TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÊN ĐỀ TÀI
CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VỚI PHÁT TRIỂN KHU DU
LỊCH VĂN HÓA LÀNG GỐM BÁT TRÀNG – HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học: Quang Thị Ngọc Huyền
Nhóm: 5
Hà Nội, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của chúng
tôi. Những nội dung trình bày trong nghiên cứu đề tài là kết quả nghiên cứu của
chúng tôi đảm bảo tính trung thực và chưa từng được ai công bố dưới bất kỳ
hình thức nào. Các số liệu sử dụng phân tích, kết quả nghiên cứu của người khác
đều được tôi trích dẫn đầy đủ, rõ ràng.
Hà Nội, ngày…. tháng 4 năm 2022
TM nhóm tác giả nghiên cứu
Lê Hồng Ngọc
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1.Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 4
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4
6. Đóng góp của đề tài ..................................................................................... 5
7. Bố cục của đề tài .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN THÔNG VỚI PHÁT
TRIỂN DU LỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNG GỐM BÁT TRÀNG ............... 6
1.1. Cơ sở lý luận chung về truyền thông với phát triển du lịch ................ 6
1.1.1. Các khái niệm ...................................................................................... 6
1.1.2.Vai trò và ảnh hưởng của truyền thông trong xã hội hiện đại và trong
sự phát triển du lịch ....................................................................................... 9
1.2. Khái quát làng nghề gốm Bát Tràng .................................................... 14
1.2.1. Vị trí địa lý tự nhiên .......................................................................... 14
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm Bát Tràng ...................... 15
1.2.3. Nghề gốm tại Bát Tràng .................................................................... 23
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG GỐM BẤT TRÀNG ........... 26
2.1. Các văn bản pháp quy về phát triển du lịch làng gốm Bát Tràng ...... 9
2.2. Các hoạt động truyền thông du lịch Bát tràng ................................... 26
2.2.1. du lịch làng gốm Bát Tràng qua mạng xã hội .................................. 26
2.2.2. du lịch làng gốm Bát Tràng qua truyền hình ................................... 27
2.3. làng gốm Bát Tràng qua các dịch vụ và sản phẩm phục vụ khách du
lịch ................................................................................................................... 28
2.3.1. truyền thông qua lễ hội và sự kiện của làng gốm Bát Tràng ........... 30
2.3. Đánh giá hoạt động truyền thông trong phát triển du lịch làng gốm
Bát Tràng ....................................................................................................... 34
2.3.1. Những kết quả đã đạt được ............................................................... 34
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại ................................................................ 35
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ỨNG DỤNG TRUYỀN THÔNG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH LÀNG GỐM BÁT TRÀNG .............................................. 38
3.1. Định dạng công chúng mục tiêu ............................................................ 38
3.1.1. Khách thăm quan, du lịch nội địa ..................................................... 38
3.1.2. Khách tham quan, du lịch nước ngoài .............................................. 39
3.2. Xác định mục tiêu truyền thông và nâng cao vị thế làng gốm Bát
Tràng .............................................................................................................. 41
3.2.1. Mục tiêu truyền thông ....................................................................... 41
3.3. Đề xuất một số ứng dụng truyền thông để phát triển du lịch tại Bát
Tràng .............................................................................................................. 45
3.3.1. Truyền thông thương hiệu ................................................................. 46
3.3.2. Truyền thông mạng xã hội ................................................................ 46
3.3.3. Truyền thông sự kiện......................................................................... 46
3.3.4. Truyền thông nội bộ .......................................................................... 47
3.3.5. Liên kết, mở rộng quan hệ với nhiều cơ quan Báo chí ..................... 47
3.3.6. Đánh giá kết quả truyền thông .......................................................... 48
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 52
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nước ta có số lượng nghề, làng nghề rất lớn, hình thành và phát triển
khắp cả nước nằm rải rác theo các triền đê và ven các dòng sông lớn và tập trung
đông nhất tại vùng Đồng Bằng Bắc Bộ với hàng trăm làng nghề lâu đời và nổi
tiếng như làng tơ lụa Vạn Phúc, làng đúc đồng Đại Bái, làng tranh dân gian
Đông Hồ, làng chạm bạc Đồng Xâm, làng tiện Nhị Khê,… Đặc biệt nói đến làng
nghề truyền thống nước ta không thể không nói tới một làng nghề nổi tiếng vào
bậc nhất nhì trong quá khứ cũng như trong hiện tại đó là: Làng gốm Bát Tràng -
một trong những nguồn cung cấp đồ gốm sứ lớn nhất Việt Nam
Người xưa nói “Hữu xạ tự nhiên hương”, nghĩa đen là có chất thơm thì tự
nhiên có mùi thơm. Nghĩa bóng chỉ người hay vật thể có tài hoặc có chất lượng
tốt thì tự nhiên sẽ có người biết đến. Sản phẩm của làng gốm Bát Tràng từ lâu đã
đi vào lòng người, trở thành thương hiệu không chỉ với người dân Việt Nam mà
còn lan tỏa ra các nước khu vực xung quanh và thế giới. Một trong những nhân
tố góp phần quan trọng cho hình ảnh gốm Bát Tràng vốn đã “hữu xạ” trở nên đi xa
hơn, phổ quát rộng hơn chính là đóng góp của lĩnh vực truyền thông.
Ngày nay, trong thời đại 4.0, công nghệ thông tin bùng nổ thì truyền
thông là nhân tố vô cùng quan trọng nhằm có thể làm cho hình ảnh các làng
nghề có thể tiếp cận với bạn bè trong nước và quốc tế, giúp tuyên truyền và cho
nghề và đẩy mạnh xúc tiến du lịch văn hóa làng nghề. Nghiên cứu tìm hiểu việc
truyền thông cho làng nghề nhằm chỉ ra những đặc điểm, ưu thế cũng như những
vấn đề đặt ra của lĩnh vực truyền thông, góp phần phát triển du lịch, thu hút du
khách đến với làng nghề, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đồng thời bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề. Chính vì vậy, nhóm
tác giả chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Truyền thông với phát triển khu du
lịch văn hóa làng Gốm Bát Tràng - Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học
sinh viên trường Đại học Nội vụ năm 2022.
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bát Tràng từ lâu đã là một làng nghề nổi tiếng được nhiều tác giả quan
tâm, nghiên cứu với các công trình giá trị, tiêu biểu
Cuốn Quê gốm Bát Tràng của tác giả Nguyễn Thị Hảo (1989) [4] giới
thiệu những tổng quát về làng gốm Bát Tràng trên các khía cạnh lịch sử, văn
hóa, phong tục tập quán và nghề làm gốm truyền thống của làng. Đồng thời
cuốn sách cũng đưa ra những khuyến nghị mang tính chất định hướng phát triển
cho làng nghề trong những năm sau Đổi mới.
Gốm Bát Tràng thế kỉ XIV- XIX là công trình của nhóm tác giả Phan Huy
Lê, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc (1995) [6]. Cuốn sách giới thiệu
một cách tổng quát về kĩ thuật và những đặc điểm chính của gốm Bát Tràng từ
thế kỉ XIV- XIX. Thông qua đó, người đọc có thể tiếp cận được một trong
những đặc điểm và giá trị của gốm Bát Tràng trong lịch sử.
Năm 2012, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho xuất bản bộ Tổng tập
nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (gồm 6 tập) do Trương Minh Hằng
chủ biên [5], tập hợp các bài viết đã công bố về các nghề và làng nghề trong cả
nước. Bộ Tổng tập này giúp cho người đọc một cái nhìn tương đối tổng quan về
các công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam của các
tác giả trong và ngoài nước; cũng như về nghề, làng nghề; những vấn đề lý luận
chung đến nguồn gốc hình thành nghề, tổ nghề, quy trình sản xuất, sự biến đổi
của nghề, làng nghề trong giai đoạn hiện nay... Tập 4 của công trình viết về nghề
gốm, trong đó có 02 bài viết về làng gốm Bát Tràng.
Cuốn Bát Tràng làng nghề làng văn do Bùi Xuân Đính chủ biên (2013)
trình bày và giới thiệu một cách khá chi tiết về làng Bát Tràng trên tổng thể các
mặt lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội. Dưới góc độ dân tộc học, tác giả đã làm
nổi bật các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như những giá trị văn hóa
truyền thống của làng Bát Tràng [2].
2
Bên cạnh các cuốn sách, chủ đề làng gốm và nghề gốm Bát Tràng cũng đã
được các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên quan tâm để triển khai
trong các luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp. Tiêu biểu là luận án Nghệ
thuật tạo hình và trang trí gốm Bát Tràng ngày nay (2012) [9] của tác giả
Nguyễn Mỹ Thanh. Luận án giới thiệu tổng quan về nghề gốm Bát Tràng, phân
tích nghệ thuật tạo hình và trang trí trên sản phẩm gốm Bát Tràng hiện nay, đúc
kết và lý giải các nguyên nhân dẫn đến biến đổi nghệ thuật tạo hình và đề xuất
một số kiến nghị để gốm Bát Tràng phát triển bền vững.
Khóa luận Thực trạng làng gốm Bát Tràng (1986 - 2016) và triển vọng
phát triển (2016) [3] của Nguyễn Thị Bích, chuyên ngành Lịch sử văn hóa,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã trình bày tổng quan và làng gốm Bát
Tràng, sản phẩm gốm cũng như nhũng giá trị nổi bật của gốm Bát Tràng, đồng thời
chỉ ra những triển vọng phát triển của gốm Bát Tràng trong giai đoạn tiếp theo.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí, hội thảo với
một số bài viết tiêu biểu như: “Làng gốm cổ truyền Bát Tràng” của Cao Khương
năm, Tạp chí thương mại số 43 (2005), “Gốm Bát Tràng thương hiệu quốc gia
đầu tiên Việt Nam” của Nguyễn Văn Huân đăng trên Toàn cảnh sự kiện - Dư
luận số 176, ... Đặc biệt gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các bài viết về làng gốm
Bát Tràng và nghề gốm Bát Tràng trên các trang mạng internet, các website,…góp
phần cho làng nghề truyền thống nổi tiếng này của Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về làng gốm
Bát Tràng từ góc độ truyền thông phục vụ cho phát triển du lịch. Vì vậy đề tài
của nhóm tác giả được thực hiện với mong muốn là công trình đầu tiên góp phần
tìm ra hướng nghiên cứu mới cho truyền thông về làng nghề Bát Tràng, giúp
hình ảnh làng nghề hiệu quả hơn đối với công chúng trong nước và quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa.
3
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu truyền thông với phát triển khu du lịch văn hóa làng gốm Bát
Tràng nhằm chỉ ra những đặc điểm, ưu thế và những vấn đề đặt ra của hoạt động
truyền thông nhằm phục vụ phát triển du lịch làng nghề Bát Tràng bền vững.
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động truyền thông với phát triển
khu du lịch văn hóa ở Làng gốm Bát Tràng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Hoạt động truyền thông bao gồm rất nhiều các nội
dung. Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả xác định nội dung chính là nghiên cứu
hoạt động truyền thông nhằm phát triển khu du lịch làng gốm Bát Tràng.
Phạm vi không gian: Nghiên cứu truyền thông với phát triển du lịch tại
làng gốm Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu hoạt động truyền thông với phát triển khu
du lịch làng gốm Bát Tràng từ năm 2012 đến nay. Vì đây là giai đoạn hoạt động
truyền thông rất mạnh do sự bùng nổ của internet.
5.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nhóm tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhóm tác giả đã tiến hành thu thập tài
liệu về làng gốm Bát Tràng qua các sách, báo, tạp chí và các trang website. Đây
là phương pháp đem lại nhiều thông tin xác thực giúp nhóm tác giả có cái nhìn
tổng quan về đề tài nghiên cứu của mình hơn
-Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những thông tin tin khai thác, thu
thập được từ các nguồn sách, báo, tạp chí, thông tin thu thập được từ thực địa
qua những chuyến điền dã, nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp, xử lý, từ đó đưa
vào sử dụng trong đề tài.
4
6. Đóng góp của đề tài
- Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận
về truyền thông cho văn hóa du lịch làng nghề.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần chỉ ra được những mặt tích
cực, thành công cũng những hạn chế của truyền thông với phát triển du lịch tại
làng nghề Bát Tràng, giúp du lịch làng nghề phát triển bền vững.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục thì nghiên
cứu khoa học gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận chung về truyền thông với phát triển du lịch và
khái quát làng gốm Bát Tràng
Chương 2: Thực trạng các hoạt động truyền thông thúc đẩy phát triển du
lịch làng gốm Bát Tràng
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động truyền thông phát
triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNG
GỐM BÁT TRÀNG
1.1. Cơ sở lý luận chung về truyền thông với phát triển du lịch
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Truyền thông
Hiện nay, cùng với đà phát triển của xã hội, nhu cầu đời sống con người
cũng không ngừng nâng cao cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Con
người luôn sáng tạo cho cuộc sống trở nên đầy đủ và tiện nghi. Một trong đó
chính là nhu cầu trao đổi thông tin và đây chính là nguyên nhân ra đời của
truyền thông. Đã có rất nhiều khái niệm về truyền thông được đưa ra nhằm phục
vụ cho công việc của các nhà nghiên cứu truyền thông từ các góc độ khác nhau.
Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả chọn khái niệm truyền thông của tác giả Tạ
Ngọc Tấn trong cuốn sách Truyền thông đại chúng do Nxb Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2001:
“Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm
người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau” [8, tr.8].
Như vậy ở đây có thể hiểu truyền thông là quá trình truyền tải, chia sẻ
thông tin giữa các thành viên hay nhóm người nhằm để hiểu biết lẫn nhau. Quá
trình hiểu biết tức là quá trình trao đổi và tiếp nhận thông tin, cũng có thể hiểu là
thông qua quá trình trao đổi thông điệp, nhằm thuyết phục một người, một nhóm
người hay một cộng đồng nhất định tán thành, ủng hộ, làm theo.
Truyền thông thực hiện thông qua lời nói, ngôn ngữ, tín hiệu, hình ảnh, cử
chỉ, hành vi; là quá trình động, liên tục, hai chiều, mỗi cá nhân có thể vừa là
nguồn phát, vừa là nguồn nhận thông tin; Truyền thông không chỉ là việc trao
đổi thông tin mà còn nhằm trao đổi thông điệp. Ví dụ như cổ vũ điển hình tiên
6
tiến, phê phán thái độ, hành vi thiếu tích cực hoặc tiếp thị, cho sản phẩm kinh
doanh dịch vụ du lịch,..
1.1.1.2. Các phương tiện truyền thông
Phương tiện truyền thông là cách thức trao đổi thông tin, tương tác thông
tin với nhau giữa hai hay nhiều người với nhau tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
thay đổi nhận thức của công chúng. Phương tiện truyền thông đề cập đến các
phương thức cụ thể để các doanh nghiệp, nhà nước sử dụng nhằm mục đích
truyền tải những thông điệp, nội dung một chiến lược Marketing. Theo đó các
phương tiện truyền thông phổ biến ở Việt Nam hiện nay có thể nhắc đến là:
- Mạng xã hội: Các nền tảng mạng xã hội truyền thông Social Media như
Facebook, Twitter, Linkedin, … là phương tiện truyền thông đang hoạt động
mạnh mẽ. Và là cách tốt nhất giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng nâng cao nhận
thức thương hiệu và tiếp cận với các đối tượng khách hàng mới với lượng người
dùng hàng tháng là rất lớn. Thông qua Social Media, doanh nghiệp có thể phân
phối quảng cáo đến với các nhóm mục tiêu để tối đa hoá chi phí quảng cáo và
giành được vị trí tốt hơn trên thị trường. Để bắt đầu, doanh nghiệp chỉ cần một
tài khoản miễn phí và ứng dụng nó để cung cấp thông tin cho độc giả, thu thập
insight khách hàng, tìm hiểu xu hướng khách hàng hay xây dựng cộng đồng, ....
- Truyền hình: Với tính trực quan và sinh động, truyền hình trở thành
phương tiện truyền thông mạnh mẽ giúp thu hút sự chú ý của khách hàng và
khiến họ nhớ đến thương hiệu của doanh nghiệp nhanh chóng.
- Báo chí: Báo chí giúp hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với khách hàng hiệu
quả qua các trang báo điện tử hay báo giấy và còn là công cụ cung cấp thông tin
chính và phản hồi ý kiến về các vấn đề của công chúng.
- Internet và các nền tảng tìm kiếm: Một hệ thống thông tin toàn cầu có
thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau.
Chính vì nó được liên kết với nhau nên con người dù ở bất kì đâu trên trái đất
cũng có thể tìm kiếm thông tin đến từ các quốc gia khác.
7
- Điện thoại trực tiếp: Một thiết bị viễn thông liên lạc có thể sử dụng trong
không gian rộng, phụ thuộc vào nơi phủ sóng của nhà cung cấp dịch vụ. Chất
lượng sóng phụ thuộc vào thiết bị mạng và phần nào địa hình nơi sử dụng máy
chứ ít khi bị giới hạn về không gian. Điện thoại trực tiếp giúp các cá nhân có thể
liên lạc, trao đổi thông tin với nhau tại chỗ chỉ cần với chiếc điện thoại, không bị
ngăn cách bởi không gian và thời gian,...
- Quảng cáo ngoài trời: Bao hàm việc treo các biển quảng cáo ngoài trời,
đồng thời tổ chức những sự kiện, những chương trình nhằm maketing cho sản
phẩm, hay đơn giản chỉ là tài trợ cho chương trình để được treo logo trên phông
chương trình.
1.1.1.3. Du lịch và văn hóa du lịch
- Về du lịch: Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội
phổ biến. Hiệp hội lữ hành quốc tế đã công nhận du lịch là một ngành kinh tế
lớn nhất thế giới vượt lên cả ngành sản xuất ô tô, thép điện tử và nông nghiệp.
Vì vậy, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên
thế giới. Thuật ngữ du lịch đã trở nên khá thông dụng, nó bắt nguồn từ tiếng Hy
Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên
do hoàn cảnh, thời gian và khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác
nhau nên khái niệm du lịch cũng không giống nhau.
Luật Du lịch Việt Nam 2005 đã đưa ra khái niệm như sau: “Du lịch là các
hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong
một khoảng thời gian nhất định”.
- Về văn hóa du lịch: : Văn hóa du lịch là một hệ thống các giá trị được du
khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng dân cư và nhà nước tích lũy và
sáng tạo qua biểu hiện tương tác giữa các thành tố: du khách, tài nguyên du lịch
và nhà cung ứng dịch vụ du lịch,… trong hoạt động du lịch và với tài nguyên du
lịch - Trần Diễm Thúy (2010), Công trình Văn hóa du lịch, Nxb Văn hóa Thông
8
tin [8], Hoàng Văn Thành (2014), Giáo trình Văn hóa du lịch, Nxb Chính trị
Quốc gia [10].
1.1.2 Các văn bản pháp quy về phát triển du lịch làng gốm Bát Tràng
Để du lịch Bát Tràng phát triển bền vững, UBND TP Hà Nội đã ban hành
Quyết định 3936/QĐ-UBND công nhận xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP Hà
Nội là điểm du lịch.
Theo đó, UBND xã Bát Tràng có trách nhiệm quản lý, khai thác, phát triển
điểm du lịch theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo giữ gìn, phát triển
tài nguyên du lịch, vệ sinh môi trường và an ninh trật tự, an toàn cho du khách;
tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đến tham quan; bảo đảm sự tham gia
của cộng đồng dân cư vào các hoạt động du lịch. Các Sở, ngành: Du lịch, Văn
hóa và Thể thao, Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên
và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công an Thành phố,
UBND huyện Gia Lâm có trách nhiệm hướng dẫn, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc
triển khai thực hiện công tác quản lý, khai thác, phát triển điểm du lịch Bát
Tràng theo quy định hiện hành của Nhà nước. [9]
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Căn cứ
Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội; Căn cứ Nghị định số 91/CP ngày 17/ 8/1994 của
Chính phủ ban hành Điều lệ quản lý quy hoạch đô thị; Căn cứ Quyết định số
108/1998/QĐ-TTg ngày 20/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều
chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2020; Căn cứ Quyết định số
322/BXD-ĐT ngày 28/12/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc ban hành
qui định lập các đồ án QHXD đô thị; Xét đề nghị của Kiến trúc sư trưởng Thành
phố tại tờ trình số 357/TTr-KTST ngày 16 tháng 7 năm 2001,
Điều 1: Phê duyệt Quy hoạch chi tiết Làng nghề truyền thống Bát Tràng -
Huyện Gia Lâm Hà Nội do Công ty Tư vấn phát triển đô thị - nông thôn thuộc
9
Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam lập tháng 7/2001 bao gồm: +) Quy
hoạch chi tiết xã Bát Tràng tỷ lệ 1/2000 - diện tích : 164,03 ha
Quy hoạch chi tiết Làng cổ Bát Tràng tỷ lệ 1/500 (Phần đánh giá và quy
hoạch các khu vực bảo tồn có diện tích 5,31 ha)
Điều 2. Kiến trúc sư trưởngThành phố chịu trách nhiệm xác nhận hồ sơ,
bản vẽ thiết kế theo quy hoạch chi tiết được duyệt để thực hiện và quản lý, Chủ
trì phối hợp với Uỷ ban nhân dân huyện Gia Lâm tổ chức công bố, niêm yết
công khai quy hoạch chi tiết được duyệt cho các tổ chức, cơ quan và nhân dân
biết thực hiện; có trách nhiệm phối hợp với Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường tổ chức nghiên cứu, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với đồ
án quy hoạch chi tiết này theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường,
trình cấp có thẩm quyền xem xét, thẩm định và phê duyệt. Chủ tịch UBND
huyện Gia Lâm và Chủ tịch UBND xã Bát Tràng chịu trách nhiệm quản lý, kiểm
tra, giám sát xây dựng theo quy hoạch và xử lý các trường hợp xây dựng sai quy
hoạch theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Quyết định này có hiệu lực
thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.
- Điều 3. Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
Thành phố, Kiến trúc sư trưởng Thành phố, Giám đốc các Sở: Xây dựng, Giao
thông công chính, Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học công nghệ và Môi trường, Địa
chính - Nhà đất, Tài chính Vật giá; Chủ tịch UBND huyện Gia Lâm, Chủ tịch
UBND các xã Bát Tràng, Đa Tốn; Giám đốc, Thủ trưởng các Sở, Ngành, các tổ
chức và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này [11].
Nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch Thủ đô, UBND thành phố Hà Nội vừa
ban hành Kế hoạch số 191/KH-UBND về thực hiện Chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó, Hà Nội đặt
mục tiêu đến năm 2030, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
Thủ đô. Để hoàn thành mục tiêu này, ngành Du lịch Hà Nội cần tiến hành đồng
bộ nhiều giải pháp [13].
10
Cùng các di tích lịch sử văn hóa và các di tích cách mạng kháng chiến,
Gia Lâm còn có nhiều lễ hội truyền thống tiêu biểu như lễ hội Gióng, lễ hội đền
Bà Tấm, lễ hội Chử Đổng Tử... và nhiều làng nghề truyền thống, tiêu biểu là
Làng gốm Bát Tràng. Đây chính là những thế mạnh mà chính quyền địa phương
có thể giới thiệu, hình ảnh, lịch sử văn hóa, con người… đến bạn bè trong và
ngoài nước. Để tìm hiểu tiềm năng, thế mạnh về du lịch làng gốm, đoàn khảo
sát đã tìm hiểu các điểm đến, sản phẩm du lịch như: Trung tâm Tinh hoa làng
nghề Việt nơi đây có Bảo tàng gốm Bát Tràng, qua các ngõ nhỏ, trên các bức
tường, còn mang đậm dấu ấn về làng gốm Bát Tràng, đoàn đến tham quan lò bầu
nung gốm cổ, nhà cổ, di tích Văn chỉ ở Bát Tràng.
Trưởng phòng văn hóa thông tin huyện Gia Lâm Phùng Thị Hoài Hương
cho biết: huyện Gia Lâm đã có Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn
hóa gắn với phát triển du lịch trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2021 -
2025”. Huyện đã đầu tư hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, từng bước hiện đại. Hoạt
động tuyên truyền, , xúc tiến du lịch được quan tâm. Bát Tràng đã được công
nhận là “Điểm du lịch của thành phố Hà Nội”. Nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn
đã được đưa vào khai thác, phục vụ nhân dân và du khách. “Điểm du lịch Bát
Tràng đã được UBND Thành phố Hà Nội công nhận năm 2019. Hay theo bà
Hương, sản phẩm du lịch Bát Tràng đa dạng với các sản phẩm du lịch tham
quan, mua sắm sản phẩm làng nghề; chương trình tham quan, trao đổi, học tập
kinh nghiệm nghề gốm với các nghệ nhân, cơ sở sản xuất; trải nghiệm làm nghề
gốm; tham quan kiến trúc làng nghề, nhà cổ; trải nghiệm làm bữa cơm truyền
thống của người Việt; du lịch văn hóa, tâm linh. Trong thời gian tới, chính
quyền địa phương sẽ tăng cường, hỗ trợ Làng gốm Bát Tràng , xúc tiến du lịch
tới thị trường trong nước và quốc tế, thu hút du khách đến khám phá, trải
nghiệm.
11
1.1.3.Vai trò và ảnh hưởng của truyền thông trong xã hội hiện đại và
trong sự phát triển du lịch
1.1.3.1. Vai trò và ảnh hưởng của truyền thông trong xã hội hiện đại
Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền
thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến
hành động và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được
lặp đi lặp lại sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực
của xã hội. Nhờ đến truyền thông mà những vấn đề này được xã hội chấp nhận
và lan truyền nhanh trong công chúng.
Truyền thông có tác động lớn đến các nhóm đối tượng lớn như sau:
- Đối với nhà nước: Truyền thông giúp các cơ quan nhà nước đưa thông
tin đến người dân về các chính sách kinh tế, văn hóa xã hội, luật pháp đến với
dân chúng, thuyết phục công chúng thay đổi về nhận thức và hành xử đúng pháp
luật. Ngoài ra chính phủ cũng nhờ truyền thông để thăm dò lấy ý kiến của dư
luận trước khi ban hành các văn bản pháp lý. Nhờ truyền thông mà nhà nước
điều chính các chính sách quản lý của mình và tạo ra sự đồng thuận cao trong
dân chúng.
Truyền thông làm cho chính phủ, những người thừa hành pháp luật được
trong sạch và minh bạch hơn, thông qua thông tin phản biện của các đối tượng
dân chúng trong xã hội.
- Đối với công chúng: Giúp cho người dân cập nhật thông tin kinh tế văn
hóa xã hội, pháp luật trong và ngoài nước. Giúp người dân giải trí và học tập về
phong cách sống những người xung quanh. Truyền thông ủng hộ cái đẹp và bài
trừ cái xấu. Truyền thông đóng vai trò trong việc tạo ra các xu hướng về lối
sống, văn hóa, thời trang…
Ngoài ra truyền thông còn giúp cho người dân phản hồi, nói lên tiếng nói
của mình, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
12
- Đối với nền kinh tế: Nhờ có truyền thông mà doanh nghiệp có thể sản
phẩm và dịch vụ, giúp cho người mua nhận biết và sử dụng sản phẩm và dịch
vụ. Truyền thông cũng tạo ra nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, giúp rcác
công ty tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, giúp kinh tế phát triển. Hơn
90% ngân sách marketing của doanh nghiệp là sử dụng các phương tiện truyền
thông để quảng cáo sản phẩm và dịch vụ để thu hút người tiêu dùng nhận biết và
sử dụng sản phẩm và dịch vụ của họ. Bản thân truyền thông cũng là một ngành
kinh tế quan trọng của một quốc gia, giải quyết công ăn việc làm và tạo ra giá trị
cho nền kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy truyền thông cũng là một công cụ đắc lực giúp cho
người tiêu dùng phản ánh về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của các nhà sản
xuất một cách hiệu quả.
1.1.3.2. Vai trò của truyền thông đối với sự phát triển du lịch
Hiện nay, du lịch đang được định hướng phát triển thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước. Để thúc đẩy du lịch phát triển thì không thể không nhắc
tới vai trò quan trọng của truyền thông.
Truyền thông là quá trình truyền tải thông tin của doanh nghiệp (tổ chức)
đến người tiêu dùng để họ biết đến những tính năng sản phẩm, dịch vụ, các
chương trình của doanh nghiệp, lợi ích mà doanh nghiệp có thể mang đến cho
khách hàng thông qua các sản phẩm hoặc dịch vụ.
Du lịch với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp, có tính xã hội hóa cao thì
vị trí, vai trò của truyền thông lại càng trở lên quan trọng hơn trong việc sản
phẩm, định hướng tiêu dùng và điều chỉnh hành vi của các bên liên quan trong
lĩnh vực du lịch. Với sự phổ biến của phương tiện truyền thông hiện nay, hoạt
động xúc tiến, du lịch cũng có nhiều đổi mới, bắt kịp với xu hướng để thu hút
được sự chú ý của khách du lịch nhiều hơn với mỗi điểm đến.
Trong thế giới phẳng, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin như hiện
nay, truyền thông ngày càng khẳng định được vai trò ‘‘quyền lực mềm” của
13
mình, hay gọi là quyền lực thứ tư sau lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng
khác với ba quyền lực trên, truyền thông không phải lúc nào cũng có tác dụng và
ảnh hưởng ngay lập tức mà là quá trình thẩm thấu từ từ vào nhận thức của công
chúng, để từ đó định hướng hành vi của các bên. Du lịch với tính chất là ngành
kinh tế tổng hợp, có tính xã hội hóa cao thì vị trí, vai trò của truyền thông lại
càng trở lên quan trọng hơn trong việc sản phẩm, định hướng tiêu dùng và điều
chỉnh hành vi của các bên liên quan trong lĩnh vực du lịch.
Từ thực tế hoạt động du lịch ở Việt Nam cho thấy, ngành du lịch cần thiết
phải đồng thời triển khai các hoạt động truyền thông vào cả ba lĩnh vực, đó là:
Truyền thông trong việc sức hấp dẫn của điểm đến và sản phẩm, dịch vụ du
lịch cụ thể; Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của những người tham gia
vào việc chuỗi cung cấp các dịch vụ của ngành du lịch, của cộng đồng dân cư tại
điểm đến nhằm tạo ra những nhân lực làm du lịch chuyên nghiệp, cộng đồng
dân cư thân thiện, hiếu khách, tạo ấn tượng, sự thiện cảm và hài lòng cho du
khách; Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, tạo dựng hình ảnh du khách
Việt văn minh, lịch sự khi đi du lịch trong và ngoài nước.
1.2. Khái quát làng nghề gốm Bát Tràng
1.2.1. Vị trí địa lý tự nhiên
Làng Bát Tràng nay thuộc xã Bát Tràng gồm hai thôn Bát Tràng và Giang
Cao thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội. Trước năm 1945, Bát Tràng và Giang Cao
là 2 xã riêng biệt. Xã Bát Tràng (tức làng Bát Tràng ngày nay) thuộc tổng Đông
Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Xã Giang Cao (thôn Giang
Cao, xã Bát Tràng ngày nay) thuộc tổng Đa Tốn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận
An, tỉnh Bắc Ninh. Thời hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận
An, trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1922 trấn Kinh Bắc đổi thành
trấn Bắc Ninh, năm 1931 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc
tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An.
14
Bát Tràng nằm ở tả ngạn dòng sông Hồng. Từ Hà Nội, có thể theo đường
thủy từ bến Chương Dương hoặc bến Phà Đen, xuôi sông Hồng đến bến Bát
Tràng, cũng có thể theo đường bộ qua cầu Chương Dương (hay cầu Long Biên)
rồi theo đê tả sông Hồng (tuyến đê Long Biên - Xuân Quan) đến dốc Giang Cao
rẽ xuống Bát Tràng khoảng 15km tới cống Xuân Quan (công trình Đại thủy
nông Bắc Hưng Hải) rồi rẽ tay phải khoảng 1km sẽ tới trung tâm làng cổ Bát
Tràng, hoặc theo quốc lộ 5 đến Trâu Quỳ rẽ về tay phải theo đường liên huyện
qua xã Đa Tốn đến Bát Tràng khoảng hơn 20km. Điều thú vị nhất khi tham quan
làng gốm Bát Tràng là du khách được trực tiếp tham quan các nghệ nhân làm ra
những sản phẩm vô cùng tinh tế, đặc biệt họ có thể tự tay nặn những sản phẩm
mà mình yêu thích.
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm Bát Tràng
Có rất nhiều giả thiết khác nhau về sự ra đời của làng gốm Bát Tràng, Một
trong những giả thiết đó như sau:
Theo kí ức và tục lệ dân gian thì dòng họ Nguyễn Ninh Tràng là cư dân
bản địa và lâu đời nhất, nên được giữ vị trí tôn trọng trong ngôi thứ cũng như
bản địa và lâu đời nhất, nên được giữ vị trí tôn trọng trong ngôi thứ cũng như
trong lễ hội của làng. Có ý kiến cho rằng, năm 1010 khi mà vua Lý Thái Tổ dời
đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội ngày nay) thì dòng họ
Nguyễn Ninh Tràng ở trường Vĩnh Ninh (Ninh Bình) đã cùng theo về để sản
xuất loại gạch Vĩnh Ninh Trường phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh thành
mới. Bạch Thổ Phường (phường đất sét trắng) là tên gọi đầu tiên của làng gốm
Bát Tràng vào thời sơ khai, hiện nay đình Bát Tràng vẫn còn lưu giữ bức hoành
phi "Bạch thổ danh sơn" ghi dấu mốc son này. Nếu tính từ cái mốc dòng họ
Nguyễn Ninh Tràng di cư ra đất Bát Tràng ngày nay thì làng Bát Tràng đã có
gần 1000 năm lịch sử.
Một giả thuyết khác cho rằng, vào thời Lý có 3 vị Thái học sinh là Hứa
Vĩnh Kiều ( hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong)
15
được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua
Thiều Châu (nay là Triều Châu - Quảng Đông - Trung Quốc) gặp bão phải nghỉ
lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến học được một số kỹ thuật đem về
truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước
men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (Việt Yên - Bắc Giang) nước
men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (Quế Võ - Bắc
Ninh) nước men màu đỏ vàng thẫm. Câu chuyện này cũng được lưu truyền ở
Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy thì nghề
gốm ở Bát Tràng đã có từ thời Lý, ngang với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm
1127. Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của 3 nhân vật
trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Theo sử biên niên có thể xem
thế kỉ 14 - 15 là thời gian hình thành làng gốm Bát Tràng: Đại Việt sử kí toàn
thư chép ‘‘Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thứ 12 (1352) mùa thu tháng 7, nước
lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu
và Thuận An bị hại nhất". Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai
xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị - sông Hồng ngày nay.
Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép “làng Bát Tràng làm đồ bát chén“ và
còn có đoạn "Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn
Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm
vải thâm..." Cái tên Bát Tràng được xuất hiện lần đầu tiên đầy đủ và chính xác
như ngày nay là trong tác phẩm "Dư địa chí của Nguyễn Trãi" vào thế kỉ 15. Cái
tên này là tên ghép của hai từ Ninh Tràng và Bồ Bát. Cùng với sự ra đời của
làng là sự ra đời của nghề gốm sứ. Từ xưa, dân Bát Tràng đã sống và phát triển
bằng nghề gốm sứ với việc khai thác "72 gò đất trắng" của phường Bạch Thổ.
Đến cuối thời Lê nguồn đất sét để làm đồ gốm đã cạn, người Bát Tràng phải
mua đất từ làng Cổ Điển bên Vĩnh Phú hoặc mua từ làng Dâu bên Bắc Ninh.
Hàng gốm Bát Tràng thời kì đầu là gốm trắng, mãi sau mới chuyển sang gốm
đàn. Gốm đàn là loại gốm "xương" đỏ, miệng loe, mỏng và thấp. Hiện nay Bát
16
Tràng vẫn sử dụng đất của vùng Dâu Canh nhưng đồng thời họ cũng sử dụng cả
đất cao lanh Lạc Tử, đất sét trắng Hổ Lao và Trúc Thôn (Đông Triều - Quảng
Ninh) để sản xuất đồ sành trắng.
Theo truyền thuyết, xưa ở Bát Tràng có 72 gò đất sét trắng, một số thợ Bồ
Bát (nay thuộc Ninh Bình) thời Lý đã di cư cùng họ Nguyễn Ninh Tràng đến
đây lập lò gốm với tên gọi là Bạch Thổ Phường (phường đất trắng). Thế kỷ XV,
Bát Tràng được ghi nhận trong sử liệu là làng nghề gốm nổi tiếng, được triều
đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Nguyên liệu làm gốm là đất sét và cao lanh được khai thác tại chỗ nhưng
từ thế kỷ XVIII, nguồn nguyên liệu tại chỗ cạn kiệt nên người làm nghề lấy đất
ở Sơn Tây, Phúc Yên, Đông Triều, Hải Dương (Tử Lạc, Bích Nhôi, huyện Kinh
Môn; Hổ Lao và Trúc Thôn, huyện Chí Linh - dân làng gọi là đất đông). Trong
đó, đất Trúc Thôn là loại đất được người ưa dùng nhất. Trước đây, đối với các lò
ếch thời kỳ đầu, người thợ gốm làng Bát Tràng thường dùng rơm rạ, tre nứa để
đốt lò cóc (hay lò ếch), lò dã chiến, lò đàn. Khi chuyển sang lò bầu, dân làng Bát
Tràng dùng rơm rạ kết hợp với các loại gỗ để nung gốm như phi lao, bạch đàn,
gỗ mỡ, ... Khi dân Bát Tràng chuyển sang sử dụng lò đứng, than cám (Quảng
Ninh) trở thành nguyên liệu chính còn củi chỉ dùng để nhóm lò. Hiện nay, 100%
các hộ sản xuất gốm tại làng Bát Tràng đều sử dụng lò ga, lò điện, lò tuy - nen
(lò hầm, lò liên tục).
Gốm Bát Tràng sử dụng bàn xoay để chuốt thành sản phẩm, nay họ gắn
thêm môtơ để tiết kiệm sức lao động. Quy trình sản xuất gốm tại làng Bát Tràng
phải trải qua 7 bước, gồm: xử lý, pha chế đất, tạo dáng, tạo văn, hoa trang trí;
phủ men (tráng men) và nung sản phẩm, được đúc kết qua câu “Nhất xương, nhì
da, thứ ba dạc lò”. Xử lý và pha chế đất: dùng hệ thống bể chứa để ngâm đất
trong nước. Tùy vào đặc tính của mỗi loại đất mà thời gian và kỹ thuật xử lý,
pha chế sẽ khác nhau. Đối với các loại đất sét khai thác tại các mỏ sét ở Hồ Lao,
Trúc Thôn, thông thường mỗi cơ sở gốm sẽ xây một hệ thống bể gồm 4 bể chứa
17
ở độ cao thấp khác nhau, gồm: bể đánh, bể lắng, bể phơi và bể ủ. Đối với loại
đất tốt hơn như nguồn đất sét ở phường Bạch Thổ xưa hay đất vùng Dâu Canh
(đất sét màu vàng xám thường gọi đất non) thì việc xử lý đơn giản hơn, chỉ cần
loại bỏ bớt tạp chất, ngâm đất cho chín, đảo kỹ, vun thành đống, dẫm đất cho
nát, rồi ấp lại thành quả đất và cuối cùng là thái quả đất nhiều lần bằng công cụ
kéo cắt đất chuyên dụng (gọi là củi nể) cho cối đất thật mịn dẻo là được. Sau khi
đất được làm sạch, tùy theo yêu cầu của từng loại gốm mà người ta có thể pha
chế thêm cao lanh ít nhiều hoặc loại bớt cát, thêm cát trong đất sét.
Sau khi đất được xử lý và pha chế, thợ gốm sẽ tiến hành tạo dáng cho sản
phẩm trên bàn xoay. Người thợ tạo hình sản phẩm sau đó xén lợi và bắt lợi, cắt
chân, nghĩa là tạo miệng và để đồ gốm mộc thật cân đối. Với đồ gốm có kích
thước lớn, người thợ phải be chạch bằng cách be, nặn, kéo đất để tạo hình sản
phẩm. Mỗi cốt gốm được tạo xong đều đem ra khỏi bàn xoay và đặt vào cái
bững để phơi khô. Ngày nay, ngoài kỹ thuật vuốt, be trạch bằng tay, thợ gốm
Bát Tràng còn sử dụng phổ biến một số cách tạo gốm như đắp nặn, đúc khuôn
hay khuôn in. Ngoài ra, người ta còn dùng phương pháp đổ rót, tức là đổ hồ thừa
hay hồ đầy để tạo dáng sản phẩm. Cốt gốm được phơi sấy bằng cách hong trên
giá trong nhà thoáng gió hay dùng lò sấy.
Cốt gốm mộc sau khi phơi cho cương tay sẽ tiến hành ủ vóc và tu sửa cho
hoàn chỉnh. Để tu sửa sản phẩm, người thợ đặt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà
để sửa chân vóc cho cân, chặt lại và sản phẩm tròn trở lại gọi là lùa. Những sản
phẩm sửa lại mà dùng bàn xoay thì gọi là làm hàng bàn, không dùng bàn xoay
thì gọi là làm hàng bộ. Sau khi lùa, thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ
thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp ghép các bộ phận của vật phẩm như tai đỉnh, tay
tượng, vòi ấm, quai hình vôi, quai tích, ...), khoan lỗ, chuốt tỉa hoa văn, chuốt
nước cho mịn mặt sản phẩm. Đối với những sản phẩm in bằng khuôn phải lấy
chân lượn quả, sả vách, (tức là tạo eo sản phẩm) và lấy lợi (gọi là tiện). Tùy theo
từng loại sản phẩm mà người thợ gốm có thể phải đắp nổi hay khắc chìm trên
18
mặt hiện vật. Sản phẩm sau khi được sửa sẽ tiến hành trang trí. Vào thế kỷ XIV -
XV, kỹ thuật trang trí chỉ dừng lại ở khắc chìm, tô men nâu theo kỹ thuật gốm
hoa nâu thời Lý - Trần. Đến thế kỷ XVI - XVIII, kỹ thuật trang trí chạm đắp nổi
kết hợp với vẽ lam hình rồng, phượng xen kẽ mây cụm, ngựa có cánh, hoạt cảnh
người, cánh sen đứng, hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thủy... Thợ gốm dùng bút
lông vẽ trực tiếp lên sản phẩm cùng nhiều hình thức trang trí khác, có hiệu quả
nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ men màu... để khi nung men
chảy tỏa xuống tạo lên những đường nét màu sắc tự nhiên, hài hòa. Hiện nay,
ngoài kỹ thuật trang trí truyền thống, ở Bát Tràng còn xuất hiện kỹ thuật hấp
hoa, trang trí hình in sẵn trên giấy, dễ làm, nhanh nhưng không có tính sáng tạo
và nghệ thuật.
Men gốm do người thợ chế biến và pha chế các nguyên liệu theo đúng
tiêu chuẩn. Loại men mà người sử dụng phổ biến hơn cả là men tro. Loại men
này chế từ tro trấu của làng Quế, làng Lường (Nam Hà), với đất sét trắng, vôi
sống để tả. Từ men tro, người thợ Bát Tràng kết hợp với các nguyên liệu khác
nhau chế ra 5 dòng men khác nhau và đặc trưng của gốm gồm: men nâu (men
sô-cô-la), men lam, men rạn, men ngọc, men trắng (ngà). Các loại men truyền
thống ấy đã tạo nên nhiều sắc độ tuyệt đẹp trên sản phẩm gốm lừng danh của
người Bát Tràng. Men gốm có thể phối men theo hai cách: chế khô hoặc ướt.
Thợ gốm ở Bát Tràng xưa nay quen dùng men ướt. Người ta cho hợp chất men
đã nghiền mịn vào nước, khuấy tan rồi đợi đến khi hợp chất lắng xuống thì bỏ
phần nước trong ở trên và bã đọng dưới đáy, chỉ lấy phần dị lơ lửng ở giữa. Dị
chính là lớp men bóng phủ ngoài cốt gốm. Trong quá trình tạo men, để men dễ
chảy hơn khi nung, người thợ gốm Bát Tràng thường nghiền bột tro mịn hơn
nhiều so với bột đất và đúc kết lại thành câu châm ngôn truyền lại cho các thế hệ
sau “nhỏ tro to đàn”.
Sản phẩm mộc hoàn chỉnh, người thợ gốm dùng sản phẩm mộc đã được
phơi khô trực tiếp nhúng men rồi mang đi nung. Riêng đối với những loại xương
19
gốm có màu, trước khi tráng men, thợ gốm còn phải dùng dung dịch đất sét màu
trắng láng gọi là lớp lót. Sau khi lớp lót khô, tùy theo yêu cầu và đặc trưng của
từng dòng sản phẩm mà người thợ có hình thức tráng men lên sản phẩm cho phù
hợp. Kỹ thuật tráng men gốm ở Bát Tràng có nhiều hình thức. Thông dụng nhất
là hình thức tráng men ngoài sản phẩm, gọi là kìm men. Khó hơn cả là các hình
thức quay men và đúc men. Quay men là tráng men bên trong và bên ngoài sản
phẩm cùng một lúc. Còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đó là
những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kỹ thuật, vừa là nghệ
thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là những bí truyền trong
nghề nghiệp tại đây. Sản phẩm tráng men sau khi khô trước khi đưa vào lò nung
sẽ tiến hành tu chỉnh, gọi là sửa hàng men: thêm hay cạo bỏ men thừa.
Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được đem vào lò nung.
Việc chồng lò, sắp xếp sản phẩm trong lò phụ thuộc vào loại sản phẩm, hình
dáng, kích thước của bao nung và loại lò dùng để nung để vừa sử dụng triệt để
không gian trong lò, vừa tiết kiệm được nhiên liệu mà lại đạt hiệu nhiệt cao. Cụ
thể: đối với lò ếch, người ta xếp sản phẩm từ gáy lò ra đến cửa lò; đối với lò đàn,
tùy nơi phân bố nhiệt mà dùng bao nung phù hợp như: nhiệt độ rất cao – bao
nung ngoại cỡ, nhiệt độ cao – bao nung phù hợp với kích cỡ sản phẩm, nhiệt độ
giảm không dùng bao nung cho sản phẩm; đối với lò hộp, sản phẩm mộc được
đặt trong các bao nung hình trụ không đậy nắp và xếp chồng cao đến tới nóc lò,
các khoảng trống giữa các bao nung đều chèn các viên hay bánh than, tùy thời
tiết, khí hậu mà chèn nhiều hay ít.
Đốt lò là khâu quan trọng nhất, quyết định thành công hay thất bại của
một lò gốm. Người làm nghề thường thực hiện nghi lễ cầu khấn cho một mẻ lò
thành công. Thành công của việc đốt lò là ở bí quyết làm chủ ngọn lửa, tuân
theo nguyên tắc: nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm
chín thì phải từ từ hạ nhiệt độ xuống. Đối với các loại lò truyền thống hầu hết
quy trình đốt lò tương tự nhau. Bằng kinh nghiệm của mình, người thợ cả có thể
20
làm chủ được ngọn lửa trong cả quá trình đốt lò. Khi đốt lò, người đốt phải biết
được “dấm sấy khói cay, bắt đầy khói thối” (tức là quan sát lượng hơi nước bốc
ra có nhiều tạp chất, ngửi mùi lưu huỳnh cay cay như nấu dấm thì tăng lửa lên).
Đối với lò đứng thì việc đốt lò đơn giản hơn, tuy nhiên, chất lượng gốm nung lò
đứng không cao bằng các lò bầu, lò đàn, bởi người thợ khó khống chế được
ngọn lửa nung. Đối với lò con thoi hay lò tuy len, nhiên liệu chủ yếu dùng để
nung gốm là dầu hoặc khí đốt, nhiệt độ được theo dõi qua hỏa kế, việc điều
chỉnh nhiệt độ được thực hiện bán tự động hoặc tự động.
Gốm sứ Bát Tràng phong phú về chủng loại và kiểu dáng, có 3 dòng
chính: Đồ gốm gia dụng; Đồ gốm dùng để thờ cúng; Đồ trang trí được bán trong
nước và xuất khẩu. Ngoài những mặt hàng truyền thống, các cơ sở sản xuất
không ngừng tìm tòi, học hỏi, thiết kế nhiều mẫu sản phẩm phù hợp với xu
hướng phát triển và thị hiếu của người tiêu dùng. Vì vậy, sản phẩm gốm của Bát
Tràng không những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà dần khẳng định
được vai trò và thương hiệu trên trường quốc tế. Trong quá trình làm nghề,
người dân đã sáng tạo ra các thiết bị, công cụ, máy móc để hỗ trợ cho quá trình
làm nghề như lò ga, máy trộn đất, máy nén, khuôn...
Nghề gốm làng Bát Tràng hiện vẫn được cộng đồng thực hành và ngày
càng phát triển, mỗi hộ gia đình là một đơn vị sản xuất độc lập. Công nghệ và kỹ
thuật trong quá trình sản xuất được cộng đồng ứng dụng để cải thiện chất lượng,
số lượng, thời gian, nhân công, vấn đề về môi trường... Nghề gốm làng Bát
Tràng là sự kết tinh sự sáng tạo của con người qua nhiều thế hệ. Khi chế tác sản
phẩm, nghệ nhân ngoài việc vận dụng những kỹ thuật được học từ cha ông còn
phải mày mò, tìm hiểu, khám phá và sáng tạo ra những họa tiết, hoặc kỹ thuật,
hoặc mẫu mã mới, để đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Nghề gốm là một
trong những đặc điểm nhận diện văn hóa, phản ánh sự đa dạng văn hóa của cộng
đồng cư dân thực hành nghề gốm tại làng Bát Tràng. Cùng trong một làng
nhưng sản phẩm của mỗi một nghệ nhân có hồn riêng, đặc trưng riêng. Nghề
21
gốm làng Bát Tràng góp phần lưu truyền, lưu giữ và phổ biến các biểu tượng
văn hóa, nước men truyền thống, là động lực để phát triển, phát huy giá trị di sản
của các thế hệ trước. Sản phẩm gốm Bát Tràng thể hiện giá trị kỹ thuật, thẩm mỹ
của người thợ, tạo nên sự đa dạng, phong phú và nét độc đáo cho những sản
phẩm của làng. Nghề gốm làng Bát Tràng góp phần không nhỏ vào sự gia tăng
giá trị sản phẩm của địa phương, thu ngân sách cho nhà nước, tạo công ăn việc
làm và góp phần nâng cao thu nhập và mức sống cho người dân trong làng và
vùng lân cận, cải thiện các chỉ số về an sinh xã hội. Nghề gốm ở Bát Tràng đã
xây dựng được mạng lưới những người làm nghề đông đảo, Hiệp hội Nghề gốm
sứ Bát Tràng và vượt ra khỏi phạm vi làng, xã; xây dựng mối quan hệ kinh tế
giữa những người thực hành nghề tạo nên sự gắn kết, tương hỗ lẫn nhau.
Theo báo cáo của xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP Hà Hội, nhờ nắm
bắt kịp thời xu hướng tiêu dùng, những năm gần đây, làng nghề Bát Tràng đã
không ngừng đổi mới công nghệ sản xuất, mẫu mã sản phẩm, trở thành một
trong những làng nghề tiêu biểu của Thủ đô. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được
nhiều quốc gia quan tâm, ưa chuộng và có mặt ở các thị trường lớn trên thế giới
như: Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Italia… Bên cạnh việc phát triển các sản
phẩm đại trà, nhiều nghệ nhân, thợ giỏi đã phục chế những tác phẩm gốm sứ cổ
được sử dụng trong thời kỳ phong kiến như gốm sứ đời Lý, đời Trần, đời
Mạc…; khôi phục và chế tác thành công nhiều công thức men đặc sắc. Hiện, xã
Bát Tràng có hơn 200 doanh nghiệp và hơn 1.000 hộ sản xuất, kinh doanh gốm
sứ, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng chục nghìn lao động trong và
ngoài địa phương. Tổng giá trị sản xuất, thương mại gốm sứ năm 2018 ước đạt
hơn 2.000 tỷ đồng; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 60 triệu
đồng/người/năm. Xã có 140 nghệ nhân và nhiều thợ giỏi, tiêu biểu là nghệ nhân
nhân dân Trần Ðộ, nghệ nhân ưu tú Tô Thanh Sơn… Cùng làng lụa Vạn Phúc
(Hà Đông), làng gốm Bát Tràng đang được UBND TP Hà Nội cũng như ngành
22
Du lịch đầu tư mạnh mẽ để trở thành những điểm đến du lịch làng nghề tiêu biểu
ở Hà Nội, mang tầm quốc tế.
1.2.3. Nghề gốm tại Bát Tràng
Các sản phẩm của làng nghề này khá đa dạng về chủng loại và mẫu mã,
có thể thiết kế theo yêu cầu, đạt chất lượng cao. Những loại phổ biến có thể kể
đến là đồ gốm mỹ thuật, đồ thờ tự, gốm xây dựng, gốm gia dụng, gốm trang
trí…Mức độ uy tín và nổi tiếng về các sản phẩm của làng nghề Bát Tràng hầu
như ai cũng biết. Sản phẩm được lưu hành thông dụng trên cả nước và đủ tiêu
chuẩn để xuất khẩu ra nước ngoài. Mang lại nhiều giá trị về kinh tế và cả văn
hóa tốt đẹp cho cả nước nói chung và làng nghề gốm sứ Bát Tràng nói riêng.
Các sản phẩm gốm Bát Tràng gồm có:
+ Đồ gốm gia dụng: Gồm các loại bát, đĩa, chậu hoa, âu, thạp, ang, khay
trà, ấm, điếu, bình vôi, nậm rượu, bình, lọ, chóe, hũ.
+ Đồ gốm dùng làm đồ thờ: Gồm đỉnh, đài thờ, mâm gốm và kiếm.
+ Đồ gốm trang trí: Gồm mô hình nhà, long đình, các tranh gốm, các loại
tượng như tượng nghê, ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng voi, tượng
hổ, ...
+ Đồ gốm xây dựng: Nổi tiếng với gạch Bát Tràng cổ, gạch hoa kính hiện
đại, các loại ngói như ngói lưu ly, ngói mũi hài, ngói ống....
Một số mẫu sản phẩm gốm sứ Bát Tràng phổ biến nhất
Ấm chén uống trà cao cấp:
Từ Bắc đến Nam, dù cho ở bất kỳ vùng miền nào thì văn hóa của người
Việt luôn thích uống trà, do đó bộ ấm chén uống trà sẽ là tặng phẩm thiết thực.
Đây là sản phẩm cao cấp góp phần mang đến hương vị thơm ngon, đúng chuẩn
cho việc thưởng trà. Khi chọn quà tặng là bộ ấm trà, ngoài chất lượng ra bạn
cũng cần chú ý đến kiểu dáng, họa tiết có trên sản phẩm. Tùy thuộc vào đối
tượng nhận quà là ai để lựa chọn sao cho phù hợp nhất, thể hiện được sự tôn
trọng cần thiết đối với người nhận.
23
Bình cắm hoa:
Bình cắm hoa chính là món quà tuyệt vời dành cho những người có mối
quan hệ thân thiết hay dành tặng cho các chị em phụ nữ, làm quà tân gia, quà
cưới hay quà tặng giáo viên… đều rất ý nghĩa. Bình cắm hoa giúp cho không
gian sống, học tập và làm việc thêm phần sang trọng, tươi tắn và tràn đầy sức
sống hơn.
Sản phẩm gốm Bát Tràng là mặt hàng được nhiều nước ưa chuộng vì vẻ
đẹp hài hòa độc đáo của hình dáng, màu men và nét vẽ. Theo ông A Si Li Ce,
chuyên gia gốm Nhật Bản từng nhận xét: Trong khoảng 1597 - 1863, nhiều nghệ
nhân lỗi lạc của Nhật Bản đã làm theo gốm “Kô Chi “(Giao Chỉ), nhất là các
mẫu bình, bát trà đạo vẽ chuồn chuồn của Bát Tràng và ông bình luận rằng: “Họ
học hỏi với sự trân trọng và khiêm tốn, nhưng hoa đào núi Phú Sĩ, đường vân
hoa văn như những vết nứt nặng nề của miệng núi lửa trên gốm Nhật Bản vẫn
không sao hòa trộn được với những cánh sen, tàu chuối, văn mây của vùng đất
cận Đông Nam Á này”. Chính nhờ những bàn tay tài hoa của người Bát Tràng
mà biết bao sản phẩm gốm đã trở thành món lợi lớn cho các thương nhân Nhật
Bản, Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha, Pháp và Trung Quốc… Không chỉ phục vụ
xuất khẩu, gốm Bát Tràng còn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, với các
chủng loại đồ gốm tôn giáo, gốm gia dụng và gốm trang trí kiến trúc. Một mặt
hàng giá trị cao, là loại gạch vuông Bát Tràng, đã đi vào ca dao Việt Nam: Ước
gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây… Triều đình nhà
Nguyễn đã đặt ra lệ: “Làng Bát Tràng phải nộp thuế thân bằng gạch. Hạng tráng
đinh phải nộp 300 viên gạch vuông mỗi năm, còn hạng lão chỉ phải nộp một
nửa” (Nguyễn Thị Hảo, 1989, tr. 35). Ngày nay, có dịp qua thăm các di tích của
kinh đô Huế, chúng ta sẽ thấy những con đường, sân điện, sân lăng đều lát gạch
vuông Bát Tràng.
24
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, Nhóm tác giả đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề lý
luận cơ bản về truyền thông với phát triển du lịch, bao gồm các khái niệm cơ
bản, vai trò của truyền thống trong xã hội hiện đại và vai trò của truyền thống
đối với sự phát triển du lịch. Từ việc làm rõ vai trò của truyền thông với sự phát
triển du lịch có thể thấy những năm qua, hoạt động truyền thông cho du lịch tại
làng Bát Tràng có vai trò rất quan trọng trong việc sản phẩm của làng nghề, của
văn hóa làng nghề, thu hút khách hàng và khách du lịch đến với làng nghề Bát
Trang, thúc đẩy kinh tế ở đây phát triển. Chương 1 cũng giới thiệu khái quát về
làng Bát Tràng, địa bàn nghiên cứu trên một số khía cạnh như đặc điểm tự
nhiên, lịch sử dân cư, đặc điểm văn hóa xã hội của làng nghề để làm tiền đề cho
những nội dung về truyền thông cho du lịch tại làng Bát Tràng, sẽ được Nhóm
tác giả trình bày trong chương tiếp theo.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG THÚC ĐẨY
PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG GỐM BẤT TRÀNG
2.1. Các hoạt động truyền thông du lịch Bát tràng
Trên cơ sở đã nêu các phương tiện truyền thông ở chương 1 thì đến với
chương 2 các phương tiện truyền thông đó đã được sử dụng và những sản phẩm
du lịch của làng gốm Bát Tràng được thể hiện thông qua các hoạt động chính
chủ yếu như sau:
2.1.1. Truyền thông nhằm phát triển du lịch làng gốm Bát Tràng qua mạng
xã hội
Hiện nay, việc giới thiệu các sản phẩm du lịch tới du khách trong và
ngoài nước thông qua các mạng xã hội: Facebook, Zalo, Instagram... đang là
một thế mạnh. Mạng xã hội là kênh truyền thông có sức lan tỏa mạnh, đặc biệt là
đối với lĩnh vực du lịch, tận dụng ưu thế đó, nhiều cá nhân đã và đang tận dụng
rất tốt kênh truyền thông này. Nhận thấy phát triển du lịch trên nền tảng mạng
xã hội là cơ hội để xây dựng hình ảnh, thông tin sâu rộng đến du khách, nâng
cao tính cạnh tranh, nên đã chủ động thay đổi, làm mới thông qua việc đầu tư
vào hệ thống trên mạng xã hội. Qua đó, đã tạo ra được sự tương tác rất lớn với
du khách. Nhằm xây dựng những sản phẩm du lịch đặc trưng, Hà Nội đang đầu
tư cho các làng nghề, trong đó có làng gốm Bát Tràng.
Mục đích phát triển Làng gốm Bát Tràng thông qua mạng xã hội như
youtube và facebook trước hết là giúp những người con của Bát Tràng thêm yêu
hơn nơi mình được sinh ra, từ đó yêu thích nghề làm gốm và muốn phát triển
rộng rãi, tuyên truyền và quảng bá về gốm sứ quê mình, sau đó nhân rộng tình
yêu ấy qua những lượt like (thích), share (chia sẻ), comment (bình luận) để
nhiều người biết đến hơn. Bởi điểm mạnh của mạng xã hội là sức lan tỏa rất
26
nhanh và có hiệu quả cao. Cùng với đó, không ngừng sáng tạo những ý tưởng,
thước phim, hình ảnh đẹp góp phần đem lại hiệu quả cao.
Như vậy, việc truyền thông, phát triển du lịch qua mạng xã hội đang là
một trong những cơ hội góp phần đưa du lịch ngày càng phát triển, kể cả đối với
những vùng miền còn khó khăn. Chỉ đơn đơn cử như với Làng gốm Bát Tràng ,
việc tận dụng mạng xã hội đã đưa hình làng gốm trở thành hiện tượng du lịch
mới, thôi thúc du khách đến với mảnh đất gốm sứ này.
2.1.2. Truyền thông nhằm phát triển du lịch làng gốm Bát Tràng qua truyền hình
Một trong những ví dụ rất sinh động và thuyết phục về hiệu quả phát triển
du lịch qua truyền hình là bộ phim Triệu phú ổ chuột (Ấn độ). Bộ phim sau khi
công chiếu, đoạt giải thưởng đã giúp cho doanh thu của Du lịch Ấn Độ tăng đột
biến, nhất là ở thành phố Mumbai. Ấn Độ đã thiết kế hẳn một tour đưa du khách
đến thăm những khu ổ chuột như bối cảnh trong phim. Tour ấy được đông đảo
du khách nhiều quốc gia trên thế giới hưởng ứng.
Chờ đợi những hiệu quả phát triển du lịch về Làng gốm Bát Tràng ngẫu nhiên,
bất ngờ có được từ những bộ phim điện ảnh có những cảnh quay đẹp? Đó không
gọi là sự hợp tác. Sự hợp tác chỉ có thể có được khi hai bên tìm ra được con
đường phối hợp đặc trưng và thế mạnh của nhau, và phải cùng tìm thấy hiệu quả
phát triển của mỗi bên trong sự hợp tác. Ý tưởng hợp tác giữa Điện ảnh –
Truyền hình và Du lịch đối với thế giới không còn là điều mới mẻ. Nhiều quốc
gia đã làm và làm rất tốt sự phối hợp này. Từ kinh nghiệm thành công của việc
du lịch qua điện ảnh và truyền hình các nước, cũng như hiệu quả thực tế tại Viêt
Nam, ngành điện ảnh – truyền hình mong muốn và sẵn sàng hợp tác cùng với du
lịch xây dựng những bộ phim nghệ thuật về Làng gốm Bát Tràng góp phần nâng
cao hiệu quả công tác xúc tiến du lịch thu hút nhiều khách du lịch đến với Bát
Tràng nói chung và Việt Nam nói riêng, cũng như phát triển mạnh mẽ du lịch
27
nội địa như chiến dịch “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam, mỗi chuyến đi
thêm yêu Tổ quốc” đã kêu gọi.
Có thể thấy, việc ứng dụng mạng xã hội hay truyền hình trong tuyên
truyền, giới thiệu, phát triển du lịch về Làng gốm Bát Tràng rất hiệu quả. Qua đó
góp phần lan tỏa nhanh chóng, sâu rộng, thu hút du khách. Trên cơ sở những văn
bản pháp quy của mục 2.1 cụ thể các hình thức phát triển du lịch của làng gốm
BT (không chỉ có đồ gốm mà cả các di tích văn hóa, ẩm thực…… Mong rằng,
thời gian tới, vấn đề trên sẽ được các cấp, ngành, đơn vị, doanh nghiệp kinh
doanh du lịch quan tâm sâu sắc hơn nữa…
2.2. Phát triển làng gốm Bát Tràng qua các dịch vụ và sản phẩm phục vụ
khách du lịch
Phát triển trực tiếp thông qua các hoạt động dịch vụ cũng là hoạt động
được thực hiện rất thành công tại làng gốm Bát Tràng. Nơi đây được mệnh danh
là thiên đường gốm với vô số đồ vật được làm bằng gốm.
Làng gốm Bát Tràng có truyền thống rất lâu đời về sản xuất gốm bằng
phương pháp và kỹ thuật sản xuất thủ công. Những nghệ nhân với đôi bàn tay
khéo léo có nhiều kinh nghiệm, sẽ biến những mảng đất sét thành những sản
phẩm mang một vẻ đẹp riêng và mang nhiều ý nghĩa. Những sản phẩm của làng
gốm Bát Tràng được tạo ra trên bàn xoay được truyền lại từ đời này sang đời
khác, với những bí quyết gia truyền tạo nên những sản phẩm bền, đẹp, độc đáo.
Nhiều mẫu mã của làng gốm được nhiều thương buôn trong và ngoài nước ưa
chuộng và đặt hàng rất nhiều.
Khi đến đây bạn sẽ được tận mắt xem các nghệ nhân lành nghề chăm chút, tỉ
mỉ trong từng chi tiết để tạo ra những sản phẩm với hình dáng, hoa văn uyển
chuyển vô cùng tinh tế. Những khung cảnh bình yên và đầy tính văn dân tộc nơi
đây sẽ làm du khách cảm nhận phần nào về văn hóa và con người Đất Việt.
Hay khi đến với Làng gốm Bát Tràng bạn còn được tự tay tạo ra sản phẩm
gốm. Đây là một điều đặc biệt và thu hút khách du lịch đến với làng gốm Bát
28
Tràng chính là du khách có thể tự tay mình nặn gốm theo sở thích. Để phát triển
du lịch cũng như quảng cáo nghề gốm có nhiều gia đình đã mở dịch vụ này phục
vụ du khách. Đến đây chủ nhà sẽ đưa cho du khách một cục đất sét, đủ chuẩn để
làm gốm và một bàn xoay. Tiếp theo, bạn đặt đất sét lên bàn xoay và bắt đầu tạo
hình mong muốn, nhìn vậy chứ khó lắm phải khéo tay mới tạo được sản phẩm
đẹp dễ thương. Đa phần mọi người tạo hình ly, bình hoa, những gì đơn giản
nhất. Sau khi tạo hình xong sẽ đến công đoạn làm khô mất tầm 30 phút, du
khách có thể gửi sản phẩm tại đây để đi dạo và quay lại lấy sau. Sau khi làm khô
sẽ đến công đoạn vẽ, khắc trang trí cho sản phẩm. Cuối cùng người thợ sẽ sơn
phủ bóng bên ngoài để giữ cho sản phẩm của du khách được đẹp, bền hơn với
thời gian.
Ngoài ra, khách du lịch có thể đi thăm quan Nhà cổ Vạn Vân, mở cửa từ
8h đến 17h30 hàng ngày, nằm ở cuối làng gốm Bát Tràng. Ở đây trưng bày
những sản phẩm cổ lâu đời của làng gốm Bát Tràng như lọ rồng, ấm men lam,
bộ khuôn bản dập làm gốm… Ngoài những cổ vật này, kiến trúc của của ngôi
nhà cổ này cũng được đặc biệt quan tâm. Với diện tích hơn 400m2, gồm 3 ngôi
nhà cổ và một khu xưởng mô phỏng lò gốm gần 200 năm tuổi mang đến sự tò
mò và thích thú cho du khách.
Hoặc đi dạo mua quà lưu niệm ở Chợ gốm cũng là một điều khá thú vị.
Bước vào khu chợ gốm Bát Tràng, du khách sẽ bắt gặp những đôi lục bình to
bằng người thật cùng những con tượng, con sứ vô cùng đáng yêu. Có những
tượng cặp đôi xấu xí Chí Phèo - Thị Nở của nhà văn Nam Cao từ to cho đến nhỏ
rất thú vị. Chợ gốm còn bán nhiều các chủng loại, màu sắc, kích thước… từ cốc
chén, bát đĩa, tiểu cảnh non bộ, đồ lưu niệm tranh sứ, trang sức gốm cho du
khách lựa chọn. Gốm được bày trí trên các kệ cả trong lẫn ngoài của mỗi gian
hàng rất gọn và đẹp mắt. Cả khu chợ có đến gần trăm cửa hàng, lối đi giữa các
gian hàng san sát nhau có người nói giống như mê cung vậy, nhưng tất các lối
đều dẫn ra không gian sân sảnh rộng ở giữa nên du khách không cần quá lo lắng.
29
Chợ gốm không chỉ có gốm mà nơi đây còn phục vụ rất nhiều các món ăn
là đặc sản Hà Nội như: Bún chả, bún mẹt, bún nem,… hay đơn giản chỉ là những
chiếc bánh tẻ, những ly nước mía. Chỉ chừng đó thôi cũng làm du khách thấy ấm
lòng khi bước chân đến đây. Mà nói đến làng gốm thì không thể bỏ qua đặc sản
canh măng mực, món ăn truyền thống có tiếng nơi Làng gốm Bát Tràng. Màu
vàng ươm của măng hòa quyện cùng nước dùng thơm phức, khi ăn măng dai
giòn sần sật phần nước ngọt lịm, rất thơm ngon. Ngoài ra, món canh này thường
được người dân dùng làm món chính trong các ngày lễ truyền thống, lễ cưới xin,
giỗ tết ở làng Bát Tràng.
Thông qua việc truyền thông, quáng bá trực tiếp, khách du lịch có thể
được trải nghiệm thực tế, trực tiếp tham quan các lò sản xuất gốm, trải nghiệm
kỹ thuật làm gốm, tận mắt được nghe giới thiệu, nhìn ngắm sản phẩm gốm tại lò
và các sản phẩm gốm thành phẩm bày bán tại các gian hàng trong chợ. Đồng
thời du khách còn có thể được thưởng thức những món quà đặc sản quê gốm Bát
Tràng. Có thể nói đây là một trong những hoạt động truyền thông đem lại hiệu
quả rất cao đối với khách tham quan du lịch tại làng nghề Bát Tràng.
2.2.1. Truyền thông qua lễ hội và sự kiện của làng gốm Bát Tràng
Bên cạnh những loại hình truyền thông du lịch sinh thái, du lịch khám
chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... thì gần đây việc truyền thông
văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút
nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm
văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng...
để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Vậy
nên, việc truyền thông qua lễ hội và sự kiện của làng gốm Bát Tràng cũng góp
phần không nhỏ thu hút khách du lịch bằng sự tò mò của các trò chơi dân gian
hay với người có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán
bản địa, thì đây là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.
30
- Phần Lễ
Mùa xuân là mùa của nhiều lễ hội từ bắc chí Nam, lễ hội làng gốm Bát
tràng cũng chọn mùa xuân làm mùa tổ chức. Là Một Làng cổ nằm ở bờ Bắc của
sông Hồng, Từ nhiều năm qua Lễ hội làng gốm Bát Tràng vẫn đều đặn được tổ
chức hằng năm. Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa tôn vinh đức tổ nghề gốm
truyền thống mà còn là dịp tinh hoa sản phẩm gốm Bát Tràng, một làng gốm lâu
đời nức tiếng của Việt Nam. Lễ hội truyền thống làng cổ Bát Tràng đã trở thành
dấu ấn văn hóa độc đáo, nơi người làng Bát Tràng tự hào về nghề gốm truyền
thống cha ông truyền lại, tưởng nhớ công lao đức tổ nghề, gửi gắm ước vọng về
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Lễ hội làng gốm cổ truyền Bát Tràng được tổ chức hàng năm vào ngày 14
– 15/02 âm lịch. Vào thời gian này thời tiết mát mẻ, người dân trong làm cùng
nhau tổ chức lễ hội rất trang trọng và ai nấy cũng đều rạo rực để lưu giữ lại ngày
lễ cỗ truyền hằng năm. Không gian lễ hội Bát Tràng được tổ chức tại Đình Bát
Tràng, Đình Bát Tràng thờ 6 vị thần đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước
bao gồm các vị: Bạch Mã Đại Vương, Phan Đại Tướng, Tràng Thuận Nghi
Dung, Cai Minh Đại Vương, Lưu Thiên Tử Đại Vương, Hồ Quốc Thần Đại
Vương. Lễ rước nước, tắm bài vị, rước bài vị từ Miếu Bát Tràng ra Đình Bát
Tràng được diển ra rất Trang Trọng theo phong tục. Mâm lễ chính bao Gồm
Tam Sinh đó là: 1 Con Trâu tơ thui béo, 1 con dê thui béo, 1 con heo sữa quay.
Mâm cổ bao gồm 6 mâm cổ mặn và 4 mâm xôi.
Trong 3 ngày diễn ra lễ hội, những sản phẩm giá trị, độc đáo nhất của làng
gốm cổ ven đô cũng sẽ giới thiệu với du khách. Trong buổi sáng đầu tiên của lễ
hội, những nghi lễ quan trọng nhất của ngày khai hội đã được dân làng Bát
Tràng thực hiện gồm dâng lễ Tam sinh,dâng hương Thánh hiền, Lễ rước kiệu và
Lễ cấp thủy; Lễ nhập thủy và Lễ tế thần. Ngay sau khi khai hội, lễ rước nước,
nghi thức quan trọng nhất của dân làng được nghiêm cẩn thực hiện. Sau khi
dâng lễ Thủy Thần Hà Bá, chủ tế đại diện dân làng sẽ xin nước thiêng từ dòng
31
trong sạch của Sông Hồng, lọc qua một tấm vải điều đỏ trước khi quan viên của
làng rước về Đình cổ Bát Tràng làm lễ. Cùng với phần Lễ, du khách đến với Lễ
hội Bát Tràng năm nay sẽ được tham gia vào phần Hội với các hoạt động văn
hoá truyền thống độc đáo riêng có của làng được lưu truyền từ hàng trăm trước
là cờ người, hát thờ hay các hoạt động thể thao, giao lưu quan họ trên hồ Long
Nhỡn, giao hiếu giữa các làng...Trong dịp này, chợ gốm Bát Tràng với những
sản phẩm truyền thống trứ danh cũng được giới thiệu tới du khách cùng với các
hoạt động giao lưu cùng nghệ nhân gốm. Các hoạt động của lễ hội sẽ diễn ra tới
20h hàng ngày.
Ảnh dâng lễ vật (Ảnh st)
- Phần Hội
Hội Bát Tràng có nhiều trò diễn, độc đáo nhất là trò chơi cờ người và hát
thờ. Theo lệ, trước hội, làng chọn lấy 2 bà tướng cờ là những người phẩm hạnh,
giàu có nhất trong làng. Mỗi bà tướng nhận 16 thiếu nữ tuổi từ 10 đến 15 xinh
đẹp, nết na nuôi ăn uống và may cho áo quần thật đẹp. Các cô được rèn tập làm
quân cờ trong một tháng mới được ra biểu diễn thi đấu ở sân đình.
32
Công việc chuẩn bị cho hát thờ cũng công phu không kém. Làng tổ chức 3
chầu thi và 4 chầu cầm để chọn bài và người vào hát thờ, sau đó mời các đội đàn
hát ở các làng xung quanh đến tập để kén giọng. Đội nào vượt lên nhất qua “4
chầu cầm” sẽ được hát thờ trong lễ hội năm đó. Bên cạnh những nét văn hoá
truyền thống hội làng Bát Tràng cũng là dịp giới thiệu sản phẩm Gốm Bát
Tràng thông qua du khách. Vì vậy đến với hội du khách còn được chiêm ngưỡng
những sản phẩm gốm tính tế được làm bởi những bàn tay tài hoa của nghệ nhân
nơi đây.
Lễ hội làng nghề Bát tràng hằng năm vẫn là một lễ hội lớn của người dân
Hà thành. Nếu bạn là một người mang trang mình đam mê với những món đồ
gốm mỹ nghệ thì không thể bỏ qua địa điểm này. Đến với lễ hội sẽ là dịp để
chúng ta tìm hiểu một cách trực quan nhất về những nét văn hóa độc đáo chứa
đựng bao tâm huyết của thế hệ người Việt.
Hội làng gốm bát tràng từ đó mà được đem vào thơ ca, có thể hình dung
được cảnh lễ hội qua bài thơ sau đây:
Hôm qua Lễ hội Bát tràng
Vào xem chợ Gốm, ngỡ ngàng lắm thay
Ngắm nhìn Phượng múa, Rồng bay
Sờ đôi chim Hạc đậu ngay Lục bình.
Chèo lên hang động hữu tình
Núi cao thác đổ, trúc xinh đôi bờ
Mấy em gái nhỏ ngây thơ
Rúc rích tắm suối tôi ngờ là Tiên
Bạt ngàn hàng hóa ba miền
Khắc sâu dấu ấn Tổ tiên của mình
Từ hàng quốc kế, dân sinh
Đến đồ trang trí cung đình nay, xưa
Chợ vui, nhộn nhịp sớm, trưa
33
Chào, mời niềm nở thật vừa lòng nhau
Hẹn em lễ hội lần sau
Trò chơi dân gian “Đánh cờ người” (Ảnh st)
Em cười, tặng cái gật đầu. Chia tay.
2.3. Đánh giá hoạt động truyền thông trong phát triển du lịch làng gốm Bát
Tràng
2.3.1. Những kết quả đã đạt được
Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) là làng nghề truyền thống với hơn 700
năm tuổi đời. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, Bát Tràng đã sản
xuất ra nhiều sản phẩm độc đáo từ gốm sứ, như: men ngọc, hoa nâu, men rạn,
hoa lam… Các sản phẩm gốm, sứ Bát Tràng đã đạt tới trình độ kĩ thuật chế tác
cao, tính nghệ thuật và thẩm mỹ sâu sắc. Đề tài phổ biến trên các sản phẩm là
hình rồng, phượng, thơ, câu đối, hoa văn; phản ánh thiên nhiên, đời sống tâm
linh, sinh hoạt hàng ngày… qua con mắt và tâm hồn người thợ.
Từ 2002, các nghệ nhân Bát Tràng đã liên kết, cùng sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm thông qua Hiệp hội Gốm sứ Bát Tràng. Hiện tại xã Bát Tràng gồm 2 làng
Bát Tràng và Giang Cao với hơn 1800 nhân khẩu. Nghề gốm của Bát Tràng
không chỉ tạo công ăn việc làm trong xã mà tạo công ăn việc làm cho 4000 –
34
5000 lao động thường xuyên từ nơi khác đến. Sự phát triển của làng nghề Bát
Tràng hiện nay đã góp phần không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải
quyết lao động, việc làm cũng như nhiều vấn đề xã hội khác cho các địa phương
Quá trình xây dựng và phát triển của xã Bát Tràng, đặc biệt là từ khi bước
vào thời kì đổi mới (1986) đến nay luôn nhận được sự quan tâm của các cấp
chính quyền. Xây dựng thương hiệu “Gốm sứ Bát Tràng” luôn nằm trong tổng
thể chiến lược phát triển kinh tế địa phương, liên tục được đầu tư, phát triển. Mô
hình kết hợp sản xuất, trưng bày sản phẩm với phát triển du lịch, xuất khẩu tại
chỗ nhằm thương hiệu được áp dụng thành công và phát huy hiệu quả cao. Sản
phẩm của làng nghề bắt đầu tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế và bước đầu
được đón nhận. Người Bát Tràng cũng chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin về
thị trường, các kiến thức, cộng nghệ sản xuất tiên tiến, cũng như từng bước áp
dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử để nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Cần tổ chức đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối cho khách và người lao
động, thực hành nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.
Giá sản phẩm liên tục tăng do giá gia tăng là một trong những nguyên nhân
cơ bản. Việc xây dựng các lò nung bằng ga là một bước tiến quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì gốm, sứ sử dụng lò nung ga cho màu
đều, đẹp, bóng và bền hơn, lại không ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên với việc
giá ga liên tục tăng, chiếm tới 55% số tiền đầu tư, nhiều hộ đã quay trở về với lò
than truyền thống.
Bên cạnh đó đối thủ cạnh tranh của Bát Tràng là gốm sứ Trung Quốc với
cách làm công nghiệp (dán đề - can thay vì vẽ tay) đang tràn ngập thị trường
quốc tế, trong nước, với ưu thế về mẫu mã, giá rẻ. Một số hộ tham lợi trước mắt
thậm chí còn tiếp tay cho hàng Trung Quốc xuất hiện ngay giữa làng thông qua
việc bán hàng tàu dưới mác Bát Tràng.
35
Người tinh mắt có thể nhận ra sự khác biệt giữa sản phẩm công nghiệp và
hàng thủ công. Sản phẩm kém chất lượng của Trung Quốc sau một thời gian sử
dụng thường có một lớp cặn đen bên dưới (do sử dụng chì trong quá trình chế
tác). Điều này sẽ gây mất niềm tin, ảnh hưởng đến thương hiệu Gốm sứ Bát
Tràng. Việc đưa sản phẩm ra giới thiệu trên trường quốc tế còn nhiều khó khăn
do thiếu kinh nghiệm, chủ yếu mang tính cá nhân, tự phát, và nhất là thiếu…
tiền. Chi phí cho mỗi lần triển lãm ở nước ngoài khá lớn, thường 300 – 500
triệu/lần. Việc này vượt quá sức của phần đa các doanh nghiệp, hộ kinh doanh
Bát Tràng. Trong khi việc tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng rất hạn chế. Việc
cho vay để tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài là rất khó để thuyết phục
được các ngân hàng. , bán hàng trực tiếp đã khó, nhưng việc “đánh bắt xa bờ”
thông qua Thương mại Điện tử (TMĐT) cũng khó khăn không kém. Các doanh
nghiệp gốm sứ Bát Tràng đã sớm nhận ra tầm quan trọng của TMĐT trong kinh
doanh, nhưng việc ứng dụng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp có
website từ trước năm 2003. Nhưng chỉ một thời gian là ngừng hoạt động do các
website này không đem lại hiệu quả. Sự nghèo nàn về thông tin, thiếu cập nhật,
quản lý kém, nền tảng công nghệ yếu… khiến cho các website chỉ dừng ở mức
cung cấp thông tin, giới thiệu trong khi yếu tố quan trọng nhất là khả năng giao
dịch, bán hàng trực tuyến thì không có.
Là một sản phẩm thủ công truyền thống, được ghi nhận qua hàng trăm năm
sử dụng cả trong và ngoài nước, Bát Tràng có nhiều thế mạnh để xây dựng thành
công thương hiệu chung của làng nghề. Điều đó cần nhiều ngành, nhiều cấp và
người Bát Tràng phải chung tay.
Với sự phát triển của các làng nghề nói chung và làng nghề Bát Tràng nói
riêng hiện nay đã góp phần không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết
lao động, việc làm cũng như nhiều vấn đề xã hội khác cho các địa phương. Tuy
nhiên, trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gay gắt không chỉ ở trong nước mà
còn tại thị trường nước ngoài, làng nghề cùng với các sản phẩm của mình đang
36
đứng trước những thách thức để tìm cho mình một chỗ đứng. Hầu hết sản phẩm
làng nghề đang gặp phải nhiều khó khăn, có sản phẩm xuất khẩu ra được một số
thị trường nước ngoài nhưng còn rất nhỏ lẻ, phải mang thương hiệu nước ngoài,
rất ít sản phẩm có thương hiệu mang tầm quốc gia và quốc tế. Một trong những
nguyên nhân chính là vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu chưa được
quan tâm.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 Nhóm tác giả đề tài đã đi sâu mô tả, khảo sát thực trạng
hoạt động truyền thông cho phát triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng. Theo đó
các hoạt động truyền thông ở đây bao gồm truyền thông trực tiếp, truyền thông
qua tổ chức lễ hội, truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như
mạng xã hội, truyền hình, …Đây là những phương tiện truyền thông hết sức phổ
biến và hiệu quả hiện nay, được nhiều nhóm công chúng theo dõi, sử dụng. Nhờ
vậy đã thu hút lượng khách đến với Bát Tràng đều tăng qua các năm. Tuy vậy
hoạt động truyền thông cho du lịch ở đây cũng bộc lộ một số mặt hạn chế. Đánh
giá những điểm tích cực, thành công và những điểm hạn chế là cơ sở để Nhóm
tác giả đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả truyền thông cho du lịch tại
làng nghề Bát Tràng trong chương 3.
37
Chương 3
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ỨNG DỤNG TRUYỀN THÔNG PHÁT TRIỂN DU
LỊCH LÀNG GỐM BÁT TRÀNG
Bát Tràng là một trong những làng nghề truyền thống về gốm sứ ở Việt
Nam, nơi đây không chỉ lưu giữ được những nét văn hóa của một làng nghề
truyền thống mà còn nổi tiếng về làm gốm sứ hàng đầu ở nước ta. Trải qua bao
thăng trầm của đất nước, Bát Tràng ngày nay còn là điểm du lịch thú vị đối với
nhiều du khách muốn tìm hiểu và biết về kỹ nghệ làm gốm sứ lâu đời bậc nhất
còn truyền được đến ngày nay. Tuy nhiên trong thời đại bùng nổ về mạng
internet, sự tác động to lớn của cách mạng to lớn của cách mạng 4.0 đã làm đa
dang và phong phú các phương tiện truyền thông, để có thể nắm bắt và ứng
dụng truyền thông nhằm hình ảnh làng Gốm Bát Tràng, nhóm nghiên cứu đã đề
xuất một số ứng dụng cụ thể như sau:
3.1. Định dạng công chúng mục tiêu
3.1.1. Khách thăm quan, du lịch nội địa
Xây dựng các ứng dụng du lịch thông minh bao gồm tất cả chủ đề liên
qaun đến Bát Tràng, bao gồm 23 điểm di tích lịch sử văn hóa, danh sách các
nghệ nhân, các dòng sản phẩm gốm…Du lịch thông minh sẽ giúp du khách nội
địa dễ dàng tìm hiểu thông tin, có sự chuẩn bị trước khi tham quan làng nghề
Bát Tràng.
Tuyên truyền, truyền thông rộng rãi về công tác bảo vệ cảnh quan, môi
trường; tổ chức lại giao thông nội vùng; tăng cường kết nối giao thông, du lịch
với các địa phương lân cận cũng như cần chủ động liên kết với các đơn vị kinh
doanh du lịch có phương án đưa, đón khách nội địa đến Bát Tràng thăm quan,
mua sắm…
38
Ảnh du khách Việt Nam đang say mê chọn lựa đồ gốm. (Ảnh: Trung Hiếu)
3.1.2. Khách tham quan, du lịch nước ngoài
Phát triển các trang web du lịch quốc tế về hình ảnh Bát Tràng, phối hợp
với các công ty công nghệ triển khia du lịch 4.0, số hóa toàn bộ dữ liệu về điểm
di tích, tour du lịch, điểm mua sắm đạt chuẩn, giới thiệu làng nghề bằng nhiều
ngôn ngữ khác nhau.
Bồi dưỡng kiến thức về hoạt động du lịch cộng đồng để thuyết minh,
hướng dẫn khách du lịch quôc tế, phát triển cổng thông tin điện tử và ứng dụng
riêng về du lịch Bát Tràng, ra mắt các doanh nghiệp du lịch lũ hành địa phương
chuyên đón du khách quốc tế.
Thực hiện chiến lược marketing và xúc tiến du lịch để khuyến khích sự
cộng tác giữa các chủ thể du lịch. Thực hiện đồng bộ các chính sách thị trường,
hỗ trợ làng nghề phát triển ổn định, thị trường du lịch và tăng cường khả năng
để du khách quốc tế tiếp cận thông tin về làng nghề.
Xây dựng trang Web, đĩa CD giới thiệu chung về làng nghề và du lịch
làng nghề Việt Nam đến du khách quốc tế. Tích cực tham gia các hội chợ
thương mại, du lịch quốc tế, các chương trình du lịch tại nước ngoài để giới
39
thiệu tiềm năng du lịch làng nghề Bát Tràng, mở rộng thị trường và tổ chức liên
hoan du lịch làng nghề.
Thiết lập thương hiệu và lôgô cho sản phẩm làng nghề, qui định những
tiêu chuẩn cho sản phẩm của làng nghề. Xây dựng phòng đón tiếp khách quốc
tế, trưng bày giới thiệu sản phẩm để du khách quốc tế thưởng lãm. Tổ chức
hướng dẫn tại điểm làng nghề, có thể tổ chức cho du khách quốc tế thử nghiệm
tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm tạo sự thích thú và hấp dẫn đối với
khách, đồng thời phải đảm bảo vệ sinh môi trường của làng nghề, phát triển các
dịch vụ bổ sung phục vụ nhiều đối tượng của khách du lịch.
Liên kết với các đại lý du lịch, công ty lữ hành để phối hợp tiến hành khảo
sát và sử dụng tour du lịch, tạo sự nhận thức về tiềm năng du lịch của làng nghề.
Phối hợp với các khách sạn trong khu vực để bán hàng lưu niệm, giới thiệu sản
phẩm làng nghề, có chính sách khuyến khích việc sử dụng các phương pháp thủ
công đối với các công ty, đại lý lữ hành, khách sạn trong và ngoài nước như bán
các sản phẩm làng nghề của mình cho họ với mức giá ưu đãi hay tặng quà kỷ
Một du khách nước ngoài đang say mê tìm đồ gốm. (Ảnh: Trung Hiếu)
niệm.
40
Ảnh du khách nước ngoài đang chế tác sản phẩm thủ công(st)
3.2. Xác định mục tiêu truyền thông và nâng cao vị thế làng gốm Bát Tràng
3.2.1. Mục tiêu truyền thông
Ngày 9-3, Sở Du lịch Hà Nội phối hợp với UBND huyện Gia Lâm tổ
chức chuyến khảo sát du lịch tại làng gốm sứ Bát Tràng và hội thảo “Nâng cấp
chất lượng tuyến du lịch trung tâm Hà Nội - Làng nghề Bát Tràng”, nhằm xây
dựng sản phẩm du lịch hấp dẫn cho Hà Nội, chuẩn bị cho việc phục hồi du lịch
Thủ đô, đón khách quốc tế.
Sở Du lịch Hà Nội phối hợp với UBND huyện Gia Lâm tổ chức đoàn
khảo sát các điểm đến tại Bát Tràng để xây dựng thêm sản phẩm du lịch mới.
Bổ sung thêm các giải pháp phát triển du lịch Bát Tràng thành sản phẩm
hấp dẫn của Hà Nội, Giám đốc Sở Du lịch Hà Nội Đặng Hương Giang cho rằng,
ngoài xây dựng sản phẩm mới, địa phương cần chú trọng tới việc bảo vệ cảnh
quan, môi trường; tổ chức lại giao thông nội vùng; tăng cường kết nối giao
thông, du lịch với các địa phương lân cận cũng như cần chủ động liên kết với
các đơn vị kinh doanh du lịch có phương án đưa, đón khách nội địa và quốc tế.
Về vấn đề này, Chủ tịch UBND huyện Gia Lâm Đặng Thị Huyền cho biết,
huyện đã có kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2025, trong đó có
chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ cho du lịch. Tới đây, địa phương
sẽ quan tâm đến việc phối hợp với các đơn vị để trước mắt hình thành sản phẩm
41
du lịch mới, sẵn sàng cho việc đón khách nội địa và quốc tế khi hoạt động du
lịch được mở cửa hoàn toàn. Truyền thông cần theo sát quá trình phát triển của
kế hoạch, song song với đó truyền thông cũng cần có kế hoạch cụ thể để đáp
ứng nhiệm vụ của từng giai đoạn.
Theo bà Trần Thị Hoài Hương, Trưởng phòng Văn hoá Thông tin huyện
Gia Lâm, xã Bát Tràng hiện có 5 thôn với gần 9.000 nhân khẩu; kinh tế - xã hội
phát triển theo hướng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (chiếm khoảng 53%),
thương mại - dịch vụ (chiếm khoảng 47%); không sản xuất nông nghiệp. Xã có
gần 1.000 hộ đang sản xuất, kinh doanh gốm sứ, có hệ thống cửa hàng dọc theo
tuyến đường từ làng Giang Cao - Bát Tràng giới thiệu và bán các sản phẩm gốm
sứ phong phú, đa dạng, phù hợp với khách thăm quan, mua sắm.
Giá trị thu nhập từ du lịch, thương mại, dịch vụ ngày càng tăng góp phần
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2021 ước tính đạt trên 65 triệu đồng/người/năm, không có lao
động thất nghiệp. Bên cạnh đó, làng nghề còn tạo việc làm với thu nhập ổn định
cho khoảng 5.000 lao động đến từ các địa phương khác. Số liệu tính đến ngày
9/3/2022.
Trong thời gian qua, việc triển khai thực hiện đề án Bảo tồn và phát huy
làng nghề truyền thống gốm Bát Tràng gắn với phát triển du lịch được huyện
Gia Lâm chú trọng đặc biệt [15].
Đối với làng gốm Bát Tràng, trước mắt sản phẩm của Bát Tràng cần đáp
ứng được nhu cầu sử dụng của người mua, sau đó là phải biết kết hợp giữa nghệ
thuật đương đại với nghệ thuật truyền thống vào khâu sản xuất. Những nghệ
nhân, thợ gốm Bát Tràng cũng cần không ngừng học hỏi, áp dụng những tiến bộ
trong khoa học kỹ thuật hiện nay vào khâu sản xuất, , phát triển thương hiệu cho
làng nghề.
42
Bên cạnh truyền thống làng nghề, xã Bát Tràng hiện có 9 di tích lịch sử,
văn hóa, kiến trúc, 2 di tích cách mạng kháng chiến, 23 ngôi nhà cổ và 16 nhà
thờ họ - là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống của Bát Tràng xưa. Cần
đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông về các nét đặc sắc của
làng gốm Bát Tràng. Năm 2019, UBND thành phố Hà Nội đã có quyết định
công nhận Bát Tràng là Điểm du lịch của Thủ đô; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch công nhận “Nghề truyền thống gốm làng Bát Tràng, xã Bát Tràng là di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia”.
Sau khi Bát Tràng được công nhận là điểm du lịch, số lượng khách đến
đây trải nghiệm tăng gấp đôi, có thời điểm tăng gấp 3 so với trước. UBND xã
Bát Tràng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị làng
nghề truyền thống, như: Ứng dụng công nghệ 4.0 để phát triển du lịch thông
minh; thực hiện tôn tạo, bảo tồn nhiều di tích, gồm có đình, văn chỉ Bát Tràng;
khu lò bầu cổ, nhà nghệ nhân. Một trong những nét mới của khu du lịch Bát
Tràng là du khách được tham quan, trải nghiệm nhiều hoạt động tại Trung tâm
tinh hoa làng nghề Việt. Đây là công trình mới, có kiến trúc độc đáo, được ví
như bảo tàng gốm sứ của Bát Tràng.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2025 của huyện Gia
Lâm có xác định phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ cho du lịch. Tới đây, địa
phương sẽ quan tâm đến việc phối hợp với các đơn vị để trước mắt hình thành
sản phẩm du lịch mới, sẵn sàng cho việc đón khách nội địa và quốc tế. Bên cạnh
đó, huyện Gia Lâm phối hợp với Sở Du lịch Hà Nội ứng dụng công nghệ 4.0
triển khai đầu tư du lịch thông minh tại Bát Tràng; Xây dựng cơ sở dữ liệu tài
nguyên, bản đồ số về di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và các loại hình dịch vụ
du lịch dưới dạng phim 3D. Đầu tư hệ thống thuyết minh tự động tại các điểm
tham quan và hệ thống du lịch thông minh qua ứng dụng trên điện thoại; Tạo mã
QR giới thiệu các di tích văn hóa, lịch sử bằng nhiều thứ tiếng như Việt, Anh,
Nga, Trung, Nhật, Hàn, Pháp,….
43
Đến nay, Bát Tràng đã có hơn 200 doanh nghiệp và hơn 1.000 hộ sản
xuất, kinh doanh nhiều mặt hàng phong phú cả về chủng loại và kiểu dáng. Thu
nhập bình quân đầu người đạt hơn 60 triệu đồng/người/năm. Xã có 140 nghệ
nhân và nhiều thợ giỏi. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được nhiều quốc gia quan
tâm, ưa chuộng và có mặt ở các thị trường lớn trên thế giới như: Pháp, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Nga, Italia…
Bên cạnh việc phát triển các sản phẩm đại trà, nhiều nghệ nhân, thợ giỏi
tại Bát Tràng đã phục chế những tác phẩm gốm sứ cổ được sử dụng trong thời
kỳ phong kiến như gốm sứ đời Lý, đời Trần, đời Mạc, đồng thời khôi phục và
chế tác thành công nhiều công thức men đặc sắc. Những sản phẩm của làng
nghề Bát Tràng hiện nay, không chỉ bán trong nước và xuất khẩu, mà còn thu
hút một lượng khách du lịch lớn đến đây để chiêm ngưỡng, trải nghiệm.
Trong những năm gần đây, lượng khách đến Bát Tràng tham quan, mua
bán ước khoảng 200.000 lượt/năm, trong đó, khách quốc tế chiếm khoảng 10%,
học sinh, sinh viên và thanh niên chiếm khoảng 40%. Đặc biệt, vào mùa cao
điểm có ngày Bát Tràng đón gần 10.000 lượt khách. Nắm bắt được tiềm năng và
thế mạnh của làng nghề Bát Tràng, mấy năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã có
nhiều chương trình phát triển du lịch làng nghề Bát Tràng, gắn phát triển du lịch
với phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân.
Cùng với làng nghề Vạn Phúc của Hà Đông, làng nghề truyền thống Bát
Tràng đã được Hà Nội chọn thực hiện đề án điểm về phát triển làng nghề gắn
với du lịch, quy hoạch đầu tư một cách đồng bộ thông qua quyết định công nhận
là Điểm du lịch. Việc công nhận điểm du lịch được kỳ vọng sẽ góp phần đẩy
mạnh sự quan tâm, thu hút đầu tư của các tổ chức, cá nhân cũng như doanh
nghiệp vào hoạt động du lịch của Bát Tràng; đồng thời góp phần nâng cao ý
thức trách nhiệm của các cấp chính quyền và người dân địa phương trong vấn đề
phát triển du lịch.
44
3.2.2. Nâng cao vị thế của làng gốm Bát Tràng
Gốm sứ Bát Tràng được hình thành và phát triển cách đây trên 700 năm,
người dân nơi đây luôn tự hào về làng nghề truyền thống và mong muốn duy trì
làng nghề cũng như sản xuất ra những sản phấm gốm sức chất lượng nhất. Đây
phản ánh giá trị văn hóa của làng Gốm Bát Tràng. Sản phẩm của nghề gốm
truyền thống được tạo ra bởi các bí quyết sản xuất và đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo
cao, được truyền từ đời này sang đời khác. Thực tế cho thấy, những sản phẩm
gốm không chỉ là những vật phẩm kinh tế hay vật phẩm phục vụ cho sinh hoạt
đời sống thường ngày của dân cư, nó còn là những sản phẩm mỹ nghệ, biểu hiện
cho sự phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm văn hóa của dân tộc.
Để nâng cao vị thế phát huy thế mạnh của làng nghề truyền thống Bát
Tràng thì cùng với đó là có thể phát huy chất lượng sản phẩm, không ngừng đổi
mới sản phẩm. Bên cạnh việc phát triển các sản phẩm đại trà, còn chú trọng
phục chế những tác phẩm gốm sứ cổ được sử dụng trong thời kỳ phong kiến như
gốm sứ đời Lý, đời Trần, đời Mạc...; đặc biệt, khôi phục và chế tác thành công
nhiều công thức men đặc sắc. Tạo các sản phẩm độc lạ và tạo mô hình thu hút
khách du lịch. Ngoài ra, chú trọng xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài
3.3. Đề xuất một số ứng dụng truyền thông để phát triển du lịch tại Bát
Tràng
Việc chọn một hay vài phương tiện hợp lý cho phép đưa thông tin đến
đúng đối tượng mà mình quan tâm. Truyền thông được thực hiện thông qua
nhiều phương tiện như: Truyền sóng (radio, truyền hình); Phương tiện in ấn:
Báo chí, tạp chi, ấn phẩm, quảng cáo ngoài trời (outdoor): Panô, bảng điện:
Quảng cáo qua bưu phẩm (direct mail), trang vàng niên giảm, quảng cáo trên
internet…Mỗi phương tiện đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng khi thể
hiện các thông điệp. Do đó, khi lập kế hoạch về phương tiện truyền thông, đòi
hỏi xem xét nhiều yếu tố như: Mục tiêu truyền thông, ngân sách, đặc điểm khách
45
hàng mục tiêu, phạm vi, mức độ hoạt động, đối tượng bạn đọc, đặc điểm khán
giả, chi phí truyền thông trên mỗi phương tiện... Nếu hạn chế về tài chính, có thể
tập trung nỗ lực vào một phương tiện duy nhất dễ gây ảnh hưởng hơn là trải đều
thông điệp trên nhiều phương tiện.
3.3.1. Truyền thông thương hiệu
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay, khi mà sự
khác biệt về sản phẩm, kênh phân phối và các chính sách hậu mãi của các trở
nên mong manh, thì vai trò của truyền thông thương hiệu chính là chìa khóa để
cạnh tranh và mang tính quyết định. Chiến lược truyền thông thương hiệu là một
phần của chiến lược thị trường. Một chiến lược truyền thông cụ thể tạo ra một
định hướng cần thiết cho mọi hoạt động truyền thông, nó giúp truyển thông điệp
của mình đến khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả, qua đó tạo ra một
vị trí vững chắc trong suy nghĩ, nhận thức của khách hàng. Từ đó thương hiệu
“Khu du lịch Làng gốm Bát Tràng” sẽ được biết tới một cách rộng rãi.
3.3.2. Truyền thông mạng xã hội
Việc phát triển của Facebook, mạng xã hội phổ biến tại Việt Nam, đã tạo
ra bước ngoặt lớn cho các vấn đề xã hội. Với Facebook, thông tin khó có thể bị
kiểm duyệt chặt chẽ và dễ bị phát tán, lan truyền tới cộng đồng với tốc độ chóng
mặt. Vậy làm sao để xử lý khủng hoảng truyền thông? Các thương hiệu lớn phải
làm gì khi có khủng hoảng truyền thông lan truyền trên các mạng xã hội, đặc
biệt là Facebook? Vài câu chuyện khủng hoảng thương hiệu bùng phát từ mạng
xã hội sau dây ít nhiều có thể giúp cho những người quan tâm đến lĩnh vực này
có thêm bài học trong công tác quản trị khủng hoảng mạng xã hội.
3.3.3. Truyền thông sự kiện
Thông thường để làm thương hiệu, các công ty vẫn phải trả tiền để sản
phẩm của mình qua các kênh huyền thông; nhưng truyền thông, ngược lại cũng
46
cần có nội dung để thu hút người xem, đối tượng của quảng cáo. Sự kiện là một
trong những kênh truyền thông được chọn thương hiệu nhanh và hiệu quả. Đã
có nhiều ví dụ về việc sử dụng kênh truyền thông này bằng cách trực tiếp hay
gián thiếp thông qua tài trợ để tạo danh tiếng, với hiệu quả tốt hơn hẳn việc bỏ
tiền ra làm quảng cáo. Đối với khu du lịch làng gốm Bát Tràng, cần đẩy mạnh
những hoạt động sự kiện như: Triển lãm, giới thiệu sản phẩm hay những lễ hội
truyền thống để tạo sự thu hút khách thăm quan đến với Bát Tràng.
3.3.4. Truyền thông nội bộ
Mục tiêu của truyền thông nội bộ là để xây dựng, thiết lập và duy trì mối
quan hệ có lợi giữa tổ chức và nhân viên - người quyết định sự thành công hoặc
thất bại của doanh nghiệp. Xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp, truyền thông
hai chiều với nhóm công chúng bên trong tăng cường tính ảnh hưởng của tổ
chức đối phó lại với các vấn đề và khủng hoảng.
Truyền thông nội bộ tốt tạo ra thiện chí, có lợi cho công việc chung. Truyền
thông đa chiều giữa các cấp độ nhân viên cao cấp, nhân viên tầm trung và cấp
dưới giúp họ hiểu biết việc gì đang diễn ra trong nội bộ, làm họ tin tưởng vào
lãnh đạo và tư tin khi làm việc.
3.3.5. Liên kết, mở rộng quan hệ với nhiều cơ quan Báo chí
Quan hệ báo chí là một công cụ quan trọng của PR, cũng là một công cụ
hữu hiệu trong xử lý khủng hoảng truyền thông. Xây dựng quan hệ báo chí
không chỉ đơn thuần là kết thân với một vài cơ quan báo chí chủ chốt như nhiều
tổ chức lầm tưởng. mà là một quá trình xây dựng và thiết lập kênh thông tin
đẳng tin cậy giữa tổ chức và báo chí. Quá trình này đòi hỏi một sự kiện trì, lâu
dài, bền vững và phải được thực hiện bởi những người làm PR chuyên nghiệp.
Quan hệ công chúng ngày hôm nay, về bản chất không gì khác hơn là tạo dựng
và duy trì hình ảnh tích cực, uy tín và có trách nhiệm của doanh nghiệp. Muốn
hình ảnh đó được duy trì bền vững, không phải là nhất thời che đậy những thông
47
tin tiêu cực, mà là xây dựng trong tiềm thức của khách hàng và người tiêu dùng
một tình yêu phi vụ lợi đối với tổ chức và thường hiệu của họ.
3.3.6. Đánh giá kết quả truyền thông
Truyền thông cũng có tính 2 mặt của nó nếu thông tin, hình ảnh của Làng
gốm Bát Tràng truyền đi mang tính tiêu cực, thì tác động của truyền thông cũng
tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực cho các đối tượng công chúng trong xã hội.
Nhất là những đối tượng thanh thiếu niên, những đối tượng có trình độ nhận
thức còn thấp, không có khả năng chắt lọc thông tin, nếu thông tin từ truyền
thông tiêu cực thì dễ bị lôi kéo. Truyền thông phát triển du lịch Làng gốm Bát
Tràng có thể được thực hiện trên các phương tiện nghe nhìn như truyền hình, đài
phát thanh và đặc biệt là qua internet; trên các phương tiện in ấn như báo chí, tạp
chí, catalogue, tờ rơi, … Đặc biệt là hình thức thông qua du lịch bởi du lịch
đang trở thành một ngành dịch vụ rất quan trọng. Các cơ sở sản xuất kinh doanh,
những nghệ nhân, thợ giỏi cần tham gia nhiều hơn vào các chương trình văn hóa
xã hội, các sự kiện tôn vinh nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc được tổ
chức hàng năm. Bên cạnh đó, cần tích cực hơn nữa để tham gia các hội chợ triển
lãm trong và ngoài nước nhằm tìm đầu ra cho sản phẩm. Tham gia hội chợ triển
lãm cần có sự đầu tư bài bản, thiết kế và đầu tư cho gian hàng cũng như nhân sự
tham gia, tránh sự sơ sài, mang lại cảm giác thiếu tin tưởng thương hiệu. Xây
dựng thương hiệu cần có sự quan tâm, nghiên cứu từ khi bắt đầu sản xuất cho
đến những chiến lược lâu dài, cần có sự hỗ trợ đồng bộ của các cơ quan chức
năng, chính quyền địa phương và đặc biệt là các chuyên gia trong việc tư vấn
xây dựng, phát triển thương hiệu như TP. Hà Nội đã triển khai trong thời gian
qua. Chính quyền địa phương cần tạo mọi điều kiện để người dân vay vốn mở
rộng sản xuất, đồng thời mở các lớp đào tạo nghề. Hàng năm, cần tổ chức gặp
mặt các doanh nghiệp, nghệ nhân nhằm tìm hướng đi, tìm thị trường cho Làng
gốm Bát Tràng. Có thể hình thành nơi trưng bày hàng hóa tập trung nhằm giao
48
dịch, trưng bày, bán buôn, bán lẻ với đầy đủ chủng loại hàng hóa của làng gốm.
Đây là con đường nhanh nhất để sản phẩm sản xuất ra có thể tiếp cận với khách
du lịch, với các nhà kinh doanh trong nước và nước ngoài. Kinh nghiệm thực
tiễn thành công là làng gốm cổ Bát Tràng đã hình thành chợ gốm, thu hút hàng
trăm ngàn khách từ trong nước và nước ngoài tới tiếp cận với sản phẩm gốm Bát
Tràng. Ngoài ra, xây dựng và phát triển thương hiệu sẽ là vấn đề cực kỳ quan
trọng đối với làng gốm. Thương hiệu một khi đã có tiếng tăm, uy tín nhất định ở
thị trường trong và ngoài nước chắc chắn sẽ mang lại giá trị kinh tế cao, góp
phần xóa đói giảm nghèo, đóng góp vào sự phát triển kinh tế chung của làng
nghề cũng như của xã hội.
Trong kinh tế, truyền thông tác động đến tiêu dùng của người dân giúp
người dân tiêu dùng nhiều hơn, giúp kinh tế phát triển. Tuy nhiên, truyền thông
cũng tác động đến việc con người ngày càng tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu
cần thiết. Con người ngày càng làm việc nhiều hơn để phục vụ cho các nhu cầu
tiêu dùng. Các giá trị vật chất ngày càng được xã hội đánh giá cao hơn các giá trị
tinh thần. Sản xuất và tiêu dùng nhiều sẽ hủy diệt môi trường và tác động xấu
đến đời sống của người dân.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở đánh giá những thành công, hạn chế của truyền thông với phát
triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng, chương 3, Nhóm tác giả đã nêu một só giải
pháp trọng tâm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông phục vụ du lịch
tại đây. Trong đó Nhóm tác giả đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh tới giải pháp về
ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng một số loại hình truyền thống hiện đại,
khắc phục những hạn chế trong truyền thông ở Bát Tràng đã được nêu. Để hoạt
động truyền thông phục vụ phát triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng hiệu quả,
cần có nhiều giải pháp đồng bộ. Đây chính là vấn đề cần được chính quyền,
người dân sở tại và các doanh nghiệp du lịch, truyền thông cần quan tâm và có
sự phối hợp tốt mới mang đến hiệu quả như mong muốn.
49
KẾT LUẬN
Truyền thông cho phát triển du lịch là một trong những xu hướng rất phổ
biến và có tâm quan trọng trong xã hội hiện nay. Với những làng nghề, những
khu du lịch, vấn đề truyền thông càng trở nên quan trọng và cần thiết nhằm
rộng rãi hình ảnh của khu du lịch đến với công chúng cả nước và bạn bè quốc tế.
Trong phạm vi đề tài “Truyền thông với phát triển khu du lịch văn hóa làng gốm
Bát Tràng – Hà Nội”, nhóm tác giả đã làm rõ các vấn đề chủ yếu sau đây:
1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về truyền thông với phát
triển du lịch, bao gồm các khái niệm cơ bản, vai trò của truyền thống trong xã
hội hiện đại và vai trò của truyền thống đối với sự phát triển du lịch. Từ đó làm
cơ sở lý luận cho toàn bộ đề tài. Đồng thời Nhóm tác giả cũng đã thiệu khái quát
về làng gốm Bát Tràng làm tiền đề cho những nội dung về truyền thông với phát
triển du lịch tại khu du lịch văn hóa làng gốm Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội.
2. Trên cơ sở tổng quan những vấn lý luận và tổng quan về khu du lịch
làng gốm Bát Tràng, nhóm tác giả đi sâu khảo sát các hoạt động truyền thông tại
đây, bao gồm truyền thông qua truyền hình, mạng internet, truyền thông trực
tiếp thông qua việc trưng bày, giới thiệu, bán sản phẩm, truyền thông và tổ chức
lễ hội làng nghề truyền thống Bát Tràng.
3. Nhận diện những thành công, những điểm hạn chế của truyền thông với
phát triển du lịch tại khu du lịch văn hóa Bát Tràng, nhóm tác giả đã đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông, thúc đẩy du lịch
tại Bát Tràng ngày càng phát triển.
Với vị trí địa lý cũng như về nét đẹp của làng nghề truyền thống Bát
Tràng - nơi lưu trữ những nét văn hóa về gốm sứ bậc nhất, nơi đi qua bao nhiêu
thằng trầm cùng những giá trị lịch sử dưới những bàn tay khéo léo của nhiều
nghệ nhân, mỗi sản phẩm gốm sứ là một kiệt tác. Truyền thông sẽ giúp những
kiệt tác này được vươn xa hơn nữa. Mô hình du lịch Làng gốm Bát Tràng sẽ
50
vươn xa hơn nữa và sẽ giúp công chúng nhìn nhận được giá trị của đất nước
cũng như làng nghề Việt Nam. Trong tương lai du lịch làng Gốm Bát Tràng sẽ
càng được nhiều người biết đến và tham quan. Mang giá rị đặc trưng cho làng
nghề ở Hà nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bích (2016), Thực trạng làng gốm Bát Tràng (1986-2016) và
phát triển.
2. Nguyễn Đình Chiến (1999), Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ
XV - XIX, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản.
3. Bùi Xuân Đính (2013), Bát Tràng làng nghề, làng văn.
4. Nguyễn Thị Hảo (1989), Quê gốm Bát Tràng, Nxb Hà Nội.
5. Trương Minh Hằng (2012), Tổng hợp Làng nghề và truyền thống Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội.
6. Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến và Nguyễn Quang Ngọc (1995), Gốm Bát
Tràng, thế kỷ XV - XIX, Nxb. Thế giới.
7. Phạm Quốc Quân (2011), Ngã ba di sản, Nxb Dân trí.
8. Hoàng Văn Thành (2014), Giáo trình Văn hóa du lịch, NXB
9. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
10. Trần Diễm Thúy (2010), Công trình Văn hóa du lịch, NXB. Văn hóa Thông
tin Chính trị Quốc gia.
11. Nguyễn Mỹ Thanh (2012), Nghệ thuật tạo hình và trang trí gốm Bát Tràng
ngày nay, Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
12. Ủy ban nhân dân xã Bát Tràng (1995), Làng gốm sứ Bát Tràng, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
13. https://battrangvn.vn/tin-tuc/thuyet-minh-ve-gom-su-bat-trang-lang-gom-bat-
trang.html
14. https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/ha-noi-cong-nhan-xa-bat-trang-la-
diem-du-lich-529953.html
52
15. http://www.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Du-lich/1023033/ban-giao-he-thong-
bien-chi-dan-bo-nhan-dien-thuong-hieu-du-lich-lang-nghe-ha-noi-phuc-vu-
du-khach
16. https://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/30881
17. http://vbpl.vn/hanoi/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=20415
18. https://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/34341
19. https://www.thudo.gov.vn/documentdetail.aspx?vbid=63820370-9649-8c48-
8a72-04c2e7b5bf13
20. https://thanglong.chinhphu.vn/phat-huy-nghe-gom-truyen-thong-gan-voi-
phat-trien-du-lich-103220309111220418.htm
21. https://luatvietnam.vn/van-hoa/ke-hoach-43-kh-ubnd-uy-ban-nhan-dan-tp-ha-
noi-216719-d2.html
22. https://luatminhkhue.vn/quyet-dinh-4597-qd-ubnd-cua-uy-ban-nhan-dan-
thanh-pho-ha-noi-ve-viec-phe-duyet-quy-hoach-phat-trien-du-lich-thanh-
pho-ha-noi-den-nam-2020--dinh-huong-den-nam-2030.aspx
53