhiều ưu điểm:

Đối với nhà xuất khẩu:

Họ có điều kiện cạnh tranh với đối thủ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi

cho nhà nhập khẩu, hàng hoá của họ sẽ được ưa chuộng hơn.

Hạn chế được những rủi ro kinh tế, chính trị ở nước ngoài, đặc biệt họ giữ

được khả năng tài chính của mình.

ổn định cán cân thanh toán.

Đối với nhà nhập khẩu:

Họ có nhiều thuận lợi, có thể thanh toán từng phần công trình, máy móc thiết

bị đã nhập khẩu, đặc biệt có thể sử dụng phần lợi nhuận từ việc tiêu thụ sản

phẩm do các máy móc thiết bị nhập khẩu sản xuất ra để thanh toán.

Ưu điểm là hình thức tín dụng này thường có thời gian dài, nhà nhập khẩu sẽ

dễ dàng thu xếp được khả năng tài chính để thanh toán.

Đặc điểm của lãi suất cho vay là có thể sử dụng lãi suất thả nổi hoặc lãi suất

cố định. Ngoài ra còn có một khoản phí suất tín dụng bao gồm:

+ Phí bảo hiểm: Được tính một lần trên giá trị khoản vay. Nếu do người nhập

khẩu trả thì có thể được ngân hàng nước nhập khẩu xem xét cho vay thanh

toán một lần trước khi giải ngân hoặc trả dần suốt thời gian vay.

+ Phí cam kết: Được tính theo tỷ lệ % trên doanh số vốn vay còn lại chưa

được giải ngân.

+ Phí quản lý: Tính theo tỷ lệ % trên giá trị hợp đồng vay vốn và phải được

thanh toán trước khi giải ngân.

Nếu chọn lãi suất cố định thì chỉ phải trả hai loại phí bảo hiểm và phí cam

kết, nếu sử dụng lãi suất thả nổi thì phải trả cả ba loại phí trên.

Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp

Nhà nhập khẩu sau khi ký hợp đồng mua bán với nhà xuất khẩu nếu họ

không có đủ tiền thì có thể xin vay ngân hàng theo phương thức đề nghị ngân

hàng chuyển trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng đại lý ở nước

ngoài.

Trong trường hợp nhà nhập khẩu đủ khả năng thanh toán, họ sử dụng hình

thức chuyển tiền thì ngân hàng chỉ thực hiện hình thức dịch vụ thông thường

và thu phí.

Quy trình tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp

Giao dịch hàng hoá giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu.

Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền.

Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý.

Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu.

Ngân hàng đại lý phải hoàn thành việc chuyển tiền.

Ngân hàng nhập khẩu báo nợ cho nhà nhập khẩu.

Thông thường sau khi nhận hàng hoá ngân hàng đại lý mới chuyển tiền để

tránh bị nhà xuất khẩu chiếm dụng vốn.

Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, ngành ngân

hàng trên thế giới đã áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động của mình.

Chính vì vậy mà có nhiều hình thức tín dụng còn rất xa lạ đối với chúng ta.

Tuy nhiên hy vọng rằng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ áp dụng tất cả

những nghiệp vụ dụng những công nghệ hiện đại trong hệ thống ngân hàng

góp phần đáp ứng nhu cầu tài chính nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất.

Bảo lãnh

Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các

thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng..).

Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.

Trong ngoại thương, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm rõ khả năng tài chính

để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, do vậy nhà xuất khẩu

sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra

baỏ lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau,

nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh

giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng,

Ngân hàng bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước

ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng chứng từ… Trách

nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong

trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó

với bên nước ngoài.

Bảo lãnh có nhiều hình thức khác nhau:

Phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài.

Mở L/C trả chậm

Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận hối phiếu.

Lập giấy cam kết trả nợ nước ngoài.

V..v..

Đối với tái bảo lãnh thì phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài.

Các lợi thế của các bên trong nghiệp vụ này:

Đối với nhà nhập khẩu: được hưởng một khoản vốn từ nhà xuất khẩu không

phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính vào lãi rồi). Chỉ phải trả một

khoản phí cho người bảo lãnh.

Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm đến hạn sẽ được thanh toán nợ.

Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại ngân hàng

khác.

Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất cứ ngân hàng nào khi tiến hành nghiệp

vụ bảo lãnh có nghĩa là có được sự tín nhiệm về uy tín của bên nhập khẩu và

bên xuất khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chi cho vay trừu

tượng, nghĩa là ngân hàng không phải bỏ ra một khoản vốn nào cả mà chi lấy

uy tín, danh dự của ngân hàng làm cơ sở cho vay.

Thủ tục bảo lãnh theo phưng thức cho vay thông thường, nghĩa là khi bảo

lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin bảo lãnh, nếu nhà

nhập khẩu không có khả năng thanh toán thì phải làm thủ tục vay tại ngân

hàng, khoản tín dụng này là tín dụng bắt buộc.