Cơ sở lý luận báo chí truyền

thông - ba mô hình lý thuyết

truyền thông hiện đại

Lý thuyết phương tiện truyền thông đề cập đến sự phức tạp của các nguyên

tắc triết học chính trị xã hội bằng việc tổ chức các ý tưởng về mối quan hệ giữa

truyền thông và xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đưa ra một loại lý

thuyết được gọi là “bản quy phạm lý thuyết truyền thông”, với những gì mà các

phương tiện truyền thông cần phải làm trong xã hội chứ không phải là những gì họ

thực sự làm. Nhìn chung, các ý tưởng chi phối về nghĩa vụ của các phương tiện

thông tin đại chúng phải phù hợp với những giá trị và các thoả thuận trong một xã

hội nhất định. Theo Siebert trong cuốn sách của họ về Bốn lý thuyết về báo chí, báo

chí mang hình thức và màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó

hoạt động. Báo chí và các phương tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ,

sẽ phản ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm giữ". Trong truyền

thống tự do phương Tây, điều này đề cập đến các vấn đề như bình đẳng, tự do

trước pháp luật, các mối quan hệ xã hội, và sự gắn kết, đa dạng văn hóa, can thiệp

tích cực và trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các nền văn hóa khác nhau có thể có các

nguyên tắc và các ưu tiên khác nhau.

Mặc dù bản quy phạm lý thuyết báo chí này không phải là sự khẳng định chắc

chắn, nhất là với những sự thay đổi trong các phương tiện truyền thông và sự gia

tăng của phương tiện truyền thông với những hình thức mới, chúng ta vẫn có thể

xác định một số truyền thống rộng lớn của tư tưởng về quyền và trách nhiệm của

các phương tiện truyền thông trong xã hội và mức độ mà xã hội có thể can thiệp

một cách hợp pháp để bảo vệ lợi ích công cộng. Các biến thể có liên quan cơ bản

có thể được mô tả như sau:

Lý thuyết độc tài (áp dụng trước hết với hình thức xã hội dân chủ trước đây

và hệ thống xã hội phi dân chủ hay độc tài ngày nay). Theo quan điểm này, tất cả

các phương tiện truyền thông và thông tin liên lạc công cộng chịu sự giám sát của

cơ quan cầm quyền và biểu hiện hoặc ý kiến mà có thể phá hoại trật tự xã hội và

chính trị được thành lập có thể bị cấm. Mặc dù lý thuyết này "trái quyền tự do

ngôn luận”, nó có thể được gọi dưới những điều kiện khắc nghiệt.

Lý thuyết tự do báo chí (phát triển đầy đủ nhất tại Hoa Kỳ, nhưng có thể đã

được áp dụng ở nhiều nơi khác) tuyên bố hoàn toàn tự do biểu lộ công khai và hoạt

động kinh tế của các phương tiện truyền thông và từ chối bất kỳ sự can thiệp của

chính phủ trong bất kỳ khía cạnh nào của báo chí. Một thị trường vận hành tốt sẽ

giải quyết tất cả các vấn đề của các phương tiện truyền thông nghĩa vụ và nhu

cầu xã hội.

Lý thuyết trách nhiệm xã hội (được phát hiện ở châu Âu và các nước chịu ảnh

hưởng của châu Âu) là một phiên bản sửa đổi của lý thuyết tự do báo chí, nhấn

mạnh hơn khi trách nhiệm giải trình của các phương tiện truyền thông (đặc biệt là

phát thanh, truyền hình) cho xã hội. Phương tiện truyền thông miễn phí, nhưng họ

phải chấp nhận các nghĩa vụ để phục vụ lợi ích công cộng. Các phương tiện bảo

đảm tuân thủ các nghĩa vụ này có thể được thông qua can thiệp tự điều chỉnh hoặc

công cộng chuyên nghiệp (hoặc cả hai).

Phát triển các lý thuyết phương tiện truyền thông (áp dụng tại các quốc gia

phát triển kinh tế thấp với các nguồn lực hạn chế) có các hình thức khác nhau

nhưng về cơ bản đề xuất rằng các phương tiện truyền thông tự do, trong khi mong

muốn, nên được trực thuộc (cần thiết) các yêu cầu của phát triển kinh tế, xã hội và

chính trị.

Thay thế các lý thuyết phương tiện truyền thông. Các phương tiện truyền

thông chủ đạo của xã hội được thành lập có thể không đầy đủ theo định nghĩa trong

sự tôn trọng của nhiều nhóm trong xã hội và quá nhiều dưới sự kiểm soát của các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tầng lớp. Đây là loại lý thuyết ủng hộ các

phương tiện truyền thông gần cơ sở của xã hội, quy mô nhỏ, có sự tham gia, hoạt

động và phi thương mại.

Thông thường, hệ thống phương tiện truyền thông của một quốc gia nhất định

sẽ có một hỗn hợp của các yếu tố lý thuyết và các loại phương tiện truyền thông,

hiển thị không tự do tuyệt đối và cũng không lệ thuộc tuyệt đối với quyền lực nhà

nước hoặc quyết định. Hallin và Mancini (2004) đã lập luận rằng chúng ta nên

quên đi về các lý thuyết bản quy phạm pháp luật và xem xét kỹ hơn sắp xếp thực tế

kết nối các phương tiện truyền thông với xã hội. Họ đề xuất một cách phân loại các

mối quan hệ giữa hệ thống truyền thông và hệ thống chính trị, dựa trên một cuộc

kiểm tra so sánh của xã hội đương đại quốc gia. Theo quan điểm này, có ba mô

hình hoặc biến thể, với những tác động khác nhau đối với vai trò và nghĩa vụ của

các phương tiện truyền thông trong xã hội:

(cid:0) Mô hình tự do, trong đó các phương tiện truyền thông hoạt động theo các

nguyên tắc của thị trường tự do, mà không có kết nối chính thức giữa các phương

tiện truyền thông và chính trị và với sự can thiệp nhà nước tối thiểu;

(cid:0) Mô hình Dân chủ, trong đó các phương tiện truyền thông thương mại cùng

tồn tại với các phương tiện truyền thông gắn với tổ chức chính trị xã hội và nhà

nước có một vai trò nhỏ nhưng hoạt động;

(cid:0) Mô hình đa nguyên phân cực, với các phương tiện truyền thông tích hợp

vào chính trị bên, yếu hơn các phương tiện truyền thông thương mại và vai trò

mạnh mẽ cho nhà nước.

Như với các lý thuyết nêu ra trước đó, các mô hình này cũng loại lý tưởng và

trong thực tế xã hội có một hỗn hợp của các yếu tố nêu. Dịch vụ công cộng phát

thanh truyền hình được tìm thấy trong hai hình thức trong các mô hình thứ hai và

thứ ba, tương ứng, hoặc là một tổ chức vô hiệu hóa và chính trị vô tư như chính trị

một cách nào đó, thường là với sự phân chia về chính trị. Trong mô hình hoàn toàn

tự do, có thể có ít hoặc không có nơi để phát sóng dịch vụ công cộng.

So sánh ký văn học và ký báo chí

Cùng với sự phát triển của xã hội, báo chí ngày càng trở nên quan trọng trong

đời sống, bởi nhu cầu về thông tin xã hội của người dân ngày càng lớn. Sự phát

triển của báo chí được đánh dấu một phần bởi sự phong phú và đa dạng khi thể

hiện tin, bài dưới nhiều hình thức, các vấn đề được đề cập dưới nhiều góc độ, mức

độ giúp cho độc giả có điều kiện tiếp cận thông tin dưới nhiều hình thức khác

nhau.

Báo chí và phương pháp đào tạo báo chí là vấn đề đang được báo chí hiện nay

quan tâm và tranh cãi. Dư luận giới truyền thông đang đứng trước 2 luồng quan

điểm trái ngược nhau: nên hay không nên đào tạo báo chí theo kiểu phân chia thể

loại? Vấn đề này thực ra vẫn chưa có giải pháp thoả đáng. Vì cho đến giờ phút này,

riêng về việc phân chia thể loại đã có rất nhiêu ý kiến và quan điểm khác nhau.

Vấn đề thể loại và phân chia thể loại báo chí vẫn là vấn đề được quan tâm nhất

trong giới lí luận truyền thông.

Giải quyết vấn đề

1.Thể loại báo chí

Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng phức tạp của hoạt động báo

chí. Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh luận về khái niệm này cả ở trong nước lẫn ngoài

nước và chưa hoàn toàn thống nhất.

Trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống đều có sự phân nhóm giữa các yếu

tố cấu thành nên nó bởi những thuộc tính riêng biệt. Đó được gọi là sự phân chia

thể loại. Từ điển bách khoa toàn thư Liên Xô 1985 định nghĩa:“ Thể loại là khái

quát hóa những đặc điểm của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc tính về

nội dung, hình thức và cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai đoạn, một

dân tộc, hay một nền nghệ thuật thế giới .”

Theo tác giả Đinh Hường “ thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống

nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản

ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang

tính chính trị tư tưởng nhất định”. Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn cũng quan niệm: “ thể

loại tác phẩm là một khái niệm để chỉ tính quy luật loại hình cuả tác phẩm báo

chí”.

Sự phân chia thể loại dựa trên tiêu chí lựa chọn những đối tượng có chung

những đặc điểm nội dung, hình thức,… những đặc điểm này thể hiện rõ ràng, dễ

nhận thấy, và khi gộp nhóm những đối tượng có chung những đặc điểm ấy lại có

thể phân biệt được chúng với những nhóm đối tượng khác dựa trên những đặc

điểm chung của cả nhóm. Việc phân chia nhóm vào các thể loại nói trên chủ yếu

dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại và cũng chỉ mang tính tương đối

Mỗi tác phẩm báo chí thường được xếp vào một thể loại cụ thể dựa trên các

tiêu chí như: tác phẩm đó có dung lượng như thế nào, nói về vấn đề gì, cách thể

hiện vấn đề của người viết, cảm xúc của người viết có được gửi gắm trong bài viết

hay không?

Báo chí nói chung được chia thành các nhóm thể loại như: tin, phỏng vấn,

tường thuật, bài phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình và giới thiệu tác

phẩm, điều tra, điểm báo, thư của ban biên tập, ký và các thể loại trào phúng.

Ranh giới giữa các thể loại vẫn chưa được xác định một cách thật sự rõ ràng,

vẫn còn tồn tại sự giao thoa giữa chúng. Ngoài ra, những dấu hiệu chung thì thì

việc phân chia thể loại báo chí có thể dựa trên những dấu hiệu như:

* Đặc thù của đối tượng mô tả

* Chức năng và nhiệm vụ của tác phẩm báo chí

* Chiều rộng của sự phản ánh hiện thực và phạn vi của sự tổng kết và các kết

luận

* Phương tiện tái hiện hình ảnh và mức độ truyền cảm

Việc sử dụng đúng thể loại báo chí là rất quan trọng, nó giúp cho nhà báo có

thể thể hiện một cách chính xác nội dung, lựa chọn đúng cách trình bày tác phẩm

báo chí của mình để nó đến với công chúng một cách có hiệu quả nhất

Để bài biết có thể truyền tải thông tin một cách tích cực nhất lại phụ thưộc

không nhỏ ở chỗ người viết lựa chọn cách thể hiện nào để đăng tải thông tin ấy.

Chính vì vậy việc nắm bắt chính xác các thể loại báo chí là rất quan trọng đối với

những người làm báo.

Phân biệt thể loại báo chí là một vấn đề lớn, nhiều phức tạp và còn gây nhiều

tranh cãi. Trong lí luận và thực tiễn thì việc phân biệt và nắm rõ các đặc điểm của

thể loại báo chí là rất quan trọng, đặc biệt là trong chương trình đào tạo sinh viên

báo chí cũng như vận dụng những kiến thức về thể loại trong hoạt động sáng tạo

của nhà báo.

Khi nắm rõ cách phân biệt các thể loại báo chí thì người làm báo sẽ có cách

tiếp cận vấn đề và cách viết mang lại hiệu quả cao nhất, truyền tải thông tin nhiều

nhất và thu hút người đọc. Có rất nhiều cách phân chia thể loại báo chí. Tuy nhiên,

trong bài tiểu luận này xin tiếp nhận cách phân nhóm các thể loại báo chí đó là:

Nhóm các thể loại báo chính chính luận; Nhóm các thể loại báo chí thông tấn;

Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật.

Bốn đặc thù của thể loại báo chí

- Thứ nhất, các thể loại khác nhau theo đặc thù của đối tượng được phản ánh.

- Thứ hai, các thể loại khác nhau theo mục đích, chức năng, nhiệm vụ sáng tạo

của tác phẩm báo chí

- Thứ ba, các thể loại báo chí phân biệt nhau ở mức độ nắm bắt hiện thực, ở

các kết luận và khái quát hoá vấn đề cần phản ánh trong tác phẩm.

- Thứ tư, các thể loại phân biệt nhau theo tính chất của phương tiện phản ánh

hiện thực (lời, phim, ảnh, âm thanh...), văn phong, ngôn ngữ.

*

Ký là một trong các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, được nhiều người sử

dụng trong sáng tác văn học và làm báo. Tuy nhiên, phân biệt hai thể loại này là

khá khó nhưng rất cần thiết cho việc viết báo. Trước tiên, thể loại Ký có nhiều đặc

điểm lớn sau:

- Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển hình, luôn cố

gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của nội dung.

- Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt, giọng điệu phong phú.

- Cái tôi trần thuật trong thể loại Ký báo chí là nhân chứng thẩm định hiện

thực.

Những đặc điểm trên đã tạo cho Ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong

văn học và báo chí. Cũng chính những đặc điểm này đã giúp cho Ký tạo ra một

kênh giao tiếp riêng đối với công chúng.

Xung quanh sự tồn tại và phát triển của Ký nói chung đã từng có nhiều ý kiến

tranh luận. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ký có phải là văn học không? Trong Ký có

hư cấu không? Nếu là văn học, Ký đứng ở vị trí nào trong hệ thống? Đặc trưng của

các thể Ký là gì? Liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí không?..

Trong quá trình giải quyết những câu hỏi trên có nhiều phương pháp khác

nhau. Có người căn cứ vào phương thức biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký

thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút

pháp và đối tượng được phản ánh để chia ký thành hàng chục thể loại như: phóng

sự, ký sự, tuỳ bút, hồi ký, truyện ký, nhật ký, du ký, bút ký chính luận, tản

văn…Về đặc trưng của Ký, quan điểm hầu như vẫn chưa thống nhất. Có người cho

rằng đặc trưng ấy là ở chỗ do Ký viết về người thật, việc thật.

Đứng trước câu hỏi liệu có nên phân chia thành Ký văn học và Ký báo chí

hay không, đã từng có những quan niệm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng sự

phân chia đó là cần thiết. Tuy nhiên, cơ sở phân chia lại ở chất lượng nghệ thuật.

Theo quan điểm này thì ký báo chí là những bài ký có chất lượng nghệ thuật thấp

hoặc không có nghệ thuật mà chỉ đơn giản là cung cấp thông tin đối với công

chúng, còn Ký văn học có chất lượng nghệ thuật cao hơn.

Ngược lại với quan niệm trên, lại có những người cho rằng không nên có sự

phân chia đó. Theo họ, thực ra thì bản chất của Ký chỉ có một. Nếu có sự khác

nhau thì lại là ở chỗ: nhà văn viết ký không giống với nhà báo viết ký.

Sự không nhất trí nói trên đã kéo dài trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn

học trong những năm trước đây. Có một thực tế là trong các bài giảng cho sinh

viên báo chí, thông thường người ta chỉ giới thiệu về ký một cách chung chung trên

cơ sở tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu lý luận văn học. Trong khi đó

các thể ký báo chí đích thực lại bị tách riêng ra thành những thể loại báo chí hoàn

toàn không có liên quan gì đến ký. Nguyên nhân còn do khoa học báo chí vẫn chưa

xác định được hệ thống thể loại dựa trên cơ sở phân loại đúng đắn. Chính sự lúng

túng trong lý luận đã có ảnh hưởng không tốt đến thực tiến. Trên các báo hiện nay

thường xuyên có những bài ghi không dúng tên thể loại, thậm chí nhiều nhà báo

hoàn toàn không phân biệt được bài viết của mình thuộc thể loại nào chứ chưa nói

đến những sự phân biệt khó hơn như phân biệt giữa ký báo chí và ký văn học.

Nếu xét ở mục đích, mặc dù thấy cùng xuất phát từ người thật, việc thật

nhưng ký văn học luôn cố gắng xây dựng những hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng

hình tượng luôn luôn chi phối trong các tác phẩm. Nhà văn không bao giờ chỉ dừng

lại ở chỗ trình bày sự thật. Hiện thực chỉ là xuất phát điểm, là cái cớ để thông qua

đó trình bày quan niệm thẩm mỹ của mình. Sự thẩm định có thể là ý kiến trực tiếp,

những hình ảnh, hình tượng hoặc cũng có thể là cách lựa chọn trình bày chi tiết…

Về bút pháp, văn học sử dụng những cách của văn học nói chung để tạo ra một

giọng điệu phong phú, sinh động. Trong thể ký văn học, cái Tôi bao giờ cũng là cái

tôi thẩm mỹ. Bản chất thẩm mỹ của thể loại được đặc biệt chú trọng. Chính bởi

vậy, bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật khác, thủ pháp hư cấu vẫn thường được

tác giả văn học sử dụng. Tuy nhiên, mức độ hư cấu trong tác phẩm ký báo chí

không giống như các thể loại văn học khác. Tức là nhà văn có thể sử dụng những

hình thức không xác định để trình bày cái xác định. Hư cấu nghệ thuật sử dụng

trong văn học còn do ở chỗ: trong thực tế, tác giả không thể đồng thời chứng kiến

tất cả các khía cạnh của sự việc đang xảy ra. Muốn có được một bức tranh toàn

cảnh của sự việc, nhà văn phải hỏi những người khác mà thông qua đó, sử dụng sự

hồi tưởng hay trí tưởng tượng để tái tạo hiện thực.

Có thể coi hư cấu là yếu tố quan trọng để phân biệt giữa ký văn học và ký báo

chí. Ký báo chí ( và các thể loại báo chí nói chung) không chấp nhận hư cấu dưới

bất cứ hình thức nào. Các thể ký báo chí dù có bút pháp linh hoạt và sinh động như

thế nào chăng nữa, cũng không được phép vượt qua nguyên tắc mang tính quy luật

loại hình này. Thông tin báo chí phải đạt tới sự xác thực tối đa.

• Ký báo chí:

Xuất hiện là do nhu cầu truyền đạt thông tin, nhu cầu phản ánh thực tiễn. Với

tư cách là người truyền đạt thông tin tới công chúng, nhà báo luôn tìm tòi những

hình thức mới để vượt qua khỏi cái khung của lối văn thông tấn mà vẫn đảm bảo

được tính xác thực, tính thời sự của nội dung được phản ánh. Các thể ký báo chí đã

đáp ứng được nhu cầu đó. Với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa

dạng và đặc biệt là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật sẽ giúp nhà báo có thể truyền

đạt thông tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác.

Với ý nghĩa đó có thể thấy rằng sự hình thành và phát triển của ký báo chí gắn liền

với hoạt động sáng tạo của nhà báo. Việc tìm tòi những hình thức biểu hiện mới

nhằm đạt tới những hiệu quả cao hơn vốn là thuộc tính của quá trình sáng tạo và dĩ

nhiên nhà báo không thể nằm ngoài quy luật đó.

• Sự khác biệt giữa ký báo chí và ký văn học:

Điểm khác biệt được coi là căn bản giữa ký báo chí và ký văn học là ở chỗ:

Mặc dù đều xuất hiện cái Tôi trần thuật, nhưng cái Tôi trong ký báo chí không phải

là cái Tôi thẩm mỹ. Nhà báo không thẩm định được hiện thực trên cơ sở của những

cảm xúc thẩm mỹ. Do phải chịu sự chi phối của yêu cầu thông tin thời sự, thông tin

xác thực nên mặc dù tác giả vẫn có cơ hội trình bày sự thẩm định của mình, sự

thẩm định ấy phải là kết quả của quá trình tư duy lôgic. Hiện thực được trình bày

trong ký báo chí phải luôn đảm bảo độc chính xác tối đa và lập luận phải xuất phát

từ tư duy lôgic của sự thực. Cái tôi trong ký báo chí phải là cái tôi nhân chứng tỉnh

táo và lý trí. Ở đây không loại trừ cảm xúc trước sự thật để phản ánh sự thật.

"Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn

định của các bài báo, được chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng

ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị - tư

tưởng nhất định" (Định nghĩa - Tác giả Đinh Hường). Còn tác giả Tạ Ngọc Tấn

cũng quan niệm: "Thể loại báo chí là một khái niệm để tính quy luật loại hình

của tác phẩm báo chí. Thể loại là sự thống nhất có tính quy luật - lặp lại của các

yếu tố trong một loạt tác phẩm báo chí". v.v…

Báo chí Việt Nam hiện nay đang sử dụng hầu hết các thể loại như tin, phóng

sự, tường thuật, phản ánh, xã luận, bình luận, tiểu luận, phê bình, ký chân dung,

câu chuyện báo chí, điều tra, điểm báo v.v… Dù là ở thể loại nào thì theo quy luật

phát triển chung của xã hội, báo chí cũng có những quy luật phát triển riêng của

nó. Để phản ánh sâu sắc và kịp thời đời sống xã hội vốn rất phong phú và đa dạng,

giới báo chí đã tìm kiếm nhiều hình thức thể hiện mới. Có thể coi đấy là những

hình thức thông tin mới mẻ được bắt đầu từ một câu chuyện có thật.

*

Khi phân biệt ký văn học và ký báo chí nên lưu ý đến sự tương đồng giữ hai

thể loại này bởi chúng cùng nằm gần cái Miền giao thoa giữa văn học và báo chí.

Giữa chúng vẫn thường xuyên xảy ra quá trình giao lưu, chuyển hoá và điều đó

được coi như một động lực của sự phát triển.

Khi so sánh thể loại phóng sự với những thể ký văn học khác, các nhà nghiên

cứu văn học cho rằng phóng sự nổi bật bằng những sự thất xác thực, dồi dào và

nóng hổi. Về phương diện luận cứ, nó phải trả lời đầy đủ 6 câu hỏi 6w và chỉ có

trên cơ sở đó mà phát triển luận chứng. trong khi đó thể bút ký tuy cũng tái hiện

con người và sự việc khá dồi dào nhưng thông qua đó biểu hiện trực tiếp khuynh

hướng cảm nghĩ của tác giả. Bởi vậy, nó nghiêng về hướng trữ tình và những yếu

tố trữ tình luôn luôn được xen kẽ với sự việc, chính vì thế rất dễ biến thành tuỳ bút.

Trên cơ sở so sánh như vậy, lí luận văn học rút ra kết luận; Về cơ bản, phóng

sự cũng có đặc tính của thiên ký sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính

xác thực của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính thời sự trực tiếp.

Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội đang quan

tâm. Lấy những tiêu chí như tính chính xác, tính thời sự, giọng điệu văn bản đa

nghĩa hay văn bản đơn nghĩa, hư cấu hay không hư cấu để phân biệt giữa ký văn

học và ký báo chí, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã cho rằng: Có lẽ

phóng sự là một tiểu loại ký báo chí hơn cả.

* Trong lí luận báo chí từ lâu người ta đã đặc biệt lưu ý đến những phẩm chất

văn học của thể loại phóng sự. Nếu ta hình dung đường ranh giới nối liền giữa tiểu

thuyết với các loại thể tài báo chí, thì cái đường ranh giới đó có lãe là phóng sự.

Phóng sự thông thường phản ánh sự thật bằng hình ảnh, ta có thể hình dung ra bức

tranh xác thực về một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Ở đó, phẩm chất tinh thần

của người, bộ mặt xã hội trên từng mặt thường được nổi lên rất rõ. Bởi vậy, những

phóng sự hay thường toát ra cả ý nghĩa mỹ học.