
Các phương pháp điều trị rối loạn tâm thần
1. Đại cương
1.1. Đặt vấn đề: Những thế kỷ trước đây, dưới sự thống trị của nhà thờ và chế độ
phong kiến, bệnh nhân tâm thần hầu như không được điều trị mà chỉ đuợc nhận
các hình thức cực hình tàn bạo. Từ năm 1793, bác sĩ người pháp Pilippe Pinel
(1745 – 1826) đã mang “hơi ấm của tình người” (chaleur humaine) đến cho các
người bệnh tâm thần ở 2 trại: Bicetre và Salppetriere. P. Pinel là người đầu tiên đã
xoá bỏ xiềng xích, cải tạo hoàn cảnh, cải tiến chế độ săn sóc cho bệnh nhân tâm
thần, Ông đã đưa những bệnh nhân tâm thần về vị trí người bệnh theo đúng nghĩa
của nó.
Từ sau năm 1973 đến nay, việc điều trị bệnh nhân tâm thần có nhiều tiến bộ, nhiều
phương pháp điều trị khác nhau lần lượt ra đời. Đặc biệt chú ý là từ khi người ta
tìm ra các loại thuốc hướng tâm thần (psychotrop) thì tâm thần học chuyển một

giai đoạn mới-giai đoạn xác định được vị trí của mình trong sự phát triển chung
của Y học. 1.2. Phân loại các phương pháp điều trị tâm thần: Cho đến nay các
phương pháp điều trị bệnh tâm thần có thể chia ra làm 2 nhóm liệu pháp chính:
1.2.1. Các liệu pháp sinh học: + Liệu pháp sinh học tác động trực tiếp lên cơ thể
gọi là khách thể sinh học, + Liệu pháp sinh học tác động lên bệnh tật gọi là các
quá trình sinh học bao gồm:
- Các liệu pháp chung: - Các liệu pháp hoá dược - Các liệu pháp chuyên biệt.
1.2.2. Các liệu pháp tâm lý - xã hội: Tác động lên nhân cách người bệnh, lên
người bệnh với tư cách là một khách thể xã hội nhằm hồi phục năng lực của người
bệnh, sớm đưa người bệnh trở lại với đời sống xã hội. 1.3. Những quan điểm tiến
bộ về điều trị từ thế kỷ thứ XVIII – XIX: Về phương diện điều trị bệnh tâm thần
trong giai đoạn từ thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ thứ XIX đã đạt được nhiều
tiến bộ có tính chất nhảy vọt với nhiều phương pháp phong phú rất khác nhau đã
làm cho Tâm thần học thay đổi bộ mặt một cách cơ bản. + Năm 1917,
W.V.Jauregg đề xuất gây cơn sốt rét điều trị bệnh liệt tuần tiến do giang mai. +
Năm 1934, Sakel (Áo) dùng phương pháp sốc insuline. + Năm 1935, V. Meduna
(Hungari) gây cơn co giật bằng thuốc cardiazon. + Năm 1938, U, Cerletti, L.Bini (
ý ) gây cơn co giật bằng điện. + Năm 1949, V,A, Giliarovsky dùng máy gõ nhịp
gây ngủ. + Ngoài ra còn có một số biện pháp khác được thực hiện để điều trị bệnh
nhân tâm thần như Cloetta gây ngủ bằng thuốc. + H. Laborit đề xuất phương pháp
điều trị bệnh nhân tâm thần bằng đông miên kết hợp với liều thuốc cocktailytique.

2. Các phơng pháp điều trị bệnh tâm thần
2.1. Liệu pháp hoá dược: * Lịch sử nghiên cứu thuốc hướng tâm thần. + Từ thời
xa xưa , ở Ấn độ người ta đã biết sử dụng cây “ rắn cắn” để chữa các chứng bệnh
mất trí, mất ngủ, nghi bệnh. + Vào năm 1582, Leonhard Rau wolfia – bác sĩ người
Đức đã mô tả cây “ rắn cắn ” và gọi là rawolfia serpentina bentami. Ngoài tác
dụng giảm đau, hạ huyết áp, thuốc này còn có tác dụng điều trị một số trạng thái
hưng phấn tinh thần.
+ Năm 1850, người ta sử dụng chloralhydrat chống các trạng thái kích động tâm
thần. + Năm 1903, veronal đã được sử dụng trong lâm sàng. + Năm 1912, sử dụng
phenobarbital để gây ngủ kéo dài. Ở Việt Nam, dưới sự thống trị của chế độ phong
kiến và thực dân các bệnh viện tâm thần hầu như không có, bệnh nhân tâm thần
không được điều trị. Theo các tài liệu của y học cổ truyền dân tộc, từ thế kỷ XVIII
Hải Thượng Lãng Ông đã có những quan niệm bước đầu về các rối loạn chức năng
tâm thần. Ông đã giải thích co giật động kinh là “ âm thuộc thuỷ, thuỷ thuộc huyết,
huyết sinh ra cơ nhục, khí huyết bị hư thì không có tác dụng vinh nhuận cho gân,
xương do đó mà tay chân rời rạc” ( trong hải y cầu nguyện). Hiện nay, tâm thần
học nước ta đã kế thừa được di sản quý báu của ông cha và tiếp thu được những
kiến thức hiện đại của tâm thần học thế giới. Chúng ta đã và đang áp dụng rộng rãi
các thành tựu mà ngành tâm thần học thế giới đã đạt được trong các lĩnh vực

nghiên cứu, điều trị và giảng dạy. • Sự ra đời của các thuốc hướng tâm thần trong
thế kỷ thứ XX. + Sự ra đời của thuốc an thần kinh đã đánh dấu một mốc son cho sự
phát triển của kỷ nguyên mới các thuốc hướng tâm thần. Năm 1949, Charpentier
đã tổng hợp thành công chlorpromazin, Năm 1952, các nhà tâm thần học pháp, J.
Delay va J. Deniker, lần đầu tiên sử dụng chlorpromazin vào lâm sàng tâm thần
cho kết quả tốt và đã mở ra một thời kỳ mới cho việc dùng thuốc chữa bệnh tâm
thần như các bệnh nội khoa khác. Từ đó, người ta liên tiếp tổng hợp được nhiều
loại thuốc hướng tâm thần khác nhau. + Trên cơ sở tác dụng của thuốc hướng tâm
thần, nhiều phương pháp điều trị khác nhau đã ra đời và phát huy tác dụng như:
liệu pháp tâm lý, liệu pháp lao động và các liệu pháp tái thích ứng xã hội khác.
Những liệu pháp này làm cho bệnh nhân tâm thần ngày càng được điều trị toàn
diện hơn. + Liệu pháp hoá được là một biện pháp chữa bệnh tâm thần, của P. Pinel
được xem là cuộc cách mạng thứ hai. Nó đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của tâm thần
học. + Liệu pháp hoá học được cho phép giảm số bệnh nhân nội chú, giảm số ngày
nằm viện và đại đa số bệnh nhân có thể được điều trị ngoại chú với kết quả tốt. +
Liệu pháp hoá học đã thu hẹp phạm vi của liệu pháp sốc điện đến mức thấp nhất. +
Liệu pháp hoá dược đã cải thiện mối quan hệ thầy thuốc với bệnh nhân, bệnh nhân
với bệnh nhân, bệnh nhân với gia đình, và cộng đồng. Nhờ đó, bệnh nhân tâm thần
có thể được gia đình, cộng đồng, chấp nhận và dung nạp ngày càng nhiều hơn, +
Liệu pháp hoá dược đã thật sự làm giảm được sự đau khổ cho người bệnh tâm
thần, duy trì được khả năng lao động, làm giảm được các hành vi nguy haị, đỡ
được một phần gánh nặng cho gia đình và xã hội. + Về kiến trúc bệnh viện tâm

thần, hệ thống mở đã thay thế hệ thống kín, xoá bỏ ấn tượng bệnh viện tâm thần là
nhà tù. Có thể xây dựng bệnh viện tâm thần ngay giữa thành phố nơi dân cư đông
đúc, gần gũi với cộng đồng. • Liệu pháp co giật bằng hoá dược: + Năm 1935
Meduna người Hungari dùng camphora 25% tiêm bắp thịt để gây co
giật. Nhưng phương pháp này có nhược điểm là khó xác định được liều lượng,
thời gian tiềm tàng khá lâu, có cơn co giật tái phát. Do đó, chẳng bao lâu biện
pháp này đã được thay thế bằng cardiazon 10% * 4 – 6 ml tiêm tĩnh mạch nhanh
(1ml trong thời gian /1 giây). Liều gây co giật trung bình là 5 – 6 ml. + Esquibil (
1958), dùng indoclon dạng khí có thể gây co giật. Như vậy, rõ ràng là tác dụng của
liệu pháp gây co giật chính là tác dụng của cơn co giật. 2.2. Liệu pháp sốc điện: +
Năm 1935, một bác sĩ người Ý là U.Cerletti tình cờ phát hiện tượng sốc điện ứng
dụng để xử trí những trường hợp kích động tâm thần vận động. + Năm 1938, cũng
một bác sĩ người Ý là L. Bini nghiên cứu sáng chế ra máy sốc điện cơ bản gồm
một bộ tạo ra các dòng xung điện gọi là bộ tạo xung Trigơ. + Sốc điện (electro-
convulsive therapy – ECT), Về thực chất là đưa một dòng xung điện ngoại lai gây
cộng hưởng với dòng điện não. Dòng điện này làm quá ngưỡng hoạt động của các
tế bào thần kinh thuỳ trán hoặc thuỳ thái dương, tạo ra cơn co giật kiểu động kinh
và một tình trạng hôn mê ngắn, xoá đi toàn bộ những chức năng hoạt động tâm
thần được hình thành trong quá trình sống cũng như các rối loạn tâm thần được
hình thành trong quá trình bị bệnh. Sau một liệu trình gây sốc thì chỉ có các chức

