
1
SỞ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG TRUNG CẤP BÁCH KHOA BÌNH DƯƠNG
Địa chỉ: Số 89 Đại lộ Độc Lập, khu phố Thống Nhất 2, phường Dĩ An,
thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Điện thoại: 0283.729.6689; Email: bdp.edu.vn@gmail.com
Website: bdp.edu.vn
GIÁO TRÌNH
BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC
DÙNG CHO ĐÀO TẠO: TRUNG CẤP
NGÀNH: Y HỌC CỔ TRUYỀN

2
BÀI 1
ĐẠI CƯƠNG VỀ BÀO CHẾ ĐÔNG DƯỢC
I. Khái niệm môn học bào chế
Bào nghĩa là dùng sức nóng để thay đổi lý tính và dược tính của thuốc, tiện
cho việc chế biến và điều trị.
Chế nghĩa là dùng công phu thay đổi hình dạng, tính chất của dược liệu.
Nói chung, bào chế là công việc biến đổi tính thiên nhiên (thiên tính) của
dược liệu thành những vị thuốc để phòng và trị bệnh. Trong tiếng Việt thường
dùng danh từ thuốc chin đối nghĩa với danh từ thuốc sống, chữ chin có đủ nghĩa
của hai chữ bào chế.
Tài liệu xưa để lại lâu đời nhất là quyển Bào chế luận của Lôi Hiệu (Trung
Quốc), sau đổi thành Lôi Công bào chế. Quyển này vẫn có giá trị cho tới ngày
nay.
II.Mục đích của việc bào chế
- Bỏ các tạp chất lẫn lộn trong dược liệu: mốc, sâu mọt.
- Để dễ thái miếng, dễ bảo quản, dễ tán ra bột hoặc dễ nấu cao để chế thành thuốc
- Bỏ bớt vài bộ phận không cần thiết của dược liệu và làm cho vị thuốc tinh khiết
thêm lên (mạch môn bỏ lối, ngưu tất bỏ đầu).
- Giảm bớt độc tính của dược liệu (mã tiền, bán hạ, hoàng nàn...)
- Thay đổi tính năng của vị thuốc bằng cách tẩm sao cho hoạt chất dễ tan vào nước
để dễ đồng hóa, vị thuốc dễ thấm hút dung môi (quy, hoàng bá, bạch thược.. .tẩm
rượu)
III. Yêu cầu của việc bào chế
Trần Gia Mô (1562) đời Minh có nói : “Bào chế cốt ở chỗ vừa chừng, non
quá thì khó kiến hiệu, già quá thì mất khí vị”

3
Câu này là một cách ngôn mấu chốt cho tất cả mọi người làm công tác bào
chế Đông dược.Nhưng thế nào gọi là vừa chừng? Đạt được điều này này rất khó,
cần phải biết được: cắt thái nên dày hay nên mỏng, sao nên già hay nên non...
Kỹ thuật bào chế đông dược trông qua thất đơn sơ, nhưng nó đòi hỏi ở
người bào chế nhiều kinh nghiệm, đã làm lâu năm trong nghề.
Có hai yêu cầu chính sau đây:
- Bảo đảm chất thuốc (phẩm chất), kỹ thuật đúng.
- Người bào chế giỏi, ngoài sự hiểu biết về dược tính, còn phải tùy từng trạng thái,
phẩm chất của vị thuốc, tùy từng yêu cầu của bài thuốc mà định việc bào chế được
vừa chừng.
IV.Các dụng cụ bào chế thông thường
Bàn chải (long, tre, đồng): để chải cho sạch đất, cát, nấm bám lên dược liệu
Giần, sàng: để phân chia, chọn lọc dược liệu theo nặng, nhẹ cho được thêm
tinhkhiết.
Dao thái (sắt, inox): thái, cắt dược liệu cho nhỏ. Thường dược liệu có chất
chát thì không dùng dao sắt mà dùng dao inox.
Dao cầu: để thái dược liệu to, cứng
Dao bào: Để bào những dược liệu đã được ủ mềm.
Cối, chày: để giã dập hoặc nghiền tán bột. Luyện thuốc hoàn thường là cối
bằng đồng, đá, sứ, gang...
Thuyền tán bàng gang để tán dược liệu đã sấy khô thành bột nhỏ, khi tán
nên để giấy sạch ở dưới và xung quanh thuyền tán để hứng lấy bột vương vãi ra,
tán bằng chân phải rửa sạch chân trước khi vào tán.
Rây: thường dùng rây mua ngoài chợ, rây này tương ứng với rây số 26-24
của Tây y, bột rây này khó làm viên nén được.

4
Siêu (đất, men, thủy tinh): để sắc thuốc.
Chảo: thường dùng bằng gang để sao thuốc. Khi nấu dùng nồi nhôm hoặc
inox
Cóng: nồi nhôm hay đất để chưng thuốc.
Chõ: bằng đất hay nhôm, đồng, inox để đồ dược liệu cho mềm hoặc cho
chin
Các dụng cụ trên đây còn thô sơ, khi dùng phải rửa thật sạch, tiệt trùng bằng
cách đốt cồn, nếu cần phải cơ giới hóa các dụng cụ bào chế đông dược, tránh luộm
thuộm và thủ công.
V.Một số dạng thuốc bào chế thông thường
a.Thuốc phiến
b.Thuốc sắc
c.Thuốc cao nước
d.Thuốc hoàn
e.Thuốc tán
Thuốc phiến là dạng thuốc dùng nhiều nhất để bốc thuốc thang. Các dạng
thuốc khác không nhiều thì ít đều qua dạng thuốc phiến.
A. Các thủ thuật bào chế thuốc phiến
Công việc bào chế thuốc phiến rất nhiều, nhưng có 4 loại chính:
-Làm bằng tay
-Dùng nước
-Dùng lửa
-Dùng lửa và nước
1.Làm bằng tay

5
1.1. Làm sạch dược liệu
- Rửa: các dược liệu trước khi đưa ra bào chế cần phải được rửa sạch thường
là các loại củ, rễ hột.. .(huyền sâm, tam thất, cam thảo...)
Các rễ, củ phức tạp thì cần tách nhỏ rồi mới rửa.
Có những vị khi rửa không nên ngâm lâu vì mất chất (cam thảo, sinh địa...)
hoặc không rửa được (bối mẫu, quy...)
Dược liệu có muối cũng phải rửa cho sạch bớt muối (côn bố, hải tảo, diêm
phụ...)
Các hoa, cành nhỏ (cúc hoa, hồng hoa) không nên rửa, chỉ chọn lọc hoặc
sàng, sảy để loại bỏ tạp chất
-Sàng, sảy: dùng giần, sàng để loại bỏ các tạp chất lẫn trong dược liệu (tử tô, mạn
kinh tử, lien kiều, cúc hoa...)
-Chải, lau: dùng bàn chải lông, tre mềm để chải các dược liệu như: hoài sou, các
loại sâm...Khi chải, lau có thể dùng nước, dùng rượu, xong rồi đem sấy lại cho
khô. Cách này còn dùng để làm sạch các lông gây ngứa ở thân, lá (bồng bồng)
1.2.Chọn lọc
Bộ phận dùng của dược liệu phải chọn lựa để dùng cho thích họp, đáp ứng
với yêu cầu tác dụng của vị thuốc.
Bỏ gốc, mắt: ma hoàng dùng phát hãn thì dùng thân, bỏ rễ, bỏ đốt (nhưng
thường dùng cả đốt)
Bỏ rễ con, lông: vì ít tác dụng lại gây tác hại, làm nặng thang thuốc (hoàng
liên, hưong phụ, xương bồ, tri mẫu).
Bỏ hạt: hạt là hột cứng trong dược liệu, không có tác dụng thì bỏ đi: ví dụ
hạt ô mai (nhưng ít khi bỏ), sơn tra, sơn thù...