TIỂU LUẬN:

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai

trò của nó trong sự nghiệp xây dựng

CNXH ở nước ta hiện nay

A. đặt vần đề

Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ tri

thức đồng diễn ra với tốc độ chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến thành tựu

to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản xuất, đưa họ trở thành nhiều

cường quốc phát triển trên thế giới hiện nay. Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá

độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh

tế phong kiến kéo dài, nông nghiệp vẫn chủ yếu là trồng lúa. Nền công nghiệp lạc

hậu chưa có thành tựu nào quan trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Muốn

đưa nền kinh tế đi lên để có thể sánh ngang với các nước trong khu vực Đông nam

á Thái Bình Dương.. và để trở thành con Rồng kinh tế thì công nghiệp hoá hiện đại

hoá phải được coi trọng, đánh giá đùng mức sự cần thiết của nó trong giai đoạn

hiện nay.

Trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nền kinh tế nước ta đã đạt được

những thành tựu lớn: Đã xây dựng được một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định cho

xã hội mới, đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ hơn( tăng tỷ trọng

của các nghành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP, phát triển nông nghiệp

toàn diện hơn..) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Vậy

thế nào là CNH- HĐH? và vai trò của CNH- HĐH ở nước ta trong sự nghiệp xây

dựng CNXH ở nước ta hiện nay như thế nào?

CNH- HĐH hiểu theo nghĩa chung và khái quát là chuyển một nước có nền kinh

tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại với trình độ kỹ thuật và công nghệ

tiên tiến, năng suất lao động cao trong các nghành kinh tế quốc dân.

Trong cuốn sách giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô(cũ) được dịch

sang tiếng Việt Nam năm 1958 đã đưa ra định nghĩa:” Công nghiệp hoá xã hội chủ

nghĩa là phát triển công nghiệp trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần

thiết cho sự tạo nên nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến”.

Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá VII có đoạn viết:” Công

nghiệp hoá là quá trình biến đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ

sử dụng sức lao động thủ công la chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao

động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra

năng suất lao động cao”

<1.tr4>

Như vậy quá trình công nghiệp hoá đất nước nhằm giải quyết hai nội dung cơ bản

là: Thay đổi kỹ thuật- công nghệ trong nền kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất

phát triển và hình thành cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ, hợp lí với các ngành nghề,

quy mô sản xuất kinh doanh phù hợp.

Đặt CNH- HĐH trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế với nội dung cơ bản là

phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghiệp hiện đại nhằm đẩy mạnh nhịp độ

phát triển đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Tổ chức

phát triển tốt CNH- HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát

triển tự do và toàn diện của nhân tố con người.

CNH- HĐH còn tạo vật chất kỹ thuật cho việc củng cố tăng cường tiềm lực phát

triển quốc phòng vững mạnh,có thể chúng ta mới có thể yên tâm phát triển kinh tế

và phát triển kinh tế mạnh thì mới có thể tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền an

ninh quốc phòng phát triển. Mặt khác CNH- HĐH còn tạo ra nhiều khả năng cho

việc thực hiện tốt phân công và hợp tác quốc tế khoa học công nghệ tăng cường

trọng lượng tiếng nói của ta trên diễn đàn quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, tính

quy luật của giá thành công nghiệp hoá càng đòi hỏi bức thiết đối với nước ta vì

nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới và trongkhu vực. Theo số

liệu thu nhập năm 1983 thì GNP trên đầu người của Việt Nam là 220USD, trong

khi đó Singgapo là 19092USD/đầu người. ĐàI Loan là 11900 USD/ đầu người.

Hàn Quốc là 844 USD/đầu người. Malayxia là 3713 USD/ đầu người. TháI Lan là

2130 USD/đầu người. Philipin là 913USD/đầu người Inđônêsia là 830 USD/đầu

người.. Mức sống 220 USD/đầu người, các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Philipin,

Malayxia..cũng đã đạt được từ mấy chục năm trước đây. Về mặt trình độ công

nghiệp hoá của nước ta cũng bị tụt hậu so với họ rất nhiều.Nguyên nhân là do

năng suất lao động của ta thấp hơn họ nhiều lần. Nếu tính theo già mua tương

đương thì thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam là 1023 trong khi

đó Inđônêsia là 2181 Philipin là 2303, Thái Lan la 3985 Malayxia là 6140. Để

tránh khỏi tụt hậu xa hơn nữa, để phát triển xa hơn nữa trên con đường đã chọn

chúng ta không còn cách nào khác là đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.

Chính tầm quan trọng to lớn đó của CNH- HĐH là lí do em chọn nội dung “Công

nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở

nước ta hiện nay” làm đề tài cho bàI tiểu luận của mình. Thông qua bàI viết này

em hy vọng có thêm hiểu biết kiến thức về CNH- HDH.

B. giải quyết vấn đề

I. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của sự nghiệp CNH - HĐH

1. Tính tất yếu khách quan

Khi bước vào thời kỳ quá dộ lên CNXH,trong diêu kiện cơ sở vật chất- kỹ thuật

còn ở trình đọ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông

nghiệp là chủ yếu, đa số dan cư sống bằng nghề nông nghiệp, cơ cấu nghành

nghề trong nông nghiệp cũng đơn giản – cơ bản là độc canh lúa nước. Nền sản

xuất vật chất của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự

cấp tự túc, tỷ xuất hàng hoá trong nên kinh tế tế thấp. Trong đIêu kiện chiến

tranh ác liệt, nền kinh tế với cơ sở vật chất – kỹ thuật nói trên khó tồn tại và phát

triển bình thường. Cho năm 1990, công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 22,6% thu

nhập quốc dân. Thu nhập bình quân đầu người là nước thuộc nhóm nghèo nhất

thế giới và có nguy cơ tụt hậu xa hơn.

Từ tình hình nói trên. nếu không có sự thay đổi và phát triển thì nền kinh tế

không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể vượt qua tình trạng nghèo nàn

và kém phát triển. Vì vậy , con đường tất yếu để ta thoát khỏi tình trạng đó là

phảI tiến hành CNH-HĐH .

Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là dân

giàu nước mạnh ,xa hội công bằng văn minh, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở

nước ta con do yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết định. Sản phẩm

của nền sản xuất xã hội không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội nói chung,

mà chúng còn phảI được đem bán, chúng phảI có khả năng cạnh tranh trên thị

trường , có khả năng giữ vững và mở rộng thị trường .v.v. Dop vậy, các sản

phẩm hàng hoá và dịch vụ phảI được sản xuất dựa trên môt nền tảng vững chắc

của cơ sơ vât chất –kỹ thuật hiên dại một cơ cáu lành nghề linh hoạt,hợp lý ,chi

phí trên một dơn vi sản phẩm ở mức thấp nhât .Phân công lao dộng ở trình dộ

cao, kỹ thuật hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng

thu lợi nhuận lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nèn kinh tế vầ tham gia vào quan

hệ kinh tế quốc tế ở mưc độ cao hơn.Từ đó lại thúc đẩy kinh tế trong nước phát

triển hơn nữa.

Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH đất nước ở nước ta

còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc gia chi

phối.

Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự

nghiệp bảo vệ, giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình

phức tạp của bầu không khí chính trị kinh tế hiện nay, các lực lượng phản động

trong nước và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát

triển kinh tế nói riêng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta nói chung. Vì

vậy chúng ta luôn phảI tăng cường, củng cố, hiện đại hoá lực lượng quốc phòng

để nó trở thành lực lượng hùng mạnh, có khả năng bảo vệ vững chắc tổ quốc

XHCN, để cùng chung sức với các dân tộc bảo vệ nền hoà bình thế giới, bảo vệ

độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hiện đại hoá quốc phòng,

tăng sức mạnh vật chất – kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, dành thế chủ động

trong mọi biến động chính trị.. chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền công

nghiệp hiện đại và một nền kinh tế phát triển mạnh vững chắc.

Tóm lại tính tất yếu khách quan của CNH- HDH được bắt nguồn từ

yêu cầu của sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội, yêu cầu củng cố an ninh quốc

phòng và yêu cầu của việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoàI của đất nước.

1. Tác dụng của CNH- HDH

Việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước có tác dụng về

nhiều mặt.

- CNH- HDH, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại và cơ cấu kinh tế

mới tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng

sức chế ngự của con người với thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh

tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; góp phần quyết định

tới thắng lợi cuả xã hội mới của nước ta.

- CNH- HĐH tạo đIều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò

kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ cuả đất nước và tạo công ăn

việc làm cho người lao động.

- Mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất- kỹ thuật do quá trình công nghiệp

hoă đem lại sẽ tạo ra những đIều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới,

thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, tạo thuận lợi cho sự phát triển tự do toàn

diện của con người- nhân tố trung tâm của thời đại, đưa đất nước đến trình độ

văn minh cao hơn.

- CNH- HĐH góp phần cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng cac yếu tố vật

chất- kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn

an ninh, chủ quyền cuả đất nước.

- CNH- HĐH tạo nhiều khả năng cho nước ta trong việc tham gia vào phân

công lao động và hợp tác quốc tế, do đó tận dụng được sức mạnh trong nước và

sức mạnh kinh tế quốc tế.

Chính vì những tác dụng to lớn, tích cực, toàn diện đã nêu trên, từ đại hội III dến

nay, Đảng ta luôn khẳng định vị trí hết sức quan trọng của CNH- HĐH trong sự

nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội, Đảng ta

lại nhận thức sâu thêm và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp với đIều

kiện và hoàn cảnh của đất nước ta trong những thời kỳ. Trong hội nghị Đại biểu

toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại Hội VII, Đảng ta còn nêu rõ:” Đây là nhiệm vụ

trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. CNH- HĐH là con

đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được

ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng XHCN”

<1.tr27>

II. Nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta trong các thời kỳ

1. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta

Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiụ tác

động của nhiều yếu tố : khách quan, chủ quan,bên trong, bên ngoài , kinh tế,chinh

trị xã hội, khoa học công nghệ v. .v. Các yếu tố trên diễn ra trong từng thời kỳ ,

với tưng quốc gia có khác nhau . Để thuận lợi trong nghiên cứu, người ta thường

khái quát thành hai loại: yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài

Các yếu tố bên trong bao gồm: tièm năng kinh tế tự nhiên của quốc gia(vị

trí địa ly, nguồn tài nguyên , khoáng sản trên ,trong lòng đất, tài nguyên rừng,

nguồn đọng vật cùng các nguồn thuỷ hải sản v.v.) tiềm năng kinh tế –xã hội (lực

lượng lao động,truyền thống văn hoá , lịch sử, các nghề thủ công truyền thống cuả

dân tộc ... năng lượng định hướng lãnh đạo của Đảng cầm quyền cùng sự điêu tiết

của nhà nước . Các yếu tố bên ngoài bao gồm: các thành tựu khoa học- công

nghệ thế giới, đường lối đối ngoại của các quốc gia, tất cả những thành tựu cũng

như những xu hướng biến động của nền kinh tế toàn cầu.

Cả yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài đều là điều kiện phát triển kinh tế nói

chung, đồng thời cũng là những điều kiện quyết định nội dung CNH- HĐH nói

riêng của mỗi quốc gia.

Hai yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nội dung của công nghiệp

hoá là cách mạng khoa học kỹ thuật và quan hệ kinh tế quốc tế.

Về cách mạng khoa học kỹ thuật, đây là yếu tố tác động sâu sắc đến nhiều mặt

trong đời sống kinh tế, xã hội của các nước, là yếu tố chủ yếu đưa nền văn minh

nhân loại từ trình độ thấp lên trình độ cao và do đó nó có tác động trực tiếp, mạnh

mẽ đến sự nghiệp CNH- HĐH ở các nước chậm phát triển. Cho đến nay, trong lịch

sử đã diễn ra ba cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật vĩ đại và mỗi cuộc cách mạng

đó có đặc trưng cơ bản riêng.

Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ( cách mạng công nghiệp) diễn ra ở

Anh bắt đầu những năm 60 của thế kỷ XVIII và kết thúc vào năm 1820. Nội dung

cơ bản của nó là biến lao động thủ công thành lao động cơ khí, trong đó về năng

lượng đặc trưng là việc sử dụng máy hơi nước.

Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 diễn ra từ nửa sau thế kỷ XIX. Nội dung

và đặc trưng cơ bản của nó là phát minh và ứng dụng rộng rãi động cơ đốt trong và

điện năng.

Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba được gọi là cách mạng khoa học- công

nghệ bởi những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn đến hình thành các nguyên

lý công nghệ sản xuất chứ không chỉ dừng lại ở công cụ sản xuất như các thời kỳ

trước.

Cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung. Về quy mô và dung lượng tri

thức, các nhà khoa học đã đánh giá chúng phát triển theo cấp số nhân. Nhưng ở

đây chỉ đề cập đến những nội dung có liên quan đến các kỹ thuật, công nghệ đang

có triển vọng nhất hiện nay. Đó là: kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, công

nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và công nghệ vũ trụ.

- Kỹ thuật điện tử: thành tựu nổi bật của kỹ thuật điện tử là việc phát minh và

sử dụng rộng rãi máy tính điện tử. Trong thời gian ngắn máy tính điện tử đã trải

qua bốn thế hệ, thế hệ thứ năm chuẩn bị ra đời với khả năng có thể giải hàng

trăm tỷ phép tính trong một giây. Hiện tại máy tính không chỉ để tính toán mà là

phương tiện cho hầu như tất cả các hoạt động của con người và là cơ sở thiết yếu

của công nghệ thông tin hiện đại.

- Công nghệ thông tin: là lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh nhất, thúc đẩy

quá trình chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin.

Những bước phát triển nhảy vọt của công nghệ thông tin gắn liền với sự hoàn

thiện của máy tính. Một bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin những năm gần

đây là sự ra đời của mạng máy tính. Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm

1990 mạng máy tính phát triển, nối mọi nơi trên thế giới, làm hình thành siêu xa lộ

thông tin và internet.

- Công nghệ vật liệu mới: được hình thành bằng việc sử dụng phương pháp

khoa học để chế tạo vật liệu thay thế cho vật liệu tự nhiên. Nhiếu loại vật liệu mới

với những ưu điểm đặc biệt đã ra đời

- Công nghệ sinh học: đang được dự kiến là công nghệ hàng đầu khi bước vào

thế kỷ XXI.

Trong đó những bộ phận đang được nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất là:

Gen ( hay công nghệ di truyền); công nghệ dung hợp tế bào ( tổng hợp tế bào từ

những tế bào sinh vật có tính di truyền khác nhau); công nghệ gây men ( công

nghệ phản ứng sinh vật). Trong đó thành công lớn nhất của các nhà khoa học là

đã vẽ được bản đồ gen của con người vào những ngày đầu của thế kỷ XXI.

- Công nghệ vũ trụ: bao gồm việc nghiên cứu chế tạo các thiết bị máy móc cho

việc bay vào vũ trụ( như vệ tinh nhân tạo, phi thuyền trở người, phi thuyền đóng tên

lửa) và đang dự kiến lợi dụng những điều kiện đặc biệt của khoảng không vũ trụ (

vô trùng, trọng lực cực nhỏ..) để chế tạo những sản phẩm mới ( như dược phẩm có

độ sạch cao..).

Trong các nước phát triển hiện nay, cách mạng khoa học- công nghệ đang diễn ra

sôi nổi, mạnh mẽ và có tác động rất to lớn. Tác động cơ bản nhất là làm thay đổi

cơ cấu các ngành kinh tế ở các nước phát triển.Nó thể hiện trên nhiều mặt. Nó làm

thay đổi tỷ lệ giữa ba ngành lớn ( công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ). Ngành thứ

nhất không ngừng thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành thứ hai lúc đầu mở rộng sau đó thu nhỏ,

ngành thứ ba không ngừng mở rộng. Nó làm thay đổi cơ cấu nội bộ từng ngành

lớn ví dụ như ở ngành dịch vụ các ngành phục vụ truyền thống như ngân hàng,

bảo hiểm, ăn uống.. không ngừng được mở rộng; các nghề tư vấn, thiết kế.. đang

có xu hướng tăng lên; các ngành phục vụ cho phát triển đới sống hiện đại như y tế,

giáo dục, du lịch.. phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt công nghệ cao đang hiện

đại hoá các ngành sản xuất và dịch vụ truyền thống tạo ra những ngành nghề mới,

giá trị tăng cao, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu hướng về kinh tế tri thức.

Từ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề cách mạng khoa học- công nghệ còn làm

thay đổi cơ cấu sản phẩm trong điều kiện khoa học- kỹ thuật mới là làm giảm vật

tư, giảm năng lượng, giảm không gian và giảm lao động. Nó còn làm thay đổi chế

độ, cách thức sản xuất ra sản phẩm. Sản xuất tập trung, quy mô lớn, sản xuất hàng

loạt và chủng loại ít được thay thế bằng sản xuất phi tập trung, quy mô nhỏ, khối

lượng nhỏ, chủng loại nhiều.

Cách mạng khoa học- công nghệ còn tác động đến yếu tố chủ thể của nền sản xuất

xã hội là người lao đông. Người lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ mới, đòi hỏi

phải có nhiều kỹ năng và trí tuệ hơn. Do đó chi phí đào tạo tay nghề cho ngưòi lao

động cao hơn trước. Không những thế công nghệ- kỹ thuật mới còn làm thay đổi

cơ cấu lao động. Nghành thứ ba phát triển đã tạo cơ hội kiếm việc làm cho nhiều

người lao động dôi ra trong các ngành khác và số lao động mới của xã hội.

Ngoài ra cách mạng khoa học- công nghệ trong các nước phát triển còn làm thay

đổi việc phân bố địa bàn sản xuất: Một mặt nó tạo điều kiện mở rộng phạm vi

không gian, phân bố địa bàn hoạt động sản xuất; mặt khác nó hạn chế tác động của

hoàn cảnh tự nhiên đối với việc bổ trí lực lượng sản xuất trong nền kinh tế.

Tác động chung nhất của cách mạng khoa học- công nghệ trong các quốc gia phát

triển là nó làm tăng năng suất lao động xã hội ở các nước tăng lên rất cao. Thêm

nữa, cuộc cách mạng này đã tạo cho mọi quốc gia những cơ hội để phát triển. Như

ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường.. thuộc về các nước phát triển. Vì thế các

nước chậm phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn. Khoảng cách

chênh lệch giàu- nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng, cạnh tranh kinh tế diễn

ra ngày càng gay gắt.

Về quan hệ kinh tế quốc tế trong những năm gần đây kinh tế hàng hoá đã phát

triển vượt khỏi phạm vi quốc gia và mở rộng ra phạm vi quốc tế. Sự phát triển của

kinh tế hàng hoá đến trình độ cao- kinh tế thị trường đã làm cho thị trường thế giới

phát triển cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu. Từ đó, thị trường thế giới và kinh tế hàng

hoá đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động quốc tế và sự hợp tác quốc

tế cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia cũng tăng

lên.Mức độ và phạm vi của quan hệ kinh tế quốc tế đã phát triển chưa từng thấy

trong những năm gần đây.

Việc tham gia và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế có tác động nhiều mặt đến

quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá nói riêng của các quốc

gia. Sự tác động đó bao gồm cả tác động tích cực lấn tiêu cực, song tác động tích

cực là chủ yếu. Quan hệ kinh tế quốc tế tạo khả năng to lớn để nước ta có thể tiếp

cận những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thu hút

thêm các nguồn vốn bên ngoài, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lí của các nước

đi trước trên con đường công nghiệp hoá đất nước. Nó cũng giúp chung ta tiếp

nhận sự giúp đỡ của bạn bè năm châu, giải quyết những khó khăn mà khả năng đất

nước bị hạn chế, sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực bên trong vốn có của

đất nước mình.

Về yếu tố bên trong:

Nếu như các yếu tố bên ngoài là cách mạng khoa học- kỹ thuật và quan hệ

kinh tế quốc tế tác động mạnh hơn đến yếu tố kỹ thuật, công nghệ trong quá trình

CNH- HĐH đất nước thì yếu tố bên trong đặc biệt là các tiềm năng kinh tế- các

lợi thế so sánh của Việt Nam lại có tác động nhiều hơn đến cơ cấu ngành nghề

trong quá trình CNH- HĐH ở nước này

Dù kỹ thuật hiện đại hay thô sơ thì Việt Nam vẫn phải phát triển kinh tế và

thực hiện CNH- HĐH đất nước trên cơ sở những tiềm năng kinh tế của mình.

Song các yếu tố bên ngoài sẽ có tác động rất tích cực đến việc sử dụng các tiềm

năng, các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả và nhanh chóng rút ngắn về

trình độ phát triển với các nước khác trên thế giới.

+ Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở phía đông bàn đảo Đông Dương và là

quốc gia ven biển. Như vậy, Việt Nam ở gần các tuyến đường biển quan trọng và

là nơi có các tuyến đường hàng không đi qua hoặc kề cận lãnh thổ. Đây là một ưu

thế của Việt Nam so với một số nước khác như Lào, Campuchia.. .. Đường biển

dài đã tạo cơ hội cho ngành giao thông vận tải của Việt Nam phát triển. Bên cạnh

nó các hoạt động kinh tế khai thác các tiềm năng của biển như: đánh bắt, nuôi

trồng thuỷ, hải sản, khai thác tài nguyên thiên nhiên vùng thềm lục địa, du lịch

biển có điều kiện phát triển.

+ Về tài nguyên thiên nhiên, đất đai là một loại tài nguyên quan trọng ở

Việt Nam. Số lượng 7 ha đất trồng trọt cùng với khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm

cao tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nông, lâm nghiệp phát triển. Tuy vậy,

khí hậu của Việt Nam cũng có mặt khắc nghiệt, gây ra biến cố như bão, lũ lụt, hạn

hán.. làm ảnh hưởng sâu sắc lên mọi hoạt động kinh tế.

Riêng về khoáng sản, tài nguyên khoáng sản của Việt Nam không giàu nhưng

phong phú. ở Việt Nam hiện đã phát hiện khoảng 100 loại quặng kim loại và phi

kim loại. Tiềm năng này cho phép phát triển các cơ sở khai khoáng, chế biến và

tinh chế rất lớn. Tuy vậy, cùng với tình trạng chưa phát triển của cơ sở hạ tầng,

nhiều mỏ khoáng sản lại nằm ở các vùng heo hút, hiểm trở của đất nước. Điều đó

cũng gây không ít khó khăn cho việc khai thác và vận chuyển trong quá trình sản

xuất- kinh doanh.

+ Về nguồn nhân lực, Việt Nam là nước đông dân, bước vào thế kỷ XXI dân

số Việt Nam có trên 80 triệu người(đông dân thứ 2 ở các nước Đông Nam á và thứ

13 trong số 216 quốc gia trên thế giới). Như vậy, Việt Nam có khoảng 40 triệu lao

động tỷ lệ lao động trẻ cao, và chủ yếu tập trung ở các thành phố. Cho đến cuối

thập kỷ 90, lao động trình độ thấp vẫn chiếm tỷ lệ cao( khoảng trên 80%) .

Tình hình nguồn nhân lực nói trên có thuận lợi cho phát triển nhiều ngành

kinh tế mới. Đặc biệt lao động trẻ có khả năng tiếp thu công nghệ mới nhanh. Tuy

vậy, chính dân số đông cũng gây khó khăn cho vấn đề cải thiện mức sống, đặc biệt

yêu cầu mở rộng thị trường lao động để giải quyết vấn đề việc làm trong khi tiềm

năng về vốn của đất nước rất hạn chế.

Các tiềm năng kinh tế nói trên có ảnh hưởng rất sâu sắc đến việc lựa chọn cơ

cấu các ngành công nghiệp ở Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Đặc biệt

việc lựa chọn cơ cấu ngành nghề trong thời kỳ đầu của quá trình CNH- HĐH.

2. Nội dung cơ bản của CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta

Với trình độ kinh tế- xã hội ở điểm xuất phát của quá trình xây dựng xã hội mới

cũng như tại thời điểm hiện nay còn thấp kém, với điều kiện bên trong, bên ngoài

có nhiều phức tạp, khó khăn, qua tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước sự

nghiệp CNH- HDDH đất nước ở Việt Nam phải tiến hành trong một quá trình lâu

dài. Quá trình đó gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều phải giải quyết các vấn

đề liên quan đến 2 nội dung cơ bản, đó là kỹ thuật (công nghệ) và cơ cấu ngành

nghề. Song ở giai đoạn đầu, do điều kiện thiếu vốn nghiêm trọng và do sức ép của

vấn đề bức xúc là giải quyết việc làm nên nội dung công nghiệp hoá tập trung vào

phát triển những ngành nghề thu hút nhiều lao dộng để tạo ra tổng sản phẩm xã hội

và giá trị hàng hoá cao hơn. ở các giai đoạn sau, xét riêng về mặt kỹ thuật- công

nghệ thì càng rút ngắn thời gian để tiếp thu những thành tựu khoa học- công nghệ

mới nhất của nhân loại, càng tiến gần tới đích thành công của sự nghiệp CNH-

HĐH đất nước

Quá trình CNH- HĐH trong thời kỳ quá độ ở nước ta phải giải quyết hai nội

dung sau:

Một là: Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật để xây dựng cơ sở vật chất-

kỹ thuật mới.

Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, kỹ thuật thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn,

do đó về mặt kỹ thuật- công nghệ phải tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật.

Thực chất của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta có nội dung bao hàm

của cả ba cuộc cách mạng kỹ thuật mà thế giới đã trải qua.

Cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta là một quá trình không thể thực hiện

trong một thời gian ngắn, hay kết thúc ở ngay chặng đường đầu tiên. Bởi quá trình

đó sẽ thực hiện đổi mới về kỹ thuật- công nghệ. Do những điều kiện đặc thù của

Việt Nam, nên sự đổi mới về kỹ thuật- công nghệ sẽ mang các tính chất sau: một

mặt, sự đổi mới về kỹ thuật công nghệ sẽ được tiến hành tuần tự từ trình độ kỹ

thuật thủ công qua các trình độ cao hơn( như kỹ thuật cơ khí) và tiến tới áp dụng

công nghệ hiện đại nhất; mặt khác, sự đổi mới tiến hành có tính nhảy vọt, cách

quãng trong những trường hợp nhất định đối với từng bộ phận của nền kinh tế.

Tức là, trong một số cơ sở và một số lĩnh vực nếu có đủ điều kiện, có thể áp dụng

ngay kỹ thuật tiên tiến nhất, hiện đại nhất, bỏ qua các trình độ kỹ thuật trung gian.

Hai là: xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí: Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật là tổng thể các

quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực và các vùng kinh tế.

Tính chất hợp lí của một cơ cấu kinh tế- kỹ thuật phải bao gồm những vấn đề cơ

bản sau:

- Phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan,trước hết là quy luật kinh

tế.

- Phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại.

- Cho phép khai thác tốt các tiềm năng của đất nước, tiềm năng của ngành, của

doanh nghiệp ở cả chiều rộng lẫn chièu sâu.

- Cơ cấu ngành nghề trong quá trình hoạt động phải bổ sung cho nhau, thúc đẩy

nền kinh tế phát triển nhanh.

- Cho phép khai thác các tiềm năng của đất nước trong tương quan giữa yêu

cầu phát triển kinh tế hiện tại với yêu cầu phát triển kinh tế trong tương lai( cơ cấu

kinh tế của các giai đoạn cũng bổ sung cho nhau- cơ cấu kinh tế của giai đoạn

trước phải tạo đà cho cơ cấu kinh tế ở giai đoạn sau)

- Cơ cấu kinh tế- kỹ thuật xây dựng trên cơ sở kinh tế hàng hoá và sự quốc tế hoá

đới sống kinh tế, đó là cơ cấu kinh tế”mở”.

2. Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010

a. Một số kết quả thực hiện CNH- HĐH đất nước giai đoạn 1991- 2000

Để đánh giá được một cách tương đối sác thực cả về thành tựu cũng như

những khiếm khuyết của công cuộc CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90, trước

hết cần đề cập những nội dung chủ yếu của sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở giai

đoạn này.

Trước hết về kỹ thuật- công nghệ: trong điều kiện năng lực tích lũy vốn của

nền kinh tế thấp, trình độ quản lý, trình độ của người lao động còn hạn chế, vấn đề

việc làm vẫn mang tính bức súc. Việc đổi mới kỹ thuật- công nghệ được thực hiện

theo phương châm: kết hợp công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi

nhọn- tiên tiến, lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng

phải là quy mô hợp lý và có điều kiện.

Về cơ cấu ngành nghề:

- Phát triển nông- lâm- ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và các ngành

kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nông nghiệp

- Tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mở rộng kinh

tế dịch vụ thành ngành kinh tế quan trọng theo hướng khai thác triệt để các khả

năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu.

- Phát triển công nghiệp khai thác, trong đó đẩy mạnh việc thăm dò khai thác

dầu khí và một số loại khoáng sản.

Phát triển có lựa chọn một số ngánh sản xuất tư liệu sản xuất: hóa -

chất, phân bón, vật liệu xây dựng và một số bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng của

nển kinh tế (sân bay, bến cảng, kho tàng..).

Phat huy năng lực khoa học trong nước và tranh thủ sự hợp tác quốc -

tế để phát triển ngành công nghiệp điện tử và tin học

Xây dựng và phát triển các vùng kinh tế điển hình, từ đó hình thành -

các vùng kinh tế chuyên môn hoá.

Với những nội dung cụ thể đặt ra như trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất

nước giai đoạn 1991- 2000 đã đạt được những thành tựu lớn như sau:

Thành tựu nổi bật nhất đó là công nghiệp Việt Nam đã đạt được bước phát

triển vượt trội so với các giai đoạn trước. Từ năm 1991 đến 1998, mức tăng

trung bình hàng năm là 13%, riêng giai đoạn 1991- 1995 là 13,7%. Trong khi đó

giai đoạn 1976- 1980, mức tăng trung bình hàng năm của công nghiệp Việt Nam

là 0.6%, giai đoạn 1986- 1990 là 6.1%. Nếu tính riêng, một số ngành có mức

tăng trung bình hàng năm trong giai đoạn 1990- 1998 rất cao. Ví dụ, thép cuộn:

30.5%, ắc quy và pin: 30%, dầu thô:21.1%.

Sự phát triển của khu vực công nghiệp đã làm tăng tỷ phấn công nghiệp

trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Năm 1990, công nghiệp chiếm 18.8%

GDP, năm 2000, tỷ lệ trên là 34%. Ngoài ra, công nghiệp phát triển đã có tác

động rất lớn đến sự phát triển các ngành khác.

Về cơ cấu ngành có sự thay đổi đáng kể, một số cơ sở thuộc các ngành công

nghệ cao đã hình thành trong nền kinh tế, các ngành kinh tế chủ chốt như khai

thác dầu mỏ, thép, dệt may, giày dép phát triển mạnh,khu vực dich vụ nhờ sự

phát triển của công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Nhiều khu công nghiệp

và khu chế xuất được xây dựng.

Những sự phát triển nói trên đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế,

trình độ kỹ thuật của nền kinh tế đã có nhiều tiến bộ. Nền công nghiệp Việt Nam

đã bước đầu phát triển theo hướng hội nhập quốc tế, năng lực cạnh tranh của

hàng hoá Việt Nam. Điều đó thể hiện công nghiệp Việt Nam đã dần chiếm lại thị

phần trong nước và mở rộng xuất khẩu ra nước ngoài. Giá trị xuất khẩu của một

số mặt hàng công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 tăng rất nhanh. Ví dụ, hàng điện

tử tăng 480 lần, than đá tăng 100 lần, giày dép tăng 91.4 lần, hàng dệt may tăng

8.5 lần, dầu thô tăng 2.15 lần. Những số liệu và tình hình nêu trên cho thấy kết

quả thực hiện nội dung CNH- HĐH đất nước trong thập kỷ 90 là cao.

Những thành tựu đó có dược do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân

quyết định hàng đầu là do tác động của cơ chế quản lý mới (tuy chưa hoàn thiện)

và những nỗ lực thu hút và tập trung vốn để phát triển công nghiệp. Tổng vốn

đầu tư vào khu vực công nghiệp giai đoạn 1991- 1998 khoảng 52000 tỉ VNĐ,

chiếm 45% tổng vốn đầu tư trong nước. Trong giai đoạn 1990- 1991 là 78%. Các

khoản vay ưu đãi của chính phủ cũng giành cho phát triển các ngành công

nghiệp trọng điểm. Tới tháng 10 năm 1998, có 11.3 tỷ UUSSDD vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp.

Bên cạnh những thành tựu, công nghiệp Việt Nam vẫn còn những điểm yếu, có

thể kể như:

- Trình độ kỹ thuật- công nghệ của nhiều cơ sở công nghiệp

Việt Nam vẫn ở trình độ thấp. Đánh giá chung, trình độ kỹ thuật- công nghệ Việt

Nam chậm hơn các nước công nghiệp từ 2 đến 3 thế hệ. Công nghệ cấp thấp, lỗi

thời chiếm 60 đến 70%, trong khi công nghệ hiện đại chỉ chiếm 30 đến 40%. Do

vậy mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị sản phẩm lớn (gấp 1.2 đến 1.5 lần so

với các nước khác trong khu vực), sản phẩm chất lượng kém, chủng loại đơn

điệu và năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế.

- Thiếu vốn, thiếu đầu vào trung gian. Do thiếu đầu vào, để

hoạt động các cơ sở công nghiệp phải nhập khẩu sản phẩm sơ chế hoặc bán

thành phẩm, nhưng việc nhập khẩu lại có khó khăn về tài chính. Trong khi đó

nhiều nguồn trong nước vẫn chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.

- Hạn chế về năng lực chuyên môn và quản lý trong nguồn

nhân lực để thực hiện công nghiệp hoá đất nước theo hướng hội nhập và hiện

đại hoá nền kinh tế quốc gia.

- Những bất cập về thể chế, chính sách quản lý của nhà nước.

- Năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam thấp

và sự hạn chế về thị trường tiêu thụ.

Những vấn đề nêu trên đang cần tìm lời giải ở sự nghiệp CNH- HĐH trong

thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới của nước ta

a. Nội dung CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010

Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 nhằm thực hiện chiến

lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm, đó là:” Đưa nước ta thoát ra khỏi tình

trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lượng đới sống vật chất, văn hoá, tinh

thần của nhân dân.Tạo nền tảng của đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một

nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học

và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng

cường vững chắc. Thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa được

hình thành về cơ bản. Vị thế nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng

cao”

<2.tr 89- 90>

Từ những thành tựu và tồn đọng của giai đoạn trước, để thực hiện những mục

tiêu nói trên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước giai đoạn 2001- 2010 có những nội

dung như sau:

Về kỹ thuật- công nghệ: tiếp tục thực hiện phương châm kết hợp công nghệ

nhiểu trình độ. Song hiện nay trình độ kỹ thuật- công nghệ trong nền kinh tế đã

được nâng cao hơn một bước so với trước nên việc giải quyết vấn đề kỹ thuật-

công nghệ giai đoạn hiện nay là nhằm tập trung cơ hội để đạt được trình độ công

nghệ hiện đại. Trên cơ sở đó báo cáo chính trị của Đại Hội Đảng cộng sản Việt

Nam lần thứ IX đã xác định:

“ Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa áp dụng

công nghệ tiến bộ, đi nhanh về một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại,

công nghệ cao”

<3.tr93>

Về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng: tiếp tục khai thác những mặt tích cực của cơ

cấu kinh tế- kỹ thuật giai đoạn 1991- 2000.

Cơ cấu kinh tế kinh tế- ký thuật của Việt Nam trong giai đoạn mới được định

hướng thay đổi theo hướng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tỷ

trọng khu vực dịch vụ và công nghiệp tăng lên, tỷ trọng khu vực nông nghiệp sẽ

giăm xuống.

Để trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020, dự kiến vào năm 2010,

công nghiệp Việt Nam sẽ chiếm 37- 38% GDP và 40- 41% vào năm 2020. Đặc

biệt cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả thị trường trong

nước và ngoài nước. Về chi tiết có những điểm đáng chú ý như sau:

- Phát triển mạnh công nghiệp chế biến (nông sản, thuỷ sản), các ngành may

mặc, da giày.

- Tập trung phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao: công nghệ thông tin,

phần mềm.

- Xây dựng có chon lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt như: năng

lương, hoá chất, luyện kim, cơ khí.

- Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng

không, bưu chính- viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng...Đặc biệt sớm phổ

cập sử dụng tin học và internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội.

- Tiếp tục xây dựng và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng (giao

thông, thông tin, thuỷ lợi, hệ thống cấp thoát nước..)

- Phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế trọng diểm,tạo diều kiện cho

các vùng khác phát triển,tăng cường mối liên kết giữa các vùng nhằm giải quyết

tình trạng kém phát triển ở một số vùng và cả nền kinh tế.

III. Những vấn đề cần giải quyết để tiếp tục thực hiện chiến lược CNh- HĐH

ở Việt Nam

Sự nghiệp CNH- HĐH đất nước để đi đến thành công phụ thuộc vào nhiều vấn đề.

1. Tạo nguồn vốn tích lũy cho CNH- HĐH

Quá trình CNH- HĐH, quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật việc phát

triển lực lượng sản xuất trong điều kiện sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải cò nhiều

vốn.

Vốn và sử dụng vốn là vấn đề đặc biệt quan trọng. Không có vốn mà nói đến

CNH- HĐH thì chỉ là ảo tưởng. Vấn đề này xuất phát từ việc CNH- HĐH kéo theo

sự thay đổi lớn vế số lượng và chất lượng, về cơ cấu ngành sản xuất, nhiều ngành

mới xuất hiện nên đòi hỏi phải có vốn đầu tư mới có thể đáp ứng yêu cầu đó. Theo

tính toán của các nhà kinh tế thì yêu cầu tích luỹ và đầu tư để công nghiệp hoá

phải đạt 20% GNP. Trong khi đó nền kinh tế nước ta đã cho thấy GNP bình quân

theo đầu người hiện nay vẫn ở trong nhóm thấp nhất thế giới ( khoảng

200USD/người) và mức tích luỹ mới đạt 8% GNP. Còn đầu tư so với GNP chỉ

hơn 10%.

Do đó huy động vốn cho CNH- HĐH là một nhiệm vụ quan trọng của toàn

Đảng, toàn dân ta trong thời gian tới.

Việc tạo nguồn vốn ở nước ta hiện nay có thể dựa vào hai nguồn vốn, đó là:

nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ của Đảng đã đặt ra vấn đề:” Nguồn vốn trong nước lâ quyết định,

vốn từ nước ngoài là quan trọng”. Với nguồn vốn trong nước thì tính quyết định

của nó đã được khẳng định bằng kinh nghiệm của rất nhiều nước trên thế giới. Một

số nước Châu á cho thấy thời gian đầu của công nghiệp hoá họ phải huy động ở

trong nước khoảng 50% đến 80% số vốn cần thiết và phải duy trì trong nhiều năm

mức đầu tư trên 30%GDP mới trở thành những” Con Rồng” như hiện nay. Đối với

nước ta, huy động nguồn vốn tích luỹ trong nước cấn phải thực hiện mạnh mẽ các

biện pháp sau:

- Khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của đất nước( lao động, tài

nguyên..); phát triển các ngành nghề, sử dụng tối đa công suất của máy móc, thiết

bị hiện có, tạo thêm việc làm cho người lao động để tăng sản phẩm cho đất nước

trong đó có sản phẩm thặng dư- tiền đề của tích luỹ.

- Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế phải được coi là đường lối chiến

lược, nhất quán được thể chế hoá bằng pháp luật để mọi cá nhân, mọi tổ chức có

vốn yên tâm mạnh dạn bỏ vốn đầu tư cho sản xuất- kinh doanh.

- Huy động nguồn vốn trong nhân dân: qua kết quả điều tra xã hội học vào năm

1994 nguồn vốn trong dân ước tính gần 20 triệu cây vàng và 2 nghìn tỷ đồng tiền

mặt. Để thu hut nguồn tiền nhàn rỗi này phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất

nước, cần mạnh dạn sử dụng các công cụ như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho

bạc nhà nước, các hình thức tiền gửi và cho vay với các mức lãi suất phù hợp.

- Thực hiện tốt chính sách tiết kiệm. Khái niệm tiết kiệm cần được hiểu là tiết

kiệm cả trong sản xuất và tiết kiệm trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, có

thể thực hiện tiết kiệm bằng việc khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu;

hạn chế những lãng phí từ khâu lập dự án, thiết kế, thi công cũng như trong suốt

quá trình hoạt động của các cơ sở kinh tế; chống những thất thoát trong quản lý

kinh tế- xã hội bằng cách nâng cao năng lực quản lý và đấu tranh chống tham

nhũng có hiệu quả; tiết kiệm của cải nhờ tái chế, chắt lọc các đồ thừa, phế thải..

Tăng tỷ lệ vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Muốn vậy

phải thực hiện đổi mới hoạt động thu- chi và quản lý ngân sách, trong đó đặc biệt

mở rộng diện thu thuế và chống thất thu thuế.

Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận thu được từ mọi hoạt động

sản xuất- kinh doanh để tái đầu tư

Nguồn vốn ngoài nước gồm các khoản đầu tư nước ngoài của các công ty và các

doanh nghiệp tư nhân, của chính phủ và các tổ chức quốc tế; các khoản đi vay từ

các chủ thể nói trên; các khoản viện trợ, các khoản trợ giúp từ các kiều bào nước

ngoài..

Để tăng các nguồn vốn bên ngoài, cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

- Thực hiện thu hút vốn bằng nhiều hình thức quan hệ quốc tế( hợp tác về vốn-

đầu tư trực tiếp quốc tế và đầu tư gián tiếp, ngoại thương, du lịch dịch vụ, xuất

khẩu lao động..) và từ nhiều chủ t hể ( các quốc gia, các tổ chức quốc tế không

phân biệt chế độ chính trị, tôn giáo hay sắc tộc ) trên cơ sở tôn trọng các nguyên

tắc cơ bản của quan hệ quốc tế.

- Tôn trọng các cam kết quốc tế cũng như thực hiện đúng hạn, đầy đủ các hợp

đồng kinh tế quốc tế để tạo ra và giữ gin ưu tín trong quan hệ quốc tế

- Giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, thu hút bà con việt kiều ở

nước ngoài hướng về tổ quốc và giúp đỡ về tinh thần, vật chất, trí tuệ cho sự

nghiệp CNH- HĐH nước nhà.

Một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là phải quản lý tốt và sử dụng có hiệu

quả cao, chống thất thoát, lãng phí các nguồn vốn, dù đó là nguồn vốn trong nước

hay ngoài nước

2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công

nghệ mới

Tăng cường lực lượng nghiên cứu khoa học là vấn đề cần thiết và thường xuyên.

Đối với nước ta, lực lượng nghiên cứu khoa học đều thiếu và có nhiều hạn chế

Sự nghiệp CNH- HĐH cũng như yêu cầu phát triển tiềm năng khoa học của đất

nước, đòi hỏi phải tăng cường lực lượng cho nghiên cứu khoa học và đẩy mạnh

nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới.

Để đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ

có hiệu quả, cần sử dụng các biện pháp căn bản sau:

- Tổ chức và duy trì thường xuyên các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ

thuật trong mọi tấng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi. Tạo ra một không khí thi đua

trong nghiên cứu khoa học làm cho quá trình lao động đồng thời là quá trình tìm

tòi sáng tạo những giải pháp kỹ thuật mới.

- Thông tin nhanh chóng, chính xác các thành tựu khoa học- kỹ thuật của trong

nước và quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu cũng như ứng dụng những

thành tựu khoa học công nghệ mới, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu và ứng

dụng khoa học- kỹ thuật.

- Có chính sách và biện pháp khuyến khích đối với những cá nhân có thành tích

trong nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo; khuyến khích các cơ sở ứng dụng những thành

tựu khoa học công nghệ mới.

- Nhà nước cần dành tỷ lệ ngân sách đầu tư cho nghiên cứu, thử nghiệm, ứng

dụng những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới một cách thích đáng.

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và khoa học công nghệ

3. Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất

Đây là công việc cần thiết, thậm chí phải hoàn thành về cơ bản trong giai đoạn

đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước. Bởi vì quá trình công nghiệp hoá đất

nước đổng thời là quá trình xây dựng những cơ sở kinh tế mới, là quá trình khai

thác những tiềm năng để phát triển kinh tế.

Công tác điểu tra cơ bản thăm dò địa chất tạo cơ sở cho việc xác định các tiềm

năng bên trong của nền kinh tế đất nước.

Đánh giá chính xác các nguồn khoáng sản; điều kiện địa chất từng vùng, các

nguồn thuỷ sản hải sản; lực lượng lao động; các ngành nghề thủ công truyền

thống.. sẽ góp phần hình thành cơ cấu ngành nghề phù hợp với các điều kiện tự

nhiên, xã hội của đất nước; bố trí các cơ sở kinh tế hợp lý ở từng vùng, có cơ sở để

mở rộng hợp tác mọi mặt với các nước.

Để công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất có kết quả chính xác, cần giải

quyết các vấn đề cơ bản sau:

- Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân làm công tác điều tra cơ bản,

công tác thăm dò địa chất.

- Tăng cường lực lượng vật chất, kết hợp sử dụng nhiều phương pháp trong công

tác điều tra cơ bản và thăm dò dịa chất.

- Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, cần tranh thủ sự giúp đỡ cũng

như tăng cường hợp tác quốc tế đối với công tác này.

4. Chuẩn bị lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.

Quá trình sản xuất nói chung,đặc biệt là qúa trình phát triển kinh tế, phát triển

sản xuất trong đieeuf kiện cách mạng khoa học công nghệ, yếu tố người lao động –

yếu tố con người ngày càng có vai trò quan trọng. Nó đóng vai trò quyết định sự

thành công của công nghiệp hoá đất nước.

Lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước bao gồm đội ngũ cán

bộ khoa học-kỹ thuật , đội ngũ cán bộ quản lý, cac chuyên gia và đông đảo các

công nhân lành nghề.

Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển kinh tế- xã hội. Lý luận thực

tiễn cho thấy trong quá trình công nghiệp hoá con người luôn đóng vai trò trung

tâm và mục đích đầu tiên của sự nghiệp công nghiệp để tạo ra sự tăng trưởng và

phát triển cho nền kinh tế. Để có thể tạo ra tốc độ cho sự tăng trưởng và phát triển

kinh tế của một quốc gia đạt được tốc độ cao khi chúng ta giải quyết tốt và thực

hiện đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất đó. Và những thành tựu của

khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện nay đã khẳng định rằng mặt kỹ thuật của các

yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng phức tạp và hiện đại hơn, hơn nữa con

người Việt Nam chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

Điều đó sẽ dẫn đến kém sức sáng tạo, trình độ khoa học kỹ thuật thấp, kỹ năng kỹ

sảo trong lao động yếu. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta chủ yếu xây dựng mô

hình công nghiệp hoá hỗn hợp, việc tiếp nhận và chuyển giao công nghệ chiếm

một vị trí quan trọng dể chúng ta có thể nâng cao năng lực sản xuất hiện tại, theo

kịp những tiến bộ của phương thức sản xuất trên thế giới. Như đã nói ở trên yếu tố

tự nhiên của sản xuất ngày càng phức tạp tất yếu phải đòi hỏi không ngừng nâng

cao trình độ của người công nhân, các cán bộ quản lý để có thể áp dụng những

thành tựu đó vào sản xuất. Không những thế cạnh tranh đang buộc chúng ta duy trì

khả năng sản xuất đã có và phải cải tạo nó theo hướng nâng cao hiệu quả. Đó là

đòi hỏi đảm bảo năng lực nội sinh trong nước, có như vậy mới đứng vững được

trong cuộc cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Việc này chỉ có thể thực hiện được bởi

bản thân những con người Việt Nam mang kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa

học- công nghệ cao.

Mỗi giai đoạn của quá trình CNH- HĐH đất nước, lực lượng lao động được

chuẩn bị có tỷ lệ tương ứng với ngành nghề đã xác định. Do khoa học- kỹ thuật và

cơ cấu ngành nghề thay đổi, cần gắn bó chặt chẽ các quá trình đào tạo- bố trí sử

dụng- nâng cao tay nghề một cách thường xuyên

Tổng hợp những vấn đề đó, Đảng ta đặt con người vào vị trí trung tâm trong sự

nghiệp CNH- HĐH đất nước “ Đẩy mạnh hơn nứa sự nghiệp giáo dục đào tạo,

khoa học công nghệ coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người-

động lực trực tiếp cho sự phát triển”.

Việc xây dựng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật công nhân lành

nghề, đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta cần thông qua hệ thống giáo dục đào tạo

hoàn chỉnh. Trước hết nhà nước cần đổi mới cơ cấu nội dung chương trình các

môn học sao cho phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của khoa học- công nghệ.Đưa

sự nghiệp giáo dục đào tạo thành sự nghiệp của toàn dân.Vừa đầu tư theo chiều

rộng vừa đầu tư theo chiều sâu.

Kết hợp giáo dục mọi mặt cho ngươì lao động với chế độ đãi ngộ thích đáng đối

với nhân tài, tạo mọi điều kiện cho người lao động tích cực làm việc, phát huy hết

tài năng, tránh tình trạng bị mất chắt xám như các nước đang phát triển trước đây

và các nước Đông Âu trong thập kỷ 90.

Chỉ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó chúng ta mới có thể có được đội

ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý có

năng lực. Từng bước đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu mới của công cuộc cách

mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới đang phát triển như vũ

boã hiện nay.

5. Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng chi phối tất cả các giai đoạn phát triển của nền kinh tế, do đó

muốn cho nền kinh tế cất cánh, mỗi quóc gia phải có một cơ sở hạ tầng phù hợp.

Ví như Châu Âu, Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 từ trong hoang tàn đổ nát

họ đã thắt lưng buộc bụng, dồn vốn xây dựng đướng xá, sân bay, bến cảng,.. để

phục vụ trực tiếp cho phục hồi và phát triển kinh tế.

Nước ta, một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên kết cấu hạ tầng quá thấp

kém cả về số lượng lẫn chất lượng, nay bước vào quá trình CNH- HĐH việc xây

dựng kết cấu hạ tầng phù hợp phải tiến hành xây dựng hoàn chỉnh đồng loạt các

kết cấu hạ tầng. Đặc biệt là cơ sở hạ tầng của ngành giao thông vận tải, .. Giao

thông vận tải là cửa mở, là đòn sóc với toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy

các quá trình giao lưu văn hoá và kinh tế, phát triển và phân phối lực lượng sản

xuất trên quy mô toàn lãnh thổ. Là cầu nối để mở rộng giao lưu quốc tế, trước hết

là với các nước láng giềng và trong khu vực. Trong sự nghiệp CNH- HĐH hiện

nayviệc xây dựng và mở rộng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải vừa là điều kiện

vừa là nội dung cơ bản để tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới nền kinh tế.

6. Vấn đề nâng cao hiệu lực, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước

Quá trình công nghiệp hoá ngày nay không còn tính tự phát như trước đây nó đã

từng ở các nước đi trước. Nhà nước đóng vai trò quan trọng không chỉ với chức

năng quy định luật lệ làm trọng tài, bảo hộ, khuyến khích hoặc trừng phạt bằng các

công cụ hành chính, kinh tế mà Nhà nước còn có thể đóng góp tích cực vào việc

thúc đẩy công nghiệp hoá thông qua các chức năng đầu tư hình thành các cơ sở

ban đầu, chia sẻ rủi ro trong các lĩnh vực mới. Chính vì thế, tạo môi trường thuận

lợi cho sự nghiệp CNH- HĐH thì các chức năng trên của Nhà nước phải được đảm

bảo, tức là phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước thể hiện ở các mặt

chính sau đây:

+ Tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để gắn quá trình công

nghiệp hoá đất nước với quá trình công nghiệp hoá thế giới và trong khu vực.

+ Xây dựng chính sách tiền tệ tài chính đúng đắn đặc quyền cho những

hàng thiết yếu đối với sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu thông qua trợ cấp có chọn

lọc, thuế quan định ngạch, hỗ trợ giá.

+ Nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch hướng dẫn các nhà đầu tư theo quy

hoạch của Chính Phủ chỉ đạo thực hiện các công trình điểm của quốc gia về công

nghiệp hoá và phát triển công nghiệp trong từng thời kỳ một cách phù hợp để hình

thành nên những “ cực tăng trưởng” của nền kinh tế quốc dân.

+ Hỗ trợ các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế nâng cao năng lực tiếp

thị, nắm bắt thông tin để mở rộng thị trường trong và ngoài nước.

+ Tạo môi trường luật pháp nhằm duy trì cạnh tranh bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế các doanh nghiệp.

+ Chịu trách nhiệm chính trong công việc đầu tư nâng cấp, xây dựng cơ sở

hạ tầng kinh tế- xã hội.

V . Vai trò của CNH –HĐH

Đặt công nghiệp hoá trong bối cảnh của phát triển kinh tế với nội dung cơ

bản là phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghioệp hiện đại nhằm dẩy mạnh

nhịp độ phát triển đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.

Tổ chức phat triển tốt công việc CNH-HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm

đầy đủ tới sự phát triển toàn dân và toàn diện của nhân tố con người.

Công nghiệp hoá còn tạo vật chất, kỹ thuật cho việc củng cố phát triển tiềm

lực phát triển tiềm lực quốc phòng vưng mạnh vì chỉ có phát triển kinh tế mạnh

mới ó thể tạo ra cơ sở vật chaat kinh tế cho an ninh quốc phòng phát triển. Mặt

khác công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều khả năng cho việc thực hiện tót phân công

và hợp tác quốc tế khoa học công nghệ tăng cường trọng lượng tiếng nói của ta

trên diễn đàn quốc tế

Logic và lịch sử đã chưng minh quá trình cải tạo xã hội nhanh nhất đó là CNH .

Trên thế giới công nghiệp hoá đã biến đổi nhiều nước từ xãn hội lạc hậu thành

nước văn minh, đứng vị trí hàng đầu thế giới .Trong xu hướng phát triển như vũ

bão hiện nay của thế giới, công nghiệp hoá ngay càng khẳng định vị trí quan trọng

tất yếu của nó ,đặc biệt là động viên các nước đang ở tình trạng kém phát triển thì

con đường cải tạo xã hội thông qua công nghiệp hoá là con đường ngắn nhất.

Công nghiệp hoá là cuộc cách mạng về lục lượng sản xuất làm thay đỏi căn

bản khoa học kinh tế san xuất làm tăng năng xuất lao động. Công nghiệp hoá

chính là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và

ngày càng nâng cao dời sống vật chất .

Quá trình công nghiệp hóa sẽ giải quyết tốt các nhiệm vụ được giao của sự

phát triển kinh tế đó là nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước ,nâng cao khả năng

tích luỹ ,mở rộng sản xuất, phát triển hiều nghành nghề mới, đáp ứng cac nhu

cauviệc làm của người lao động và các mối quan hệ kinh tế giữa các nghành, các

vùng và giữa các nước đặt ra .

CNH-HĐH là con đường đã chọn mở hướng đi cho chúng ta tiến tới một

cái đích cao hơn trong quá trình theo đuổi nền khoa học kỹ thuật công nghệ tiên

tiến của nước phát triển trên thế giới. Với những bước đi vững chawc đứng đắn

chúng ta tin tưởng răng đất nước ta xẽ tiến tới được cái đích đó dể Việt Nam tở

thành một trong các cường quốc có nền kinh tế phát triển nhất tronh khu vực Đông

Nam á nói riêng và trên thế giới nói riêng.

C. Kết luận

Một lần nữa chung ta khẳng định lại rằng mục tiêu của quá trinh CNH-

HĐH ở nước ta là đưa đất nước từ một nước nônh nghiệp lạc hậu và lối sản xuất

nhỏ, thủ công tiến lên một nước công nghiệp với cơ sở vật chất hiện đại, QHSX

tiến bộ, phù hợp với sự phat triển của LLSX, các nguồn lực trong và ngoài nước

được khai thác sở dụng và phát huy hết tềm năng, tiến tới mục tiêu dân giàu nước

mạnh xã hội công bằng văn minh.

Trong điều kiện nước ta còn nhièu khó khăn, CNH-HĐH không thể thực

hiện một sớm một chiều mà đảng ta xác định đây là quá trìng trải qua nhiêu thập

kỷ. Hơn 30 năm qua quá trình công nghiệp hoá đất nước tuy chưa làm nên được

bước hảy vĩ đại, nhưng đã tạo nên tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá từ nay vê

sau. Giai đoan hiên nay là giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị tri

thức cho con người để tiến vào thế ky 21. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8

năm1996 đã xác định: “ giai đoạn từ nay đến 2000 là quan trọng thời kỳ phát triển,

đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước..

Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng trnh thủ thời cơ, vượt qua thử

thách dẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát

huy nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược

ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm2000 : Tăng trưởng kinh tế nhanh hiệu

quả cao và bền vững giải quyết vấn đề bức xúc của xã hội đảm bảo quốc phong an

ninh, cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao

hơn ở đầu thế kỷ sau.

Là sinh viên kinh tế – một chủ nhân tương lai của đất nước trong giai đoạn

chuẩn bị hành trang của mình em rất quan tâm đến đường lối chinhd sách đổi mới

của đảng, nhà nước về những chiến lược phát triển kinh tế .

Theo em, với vị trí trung tâm và vai trò chủ thể của quá trình CNH-HĐH

đất nước. Hình thành một lớp người năng động có tri thức, có bản lĩnh kinh doanh,

xông xáo dám nghĩ dám làm quả là cần thiết.

Thực tế đã cho thấy với một nguồn tài nguyên diều kiện thiên nhiên khắc

nghiệt nhưng Nhật Bản đã vươn lên băng CNH-HĐH và ý chí con người, hiện

nay họ đang dứng trong 7 nước công nghiệp hàng đầu thé giới.

Với thực trạng tình hình giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay em cho răng

còn thiên về số lượng, chất lượng chưa cao đồng đều, sinh viên được đào tạo ra có

lý thuyết nhưng khả năng vận dụng kém, không linh hoạt. Vi vậy theo em , ngoài

việc phổ cập giáo dục cần phải tiến hành cải tiến chương trình giáo dục để nâng

cao khả năng ứng dụng, tính năng động của đội ngũ tri thức trẻ, tăng giờ thực

hành, giờ thực tế.. làm cho đội ngũ tri thức trẻ kế thừa và thực hiện ý tưởng của

đảng trong công cuộc CNH-HĐh đất nước.

Thứ nữa là phát huy lợi thế về vị trí địa ly để mở rộng mối quan hệ giao lưu

kinh teed chính trị, thông thương với nước ngoài nhanh chóng, tiếp thu công nghệ

mới.

Thứ3 là: nhà nước cần nâng cao chức năng định hướng, dẫn dắt thực hiện

công cuôc CNH-HĐH có định hướng, có công nghệ hiện đại như là một thứ vũ

khí- một con người năng độnh có tri thức sẽ đưa đất nước đi lên.

Đất nước ta đã và đang tiến lên một cách vững chắc, khẳng định con đường

CNH-HĐh đất nước là đúng đắn và khách quan. Mặc dù còn nhiều sai làm và khó

khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, con người Việt Nam sẽ

tiếp bước cha anh, ra sức bảo vệ và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.Sự

nghiệp CNH-HĐH chác chắn sẽ thành công.

D. Tài liệu tham khảo

1. Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam

2. Đề cương bài giảng kinh tế chính trị học Mac –Lênin Đại học luật Hà Nội

3. Định hướng XHCN ơ Việt Nam

4. Giáo trình kinh tế học Mac _Lênin , Nhà xuất bản chính trị quốc gia

5. Kinh tế chính trị học Mac-Lênin

6. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mac-Lênin trong thời đại hiên nay- nhà xuất bản

chính trị quốc gia năm 1996

7. Tạp chí quản sy xây dựng nhà nước: các số năm 1996-1997

8. văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V,VI,VII,VIII

9. Vai trò nhà nước trong phát triển nền kinh tế

10. Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường .

11. Về quản lý kinh tế.

12.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI- nhà xuất bản sự thật

13. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX- nhà xuất bản chính trị quốc gia

14. Sự lãnh đạo của đảng trong điều kiện cơ chế thị trường.

15.Tạp chí lí luận giáo dục số 10

16.Tạp chí lí luận giáo dục số 9

17.Tài liệu triết học số 1(152)năm 2004

18.Tài liệu triết học số 8(159)năm 2004

19.Tài liệu cộng sản

đề cương chi tiết

B. Đặt vấn đề

C. Nội dung

II. tất yếu khách quan và tác dụng của CNH- HĐH

1. Tính tất Tính yếu khách quan

2. Tác dụng của CNH- HĐH

III. Nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta trong các thời kỳ

1. Thực chất của vấn đề CNH- HĐH

2. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta

3. Nội dung cơ bản của CNH- HĐH trong các thời kỳ

a. Nội dung CNH- HĐH ở giai đoạn 2001- 2010

b. Nội dung CNH- HĐH ở giai đoạn 2010- 2020

IV. Những vấn đề cần giảI quyết để tiếp tục thực hiện chiến lược CNH- HĐH ở

Việt Nam

1. Tạo nguồn vốn tích luỹ cho CNH- HĐH

2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ

mới

3. Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất

4. Chuẩn bị lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước

5. Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng

6. Vấn đề nâng cao hiệu lực, vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước

V. Vai trò của CNH- HĐH trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

ta hiện nay

D. Kết luận

E. Danh mục tài liệu tham khảo