
28 -
CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO TRONG QUẢN LÝ VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
ThS Phan Thị Cẩm Lai*
TÓM TẮT
Bài viết khái quát những kết quả của chính phủ kiến tạo (CPKT) trong công tác quản lý,
điều hành phát triển kinh tế ở Việt Nam. Dựa trên phương pháp nghiên cứu định tính bằng
cách sử dụng các kỹ thuật thống kê mô tả, thu thập và so sánh các tài liệu thứ cấp về CPKT
trong quản lý và phát triển kinh tế làm tiền đề cho việc bình luận các thành tựu đạt được
như: 1) Về thay đổi tư duy và phương thức chỉ đạo, điều hành nền kinh tế; 2) Về xây dựng
và củng cố năng lực thể chế Nhà nước; 3) Về cải thiện và tạo dựng môi trường kinh doanh,
môi trường hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp; 4) Về phát huy dân chủ
trong xã hội để đưa Chính phủ đến gần người dân và doanh nghiệp hơn. Từ đó, đề xuất giải
pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong công tác quản lý, điều hành kinh tế của CPKT,
tạo nền tảng để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ yêu cầu phát triển
nhanh và bền vững đất nước.
Từ khóa: Chính phủ kiến tạo, phát triển kinh tế, quản lý kinh tế.
1. Đặt vấn đề
Học giả Leftwich đã viết rằng “Ngày nay có vẻ như không tránh khỏi cho bất kỳ xã
hội nào thực hiện chuyển đổi nhanh chóng và thành công từ đói nghèo mà không có mô
hình Nhà nước tôn trọng ít nhiều đặc trưng của nhà nước kiến tạo phát triển” (Leftwich,
1995). Nhận định này của Leftwich đến nay vẫn còn nguyên giá trị khi sự phát triển mạnh
mẽ của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang làm thay đổi tư duy
về sản xuất, tiêu dùng, thị trường, phương thức kinh doanh và cả tổ chức xã hội, lao động,
việc làm, văn hóa, lối sống. Vì vậy, việc xây dựng một chính phủ có thể khơi gợi sự phát
triển của thị trường đang trở thành một yêu cầu bức thiết nhất là đối với các quốc gia có
thu nhập thấp. Nguyên lý này không là ngoại lệ với Việt Nam – khi phát triển kinh tế được
đặt là mục tiêu hàng đầu trong thời kỳ đổi mới đất nước. Xây dựng một CPKT phục vụ
người dân và doanh nghiệp đã trở thành một định hướng lớn trong chủ trương của Đảng và
Nhà nước “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự phát
triển của Nhà nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017). Đó là một chính phủ có bộ máy
* Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Thủ Dầu Một.

- 29
tinh gọn, hoạt động hiệu quả, tận tụy phục vụ và tạo điều kiện cho nhu cầu phát triển của
doanh nghiệp và người dân. Bài viết tập trung đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá
trình quản lý và phát triển kinh tế của CPKT. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tháo
gỡ những khó khăn, cản trở trong công tác quản lý, điều hành kinh tế của CPKT, tạo nền
tảng để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ yêu cầu phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết
Khái niệm “Chính phủ kiến tạo” được sử dụng lần đầu tiên khi học giả Chalmers
Ashby Johnson nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản những năm 1980. Ông
cho rằng: CPKT là một mô hình quản lý trong đó Chính phủ không đứng ngoài thị trường
và cũng không làm thay thị trường, mà chỉ chủ động can thiệp vào thị trường để thúc đẩy
phát triển nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra (Johnson, 1982). Đồng tình với khái niệm trên
của Johnson, Leftwich cho rằng CPKT là mô hình chính phủ nằm giữa mô hình chính phủ
điều tiết (theo chủ nghĩa tân tự do) và mô hình chính phủ kế hoạch hóa tập trung (theo mô
hình Xô Viết) (Leftwich, 1995). Dưới góc độ kinh tế học thể chế, (Robinson & Acemoglu,
2012) cho rằng việc xây dựng CPKT là cần thiết để thu hút sự tham gia của mọi chủ thể
trong xã hội, thúc đẩy sự sáng tạo, củng cố niềm tin, và qua đó tạo dựng một môi trường
đầu tư và kinh doanh lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng. Cách hiểu này khá tương đồng
với quan điểm về vai trò của CPKT mà nhiều nghiên cứu khác về thể chế đã chỉ ra như
(White & Wade, 1984), (Evans, Rueschemeyer, & Skocpol, 1985), (Burmeister, 1986),
(Onis, 1991). Trong khi đó, (North, 1990) lại cho rằng để duy trì một chính quyền tốt, hạn
chế tham nhũng; những nước có thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân sự sẽ đạt
những thành quả kinh tế to lớn hơn là do có môi trường kinh tế tự do hơn.
Ở Việt Nam, khái niệm CPKT được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập đến lần đầu
tiên vào đầu năm 2014. Đến năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc coi việc xây dựng
CPKT là mục tiêu và cương lĩnh hành động của Chính phủ ngay sau khi nhậm chức. Trong
phiên chất vấn trực tiếp Quốc hội (ngày 18 tháng 11 năm 2017), Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc định nghĩa về CPKT như sau: CPKT là chủ động thiết kế chính sách pháp luật để đất
nước phát triển, Nhà nước không làm thay thị trường. Kiến tạo cũng có nghĩa là Chính phủ
phải kiến thiết được môi trường kinh doanh thuận lợi. Cuối cùng là phúc lợi xã hội phải tốt
và quan trọng hơn cả, CPKT là nói phải đi đôi với làm (VGP, 2017).
Như vậy có thể hiểu, CPKT là chính phủ xây dựng luật pháp, trả lại và bảo vệ các
quyền cơ bản nhất để xã hội tự vận hành theo cách hiệu quả nhất. Chính phủ chỉ đóng vai
trò kiến tạo không gian phát triển và môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn cho người dân
và doanh nghiệp; đồng thời giám sát, hướng dẫn các chủ thể tuân theo “luật chơi” đảm bảo

30 -
phù hợp với các nguyên tắc của thị trường và mục tiêu phát triển của đất nước. Như vậy,
trong mô hình này, Chính phủ sẽ không làm thay cho thị trường hay doanh nghiệp những
công việc cụ thể.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết nhằm khái quát những thành tựu, hạn chế trong quản lý và phát triển kinh tế
của CPKT ở Việt Nam. Do đó, trong bài viết này, từ cơ sở là các tài liệu thứ cấp thu thập
được như các Nghị quyết của Chính phủ, các số liệu chính thức của Tổng cục Thống kê
Việt Nam, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2020 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), báo cáo của
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), báo cáo về môi trường kinh doanh (Ngân hàng Thế giới),
các kỷ yếu hội thảo, tạp chí nghiên cứu,… tác giả dựa trên phương pháp nghiên cứu định
tính bằng cách sử dụng các kỹ thuật thống kê mô tả, thu thập, phân tích, đánh giá, rút ra
những thành tựu và hạn chế trong quá trình quản lý và phát triển kinh tế của CPKT. Đồng
thời sử dụng phép quy nạp để đưa ra các kết luận, tổng hợp lại để đề xuất các giải pháp.
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Thành tựu trong quản lý và phát triển kinh tế của chính phủ kiến tạo
Một là, về thay đổi tư duy và phương thức chỉ đạo, điều hành nền kinh tế
Thực tế cho thấy, đổi mới tư duy là yếu tố quyết định mang tính chất bước ngoặt trong
việc tháo bỏ các nút thắt thể chế để cải cách chuyển đổi mạnh mẽ sang kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập kinh tế quốc tế. Sự thay đổi về tư duy và phương thức chỉ đạo, điều hành
nền kinh tế của CPKT được thể hiện qua các quan điểm trong các phiên làm việc của Chính
phủ như: xác định tăng trưởng kinh tế là hoạt động của người dân và doanh nghiệp; nhiệm
vụ của Chính phủ và các cấp cơ quan, ban ngành là phải tạo điều kiện để người dân, doanh
nghiệp tạo nên sự tăng trưởng. Chính phủ không được trở thành rào cản của người dân,
doanh nghiệp, cái gì thị trường làm được thì để thị trường làm, nhiệm vụ của Chính phủ chỉ
nên tập trung vào công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, hoạch định chính sách, tạo môi
trường cho đầu tư kinh doanh phát triển (Hoàng Thị Giang, 2020). Nhờ sự đổi mới tư duy
và phương thức điều hành như trên, kinh tế Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020 đã có những
chuyển biến đáng kể.

- 31
5.25 5.42
5.98
6.68
6.21
6.81
7.08 7.02
2.91
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020
Hình 1. Biểu đồ so sánh tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2020
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Hình 1 cho thấy, tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng đều qua các năm trong giai
đoạn 2012 – 2020. Riêng năm 2020, tăng trưởng GDP của Việt Nam bị sụt giảm nghiêm
trọng do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Tuy nhiên, so với thế giới thì đó là một thành công
của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới với 2.91%, phản
ánh những nỗ lực “vượt khó” rất đáng ghi nhận trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính
phủ (xem hình 2). Cũng trong năm 2020, cùng với Trung Quốc và Mianma, Việt Nam trở
thành một trong ba quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng tích cực với quy mô nền kinh tế
đạt hơn 343 tỷ USD, vượt Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaysia (336,3 tỷ USD), đưa Việt
Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (IMF, 2020).
-3
-5.9
-6.5
-7.5
2.91
Thế giới Mỹ Anh Châu Âu Việt Nam
Hình 2. Tăng trưởng GDP năm 2020 của Việt Nam so với thế giới
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

32 -
Hai là, về xây dựng và củng cố năng lực thể chế Nhà nước
Điểm đầu tiên trong xây dựng thể chế phát triển là vai trò của CPKT trong việc hình
thành và triển khai tầm nhìn chiến lược, như định hướng mục tiêu phát triển quốc gia trong
thời gian dài. Tầm nhìn chiến lược này được xây dựng trên cơ sở khoa học, đánh giá các yếu
tố trong nước và quốc tế, nhất là xu hướng phát triển của khu vực và thế giới, từ đó hoạch
định mục tiêu, xây dựng các chính sách và các nguồn lực để thực hiện. Từ năm 2016, Chính
phủ đã ban hành nhiều chính sách, quy định mang tính nguyên tắc cho việc kiện toàn tổ chức
bộ máy và đổi mới hoạt động của các cơ quan, ban ngành và cho công tác phòng chống tham
nhũng trong cơ quan nhà nước như: Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ; Luật 36/2018/QH14 Luật
phòng, chống tham nhũng; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật phòng, chống tham nhũng; Chỉ thị 10/CT-TTG về tăng cường xử lý,
ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp
trong giải quyết công việc; Quyết định 101/QĐ-TTg Ban hành kế hoạch triển khai, thi hành
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018; Quyết định 861/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2019 – 2021”;
Luật 25/2018/QH14 Luật Tố cáo… Nhờ những chủ trương và chính sách tích cực trên đã
giúp Chính phủ củng cố niềm tin về sự liêm khiết trong sạch, sự tận tâm của chính phủ phục
vụ cho người dân và doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2012 – 2020, chỉ số nhận thức tham
nhũng của Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể.
31 31 31 31
33
35
33
37
36
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Hình 3. Kết quả CPI hàng năm của Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020
Nguồn: Transperency International
Hình 3 cho thấy, vào năm 2016, lần đầu tiên sau 4 năm, điểm số CPI của Việt Nam
đã tăng 2 điểm so với mức điểm 31/100 được duy trì từ năm 2012 đến 2015. Với điểm số