Giới thiệu tài liệu
Berberin (BBR) là một alkaloid isoquinolin bậc 4 có nguồn gốc từ thực vật, được chiết xuất từ rễ thân rễ hoặc thân vỏ của một số loài thuộc họ Hoàng liên hoặc họ Mõm sói. Berberin có nhiều tác dụng dược lý tiềm năng như chống thoái hóa thần kinh, bảo vệ tim, gan, chống oxi hóa, chống lipid máu cao, giảm glucose máu và kháng khuẩn. Tuy nhiên, hiệu quả của berberin khi dùng đường uống bị hạn chế đáng kể do sinh khả dụng thấp (dưới 10%), nguyên nhân là bởi tính thấm kém, chuyển hóa lần đầu tại ruột, bị kết tụ và tác động của bơm tống thuốc Glyco-protein. Điều này đòi hỏi liều dùng cao, gây tác dụng phụ như táo bón. Để khắc phục hạn chế này và tăng cường sinh khả dụng đường uống, các hệ mang thuốc tiểu phân nano như nanolipid rắn và liposome đã được nghiên cứu.
Đối tượng sử dụng
Các nhà nghiên cứu, học giả, nhà khoa học dược phẩm, sinh viên và chuyên gia trong lĩnh vực bào chế thuốc, công nghệ nano và dược liệu quan tâm đến hệ thống phân phối thuốc berberin.
Nội dung tóm tắt
Berberin, một alkaloid isoquinolin bậc 4 có nguồn gốc thực vật, sở hữu nhiều tác dụng dược lý như giảm cholesterol, đường huyết, kháng khuẩn. Tuy nhiên, sinh khả dụng của berberin thấp (dưới 10%) do chuyển hóa lần đầu, bài tiết tại ruột non bởi Glyco-protein và tính thấm kém. Nanoliposome có thể khắc phục hạn chế này. Proliposome, được biết đến là ổn định hơn và dễ nâng cấp quy mô hơn liposome, có khả năng tự tạo thành liposome bằng cách hydrat hóa trong nước hoặc dịch sinh học. Nghiên cứu này nhằm chứng minh quá trình hydrat hóa từ proliposome berberin thành liposome berberin trong các môi trường khác nhau để hiểu rõ hơn về đặc tính của proliposome dùng qua đường uống. Proliposome berberin được bào chế bằng phương pháp bao hạt, sau đó được hydrat hóa trong các môi trường khác nhau bao gồm acid hydrocloric 0,1N (pH=1,2), đệm phosphat pH 4,5 và đệm phosphat pH 6,8. Quá trình hydrat hóa được ghi lại bằng kính hiển vi điện tử quét lase (Confocal C1 si, Nikon), và kích thước, hình thái liposome tạo thành được đo bằng máy đo kích thước tiểu phân và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM). Kết quả cho thấy proliposome berberin được tạo thành dưới dạng các tiểu phân micro với màng film phủ trên chất mang manitol. Sự biến đổi hình thái của proliposome berberin trong quá trình hydrat hóa ở ba môi trường khác nhau đã làm rõ cơ chế hình thành liposome berberin bằng hydrat hóa màng film. Proliposome BBR không thể hydrat hóa trong môi trường acid hydrocloric 0,1N. Liposome BBR tạo thành qua quá trình hydrat hóa ở hai môi trường đệm phosphat pH 4,5 và đệm phosphat pH 6,8 có hình cầu, với kích thước tiểu phân trung bình lần lượt là 354,73 ± 64,75 nm (PDI 0,465 ± 0,0072) và 269,27 ± 97,89 nm (PDI 0,423 ± 0,0867). Liposome BBR tạo thành có kích thước tiểu phân trung bình nhỏ hơn 500 nm và phân bố kích thước tiểu phân nhỏ hơn 0,5. Kết quả này chứng minh proliposome bền vững trong môi trường dạ dày và có khả năng chuyển thành liposome trong môi trường ruột, từ đó tăng hấp thu và sinh khả dụng.