Chm Khắc Trang Trí Phật Giáo
Đời Lý
Điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc bit phải k đến nhiều bức chạm nổi trên đá
tinh khéo như chm bạc,c trạm trên gốm và kim loại quý. Những bức chm này
ngoài việc trang trí cho các b tượng và bia đá, thường gắn liền với ...
một s đề tài quen thuộc: sóng, hoa lá, rồng mây, chim và c hình người nữa. Những
đề tài này phn ln được s dụng ph biếnthường xuyên trên nhiều di vật thuộc
những di tích khác nhau c v thời gian và không gian, mà trong tính hằng xuyên ấy, từng
giai đoạn lớn lại có dấu ấn riêng.
Phong cách biểu hiện của chúng tuy có biến diễn, nhưng trước sau vẫn thống nhất,
cũng lối s dụng những đường nét cong thanh, hình khối tròn chắc và dẻo trên các tượng,
cũng lối chm t m đến tinh tế điêu luyện, dùng nhiều đường lượn đầy chất trang trí
trên các mặt phẳng, chúng dàn trải kín các đồ án với s cân đối nhịp nhàng và nguyên tắc
chặt chẽ. Chính s ổn định của đời sống xã hội đã tạo s ổn định tương đối của ngh
thuật, mọi hình tượng của m thuật đều tr thành chuẩn mực và có ý nghĩa. Cùng một đề
tài nhưng trên các di tích khác nhau c v thời gian và không gian, hình hiện ra luôn
một cái chung thanh tú, tinh tế, tươi mát, mềm mại, tròn trịaổn định đến chuẩn mực.
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn s 10) điêu khắc
Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải k đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo như
chạm bạc,c trạm trên gốm và kim loại quý. Những bức chm này ngoài việc trang trí
cho các b tượng và bia đá, thường gắn liền với kiến trúc, trang trí các b phận của kiến
trúc như mặt ngoài của Tháp, lan can, thành bậc, cửa, chân tảng kê cột... với một s đề tài
quen thuộc: sóng, hoa lá, rồng mây, chim và c hình người nữa. Những đề tài này phần
lớn được s dụng ph biếnthường xuyên trên nhiều di vật thuộc những di tích khác
nhau c v thời gian và không gian, mà trong tính hằng xuyên ấy, từng giai đoạn ln lại
có dấu ấn riêng.
Ph biến nhất là sóng, thường được chạm phần dưới cùng của b tượng, tr rồng,
đế bia và nhiều mảng chm những đề tài khác, có khi thành một dải ngang kéo dài viền
dưới các đồ án như chân tảng cột Chùa Phật Tích (Hà Bắc), lan can bậc cửa của Chùa
Bà Tấm (Hà Nội) và Chùa Hương Lãng (Hải Dương), dim chân các mảng trang trí mặt
ngoài Tháp Chương Sơn (Hà Nam Ninh) và Tháp Chùa Đọi (Hà Nam Ninh) có khi xếp
chồng chất nhau thành nhiều đợt dàn ngang ph kín c mặt bên chân bia Tháp Chương
Sơn và Tháp Chùa Đọi, ph kín nửa dưới b tượng Phật Chùa Phật Tích và tr rồng
Thăng Long (Hà Nội), ph kín c mặt ngoài lan can Tháp Chương Sơn,khi được
chạm rất sâu và thành những hình ln xếp vây quanh các khu đất vuông và tròn Chùa
Giạm (Hà Bắc)...
Cùng là sóng nhưng có tới ba loi bất c đồ án nào cũng có hai loại sóng kết
hợp lại. Loại sóng chung cho mọi đồ án, gồmmột hoặc vài dây dàn ngang, uốn lượn
theo hình sin doãn nhịp nhàng, nếu nhiều dây thì cùng bước sóng nhưng độ cao khác
nhau tạo cảm giác ngọn sóng xô v trước, trong mỗi ngọn sóng cũng như giữa hai ngọn
sóng lại có những ngọn sóng ph không chân. Loại sóng này được mọi người thống nhất
gọi là sóng nước. Trên đợt sóng nước, tùy từng di tích lại chạm một trong hai loại sóng
thắt chân hình nấm hoặc doãn chân hình núi, hai loại sóng sau chưa bao gi cùng xuất
hiện trong một di tích. di tích sm như Chùa Phật Tích, dù trên b tượng Phật, tảng
chân cột hay tr búp, dù ch một đợt hay tới năm đợt chồng nhau thì đềusóng thắt chân
hình nấm. Mỗi ngọn sóng thường có ba lớp to nh lồng nhau, mô típ sóng có t hai đến
ba tầng tạo bởi những ch thắt gãy của đường cong parabol, cuối ngọn sóng b gấp cong
vào tạo cho chân sóng k tiếp bên. Sóng Chùa Giạm vẫn như sóng Chùa Phật Tích,
nhưng rồi có th xem là cái cầu trung gian sóng ờn Bách ThoNội vẫn thắt chân và
ba lp, nhưng giữa ngọn sóng và chân sóng không gãy gấp nữalượn ngược chiều t
t thu vào, và vẫn uốn võng bắc sang chân sóng k tiếp bên. Đến sóng các Tháp
Chương Sơn, Tháp Đọi, và Chùa Bà Tấm... thuộc đầu thế k XII tuy vẫn ba lớp lồng
nhau nhô cao nhưng kéo dài n, và các lp t trong ra có s tầng 1, 2 và 3 chân sóng m
ra bắt liền sang sóng bên tạo thành những dây uốn lượn nhịp nhàng theo hình sin gẫy
khúc. Loại sóng th ba này từng ngọnmột hình núi, nhưng c dãy dài lại gần với sóng
nước trong loại sóng cao đầu. c ba loại sóng, giữa 2 ngọn sóng chính bao gi cũng lấp
ló ngọn sóng phụ. mặt lan can bậc cửu Tháp Chương Sơn loại sóng doãn chân được
chồng chất tới 10 đợt trên một mặt đá gợi ra c một s mênh mông của biển c hay trùng
điệp của núi rừng. Mỗi ngọn sóng va chạm chân nông và càng lên càng sâu dần, chúng
tiếp nhận ánh sáng khác nhau, tạo ra một s chuyển động theo c hai chiều ngang và dọc,
triền miên vô tận. Cái hình sóng ấybiểu trưng của sóng nước (loại sóng hình sin), của
cây (loại sóng thắt thân hình nấm), của núi (loại sóng doãn chân hình núi) hay đều
sóng nước, thì trong ý tưởng thm m với s xếp chồng cắp đôi cũng đềum chứa một
sức mạnh, một s sống phát triển người đương thời mong cầu được phúc.thế, trên
phần trang trí sóng, bao gi cũng là phn trang trí hoa lá, rồng mây, dàn nhạc, chim hình
người thm chí là tượng Phật...
Trong nhiều đồ án, dọc ( diềm Tháp Chương Sơn Đọi) hay ngang ( b
tượng Chùa Phật Tích), hoặc nghiêng ( lan can thành bậc cửa ChùaTấm và Chùa
Hương Lãng) phía trên của sóng thườngnhững hình hoa lá. các đồ án hoa xếp dọc
phía dưới cùng thường có cây lan lá dài xòe sang hai bên; góc giữa hai cuộn dây bao
lấy hoa sen hoặc hoa cúc, có bông hoa nh đơn giản. Trên nn nổi giữa các ô rồng Tháp
Chương Sơnnhững hoa dây tay leo loăn xoăn, mỗi khúc cuộn lạimột nhành quay
li cuộn tròn tr ra một bông hoa nhìn ngang đơn giản, ngoài những hoa lá trên, điển hình
là hoa lá trong Chùa Tháp thời Lý là hoa sen và hoa cúc, mỗi bông hoa dù sen hay cúc
đều được n gọn trong một vòng dây uốn tròn tr nhiềumọc đối nhau. Hoa sen và hoa
cúc được nhìn dưới góc độ khác nhau nên rất phong phú, đều n rực r và c xếp xen k
nhau. C hai loại hoa này đều ph biến nước ta và sớm được người xưa chọn làm
những biểu tượng. Hoa sen trong m cảm dân tộcbiểu th cho s thanh tao, trong sạch
“gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”; trong Phật thoại và trong triếthoa sendấu
hiệu âm vì mọc bùn mà sống trong nước; trong Phật giáo hoa sen là hình tượng trưng
cho đức Phật và s giác ng Phật pháp. Còn hoa cúc là biểu th của s đạo mạo, là dấu
hiệu của dương, biểu trưng của mặt trời tượng trưng cho ẩn sĩtăng lữ. T thế k
XIV, Trần Nguyên Đán trong bài thơ Quan đề hình Mai Thôn cho xem bài thơ “Ngm
cúc thành Nam”, nhân theo vần đã khám phá hoa cúc nhiều ý nghĩa:
“Hoa cúc là khí mạnh và tài năng c trời đất,
Coi thường c uy của sương và s lấn của tuyết.
...
Đừng trách cái tình hoa của mùa lạnh, n quá muộn,
Vì chốn phồn hoa không phảich nổi tiếng của hoa này.
(Càn khôn túc khí d lương năng
Ngạo tận sương uy d tuyết lăng.
...
Mạc quái hàn anh khai thái vãn,
Phồn hoa vô x tr danh xưng.)
Hoa sen và hoa cúc được chạm xen kẻ, trong s tươi mát c toát ra thế cân bằng của
s hoà hợp gia hai yếu t khác biệt để tạo thế thống nhất, đó là cuộc sống, cũngcầu
phúc cho cuộc sống con người.
Một trong những hình ngh thuật được chạm ph biến thi Lý, có trên nhiều Chùa
Tháp ln, là con rồng.xuất hiện hàng loạt, nhưng trong mỗi đồ án thường có một hay
hai con rồng. Rồng đơnth nằm gọn trong các ô hình tròn ( mặt tròn trang trí Tháp
Chương Sơn), hình vuông chéo thành hình thoi (sườn bia Tháp Chùa Đọi), hình ch nht
(b tượng Phật Tháp Chương Sơn), hình nửađề (mặt Tháp Chương Sơn). Rồng đôi
thường chầu nhau hoặc đuổi nhau trong ô hìnhnh hoa sen ( chân cột Chùa Phật Tích),
hình ch nhật (b tượng Phật Chùa Phật Tích) và hình đề ( trang trí Tháp các Chùa
Phật Tích Chương Sơn), trên những di vật lớn như cột đá Chùa Giạm, đế các bia
Chùa Đọi, và Tháp Chương Sơn, những gặp rồng khổng l cũng chầu nhau nhưng thân
quấn quít đăng đối.