
73
Cập nhật chẩn đoán và điều trị bệnh nguyên bào nuôi
Mai Trọng Dũng1*, Lê Hoài Chương1, Đoàn Thị Thu Trang1, Đào Minh Hưng1, Đinh Thị Mỹ Linh2, Lê Linh Huyền1
1 Bệnh viện Phụ sản Trung ương
2 Trường Đại học Y Hà Nội
Tóm tắt
Bệnh nguyên bào nuôi thai kỳ (Gestational trophoblastic disease – GTD) phát sinh từ bánh rau bất thường bao gồm
các thể bệnh từ tiền ác tính tới ác tính. Dịch tễ học của GTD khác nhau ở nhiều vùng trên thế giới. Ngoài mô bệnh học,
các nghiên cứu di truyền giúp ích đáng kể cho chẩn đoán. Siêu âm và xét nghiệm hCG có thể phát hiện sớm chửa
trứng và giúp ích rất nhiều trong điều trị. Theo dõi hCG huyết thanh là cần thiết để chẩn đoán sớm u nguyên bào nuôi
(Gestational Trophoblastic Neoplasia – GTN) và thời gian theo dõi hCG khác nhau tùy thuộc vào loại chửa trứng. GTN
nguy cơ thấp (điểm nguy cơ < 7) được điều trị bằng đơn hóa trị và có thể yêu cầu các hóa chất bổ sung, tỷ lệ sống đạt
gần 100%; GTN nguy cơ cao (điểm nguy cơ ≥ 7) được điều trị đa hóa trị và có thể cân nhắc phẫu thuật nhằm cắt bỏ
nhân di căn, tỷ lệ khỏi khoảng 90%. Với các trường hợp có điểm nguy cơ rất cao, hóa trị ban đầu bằng liều thấp giúp
giảm nguy cơ tử vong cho người bệnh.
Từ khóa: chửa trứng, u nguyên bào nuôi, bệnh nguyên bào nuôi.
Update on the diagnosis and management of gestational trophoblastic
disease
Mai Trong Dung1*, Le Hoai Chuong1, Doan Thi Thu Trang1, Dao Minh Hung1, Dinh Thi My Linh2, Le Linh Huyen1
1 National Hospital of Obstetrics and Gynecology
2 Hanoi Medical University
Abstract
Gestational trophoblastic disease (GTD) arises from abnormal placenta and is composed of a spectrum of
premalignant to malignant disorders. Changes in epidemiology of GTD have been noted in various countries. In
addition to histology, molecular genetic studies can help in the diagnostic pathway. Earlier detection of molar
pregnancy by ultrasound and hCG has resulted in improving treatment effectiveness. Follow-up with hCG is essential
for early diagnosis of gestational trophoblastic neoplasia (GTN) and the duration of hCG monitoring varies depending
on histological type and regression rate. Low risk GTN (FIGO score < 7) is treated with single agent chemotherapy
and may require additional agents, overall survival approaches 100%. High-risk GTN (FIGO score ≥ 7) is treated with
multiagent chemotherapy, with or without adjuvant surgery for excision of resistant foci of disease, achieving a
survival rate of approximately 90%. For cases with very high-risk scores, gentle induction chemotherapy helps reduce
early deaths in patients with extensive tumor burden.
Keywords: molar pregnancy, gestational trophoblastic neoplasia, gestational trophoblastic disease.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1740
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Mai Trọng Dũng, email: maitrongdung@yahoo.com
Nhận bài (received): 19/9/2024 - Chấp nhận đăng (accepted): 04/10/2024
1. TỔNG QUAN
Bệnh nguyên bào nuôi là nhóm bệnh lý bất thường liên
quan đến thai nghén. Về mặt mô học, bệnh nguyên bào
nuôi gồm các tổn thương tiền ác tính như chửa trứng hoàn
toàn (complete hydatidiform mole), chửa trứng bán phần
(partial hydatidiform mole) và các tổn thương ác tính gồm
chửa trứng xâm nhập (invasive mole), ung thư nguyên bào
nuôi (choriocarcinoma), u nguyên bào nuôi vùng rau bám
(placental site trophoblastic tumor) và u nguyên bào nuôi
dạng biểu mô (epithelioid trophoblastic tumor).
Các tổn thương ác tính có thể tiến triển từ bất kỳ hình
thái thai nghén nào. Có khoảng 15 - 20% chửa trứng hoàn
toàn và 0,5 - 5% chửa trứng bán phần tiến triển thành ung
thư nguyên bào nuôi [1].
Khái niệm bệnh nguyên bào nuôi gần đây còn bao
hàm cả các tổn thương nốt, mảng vùng rau bám (atypical
placental site nodule) do có khoảng 10 - 15% các tổn
thương này tiến triển thành u nguyên bào nuôi vùng rau
bám và u nguyên bào nuôi dạng biểu mô [2].
Siêu âm và xét nghiệm hCG rất quan trọng chẩn đoán
sớm, theo dõi tiến triển và giám sát sau điều trị đối với
bệnh nguyên bào nuôi.
Ngày nay, hầu hết bệnh nguyên bào nuôi đều được
chữa khỏi hoàn toàn kể cả các hình thái ác tính.
PHỤ KHOA - KHỐI U
Mai Trọng Dũng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):73-77.
doi: 10.46755/vjog.2024.4.1740