
CHÂM TÊ
(Kỳ 1)
I. ĐẠI CƯƠNG
Châm tê là phương pháp dùng kim châm vào một số huyệt để nâng cao
ngưỡng đau, giúp người bệnh có thể chịu đựng được cuộc mổ trong trạng thái
tỉnh; cảm giác sờ, nóng, lạnh hầu như không thay đổi, chỉ có cảm giác đau giảm
xuống rõ rệt; tình trạng vận động hầu như không bị ảnh hưởng.
Phương pháp châm tê dựa trên nguyên lý châm có thể chống đau và điều
chỉnh chức năng sinh lý của cơ thể của châm cứu.
Hiện nay, số ca mổ châm tê trên thế giới đã lên đến hàng trăm vạn, được
tiến hành ở nhiều nước (Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Ý, Nhật, Mỹ, Ấn Độ, Xiri-
Lanca, Miến Điện, Liên Xô....) thu được kết quả nhất định và được coi là một
trong những phương pháp vô cảm. Nhưng cũng không phải không còn ý kiến bàn
cãi, trong số đó có người cho cảm giác tê là do bệnh nhân bị ám thị.

Dựa trên thực tiễn trong nước có thể khẳng định, nếu chọn đúng đối tượng,
châm tê có thể phát huy được tác dụng của nó và có thể dùng trong nhiều loại phẫu
thuật.
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CHÂM TÊ
Năm 1958, ở Trung Quốc có một số thầy thuốc đã mạnh dạn thử dùng kim
kích thích vào huyệt để thay thế thuốc tê. Họ bắt đầu bằng những việc rất đơn giản
như châm để giảm đau khi thay băng, giảm đau sau khi cắt amiđan. Sau một thời
gian nghiên cứu, họ đã thành công trong việc dùng châm tê để cắt amiđan. Từ đó
đến nay, các thầy thuốc Trung Quốc đã áp dụng thành công châm tê vào các loại
mổ nhỏ, vừa và lớn vào khoảng 100 vạn ca ở các lứa tuổi khác nhau.
Những công trình nghiên cứu về cơ chế tác dụng của châm tê cũng được
tiến hành ở nhiều nước trên thế giới về các mặt thần kinh, thần kinh - thể dịch và
cũng đã đạt được nhiều kết quả.
Những cơ sở đầu tiên mổ châm tê ở Việt Nam là Viện Chống lao Trung
ương (1969) mổ cắt thùy phổi và cắt xẹp sườn; Viện Đông y (1970) mổ cắt 2/3 dạ
dày; Bệnh viện Việt Đức (1972) mổ bướu cổ, tụ máu dưới màng cứng sọ não;
Quân y Viện 9 (1972) mổ chấn thương. Nguyễn Tài Thu, Hoàng Bảo Châu là
những người thầy thuốc Việt Nam đầu tiên thực hiện châm tê để mổ những bệnh
ngoại khoa nói chung và phục vụ cho giải phẫu các vết thương chiến tranh.
Sau đó phong trào nghiên cứu áp dụng châm tê được triển khai trong các
bệnh viện quân đội, bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện tỉnh và huyện.

Song song với việc nghiên cứu áp dụng để phục vụ sức khỏe cán bộ, quân
đội và nhân dân, các thầy thuốc nước ta còn tiến hành khảo sát châm tê trên các
mặt nghiên cứu lâm sàng và khai thác khả năng châm tê trong các loại mổ chấn
thương, thẩm mỹ, nhằm khắc phục hậu quả vết thương chiến tranh và áp dụng nó
có sáng tạo, có sửa đổi cho phù hợp với một số loại mổ và với điều kiện cụ thể của
mình.
Khi áp dụng châm tê, nước nào cũng đang tìm cách khắc phục 3 tồn tại của
châm tê (chưa hết đau hoàn toàn, cơ giãn chưa tốt, còn các phản ứng khi co kéo
nội tạng) và cũng đã đạt một số kết quả.
III. PHƯƠNG PHÁP CHÂM TÊ
A. VẤN ĐỀ NGƯỜI BỆNH TRONG CHÂM TÊ ĐỂ MỔ
1. Chọn người bệnh, loại bệnh phải mổ:
Nói chung nên chọn người bệnh bình tĩnh, khi châm thử dễ đắc khí và có
khả năng làm theo lời khuyên của thầy thuốc ngay trong lúc mổ. Nên chọn loại
bệnh mà thời gian mổ không quá dài ở mọi lứa tuổi, tốt nhất là thanh niên trở lên,
cả nam lẫn nữ, có hay không có chống chỉ định gây mê bằng thuốc (như các bệnh

nhân có chức năng hô hấp, chức năng gan, chức năng thận kém; dị ứng với thuốc,
...).
2. Hướng dẫn, dặn dò người bệnh:
Khi mổ châm tê nếu người bệnh càng bình tĩnh thì càng thuận lợi cho cuộc
mổ. Hơn nữa họ còn phải làm theo hướng dẫn của thầy thuốc, chủ động giữ gìn
cho hơi thở ít bị rối loạn. Do đó, cần phải hướng dẫn để người bệnh yên tâm, bình
tĩnh phối hợp tốt với kíp mổ.
3. Bảo vệ người bệnh:
Công việc này giúp sự phối hợp giữa thầy thuốc và người bệnh tốt nhất. Cụ
thể là giữ vững tinh thần, động viên người bệnh bằng những kỹ thuật chuyên môn
của mình, giảm bớt sự đau đớn, kịp thời điều hòa chức năng sinh lý của người
bệnh đã bị cuộc mổ làm ảnh hưởng.
Châm tê chưa làm hết đau hoàn toàn: có người bệnh, có thì mổ còn khó
chịu nên có những phản ứng như co cứng, thở hổn hển, tim đập nhanh, huyết áp
tăng... Do còn tỉnh nên trạng thái tinh thần của họ ảnh hưởng rất lớn đến sự đáp
ứng sinh lý của cơ thể đối với tác dụng của châm cũng như đối với kích thích của
cuộc mổ.
Khi căng thẳng quá, cảm giác về đau lập tức nhạy bén, có thể cảm thấy đau
trước khi bị đau, ngưỡng đau đồng thời trở nên rất thấp, trên cơ sở đó mọi thao tác

của ngoại khoa đều có thể gây đau... cho nên phải phòng trước và phải giữ cho sự
hiệp đồng giữa thầy thuốc và người bệnh được hài hòa.