TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
: Đinh Thị Quỳnh Mai : 2005VTTA
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2022.54 Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hƣớng dẫn : TS. Trần Thị Diệu Thúy
Hà Nội, tháng 4 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
: Đinh Thị Quỳnh Mai
Trần Trà My : 2005VTTA
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2022.54 Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia : Nguyễn Thị Nhƣ Quỳnh Lớp
Hà Nội, tháng 4 năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Nhóm nghiên cứu của chúng tôi xin được cam đoan đây chính là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng nhóm. Mọi số liệu, thông tin sử dụng đều có
nguồn gốc rõ ràng, các kết quả được sử dụng đều do nhóm khảo sát thực tế tại
Làng Gốm Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực được tìm hiểu và thực hiện tại Làng
gốm Bát Tràng. Ngoài ra những khái niệm của các tác giả trong bài nghiên cứu
khoa học đều đã có trích dẫn cụ thể rõ ràng.
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Giải nghĩa
01
PTBV
Phát triển bền vững
02
KH&ĐT
Kế hoạch và đào tạo
03
UBND
Uỷ ban nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 5
6. Bố cục của đề tài .................................................................................... 6
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG LÀNG TRUYỀN THỐNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNG
GỐM SỨ BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ... 7
1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 7
1.1.1. Các khái niệm cơ bản ...................................................................... 7
1.1.2. Tiêu chí phát triển làng nghề bền vững.......................................... 9
1.1.3. Vai trò của việc khai thác và phát triển bền vững làng nghề
truyền thống ............................................................................................. 10
1.2. Cơ sở pháp lý .................................................................................... 15
1.3. Khái quát về làng nghề gốm sứ Bát tràng ..................................... 16
1.3.1. Vị trí địa lý ...................................................................................... 16
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển .................................................. 17
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ......................................................................... 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG, ...... 20
HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ............................................ 20
2.1. Khái quát về sản phẩm gốm sứ Bát Tràng .................................... 20
2.2. Các giá trị làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia
Lâm, Thành Phố Hà Nội ........................................................................ 22
2.2.1. Giá trị lịch sử .................................................................................. 22
2.2.2. Giá trị sáng tạo nghệ thuật ............................................................ 23
2.2.3. Giá trị thẩm mỹ .............................................................................. 24
2.2.4. Giá trị kinh tế ................................................................................. 25
2.3. Các giá trị văn hóa làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng .. 26
2.3.1. Phong tục, tập quán, lễ hội gắn với làng nghề ............................. 26
2.3.2. Tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất của làng nghề .............. 27
2.3.3. Văn hóa tổ chức sản xuất của làng nghề ..................................... 29
2.4. Thực trạng khai thác phát triển bền vững làng nghề truyền thống
gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội......................................... 30
2.4.1. Chính sách phát triển làng nghề bền vững Gốm sứ Bát tràng ... 30
2.4.2. Nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và môi trường phát triển
làng nghề ................................................................................................. 36
2.4.3. Thực trạng khai thác phát triển du lịch làng nghề Gốm sứ
Bát Tràng ................................................................................................ 37
2.4.4. Áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động phát
triển nghề ................................................................................................. 41
2.4.5. Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến, phát triển làng nghề ... 42
2.4.6. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề Gốm sứ Bát Tràng .... 43
2.4.7. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại làng nghề. ......... 43
2.4.8. Công tác nghiên cứu định hướng phát triển sản phẩm ............... 44
2.5. Đánh giá công tác khai thác và phát triển bền vững làng nghề Bát
tràng ......................................................................................................... 45
2.5.1. Những thành tựu ........................................................................... 45
2.5.2. Những tồn tại hạn chế ................................................................... 45
2.5.3. Nguyên nhân .................................................................................. 46
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................... 47
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KHAI
THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NHỀ TRUYỀN THỐNG
GỐM SỨ BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. . 48
3.1. Giải pháp nâng cao, phát triển bền vững hoạt động làng nghề
truyền thống Gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. 48
3.1.1. Giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng ................................................ 48
3.1.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực ............................................... 49
3.1.3. Giải pháp quảng cáo xây dựng thương hiệu gốm Bát Tràng nhằm
phát triển kinh tế ...................................................................................... 50
3.1.4. Các chính sách khuyến khích phát triển bền vững trong hoạt
động tại làng gốm Bát Tràng................................................................... 51
3.2. Những giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực trong
hoạt động làng nghề gốm sứ Bát Tràng. ............................................... 53
3.2.1. Giải pháp về bảo vệ môi trường .................................................... 53
3.2.2. Giải pháp về an ninh trật tự .......................................................... 53
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................... 54
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 57
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 59
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngay giữa lòng Hà Nội, Gia Lâm - làng nghề gốm Bát Tràng có bề dày
lịch sử lâu đời, gắn liền với mảnh đất nơi đây. Ai nhắc đến Gia Lâm cũng nghĩ
ngay đến những sản phẩm gốm mỹ nghệ xuất xứ từ làng Bát Tràng nổi tiếng.
Theo lịch sử ghi chép, làng gốm nơi đây tồn tại hơn trăm thế kỉ cùng những
thành tựu đầy ngưỡng mộ, nó như cái nền móng để làng gốm tồn tại và phát triển
mạnh cho đến thời điểm hiện tại. Làng nghề thủ công nào cũng phản ánh cuộc
sống của con người trong làng, gắn liền với những nếp sống văn hóa của họ.
Làng gốm Bát Tràng không ai biết được sinh ra khi nào, họ chỉ biết khi họ lớn
lên thì làng gốm đã gắn liền với cuộc sống hàng ngày của họ. Làng gốm như một
biểu tượng cho người dân trong làng, vừa mang lại nguồn kinh tế ổn định cho
cuộc sống người dân vừa là niềm tự hào của mỗi người con của làng. Từng sản
phẩm gốm đều mang trong mình tâm huyết, là sự sáng tạo, đúc kết tinh hoa trong
quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu đời. Không chỉ thể, những sản phẩm gốm còn
đòi hỏi sự tài hoa, khéo léo của đôi tay nghệ nhân, phải có kỹ thuật chính xác
mới có thể tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. Hơn cả thế, nó không đơn thuần
chỉ là làm gốm, mà đó là quá trình “thổi hồn” vào trong từng đứa con tinh thần
của họ, khiến cho sản phẩm sau khi hoàn thành luôn mang một nét riêng, nét đặc
biệt của nó. Các sản phẩm gốm Bát Tràng còn phản ánh được tâm hồn của người
nghệ nhân làm ra nó, phản ánh những câu chuyện đầy ý nghĩa cùng những nét
đẹp văn hóa đặc trưng của làng gốm. Có lẽ vì thế mà làng gốm Bát Tràng lại nổi
tiếng và phát triển cho đến bây giờ, thu hút được nhiều khách du lịch đến tham
quan từ trong nước đến ngoài nước. Nhưng trong thời điểm công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, liệu làng gốm thủ công Bát Tràng nói riêng và các làng nghề truyền
thống nói chung có còn được ưa chuộng và phát triển như ngày xưa? Và làm
cách nào để có thể giữ gìn, phát triển những nét đẹp giá trị thủ công truyền thống
đấy, giúp cho làng nghề không bị mai một theo thời gian, ngày càng phát triển
rộng để quảng bá cho nền văn hóa Việt Nam. Đó chính là lí do mà chúng tôi
chọn đề tài: “Làng nghề truyền thống Gốm, sứ tại Bát Tràng huyện Gia Lâm,
1
thành phố Hà Nội” để khảo sát trực tiếp và nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về công tác khai thác và phát triển bền vững đã có nhiều công trình
nghiên cứu trong làng nghề.
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về làng nghề gốm Bát Tràng đã thu hút
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Nó thể hiện rõ giá trị và tầm quan trọng
của làng nghề đối với nền văn hóa và kinh tế - xã hội đối với đất nước Việt Nam.
Không khó để có thể tìm kiếm được thông tin của làng gốm Bát Tràng trên các
phương tiện truyền thông, internet, báo đài,… Nhưng hầu hết các đề tài đều thể
hiện sự phát triển của làng nghề, đi sâu nghiên cứu quy trình sản xuất gốm sứ
hay hoạt động du lịch tại làng nghề Bát Tràng.
Các công trình nghiên cứu, tạp chí sách báo liên quan đến làng gốm Bát
Tràng như: “Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV-XIX”, đây là cuốn sách do Trung tâm
Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam kết hợp cùng với Bảo Tàng lịch sử Việt Nam, Hà
Nội cùng hợp tác biên soạn và xuất bản, tác giả chính là: GS. Phan Huy Lê,
Nguyễn Đình Chiến và Nguyễn Quang Ngọc, nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội [4,
tr246]. Nội dung chính của cuốn sách này có 2 phần giới thiệu về trung tâm sản
xuất gốm Bát Tràng của Việt Nam thế kỉ XIV-XIX. Phần đầu tiên gồm 3 bài
viết: Lịch sử hình thành và phát triển của làng gốm Bát Tràng; Quy trình sản
xuất đồ gốm Bát Tràng; Đặc điểm đồ gốm men Bát Tràng. Tiếp theo là phần 2
gồm 83 trang ảnh màu đen trắng, trưng bày những hoa văn họa tiết tiêu biểu của
gốm Bát Tràng, 28 trang bản vẽ hoa văn cùng 4 trang chụp bản dập hoa văn trên
giấy. Không chỉ vậy, sách còn có Bản đồ xã Bát Tràng và phụ lục bài viết Bát
Tràng buôn bán gốm ở quần đảo Đông Nam Á của Kerry Nguyen Long.
Tiếp theo phải kể đến cuốn sách do tác giả Sylvie Fanchette và Nicholas
Stedman thực hiện tự năm 2003 “Khám phá các làng nghề ở Việt Nam”. Đây là
1 cuốn cẩm nang với đầy đủ thông tin của các làng nghề Việt Nam. Tác phẩm
xuất bản với 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Việt thu hút rất nhiều các độc giả.
Bài luận án “Nghệ thuật tạo hình và trang trí gốm Bát Tràng
ngày nay” (2010) của tác giả Nguyễn Mỹ Thanh đã giới thiệu tổng quan về nghề
2
gốm Bát Tràng. Trình bày một cách hệ thống, phân tích nghệ thuật tạo hình và
bố trí sản phẩm gốm Bát Tràng hiện nay, đúc kết được các nguyên nhân dẫn đến
biến đổi và đề xuất một số kiến nghị để gốm Bát Tràng phát triển bền vững. Bài
nghiên cứu này đi sâu vào nghiên cứu tạo hình và cách trang trí của gốm Bát
Tràng. [7, tr24].
Công trình nghiên cứu "Gốm cổ Việt Nam trong 1.000 năm đầu tiên của
thời đại chúng ta" đã được Hội hữu nghị Pháp-Việt (AAFV) trao Giải thưởng lớn
"Tài năng trẻ" tại buổi lễ tổ chức ngày 23/1 ở Paris. Đây là đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành khảo cổ học do nghiên cứu sinh trường Đại học Paris - Sorbonne
Béatrice Wisniewski thực hiện. Lễ trao giải ở Paris đã đánh giá cao chất lượng
công trình nghiên cứu về gốm cổ Việt Nam, cho rằng công trình đã góp phần
nâng cao hiểu biết về Việt Nam đồng thời quảng bá ra thế giới về sự phát triển
của văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ.
Không chỉ vậy, còn có các bài viết được đăng trên các tạp chí, báo hay các
buổi hội thảo, họp báo trong và ngoài nước như: bài viết về “Làng gốm cổ truyền
Bát Tràng” của tác giả Cao Khương năm 2005 đăng trên Tạp chí thương mại số
43. “Gốm cổ Việt Nam” trong tập san nghiên cứu năm 2002 trang 274. Và còn
vô cùng nhiều các công trình nghiên cứu, tạp chí viết về đề tài gốm Bát Tràng
này.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn 1102 Nguyễn Văn Lực nhận đình rằng “Ở
đây, khi xây dựng, quảng bá thương hiệu gốm sứ Bát Tràng, chúng tôi quan
niệm sản phẩm vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp tạo nên giá trị thương hiệu.
Trong đó, sản phẩm phải do các nghệ nhân trực tiếp chế tác bằng phương pháp
thủ công truyền thống, là một biểu tượng cho giá trị văn hóa, tinh thần Việt và
được thực hiện theo đơn đặt hàng với số lượng hạn chế. Toàn bộ quá trình sản
xuất được minh bạch hóa qua việc cấp chứng nhận tiểu sử cho từng sản phẩm và
không để xuất hiện các phiên bản”.
Như đã thấy, nghề gốm có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời đóng
vai trò lớn trong đời sống xã hội và lịch sử của dân tộc, vì vậy những tác phẩm
gốm đều có những cuốn sách báo viết về nghệ thuật gốm Việt Nam. Các cuốn
3
sách đều nêu được lên định hướng phát triển làng nghề gốm Bát Tràng nhưng
chưa thực sự đi sâu vào vấn đề bền vững, chỉ cho người đọc thấy được cái nhìn
chung và khái quát về làng gốm Bát Tràng. Có thể nói đó là những cuốn sách và
bài viết hay, những công trình tiêu biểu đã lấy gốm Bát Tràng làm đối tượng
nghiên cứu chính. Nhưng hầu hết các cuốn sách đều được xuất bản cách đây
nhiều năm tính đến thời điểm hiện tại, do đó chúng ta chỉ thấy được lịch sử hình
thành, phát triển cũng như những đặc điểm của gốm xưa mà không thấy được
những nét mới, nét tiến bộ và sáng tạo trong Bát Tràng ngày nay, những định
hướng phát triển trong thời kì đất nước đi lên, hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Vì thế,
nhóm tôi xin mạnh dạn triển khai đề tài nghiên cứu: “Khai thác và phát triển bền
vững trong hoạt động làng nghề truyền thống Gốm sứ tại Bát Tràng huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội”, mong muốn được làm rõ hơn những định hướng phát
triển bền vững của nghề gốm Bát Tràng trong thời kì hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát, mô tả, phân tích đánh giá thực hoạt động khai thác, phát triển
bền vững làng nghề truyền thống Gốm, sứ Bát Tràng huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội”, từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác khai thác phát triển
bền vững làng nghề làng nghề gốm sứ Bát tràng, góp phần bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc nói chung và làng nghề truyền thống gốm sứ Bát
Tràng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu tập trung vào
những nhiệm vụ chủ yếu sau
- Tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn về hoạt động phát
triển làng nghề truyền thống.
- Nhận diện các giá trị văn hóa làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động bảo tồn và phát triển
bền vững làng nghề Gốm sứ Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội
- Đề xuất giải pháp khai thác phát triển bền vững làng nghề gốm sứ Bát
4
Tràng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Khảo sát hoạt động khai thác và phát triển
bền vững làng nghề truyền thống gốm Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Làng nghề truyền thống gốm Bát Tràng, huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội là không gian văn hóa nghiên cứu của đề tài.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2017-2021.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động khai thác và phát triển bền
vững làng nghề gốm sứ Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp phát triển bền vững làng nghề Gốm Bát
Tràng tại Gia Lâm - Hà Nội, nhóm nghiên cứu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phỏng vấn, điều tra, khảo sát: Đây là những phương pháp
nghiên cứu quan trọng nhóm sử dụng để thực hiện đề tài. Nhóm nghiên cứu đã
tiến hành điều tra, khảo sát kết hợp phỏng vấn, lấy ý kiến của các Nghệ nhân
làng nghề gốm và những người nghiên cứu chuyên môn về gốm tại làng nghề
Bát Tràng.
- Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Để có thể thực hiện tốt được đề
tài nghiên cứu khoa học cần phải sử phương pháp quan trọng này. Những tài liệu
có thể thu thập được từ tạp chí, báo cáo thống kê của làng nghề qua các năm, từ
đấy nhóm nghiên cứu chọn lọc, nghiên cứu và xử lý thông tin, sau đó đưa ra
những kết luận nghiên cứu về đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và thống kê: Áp dụng để phân tích dựa
trên những tài liệu, thông tin thu thập được qua khảo sát thực tế tại làng Gốm Bát
Tràng. Vì lượng thông tin nhiều, đa dạng nội dung nên đòi hỏi sự phân tích tỉ mỉ,
tổng hợp để rút ra được những nhận định, giải pháp đối với công tác phát triển
bền vững tại Làng Gốm Bát Tràng.
5
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bố cục nội dung của đề
tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về khai thác và phát triển bền vững làng truyền
thống và khái quát về gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng khai thác và phát triển bền vững làng nghề truyền
thống gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác khai thác và phát triển
bền vững làng nhề truyền thống gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội.
6
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG LÀNG TRUYỀN THỐNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNG GỐM SỨ
BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống
*Khái niệm về làng nghề:
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng: “Làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trông trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác
như đan lát, gốm sứ, làm tương… song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo
với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường
(cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên
tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng
thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng
và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị
trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước để rồi có thể xuất khẩu ra cả nước
ngoài”. [8, tr256]
Trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”, làng nghề được Tiến sĩ
Phạm Côn Sơn định nghĩa là “Làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa mà
cũng có nghĩa là nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, kỉ cương tập
quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là làng sống chuyên nghề
mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công
ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể,
vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa
phương”. [6, tr56]
Từ góc độ kinh tế, Tiến sĩ Dương Bá Phượng định nghĩa rằng: “Làng nghề
là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công tách hẳn ra khỏi thủ công
nghiệp và kinh doanh độc lập. Thu thập từ các làng nghề đó chiếm tỉ trọng cao
trong tổng giá trị toàn làng”. [5, tr13].
7
* Khái niệm làng nghề truyền thống:
Đối với người Việt Nam, khi nhắc đến “Làng nghề truyền thống” thì ta sẽ
hình dung được ngay đó là một làng quê và người dân sống ở đó ngoài làm nông
nghiệp thì còn làm và phát triển những nghề thủ công đặc trưng tại đó. Thông
qua những sản phẩm nghề nổi tiếng mà mọi người ở khắp nơi biết đến những
làng nghề truyền thống làm ra sản phẩm đó. Những cái tên làng nghề gắn liền
với sản phẩm ở làng như Gốm Bát Tràng đã trở nên vô cùng quen thuộc với mọi
người dân Việt Nam. Cho đến hiện tại, đã có rất nhiều định nghĩa và khái niệm
khác nhau về làng nghề truyền thống và có những tiêu chuẩn để đánh giá làng
nghề truyền thống.
Làng nghề truyền thống là trung tâm để sản xuất những mặt hàng truyền
thống mà người làm ra những sản phẩm đó chính là những nghệ nhân hay các hộ
gia đình làm nghề lâu năm. Tại làng nghề thì những sản phẩm được bán theo
kiểu phường hội, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, bán lẻ, mọi người trong
làng đều co ý thức tuân theo các hương ước, chế độ đã hình thành từ xưa đến nay
tại làng. Làng nghề truyền thống thường được có đại đa số hoặc nhiều dân cư
làm nghề truyền thống, cha truyền con nối, sản phẩm của họ thường đẹp mắt,
tinh xảo, khéo léo và còn mang tính thực tế ứng dụng trong đời sống.
1.1.1.2. Khái niệm khai thác và khai thác làng nghề
Về khái niệm khai thác: Theo từ điển tiếng việt khai thác có ba nhóm
nghĩa. Ở đề tài này nhóm tác giả nghiên cứu sử dụng nhóm nghĩa thứ hai. Khai
thác được hiểu là hoạt động phát hiện và sử dụng những cái có ích còn ẩn dấu
chưa được vận dụng.
Về khái niệm khai thác và phát triển làng nghề: Từ khái niệm khai thác ở
trên, khái niệm khai thác làng nghề được nhóm tác giả hiểu là hoạt động phát
hiện và sử dụng những giá trị đặc trưng của làng nghề để phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội nâng cao chất lượng sống của người dân làng nghề.
1.1.1.3. Khái niệm phát triển và phát triển bền vững
Những nguyên tắc này nhấn mạnh vào một cách nhìn lâu dài về xã hội
con người và việc con người sử dụng tài nguyên thiên nhiên của thế giới.
8
Trong bối cảnh như vậy, phát triển bền vững được khái niệm như sau: “Phát
triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Báo cáo Brunđtlan 1987)
[11]. Một định nghĩa khác về phát triển bền vững cũng được sử dụng thường
xuyên là: “Phát triển tạo ra dòng chảy liên tục các lợi ích về xã hội, kinh tế và
môi trường”.
Khái niệm phát triển bền vững: Phát triển bền vững được khái niệm là sự
cải thiện chất lượng cuộc sống của con người đang sinh sống trong khả năng
chịu đựng của các hệ sinh thái duy trì cuộc sống đó. Trên cơ sở đó, một nền kinh
tế bền vững là một nền kinh tế duy trì cơ sở tài nguyên thiên nhiên, tiếp tục phát
triển bằng cách nâng cao nhận thức, cải thiện tổ chức, hiệu năng kỹ thuật và
công bằng xã hội.
1.1.2. Tiêu chí phát triển làng nghề bền vững
1.1.2.1. Tiêu chí con người
Để có thể phát triển làng nghề nói chung và bất cứ vấn đề khác nói riêng
thì tiêu chí về con người là cốt lõi và quan trọng nhất. Các làng nghề đều cần có
nguồn nhân lực đủ tài giỏi để đáp ứng được chất lượng cũng như số lượng của
sản phẩm cần cung cấp cho nhu cầu sử dụng của con người.
1.1.2.2. Tiêu chí môi trường
Phát triển bền vững phải đi song song với bảo vệ môi trường. Các làng
nghề ở Việt Nam có kết cấu hạ tầng như cống, rãnh thoát nước chưa đảm bảo
nên khiến tình trạng ô nhiễm môi trường trở nên nặng nề hơn, ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển bền vững của làng nghề và người dân sống trong làng.
Theo Hiến pháp 2013 có ghi “Mọi người có quyền sống trong môi trường trong
lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Vì vậy việc bảo vệ môi trường nói
chung và bảo vệ môi trường tại những làng nghề truyền thống nói riêng là trách
nhiệm, công việc của toàn người dân. Mọi người đều phải tôn trọng nguồn tài
nguyên môi trường, có ý thức thì mới có thể phát triển bền vững song song với
bảo vệ môi trường sống. Và đáng buồn là tình trạng ô nhiễm làng nghề đáng báo
động, ảnh hưởng đến đời sống con người.
9
1.1.2.3. Tiêu chí kinh tế
Để phát triển bền vững thì tiêu chí kinh tế là tiêu chí cũng vô cùng quan
trọng, vì kinh tế chính là sự biểu hiện rõ rệt nhất cho việc làng nghề đó có phát
triển bền vững hay không. Kinh tế làng nghề không chỉ giúp người dân có thể
duy trì, tiếp bước truyền thống nghề từ đời cha ông mà còn góp phần vào để phát
triển xã hội, góp phần thay đổi diện mạo cho làng quê Việt Nam.
1.1.3. Vai trò của việc khai thác và phát triển bền vững làng nghề
truyền thống
1.1.3.1 Vai trò phát triển kinh tế - xã hội
Đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của các làng
nghề nói riêng và Việt Nam nói chung thì làng nghề đóng góp vai trò đặc biệt
quan trọng.
Làng nghề đã tồn tại, phát triển ở nước ta từ hàng nghìn năm nay, có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ở các làng nghề nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung. Trong quá trình
hội nhập và phát triển, toàn cầu hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nông thôn mới thì đây chính là một bước ngoặt quan trọng, là cơ sở để đầu
tư khoa học, công nghệ phát triển làng nghề hiện đại.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã tốn nhiều công sức
để lao động, tìm tòi và sáng tạo mục đích nhằm xây dựng, phát triển các ngành
nghề phục vụ cho con người và nâng cao chất lượng đời sống. Và trong lịch sử
phát triển sản xuất, tùy thuộc vào từng yếu tố khác nhau như: đặc trưng riêng về
kỹ thuật, về nguyên liệu sản xuất, về đặc trưng của truyền thống tay nghề một số
nghề hay một số vùng nào đó đã dần trở nên hình thành và phát triển những làng
nghề với trình độ làng nghề đỉnh cao.
Làng nghề không ngừng phát triển đã làm cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của huyện thay đổi theo hướng tích cực. Hệ thống kết cấu, cơ sở hạ
tầng không ngừng được hoàn thiện và nâng cao, các làng nghề đã đầu tư xây
dựng được nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống
nhờ có thu nhập cao. Các công trình chung của xã như: điện, đường, trường, học,
10
trạm xá, trụ sở UBND đều khang trang hơn, trong đó có sự đóng góp chung sức
ủng hộ chương trình xây dựng nông thôn mới của các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất trong làng nghề.
Song với đó, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân được
cải thiện một cách rõ rệt. Điều này được thể hiện rõ ở việc xã không còn hộ
nghèo, tỷ lệ hộ có các nhà cao tầng tang dần đều. Nhờ vào việc phát triển làng
nghề đã góp phần xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ ở nông thôn, tạo
ra nếp nghĩ, lối làm ăn mới theo hướng hiện đại hóa của nền sản xuất công
nghiệp 4.0, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hóa.
Ngoài ra, vai trò của làng nghề còn giúp đào tạo những người theo nghề
cha truyền con nối, đưa từ một vật tưởng chừng như đơn giản ra thị trường thế
giới, tăng nét độc đáo cho văn hóa người Việt. Thêm nét cổ kính, cho thấy đời
xưa người Việt đã có thể khéo tay làm nên những sản phẩm đơn giản, giản dị mà
có tác phẩm tuyệt đẹp như thế.
Làng nghề đã góp phần rất lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết hợp với việc nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nhằm mục đích gìn giữ, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Trong Đại hội Đảng lần thứ VIII
đã chỉ rõ vai trò của làng nghề: “Phát triển các ngành nghề truyền thống và cả
các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến nguồn nguyên liệu phi nông
nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân”. Do
vậy, làng nghề chính là mảng đề tài trung tâm, đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.3.2 Quảng bá hình ảnh và thương hiệu làng nghề
Nếu như chỉ với cách làm độc lập, quảng bá nhỏ lẻ, thiếu thông tin kinh tế
sẽ khiến nhiều hộ dân làng nghề truyền thống sản xuất sẽ khó tiêu thụ sản phẩm.
Cần có chính sách hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các làng nghề và sản phẩm
thủ công mỹ nghệ là giải pháp giúp ổn định đầu ra cho sản phẩm.
Nhằm định hướng hoạt động sản xuất có tính tập trung, cụm sản xuất làng
11
nghề tập trung được đầu tư xây dựng cần có quy mô. Các hoạt động bồi dưỡng
nâng cao tay nghề cho người thợ được tổ chức định kỳ do các nghệ nhân có
nhiều kinh nghiệm trực tiếp đứng lớp.
Việc xây dựng thương hiệu làng nghề không chỉ là quảng bá tiêu thụ sản
phẩm, còn là giải pháp hàng đầu cho phát triển đa dạng và bền vững kinh tế nông
thôn, không chỉ giúp phát triển du lịch, mà còn thúc đẩy đổi mới quan hệ sản
xuất, tổ chức liên kết giữa những người sản xuất và liên kết chuỗi sản xuất – tiêu
thụ giữa nông dân – doanh nghiệp.
Bà Đinh Thị Bảo Linh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp
và Thương mại cho biết: “Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã tổ chức,
triển khai nhiều nội dung hoạt động của Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới. Trong đó có công tác quảng bá, phát triển bền vững sản
phẩm làng nghề truyền thống song song với thực hiện Chương trình sản phẩm
công nghiệp nông thôn tiêu biểu các cấp. Việc phát triển các làng nghề truyền
thống tại các vùng nông thôn trên cả nước đã đạt được nhiều kết quả đáng
khích lệ, góp phần khôi phục lại sản xuất những làng nghề đã bị mai một, phát
triển mạnh những làng nghề đang còn tồn tại. Từ các hoạt động xúc tiến thương
mại, quảng bá hiệu quả đã duy trì và tăng số hộ sản xuất, số lao động tại các
làng nghề để đáp ứng sản lượng, sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và
xuất khẩu”.
Việc quảng bá, phát triển và xây dựng thương hiệu các làng nghề còn
mang lại nhiều lợi ích về mặt xã hội, giúp tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới,
giảm bớt tình trạng thất nghiệp ở khu vực, tạo điều kiện cho các hộ gia đình và
người lao động nông thôn tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống.
Các làng nghề về các quy luật để tiếp cận thị trường, nâng cao chất lượng
sản phẩm địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh các làng
nghề, duy trì và bảo tồn nghề truyền thống của địa phương. Kết nối, xúc tiến ký
kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giữa các làng nghề truyền thống và doanh nghiệp
trên cả nước, tăng cường đưa các sản phẩm làng nghề vào giới thiệu, tiêu thụ tại
các điểm du lịch, các chuỗi siêu thị, khu tham quan… và xuất khẩu đi các thị
12
trường trên thế giới.
Các bước thực hiện quảng bá sản phẩm gốm, sứ hiệu quả gồm: Thu thập,
nghiên cứu và phân tích thông tin; Xây dựng tầm nhìn thương hiệu; Hoạch định
chiến lược phát triển thương hiệu; Định vị thương hiệu; Xây dựng hệ thống nhận
diện thương hiệu; Thiết kế thương hiệu; Thực hiện phát triển thương hiệu; Bảo
vệ thương hiệu (Đăng ký bảo hộ thương hiệu, xây dựng các biện pháp tự bảo vệ
thương hiệu và đánh giá thương hiệu).
Đối với công tác xây dựng thương hiệu, các chuyên gia cho rằng, trước
hết phải có sản phẩm tốt. Bên cạnh đó, cần được cải tiến về mẫu mã, thiết kế;
nâng cao và đảm bảo độ ổn định của chất lượng; có bao bì phù hợp, độc đáo…
Cùng với cải tiến mẫu mã phải đảm bảo tính truyền thống và bản sắc vùng miền,
địa phương, thậm chí bản sắc của mỗi nghệ nhân trong sản phẩm.
1.1.3.3. Vai trò gắn kết với cộng đồng
Trong lịch sử, liên kết cộng đồng thể hiện rõ qua tinh thần đoàn kết để
bám trụ trước thiên nhiên, đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai.
Khi đất nước hòa bình, liên kết cộng đồng thể hiện trong hành động chung tay để
xây dựng Tổ quốc và liên kết cộng đồng để trở thành giá trị cao đẹp của dân tộc
ta, làm nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Và
trong sự gắn kết cộng đồng trong làng nghề cũng vậy, nó thể hiện tinh thần đoàn
kết của dân tộc ta qua quá trình hơn 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước
đến việc đoàn kết dựng nên những trang sử vàng của làng nghề. Bởi vậy, vai trò
gắn kết với cộng đồng của làng nghề là cực kỳ quan trọng.
Thứ nhất, phát triển làng nghề phải đi song song phát triển cộng đồng;
phải thực sự hiểu rõ được văn hóa là tài sản của cộng đồng dân cư, là nền tảng
tinh thần của cộng đồng, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Thực chất của vấn đề là đưa việc phát triển làng nghề vào các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở cộng đồng của làng nghề.
Cộng đồng dân cư ở làng nghề, chính quyền địa phương và Trung ương
phải nhìn thấy được những lợi thế của làng nghề và những bất lợi có thể xảy ra
khi đẩy mạnh hoạt động du lịch văn hóa và các yếu tố tạo nên sự phát triển bền
13
vững trên cơ sở khai thác những giá trị của cộng đồng Bát Tràng và các giá trị
văn hóa khác.
Thứ hai, khai thác có hiệu quả các giá trị của làng nghề để đa dạng hóa
các sản phẩm đặc thù, có tính cạnh tranh cao, thu hút khách hàng và khách du
lịch. Thực tế cho thấy, để làng nghề phát triển không thể thiếu các sản phẩm văn
hóa đa dạng. Chính vì nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao mà hoạt động
kinh tế phát triển làng nghề ngày càng được thúc đẩy.
Vì vậy, mọi hoạt động của làng nghề đều phải gắn kết với các sản văn hóa
đặc thù và bản địa. Không có một sự chi tiêu trong hoạt động phát triển làng
nghề nào lại không gắn liền với các giá trị văn hóa của từng cộng đồng.
Thứ ba, cộng đồng là một phần không thể thiếu của sự phát triển bền vững
và bảo tồn làng nghề, trong nhiều trường hợp cộng đồng chính là linh hồn, là tâm
điểm của làng. Chính vì vậy, phát triển làng nghề không thể tách rời phát triển
cộng đồng ở khu vực và lợi ích có được từ làng nghề phải được chia sẻ với
cộng đồng của làng nghề. Trong trường hợp này, cộng đồng sẽ là nhân tố tích
cực góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị của các sản phẩm của làng nghề
trên địa bàn.
1.1.3.4. Vai trò bảo tồn làng nghề truyền thống
Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống của Việt Nam chính là bảo
tồn nguồn di sản văn hóa phi vật thể phong phú của dân tộc, thông qua đó, góp
phần nâng cao ý thức tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước cho các thế hệ
mai sau. Làng nghề không chỉ là nơi giữ gìn những nét bản sắc văn hóa của các
địa phương, mà còn khai thác tiềm năng, thế mạnh vốn có từ nội lực, đóng góp
hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Phát triển theo các hướng
tiếp cận khác nhau.
Các làng nghề ban hành chính sách hỗ trợ bảo tồn và phát triển nghề, làng
nghề truyền thống, trong đó, tập trung hỗ trợ rà soát, lập danh mục nghề, làng
nghề cần bảo tồn lâu dài, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng làng nghề gắn với phát triển
văn hóa, du lịch; bảo tồn sản phẩm nghề, bảo tồn quan hệ xã hội làng nghề,
không gian làm nghề truyền thống và các giá trị di sản văn hóa nghề.
14
Thứ nhất, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập cho người dân và đất nước.
Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Thứ ba, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Những sản phẩm của làng nghề là sự kết tinh từ những tri thức dân gian,
những nguyên liệu truyền thống, sự sáng tạo kết hợp với đôi bàn tay khéo léo
của người nghệ nhân. Các sản phẩm này thể hiện những giá trị văn hóa của dân
tộc và địa phương một cách sâu sắc.
Bằng việc bảo tồn và phát huy các làng nghề truyền thống, nhất là khi
làng nghề phục vụ du lịch, tất cả các giá trị văn hóa đặc trưng của địa phương,
dân tộc đã được xây dựng và lưu giữ hàng trăm năm, nghìn năm nay sẽ vẫn được
tiếp nối trong mạch ngầm của cuộc sống hôm nay, được quảng bá, giới thiệu tới
bạn bè quốc tế.
Với những giá trị vật chất và tinh thần to lớn mà làng nghề mang lại cho
sự phát triển của kinh tế-xã hội đất nước thì việc bảo tồn, phát huy các làng nghề
truyền thống là một điều đương nhiên, cấp thiết và cần có sự quan tâm sát sao từ
chính quyền địa phương cũng như sự như từ Sở du lịch.
1.2. Cơ sở pháp lý
Hiểu được vai trò và tầm trọng của việc khai thác và phát triển bền vững
làng nghề truyền thống trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và
cơ quan có thẩm quyền đã chú trọng đưa từ khóa “Phát triển bền vững” làm đề
tài để thảo luận và đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định rõ các
điều kiện, quá trình phát triển bền vững. Do đó, các văn bản sau được Nhà nước
ban hành giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện và làm đúng theo sự
hướng dẫn.
Quyết định 153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
17 tháng 8 năm 2004 về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Quyết định đã nêu rõ
15
các thành tựu đã đạt được trong nhiều năm qua của đất nước. Đánh giá những
mặt ưu và nhược điểm trong quá trình áp dụng phát triển bền vững vào các lĩnh
vực khác nhau của xã hội. Từ đó, có đánh giá chính xác và đưa ra phương hướng
phấn đấu thực hiện phát triển bền vững theo từng giai đoạn cụ thể.
Sự hình thành Hội đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg
ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ
KH&ĐT (Văn phòng 21).
Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về việc
triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến
lược PTBV ở Việt Nam. ‐ Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của
Hội đồng PTBV Quốc gia.
Quyết định 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 10
tháng 5 năm 2017 về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện
chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 20 tháng 5
năm 2019 về Phát triển bền vững.
Nghị quyết số 136/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 25 tháng 9 năm
2020 về Phát triển bền vững.
Luật số: 72/2020/QH14 của Quốc hội về Bảo vệ môi trường.
Chỉ thị số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp
về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các
tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và
áp dụng.
1.3. Khái quát về làng nghề gốm sứ Bát tràng
1.3.1. Vị trí địa lý
Xã Bát Tràng nằm bên tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội, phía Bắc giáp Đông Dư, phía đông giáp xã Gia Tốn, phía nam giáp
xã Đông Quan thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phía Tây giáp sông
Hồng và huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội.
16
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Có rất nhiều ý kiến trong việc tìm ra lịch sử hình thành làng gốm Bát
Tràng. Theo sử sách ghi lại thì thời gian hình thành làng gốm Bát Tràng được
tính vào khoảng thế kỷ XIV – XV.
Dư địa chí của Nguyễn Trãi có ghi chép lại “Làng Bát Tràng làm đồ chén
bát”, “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn Giang. Hai
làng này đều cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa và 200 tấm
vải thâm”…
Theo những câu chuyện kể dân gian được truyền lại lịch sử Bát Tràng
được hình thành trước khi có ghi lại trong sử sách do 3 vị thái học sinh trên
đường đi sứ Bắc Tống đã học được các kỹ thuật làm gốm của người dân nơi đây
và truyền lại cho người dân tại nước ta.
Trong gia phả của nhiều dòng họ tại Bát Tràng cũng ghi lại những dấu ấn
lịch sử hình thành làng nghề Bát Tràng, sự xuất hiện của các sản phẩm gốm sứ
trong đời sống của người dân với những loại hoa văn, họa tiết màu men khác
nhau. Điều này cũng đã được những nhà khảo cổ hiện đại xác nhận qua các dấu
tích của các lớp đất nung và mảnh gốm tìm thấy được ở các vùng Thanh Hóa,
Ninh Bình…
Căn cứ vào các sổ sách cổ sử, dự theo truyền thuyết còn lưu truyền và các
cổ vật thu được khi đào sông Bắc Hưng Hải qua phần phía Nam thôn Bát Tràng
và khai quật di khảo cổ Mán Bạc thuộc Ninh Bình thì Bát Tràng va Giang Cao
được hình thành tư rất lâu đời.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình) về Thăng Long
- Hà Nội. Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế văn hóa của cả nước. Việc xây
dựng thành quách, cung điện, đền đài, nhà cửa được phát triển mạnh, bởi vậy cần
nhiều nguyên vật liệu, thợ thủ công từ các vùng đổ về. Vùng Bát Tràng cũng nhờ
đó mà nhanh chóng hình thành và phát triển. Theo ký ức, dòng họ Nguyễn Ninh
Tràng (tức dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Ninh và Tràng Yên thuộc Ninh Bình) có làm
nghề gạch đến lập nghiệp ở vùng hoang hóa ven sông Hồng, nơi có 72 gò đất sét
trắng, một nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất gạch và làm gốm. Tộc phả họ Trần
17
Đông Cục có ghi: “Ông tổ họ Trần nhà ta là một trong 12 thọe cả cùng các quan
khác được vua điều ra phường Bạch Thổ sản xuất gạch xây thành ở kinh đô, sau
lại làm cả đồ gốm”, Phường Bạch Thổ ngày càng phát đạt, lôi cuốn các dòng họ
khác từ dân cư Bồ Bát ra thành lập làng xã, sôi nổi nhất là vào thời Trần (1226-
1440), thời Lê (1428-1527) và thời Lê Trung Hưng (1533-1789). Đến cuối thời
Trần (Thế kỷ thứ XIV), phường Bạch Thổ sau là xã Bát rồi đổi là xã Bát Tràng.
Vào thời kỳ này, nơi đây đã trở thanh một trung tâm gốm nổi tiếng, được triều
đình chọn để sản xuất cung cấp các sản phẩm cho cung đình và ngoại giao.
Nhiều gốm cổ của Bát Tràng ở vào thế kỷ XIV và XV được lưu giữ tại Bảo tàng
lịch sử Việt Nam.
Theo dòng lịch sử, địa giới hành chính và tên gọi xã Bát Tràng có nhiều
thay đổi. Từ thời Việt cổ, Bát Tràng thuộc họ Vũ Ninh, sau đó thuộc đạo Bắc
Giang thời Đinh, lộ Bắc Giang thơi Tiền Lê và Lý. Thời Trần thuộc lộ Kinh Bắc.
Trong thời kỳ thuộc Minh, Bát Tràng thuộc phủ Bắc Giang.
Từ năm 1482, Bát Tràng thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, thuộc huyên Gia
Lâm, phủ Thuận An, thừa tuyên Kinh Bắc. Từ năm 1490 thuộc huyện Gia Lâm,
phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Sau đó, từ thời Bình Thuận (1509 – 1516), xứ Kinh
Bắc đổi, Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, Trấn Bắc Kinh. Thời
Mạc (1527 – 1592), phủ Thuận An thuộc trấn Hải Dương, Bát Tràng thuộc
huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Hải Dương. Từ năm 1593, triều đình Lê
Trịnh đưa phủ Thuận An trở về thuộc trấn Kinh Bắc, xã Bát Tràng thuộc huyện
Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc.
Từ năm 1802, khu vực xã Bát Tràng hiện nay thuộc huyện Gia Lâm, phủ
Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, thuộc Bắc Thành. Đến đầu thế kỷ XIX, khu vực xã Bát
Tràng (gồm hai xã Đống Cao và Bát Tràng), trong đó, xã Bát Tràng Thuộc tổng
Đông Dư, xã Đốn Cao thuộc tổng Đa Tốn, đều thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận
An, xứ Kinh Bắc.
Từ năm 1862, phân phủ Thuận An đổi làm phân phủ Thuận Thành. Cũng
trong khoảng thời gian này, xã Đống Cao đổi tên thành xã Giang Cao, tổng Đa
Tốn, đều thuộc huyện Gia Lâm, phân phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
18
Tháng 2-1948, ba làng: Giang Cao, Bát Tràng, Kim Quan (sau đổi tên
thành Kim Lan) được hợp nhất thanh xã Quang Minh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc
Ninh. Từ tháng 2-1949 đến tháng 11-1949, huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Hưng
Yên. Theo Nghị định số 301/NĐ/CQTT của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 9-4-
1957, xã Quang Minh huyện Gia Lâm được tách thành 2 xã: Xã Quang Minh
(gồm có làng Bát Tràng và làng Giang Cao) và xã Kim Lan (gồm phần địa giới
làng Kim Quan cũ). Ngày 31-5-1961, huyện Gia Lâm là huyện ngoại thành của
thành phố Hà Nội. Xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đầu
năm 1965, xã Quang Minh được đổi tên là xã Bát Tràng, tên gọi và địa giới hành
chính xã Bát Tràng ổn định cho đến ngày nay. Xã Bát Tràng gồm 2 làng: Bát
Tràng và Giang Cao.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trong chương 1 nhóm nghiên cứu đã trình bày các vấn đề cơ bản như: Cơ
sở lý luận, cơ sở pháp lý, tư liệu về gốm sứ Bát Tràng. Những nội dung trình bày
ở chương 1 làm cơ sở để nhóm nghiên cứu tìm hiểu thực trạng phát triển bền
vững trong hoạt động làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng ở chương 2.
19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ BÁT TRÀNG,
HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
2.1. Khái quát về sản phẩm gốm sứ Bát Tràng
Sản phẩm làng gốm Bát Tràng rất phong phú, đa dạng, chợ gốm là nơi
tập trung hàng trăm cửa hàng bán gốm sứ san sát nhau. Mỗi cửa hàng trưng
bày vô số sản phẩm, nào là bình hoa, chén bát, chum vại, bình trà, có cả
những bức tranh treo tường, chuông gió, có cả vòng cổ, vòng tay…tuy cùng
chất liệu là đất nung, trong đó nổi tiếng hơn cả là gạch và gốm. Gạch Bát
Tràng là thương hiệu nổi tiếng trước gốm. Thương hiệu gạch Bát Tràng đã đi
vào trong nhiều câu ca dao:
- “Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hang Hà Đông”
- “Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây”
Gạch Bát Tràng có kích thước và màu sắc đặc trưng không lẫn với bất cứ
loại gạch của làng nghề nào trong cả nước. Gạch Bát Tràng có kích thước “30cm
x 15cm”, độ dày “0,50m – 0,70m” thành “5 – 7cm”. Gạch được nung nhiều lần
nên khi đưa vào xây dựng tuổi thọ công trình cao và không rêu mốc.
Gạch Bát Tràng còn hiện hữu trong các công trình kiến trúc của Hoang
thành Thăn Long, Văn miếu Quốc tử Giám, Đình, Đền, Chùa, Miếu, Hồ, Giếng
của các làng xã Việt Nam trong cả nước. Nhiều nhất là Kinh thành Huế và các
lăng tẩm vua nhà Nguyễn…
Từ năm 1805-1832, khi xây kinh thành Huế và 7 lăng tẩm chuẩn bị hậu sự
cho các đời vua, nhà Nguyễn đều huy động dân làng Bát Tràng sản xuất gạch
cho các công trình trên. Do có công, vua Tự Đức (1847 – 1883) ban thưởng cho
dân làng nghề Bát Tràng 4 chữ đại tự “Hiếu Nghĩa Cấp Công” hiện còn thờ tự tại
Đình làng Bát Tràng.
Cùng với gạch Bát Tràng, đồ gốm Bát Tràng cũng nổi tiếng trong cả nước
và quốc tế. Gốm Bát Tràng có nhiều kiểu dáng, chủng loại, kích thước, phân loại
20
theo chức năng như sau: đồ thờ cúng có lư hương, chân đèn, chân nến, phù
hương, nậm rượu, chóe,… đồ gia dụng có bát đĩa, ấm chén, vò, lọ, chậu,… gốm
Bát Tràng được sản xuất bằng tay trên bàn xoay thủ công, kiểu be chạch do đó
xương gốm dày. Sau này với kỹ thuật in trên khuôn gỗ và đổ rót vào khuôn thạch
cao. Với dòng men cổ như men lam, nâu, rạn đặc trưng cùng các họa tiết trang trí
như: hoa, lá, dây, chim muông phù hợp với từng loại sản phẩm. Dòng gốm cổ
Bát Tràng được lưu giữ va trưng bày tại nhiều bảo tàng trong nước và quốc tế,
được giới chơi đồ cổ sưu tập và rất có giá trên thị trường.
Từ sản xuất gốm sứ truyền thống, nhiều thế hệ nghệ nhân thợ giỏi được
vinh danh. Thời kì Đông Dương Pháp thuộc có 5 nghệ nhân địa phương được
phong danh hiệu Nghệ nhân Đông Dương”. Trong giai đoạn 1975 – 1986, Hà
Nội phong tặng 3 nghệ nhân nghành gốm người làng Bát Tràng. Thời kì tiến
hành đổi mới toàn diện Đất nước đến nay, đã có 8 thợ gốm Bát Tràng vinh dự
được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thanh Phố Hà Nội phong tặng danh hiệu Nghệ
nhân Hà Nội. Hiệp hội làng nghề Việt Nam cũng phong tặng danh hiệu “Nghệ
nhân Hà Nội”. Hiệp hội làng nghề Việt Nam cũng phong tặng danh hiệu “Nghệ
nhân dân gian Việt Nam” cho 03 thợ gốm. đặc biệt, có gia đình hai thế hệ cha và
con được Ủy ban nhân dân thành phố được phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân
Hà Nội” và một gia đình có 2 vợ chồng được phong tặng danh hiệu “Nghệ
nhân”. Hiện nay, làng Bát Tràng có 108 nghệ nhân được nhà nước công nhận,
trong đó nghệ nhân Trần Văn Độ được nhà nước công nhận là Nghệ nhân nhân
dân, năm 2016, ông được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
Ngoài ra, còn có 4 Nghệ nhân ưu tú, 27 nghệ nhân Hà Nội và gần 100
nghệ nhân làng nghề, nghệ nhân dân gian. Sản phẩm của nhiều nghệ nhân và thợ
giỏi ở Bát Tràng đã nhận được nhiều giải thưởng như Bàn tay vàng mĩ thuật,
Giải thưởng Ngôi sao Việt Nam tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, bằng khen của các
cấp từ thành phố đến Trung ương, Giải thưởng Quả cầu vàng Festival Huế…
Nỗ lực thi đua phát huy truyền thống của nhiều thế hệ ông cha, phấn đấu
thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người vê thăm làng gốm Bát
tràng ngày 20-02-1959: “Làng Bát Tràng mới phải làm sao trở thành một trong
21
những làng kiểu mẫu ở nước Việt Nam mới, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa”,
Đảng bộ chính quyền và nhân dân xã Bát Tràng đã xây dựng Bát Tràng trở thành
quê hương làng gốm. Với tiềm năng làng nghê truyền thống tồn tại và phát triển
qua hàng trăm năm lịch sử, gốm sứ Bát Tràng đã phát triển lên một đỉnh cao
mới. Hoạt động sản xuất, kinh doanh gốm sứ ở địa phương diễn ra sôi nổi với
gần 100 công ty và hàng trăm hộ gia đình. Không chỉ chiếm lĩnh thị trường trong
nước, sản phẩm gốm sứ Bát Tràng còn xuất khẩu qua nhiều quốc gia ở Châu Âu,
Châu Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản.
2.2. Các giá trị làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia
Lâm, Thành Phố Hà Nội
2.2.1. Giá trị lịch sử
Gốm sứ Bát Tràng là một di sản văn hóa vật chất và phi vật chất mang
đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Gốm Bát Tràng được duy trì và truyền thừa từ
đời này sang đời khác góp phần gìn giữ những tinh hoa văn hóa dân tộc ta. Làng
gốm Bát Tràng đã trở thành một làng nghề truyền thống, và nghệ thuật làm gốm
này cần được bảo tồn và phát huy.
Nghệ thuật làm gốm của Bát Tràng đã được hình thành từ thời Lý, khi Lý
Công Uẩn quyết định dời đô về Thăng Long. Trên cơ sở của 2 địa danh Bồ Bát
và Minh Tràng. Người dân truyền tai nhau rằng, các dòng họ gốm nổi tiếng của
làng Bồ Bát xứ Thanh bao gồm họ Trần, Vương, Lê, Phạm và họ Nguyễn ở đất
Minh Tràng đã quyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu
dời làng di cư về phía thành Thăng Long để lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng
72 gò đất trắng làng Minh Tràng. Có thể nói nghệ thuật làm gốm của Bát Tràng
đã có từ rất lâu đời. Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao
cấp, quý hiếm chỉ có những gia đình bá hộ, thương gia hay vua chúa mới có đủ
khả năng sở hữu gốm Bát Tràng, nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư
hương, bình hoa. Trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử gốm Bát Tràng
vẫn duy trì và phát triển trở nên mới mẻ, tinh xảo hơn nhưng vẫn giữ được
những vẻ đẹp vốn có, mang đậm dấu ấn văn hóa.
Sản phẩm gốm của làng nghề Bát Tràng truyền thống không chỉ góp phần
22
dựng lại diện mạo kinh tế Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử mà còn giúp người
dân Thủ đô và cả nước thấy được sự phát triển tiếp nối của nó theo tiến trình thời
gian. Mỗi sản phẩm gốm sứ Bát Tràng không chỉ là những vật phẩm kinh tế hay
vật phẩm phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày của dân cư, nó còn là
những sản phẩm mỹ nghệ, biểu hiện cho sự phát triển kinh tế, trình độ dân trí,
đặc điểm văn hóa của dân tộc.
2.2.2. Giá trị sáng tạo nghệ thuật
Với giá trị tiêu biểu, Nghề gốm làng Bát Tràng được Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
theo Quyết định số 4610/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019.
Nghề gốm làng Bát Tràng là sự kết tinh sự sáng tạo của con người qua
nhiều thế hệ. Khi chế tác sản phẩm, nghệ nhân ngoài việc vận dụng những kỹ
thuật được học từ cha ông còn phải mày mò, tìm hiểu, khám phá và sáng tạo ra
những họa tiết, hoặc kỹ thuật, hoặc mẫu mã mới, để đáp ứng được yêu cầu của
thị trường. Nghề gốm là một trong những đặc điểm nhận diện văn hóa, phản ánh
sự đa dạng văn hóa của cộng đồng cư dân thực hành nghề gốm tại làng Bát
Tràng. Cùng trong một làng nhưng sản phẩm của mỗi một nghệ nhân có hồn
riêng, đặc trưng riêng. Nghề gốm làng Bát Tràng góp phần lưu truyền, lưu giữ và
phổ biến các biểu tượng văn hóa, nước men truyền thống, là động lực để phát
triển, phát huy giá trị di sản của các thế hệ trước. Sản phẩm gốm Bát Tràng thể
hiện giá trị kỹ thuật, thẩm mỹ của người thợ, tạo nên sự đa dạng, phong phú và
nét độc đáo cho những sản phẩm của làng. Nghề gốm làng Bát Tràng góp phần
không nhỏ vào sự gia tăng giá trị sản phẩm của địa phương, thu ngân sách cho
nhà nước, tạo công ăn việc làm và góp phần nâng cao thu nhập và mức sống cho
người dân trong làng và vùng lân cận, cải thiện các chỉ số về an sinh xã hội.
Nghề gốm ở Bát Tràng đã xây dựng được mạng lưới những người làm nghề
đông đảo, Hiệp hội Nghề gốm sứ Bát Tràng và vượt ra khỏi phạm vi làng, xã;
xây dựng mối quan hệ kinh tế giữa những người thực hành nghề tạo nên sự gắn
kết, tương hỗ lẫn nhau.
Nghệ thuật làm gốm của Bát Tràng đã được hình thành từ thời Lý, khi Lý
23
Công Uẩn quyết định dời đô về Thăng Long. Trên cơ sở của 2 địa danh Bồ Bát
và Minh Tràng. Người dân truyền tai nhau rằng, các dòng họ gốm nổi tiếng của
làng Bồ Bát xứ Thanh bao gồm họ Trần, Vương, Lê, Phạm và họ Nguyễn ở đất
Minh Tràng đã quyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu
dời làng di cư về phía thành Thăng Long để lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng
72 gò đất trắng làng Minh Tràng. Có thể nói nghệ thuật làm gốm của Bát Tràng
đã có từ rất lâu đời. Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao
cấp, quý hiếm chỉ có những gia đình bá hộ, thương gia hay vua chúa mới có đủ
khả năng sở hữu gốm Bát Tràng, nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư
hương, bình hoa. Trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử gốm Bát Tràng
vẫn duy trì và phát triển trở nên mới mẻ, tinh xảo hơn nhưng vẫn giữ được
những vẻ đẹp vốn có, mang đậm dấu ấn văn hóa, lịch sử phát triển của dân tộc.
Ngày nay do thị hiếu phát triển cùng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã
trở nên gần gũi, đi vào nếp sinh hoạt thường nhật của người dân từ cái bát, cái
đĩa, bình, lọ,…
Không chỉ có giá trị tinh thần dân tộc, gốm Bát Tràng thực sự là những
sản phẩm gốm đẹp, tinh tế, và vô cùng có giá trị nghệ thuật. Mỗi một tác phẩm,
qua bàn tay của những nghệ nhân đều trở thành những tác phẩm nghệ thuật hoàn
hảo. Những tác phẩm này được làm ra đều mang một nét đẹp mà không đâu có
thể so sánh được. Nhà nước cũng đã có rất nhiều những chính sách giúp đỡ duy
trì và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của làng gốm Bát Tràng. Hơn
thế, bạn bè Quốc tế mỗi khi đến viếng thăm Việt Nam đều đặc biệt yêu thích
những sản phẩm của gốm Bát Tràng, họ thường ghé về làng Bát Tràng để xem
người nghệ nhân làm gốm và họ cũng rất thích được những nghệ nhân dạy làm
gốm vuốt tay, sau khi kết thúc chuyến tham quan họ đều sẽ mua những sản phẩm
từ gốm Bát Tràng để làm quà cho bạn bè, người thân.
2.2.3. Giá trị thẩm mỹ
Thương hiệu Bát Tràng không chỉ biết đến ở thị trường Việt Nam mà gốm
sứ Bát Tràng xuất khẩu từ lâu đã được phát triển sang sang thị trường Châu Âu,
châu Mỹ và được nhiều nơi trên thế giới biết đến bởi chất liệu men đẹp và chuẩn
24
kết hợp mới mẫu mã độc đáo tạo nên một sản phẩm mang thương hiệu Bát Tràng
– Việt Nam. Những bộ sản phẩm gốm sứ Bát Tràng xuất khẩu là những sản
phẩm gốm sứ Bát Tràng cao cấp như: bát đĩa Bát Tràng, ấm chén Bát Tràng, đồ
thờ Bát Tràng, gốm sứ mỹ nghệ Bát Tràng…được chọn lọc hết sức cẩn thận,
được người nghệ nhân chú trọng từ khâu chọn đất đầu tiên cho đến khâu thành
phẩm cuối cùng.
Các sản phẩm của làng nghề gốm Bát Tràng đa dạng nhiều về dòng men,
chủng loại, màu sắc, thiết kế. Bên cạnh việc phát triển sản phẩm đại trà nhiều
nghệ nhân, thợ giỏi với bàn tay khéo léo cùng sự đam mê đã sáng tạo ra nhiều
sản phẩm gốm sứ độc đáo. Đặc biệt những năm gần đây, nhờ ứng dụng khoa
học, cải tiến kỹ thuật công nghệ các sản phẩm gốm Bát Tràng liên tục được cải
tiến mẫu mã, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng và phục
vụ tín ngưỡng của khách hàng trong nước và chinh phục được nhiều thị trường
quốc tế.
Với đôi tay tài hoa của những nghệ nhân lành nghề có nhiều kinh nghiệm,
sẽ biến cục đất vô tri, vô giác thành những sản phẩm trở nên có hồn hơn, trở
thành một sản phẩm có nhiều ý nghĩa sẽ được thấy và cảm nhận qua sự sự tỉ mỉ,
cẩn thận trong từng chi tiết của những người thợ khi chế tạo những sản phẩm.
Dưới đôi bàn tay đầy chất nghệ sĩ ấy, mọi người sẽ được hòa mình vào khung
cảnh yên bình không chút xô bồ, vội vã của phố phường đô thị thay vào đó là nơi
những giá trị đặc trưng văn hóa được tôn vinh và tôn trọng mà ít có được ở làng
nghề truyền thống nào. Gốm Bát Tràng thực sự là những sản phẩm gốm đẹp, tinh
tế, và vô cùng có giá trị nghệ thuật. Mỗi một tác phẩm, qua bàn tay của những
nghệ nhân đều trở thành những tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo. Những tác phẩm
này được làm ra đều mang một nét đẹp mà không đâu có thể so sánh được.
2.2.4. Giá trị kinh tế
Từ năm 1990 trở lại đây, nghề gốm Bát Tràng đã thực sự khởi sắc và
mang lại hiệu quả kinh tế cao từ sau khi chuyển kinh tế lấy hộ gia đình làm nòng
cốt trong sản xuất- kinh doanh. Ta chấp nhận cạnh tranh đồng thời mở rộng sản
xuất và thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Vì vậy sản xuất của Bát Tràng
25
ngày càng tăng lên nhanh chóng, thu nhập được nâng cao, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Về thu nhập của người lao động, Bát Tràng có thu nhập bình quân của
một lao động làm nghề rất cao khoảng 1.200.000-1.400.000 đồng/tháng, cao gấp
3-4 lần lao động sản xuất nông nghiệp trước đây. Vì vậy nhờ có thu nhập tăng
cao, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Qua đó người dân có thể
đóng góp để xây dựng, cải thiện và tu bổ hệ thống cơ sở hạ tầng như điện,
đường, trường. Các khu vui chơi, giải trí được xây dựng, các dịch vụ phục vụ đời
sống cũng phát triển.
2.3. Các giá trị văn hóa làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng
2.3.1. Phong tục, tập quán, lễ hội gắn với làng nghề
Xin trích câu phương ngôn của những làng nghề truyền thống nói chung
và làng nghề gốm sứ Bát tràng nói riêng “Trai khôn lấy vợ cùng làng, Gái khôn
kén bạn đồng sàng cùng quê”. Đây phong tục chung của các làng nghề thủ công
truyền thống vùng đồng bằng Sông Hồng, làng nghề gốm sứ Bát Tràng có lệ
“không gả con gái cho người ngoài làng’’. Để gìn giữ bí quyết làng nghề thì xưa
nay người dân Làng nghề Bát Tràng thường quy định những người con của làng
chỉ được phép lấy lấy vợ, lấy chồng ở trong làng tuy nhiên, hiện nay phong tục
này phong tục đó đã được phá bỏ, nhưng trong tâm thức của mỗi người dân
Bát Tràng vẫn mong muốn, con trai, con gái lấy vợ chồng là người của làng.
Người phụ nữ trong làng nghề gốm Bát Tràng được truyền nghề và trở thành
lao động chính với việc có yêu cầu cao về kĩ thuật, tạo tác những đường nét
mềm mại, uyển chuyển, tinh tế và rất có hồn. Đó là nguyên nhân khiến cho
người phụ nữ ở đây chỉ được phép lấy chồng là người làng. Trừ một số đã
thoát li khỏi làng, lấy chồng ngoài thì phải bỏ nghề. Bên cạnh đó làng Nghề
Bát tràng không sản xuất đồ cải tảng vì họ quan niệm con người khi chết là
trở về với đất mẹ, về với cát bụi.
Lễ hội cũng là một phong tục đẹp mang bản sắc văn hóa của làng nghề
Bát Tràng. Lễ hội được tổ chức hằng năm vào dịp rằm tháng hai âm lịch (ngày
14 và 15/2). Lễ hội Bát Tràng mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc, nhắc nhở con cháu
26
nhớ đến công ơn của tổ nghề, hướng về nguồn cội. Bên cạnh đó, lễ hội có giá trị
tâm linh đối với người dân làng nghề, đó là điểm tựa tinh thần của người làng
nghề, họ cầu xin các vị Thần hoàng phù trợ cho dân làng, đất nước được bình an,
giàu mạnh, làng nghề phát triển. Lễ hội Bát Tràng được chia làm 2 phần là phần
lễ và phần hội. Trong phần lễ gồm có rước nước và tắm bài vị cho các vị thành
hoàng. Lễ rước nước được tiến hành từ miến bát tràng đến đình bát tràng được
tiến hành một cách nghiêm túc, trang trọng và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Trong
phần lễ, không thể thiếu các vật tế lễ đã được người dân chuẩn bị cầu kỳ và chu
đáo. Các lễ vật dâng lên các vị thành hoàng gồm có: 4 mâm xôi, 6 mâm cỗ và 1
con trâu thui. Sau khi các vị trưởng lão trong làng đọc các bài khấn mời các vị
thành hoàng về ngự lãm xong, những vật phẩm sẽ được chia cho mọi người
trong làng và xem đó là lộc Thánh ban. Hiện nay, tại làng Bát Tràng vẫn đang
thờ 6 vị thành hoàng đó là: Tràng Thuận Nghi Dung, Phan Đại Tướng, Cai Minh
Đại Vương, Bạch Mã Đại Vương, Hồ Quốc Thần Đại Vương, Lưu Thiên Tử Đại
Vương. Sau khi thực hiện xong phần lễ xong là đến phần hội được kết hợp với
nhiều trò được diễn ra nhưng nổi bật nhất là hát thờ và cờ người.
Như vậy, phong tục, tập quán và lễ hội làng nghề Gốm sứ Bát Tràng
mang nét đẹp văn hóa đặc trưng của Làng nghề Bát Tràng, góp phần làm phong
phú giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
2.3.2. Tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất của làng nghề
Nghề gốm làng Bát Tràng là sự kết tinh, sáng tạo của con người qua nhiều
thế hệ. Khi sáng tạo ra một sản phẩm, người nghệ nhân ngoài việc phải vận dụng
vào những kỹ thuật được học từ cha ông truyền lại, thì hiện nay, nghệ nhân vẫn
còn mải miết khám phá và sáng tạo ra những họa tiết, kỹ thuật, mẫu mã mới để
có thể đáp ứng được với những nhu cầu của thị trường và con người thời đại.
Nghề gốm đang là một trong những đặc điểm nhận diện văn hóa, phản ánh sự đa
dạng văn hóa của cộng đồng cư dân thực hành nghề gốm tại làng Bát Tràng.
Nghề gốm làng Bát Tràng góp phần lưu truyền, lưu giữ và phổ biến các biểu
tượng văn hóa, nước men truyền thống, là động lực để phát triển, phát huy giá trị
di sản của các thế hệ trước. Sản phẩm gốm Bát Tràng thể hiện giá trị kỹ thuật,
27
thẩm mỹ của người thợ, tạo nên sự đa dạng, phong phú và nét độc đáo cho
những sản phẩm của làng. [Phụ lục 3]. Nguyên liệu làm gốm là đất sét và cao
lanh được khai thác tại làng nhưng khi nguồn nguyên liệu cạn người làm nghề
lấy đất ở
Sơn Tây, thời kỳ đầu dung lò ếch hay là lò cóc, lò dã chiến sau chuyển
sang lò bầu, rồi chuyển sang dùng lò đứng, than cám (Quảng Ninh) là nguyên
liệu chính để nhóm lò. Hiện nay, sử dụng lò ga, lò điện, lò tuy - nen (lò hầm, lò
liên tục). Quy trình sản xuất tạo sản phẩm gốm Bát Tràng trải qua 7 bước, gồm:
xử lý, pha chế đất, tạo dáng, tạo văn, hoa trang trí; phủ men (tráng men) và nung
sản phẩm: Về xử lý và pha chế đất: Dùng hệ thống bể chứa để ngâm đất trong
nước. Mỗi loại đất có đặc điểm riêng nê thời gian và kỹ thuật xử lý, pha chế khác
nhau. Đối với các loại đất sét khai thác tại các mỏ sét ở Hồ Lao, Trúc Thôn,
thông thường mỗi cơ sở gốm sẽ xây một hệ thống bể gồm 4 bể chứa ở độ cao
thấp khác nhau, gồm: bể đánh, bể lắng, bể phơi và bể ủ. Sau khi đất được làm
sạch, tùy theo yêu cầu của từng loại gốm mà người ta có thể pha chế thêm cao
lanh ít nhiều hoặc loại bớt cát, thêm cát trong đất sét. Tạo dáng và thiết kế sản
phẩm trên bàn xoay. Người thợ tạo hình sản phẩm xén lợi và bắt lợi, cắt chân,
nghĩa là tạo miệng và để đồ gốm mộc thật cân đối, kỹ thuật vuốt, be trạch bằng
tay. Hiện nay người thợ Bát Tràng còn sử dụng kỹ thuật tạo hình gốm như đắp
nặn, đúc khuôn hay khuôn in. Ngoài ra, người ta còn dùng phương pháp đổ rót,
tức là đổ hồ thừa hay hồ đầy để tạo dáng sản phẩm. Tiếp đến là tu sửa sản phẩm.
Sau khi lùa, thợ gốm tiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ
khuyết, chắp ghép các bộ phận của vật phẩm như tai đỉnh, tay tượng, vòi ấm,
quai hình vôi, quai tích, ...), khoan lỗ, chuốt tỉa hoa văn, chuốt nước cho mịn mặt
sản phẩm. Đối với những sản phẩm in bằng khuôn phải lấy chân lượn quả, sả
vách, (tức là tạo eo sản phẩm) và lấy lợi (gọi là tiện). Tùy theo từng loại sản
phẩm mà người thợ gốm có thể phải đắp nổi hay khắc chìm trên mặt hiện vật.
Sản phẩm sau khi được sửa sẽ tiến hành trang trí. Vào thế kỷ XIV - XV, kỹ thuật
trang trí chỉ dừng lại ở khắc chìm, tô men nâu theo kỹ thuật gốm hoa nâu thời Lý
- Trần. Thế kỷ XVI - XVIII, kỹ thuật chạm đắp nổi kết hợp với vẽ lam hình
28
rồng, phượng xen kẽ mây cụm, ngựa có cánh, hoạt cảnh người, cánh sen đứng,
hoa dây, lá đề, phong cảnh sơn thủy... Thợ gốm dùng bút lông vẽ trực tiếp lên
sản phẩm cùng nhiều hình thành quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy
màu, vẽ men màu... để khi nung men chảy tỏa xuống tạo lên những đường nét
màu sắc tự nhiên, hài hòa. Hiện nay, ngoài kỹ thuật trang trí truyền thống, ở Bát
Tràng còn xuất hiện kỹ thuật hấp hoa, trang trí hình in sẵn trên giấy, dễ làm,
nhanh nhưng không có tính sáng tạo và nghệ thuật. Men gốm do người thợ chế
biến và pha chế các nguyên liệu theo đúng tiêu chuẩn. Loại men mà người sử
dụng phổ biến hơn cả là men tro. Từ men tro, người thợ Bát Tràng kết hợp với
các nguyên liệu khác nhau chế ra 5 dòng men khác nhau và đặc trưng của gốm
gồm: men nâu (men sô-cô-la), men lam, men rạn, men ngọc, men trắng (ngà).
Các loại men truyền thống ấy đã tạo nên nhiều sắc độ trên mỗi sản phẩm gốm sứ
Bát Tràng. Men gốm có thể phối men theo hai cách: chế khô hoặc ướt. Kỹ thuật
tráng men gốm ở Bát Tràng độc đáo như kìm men, quay men, đúc men. Công
đoạn nung sản phẩm: Sản phẩm mộc sau quá trình gia công hoàn chỉnh được
đem vào lò nung. Chú ý đến việc sắp xếp sản phẩm trong lò phụ thuộc vào loại
sản phẩm, hình dáng, kích thước của bao nung và loại lò dùng để nung tùy từng
kích cỡ sản phẩm, từng loại lò người thợ sử dụng nhiệt độ khác nhau. Đốt lò là
khâu quan trọng quyết định thành công hay thất bại của một lò gốm và thành
công của việc đốt lò là ở bí quyết làm chủ ngọn lửa.
Tóm lại, để tạo ra những sản phẩm độc đáo mang thương hiệu làng
nghề gốm sứ Bát Tràng người nghệ nhân phải nắm trong tay bí quyết làm
nghề riêng qua mỗi công đoạn là một là những kỹ thuật khác nhau. Và hơn
nữa trong mỗi sản phẩm còn chữa đựng tâm hồn, tâm huyết và cả trí tuệ của
người dân Bát Tràng.
2.3.3. Văn hóa tổ chức sản xuất của làng nghề
Trong quá trình sản xuất và đời sống, người Bát Tràng rất có ý thức bảo
vệ quyền lợi nghề nghiệp. Các công đoạn sản xuất được chuyên môn hoá và
phân công cho từng nhóm người. Bí quyết nghề nghiệp được bảo vệ chặt chẽ, chỉ
truyền cho nam giới và phải là con cháu mình. Theo thống kê của Hiệp hội gốm
29
sứ Bát Tràng, 90% thanh niên Bát Tràng biết làm gốm, về cơ bản họ được đào
tạo theo kiểu “cha truyền con nối” ngay tại gia đình. Họ là những người có học
thức, có sức khỏe và luôn tìm tòi sáng tạo đổi mới mẫu mã và không quên những
nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của làng nghề. Nhiều thanh niên Bát Tràng sau
khi tốt nghiệp các trường đại học trong nước và ngoài nước đã quay về, gắn bó
với nghề truyền thống của cha ông. Chủ nhân nghề gốm sứ Bát Tràng không
giàu nhưng không bao giờ bị đói, họ có cuộc sống ổn định và yên bình.
Thích ứng với nhịp sống hiện tại, người dân Bát Tràng luôn có ý thức
trong việc bảo tồn và trao truyền kỹ năng nghề nghiệp, khả năng động trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tích cực trong việc phát huy giá trị di sản văn hóa của
địa phương bằng nhiều hình thức đa dạng.
2.4. Thực trạng khai thác phát triển bền vững làng nghề truyền thống
gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
2.4.1. Chính sách phát triển làng nghề bền vững Gốm sứ Bát tràng
2.4.1.1. Chính sách của xã Bát Tràng từ năm 2010 -2020
Công tác chỉ đạo:
Vào ngày 17-18/5/2010, Đảng Bộ Bát Tràng tiến hành đại hội đại biểu
Đảng bộ xã lần thứ XXI (nhiệm kì 2010-2015) trên cơ sở nhận định đúng và
nghiêm túc những thành công và hạn chế, thiếu sót trong quá trình chỉ đạo, lãnh
đạo của Đảng bộ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và bổ sung vào công tác lãnh
đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn xã Bát
Tràng trong năm tới. Các đại biểu đã thảo luận và thông qua phương hướng, mục
tiêu tổng quát đến năm 2015 là: “Khai thác hiệu quả mọi nguồn lực, đẩy mạnh
phát triển kinh tế theo hướng: Công nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ du lịch đi đôi với bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống; nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân, quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, an ninh- quôc phòng; nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền; đổi
mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, phát
huy làm chủ của nhhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng xã Bát Tràng
30
ngày càng giàu đẹp-dân chủ-văn minh”.
Cụ thể, Đại hội đã đề ra những mục tiêu cụ thể đến năm 2015:
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhiệm kỳ bình quân tăng 13%-
15%. Bình quân thu nhập đầu người đạt 22 triệu/người/năm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nghành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xâu dựng và thương mại-dịch vụ, đảm bảo cơ cấu
thu nhập công nghiệp, tiểu thủ công và xây dựng chiếm 78,3%, thương mại dịch
vụ chiếm 21.5%, giá trị lâm nghiệp và thủy sản chiếm 0,07%.
Phát triển kinh tế làng nghề gắn với đảm bảo môi trường, phát triển du
lịch làng nghề. Khuyến khích, tạo điều kiện cho việc mở các điểm bán sản phẩm
hàng hóa làng nghề, và nguyên liệu làng nghề. Tiếp tục rà soát và điều chỉnh kịp
thời, kế hoạch sử dụng đất đai tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc triển khai
thực hiện các điểm sản xuất tiểu thủ công nghiệp tập trung.
Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo: “Phát triển kinh tế là trung tâm”,
ngay khi hết Đại hội thì Đảng ủy xã đã ban hành Chương trình 01-CTr/ DU về
“Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã Bát Tràng giai đoạn 2011-2015”. Định hướng
phát triển được xác định là phát huy thế mạnh làng nghề Gốm Bát Tràng, đẩy
mạnh hoạt động sản xuất gốm sứ chất lượng cao, chú trọng thương mại, dịch vụ
và du lịch.
Với định hướng phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa, Đảng ủy Bát Tràng đã tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình “phát triển
công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp gắn với làng nghề giai đoạn 2011-2015”.
Định hướng làng nghề truyền thống Gốm sứ chính là mũi nhọn trong phát triển
kinh tế, từ đó tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, quảng bá tạo sức cạnh
tranh trên thị trường.
Bám sát những nội dung trong Đề án số 04 của huyện về “Quản lý, khai
thác các cụm công nghiệp, phát triển sản xuất ở làng nghề gắn bó với dịch vụ và
du lịch giai đoạn 2011-2015”. Duy trì và phát huy thế mạnh là làng Gốm sứ, đẩy
mạnh hoạt động của Hội Gốm sứ, 2 câu lạc bộ nghệ nhân, nhằm tạo nên sự liên
kết chặt chẽ giữa hoạt động sản xuất và khách hàng.
31
Đảng ủy của xã tiếp tục đề xuất với bên trên đề nghị thành lập những khu
thương mại trưng bày gốm sứ: Bảo tàng gốm sứ, chợ Sáng Bát Tràng… góp
phần thành thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2015-2020 và
mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Gia Lâm khóa XXI. Đảng ủy xã Bát
Tràng xây dựng 05 Chương trình công tác toàn khóa của Ban chấp hành Đảng bộ
xã khóa XXI, trong đó có Chương trình số 02-CTr/ĐU ngày 15/12/2015 về việc
“Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội xã Bát Tràng giai đoạn 2015-2020”
UBND xã thường xuyên Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo,
điều hành; tăng cường cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin. Hàng
năm, UBND xã chủ động xây dựng và triển khai chương trình công tác, Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
việc triển khai thực hiện Nghị quyết, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2015-2020 và Kế hoạch hàng năm tạo sự đồng thuận nhất trí cao trong việc
tổ chức thực hiện góp phần hoàn thành nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã
hội đã đề ra.
Kết quả thực hiện:
Cơ cấu kinh tế của xã tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành
thương mại dịch vụ gắn với du lịch làng nghề hàng năm tăng; Giá trị sản xuất
các ngành hàng năm ước đạt được là: công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây
dựng: 54,8%; thương mại - dịch vụ: 45.12 %; Lâm nghiệp - thuỷ sản: 0,08%, tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10-15%, thu nhập bình quân đầu người năm
2015 đạt 47.3 triệu đến năm 2019 đạt 66,7 triệu đồng.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được duy trì phát triển, đời
sống thu nhập của nhân dân được ổn định. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ
dân vay vốn, đầu tư máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, áp dụng công nghệ cao
vào sản xuất làm tăng năng suất, chất lượng, mẫu mã sản phẩm đáp ứng được
nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài.
Hoạt động thương mại - dịch vụ, du lịch có nhiều đổi mới, đặc biệt năm
32
2019 xã Bát Tràng được thành phố Hà Nội công nhận là điểm du lịch, các mô
hình dịch vụ du lịch được đẩy mạnh như: xe điện, sân chơi vuốt nặn và tự tạo sản
phẩm, giới thiệu di tích lịch sử và văn hoá ẩm thực Bát Tràng đã thu hút trên
15.000 lượt khách trong nước và ngoài nước đến địa phương mỗi năm. Hai chợ
dân sinh luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và cung ứng những mặt hàng
thiết yếu phục vụ tốt đời sống của nhân dân. Phối hợp với các Sở, ngành của
Thành phố, Hội gốm sứ Bát Tràng thành phố Hà Nội tạo điều kiện cho các hộ,
doanh nghiệp trong công tác đào tạo, dạy nghề; Tổ chức thành công triển lãm
Làng nghề dịp Lễ kỷ niệm 60 năm ngày bác Hồ về thăm Bát Tràng (20/02/1959 -
20/02/2019), tham gia các triển lãm, Festival, hội chợ, gian hàng, lập Website...
để giới thiệu, quảng bá sản phẩm của làng nghề truyền thống với bạn bè và du
khách trong và ngoài nước.
Những tồn tại, hạn chế:
Kinh tế phát triển, song mức tăng trưởng chưa cao, tình hình sản xuất và
tiêu thụ hàng gốm sứ vẫn gặp khó khăn; một số hộ dân còn vận chuyển, tiêu thụ
hàng gốm sứ không rõ nguồn gốc. Việc thực hiện chương trình hỗ trợ xây dựng
thương hiệu làng nghề của huyện và thành phố đối với 02 làng nghề trên địa bàn
xã còn chậm.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã tiềm ẩn
phức tạp, ý thức tự phòng, tự quản của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Công
tác phối hợp của Ban công an có việc còn chưa chặt chẽ.
Công tác quản lý đất đai, trật tự đô thị, trật tự xây dựng, VSMT có nhiều
chuyển biến tích cực, vẫn còn tình trạng tái lấn chiếm vỉa hè, lòng đường để kinh
doanh, tình trạng đổ rác thải, phế thải sai quy định chưa được ngăn chặn kịp thời.
Công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trật tự xây dựng có nhiều cố gắng song vẫn còn
tình trạng vi phạm chưa được xử lý dứt điểm
2.4.1.2. Chính sách của xã Bát Tràng từ năm 2021 đến nay
Công tác chỉ đạo:
Ngay sau khi Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
ĐSVH” xã Bát Tràng triển khai Kế hoạch liên tịch của UBND - Ủy ban Mặt trận
33
Tổ quốc xã Bát Tràng; Trưởng Ban công tác Mặt trận phối hợp với Trưởng thôn
thống nhất nội dung, chương trình, hình thức tổ chức Hội nghị tại 05/05 thôn
năm 2022, xây dựng báo cáo tổng kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết hội
nghị Đại biểu nhân dân bàn về xây dựng đời sống văn hóa của thôn năm 2021 và
dự thảo Nghị quyết năm 2022; 05/05 thôn đã nghiêm túc tổ chức hội nghị đại
biểu nhân dân trong thời điểm dịch COVID-19 tạm thời ổn định vào ngày
15/03/2022.
Nội dung Hội nghị Đại biểu nhân dân bàn về xây dựng đời sống văn hóa
năm 2022 của các thôn đã đánh giá được các kết quả thực hiện Nghị quyết Hội
nghị đại biểu Nhân dân của thôn năm 2021: nêu rõ những mặt được và những
việc chưa làm được, những hạn chế tồn tại và nguyên nhân; Những kiến nghị đề
xuất chưa được các cơ quan chức năng quan tâm giải quyết… Đặc biệt các chỉ
tiêu liên quan đến nội dung, tiêu chí cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cộng đồng dân
cư; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đánh giá kết quả thực hiện Quy tắc
ứng xử nơi công cộng; Đánh giá việc thực hiện tự quản; tham gia phòng, chống
dịch COVID-19, bảo vệ môi trường của các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội,
các tầng lớp Nhân dân năm 2021.
Hội nghị đã xây dựng được phương hướng nhiệm vụ xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở năm 2022 tập trung bàn bạc thống nhất mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu:
các biện pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2022; nâng cao chất lượng danh
hiệu gia đình văn hóa, Làng văn hóa; hoàn thiện, phát huy hiệu quả các thiết chế
văn hóa, thể thao cơ sở; phát huy hiệu quả hương ước, quy ước; Phát động phong
trào thi đua xây dựng nếp sống văn minh, phong cách giao tiếp lịch sự, chấp
hành pháp luật, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường xanh, sạch, đẹp; tuyên
truyền, vận động thực hiện tốt 2 bộ Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, người
laođộng, Quy tắc ứng xử nơi công cộng; đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa" cả về bề rộng và chiều sâu; xây dựng người Hà
Nội thanh lịch văn minh, thân thiện, mến khách, để lại ấn tượng tốt đẹp trong
34
lòng bạn bè quốc tế; các giải pháp thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu
quả dịch COVID-19.05 /05 hội nghị tổ chức với 496 đại biểu dự. Có 16 đại biểu
phát biểu với 21 ý kiến nhỏ tập trung cho 07 nội dung. Trong đó: 01 ý kiến về
xây dựng nhà văn hóa thôn và trùng tu khu di tích Đình làng Giang Cao; 02 ý
kiến về công tác tuyên truyền (Loa truyền thanh); 03 ý kiến về xây dựng đời
sống văn hóa khu dân cư; 01 ý kiến về công tác phòng chống dịch COVID -19;
06 ý kiến về lĩnh vực giao thông, thoát nước; 07 ý kiến về công tác vệ sinh môi
trường; 01 ý kiến về lĩnh vực an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy,…
Kết quả thực hiện:
Đoàn kết, xây dựng đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển:
Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên lượng hàng hóa tiêu thụ
chậm, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh phải tạm dừng hoạt động đã ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân trên địa bàn, lượng
khách đến tham quan mua sắm tại xã giảm nhiều. UBND xã phối hợp xét đề
nghi công nhận Nghệ nhân Hà Nội cho 7 cá nhân; xét, đề nghị phân hạng sản
phẩm OCOP năm 2021 cho 6 sản phẩm của các cơ sở, doanh nghiệp gốm sứ.
Thực hiện kế hoạch của UBND huyện về tăng cường rà soát các nguồn
thu, đôn đốc thu hồi nợ đọng năm 2021 trên địa bàn xã Bát Tràng. UBND xã đôn
đốc thu hồi nợ đọng được 220 hộ với số tiền 769 triệu đồng. Thực hiện tốt công
tác tài chính, tăng cường kiểm soát chi thường xuyên, thực hành tiết kiệm, đảm
bảo công khai, đúng mục đích, kịp thời cho hoạt động quản lý điều hành thực
hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, phòng
chống dịch bệnh.
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2021 đạt: 7.381triệu đồng/7.259 triệu
đồng bằng 102% kế hoạch huyện giao.
Chi ngân sách nhà nước trên địa bàn, ước thực hiện 14.800 triệu/14.800
triệu đồng bằng 100% dự toán giao. [Phụ lục 5]
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Năm 2021 UBND xã phối hợp thực hiện các dự án do huyện làm chủ đầu
tư trên địa bàn xã như: Dự án cải tạo 18 tuyến đường liên thôn xã Bát Tràng, dự
35
án thay thế các cột điện cũ, xuống cấp, dự án cải tạo đài tưởng niệm các mẹ Việt
Nam anh hùng và các anh hùng liệt sỹ, dự án cải tạo Nghĩa trang nhân dân xã
Bát Tràng dự án cải tạo Chùa Kim Trúc... phối hợp lấy ý kiến đóng góp vào các
dự án chuẩn bị đầu tư trung tâm VHTT, Nhà văn hóa các thôn Giang Cao, rà soát
lập hồ sơ giải phóng mặt bằng tuyến 3B đối với các hộ đang sử dụng đất 5%,
10%. Phối hợp với tổ công tác của huyện, khảo sát, đánh giá hiện trạng đề nghị
Huyện lập dự án tu bổ tôn tạo Đình làng Giang Cao.
Thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/HU ngày 09/4/2018 của Huyện ủy Kế
hoạch số 116/KH-UBND ngày 19/3/2021 của UBND huyện Gia Lâm, UBND xã
đã triển khai kế hoạch thực hiện đề án “Nâng cao chất lượng môi trường huyện
Gia Lâm, giai đoạn 2021-2025” năm 2021; Vận động, tuyên truyền các hộ dân
không sử dụng than tổ ong. Hướng dẫn các thôn đăng ký “Tuyến đường kiểu
mẫu”, Thôn “An toàn, văn minh, sạch đẹp” năm 2021, thực hiện xây dựng các
tuyến đường xanh - sạch- đẹp trên địa bàn xã Bát Tràng. Kết quả thực hiện:
100% rác thải sinh hoạt trên địa bàn các thôn được thu gom với tần suất 1
lần/ngày. Duy trì chất lượng nước ao, hồ trên địa bàn, không có mùi khó chịu.
Rà soát số hộ sản xuất gốm sứ trên 1.000 hộ; số hộ có lò hấp hoa trong khu dân
cư 51 lò, tỷ lệ dưới 5%); trong năm tuyến đường thôn 2 Bát Tràng đã đăng ký dự
thi cuộc thi khu dân cư xanh – sạch – đẹp.
Một số tồn tại:
Bên cạnh những thành tích là cơ bản, phong trào còn có những tồn tại sau:
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã còn tiềm ẩn
phức tạp, ý thức tự phòng, tự quản của một số bộ phận nhân dân còn hạn chế.
Công tác vệ sinh môi trường, thu gom rác thải, một số đoạn đường bị chiếm
dụng đổ nguyên vật liệu gây ảnh hưởng đến giao thông. Còn có một số hiện
tượng vứt rác ra đường giao thông, nơi công cộng. Công tác dân số kế hoạch hóa
gia đình tuy có chuyển biến xong chưa bền vững, đặc biệt là sinh con thứ 3 còn
cao hơn so với chỉ tiêu huyện giao.
2.4.2. Nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và môi trường phát triển làng nghề
Nguồn nhân lực chủ yếu của làng hiện nay là những người trong làng, bao
36
gồm các nghệ nhân và các người làm nghề. Nơi đây có rất nhiều cái tên nổi tiếng
như nghệ nhân Trần Đức Tân, nghệ nhân Lê Văn Cam, nghệ nhân Lê Xuân Phổ
với tay nghề tinh xảo và sự hiểu biết chuyên sâu về gốm. Các nghệ nhân đều có
những sản phẩm gốm tinh xảo và nét độc đáo, nét riêng khác với nhau. Để tạo ra
được một sản phẩm gốm có giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ, giá trị tinh thần là cả
một quá trình của một người nghệ nhân. Mỗi một sản phẩm gốm đều được thổi
hồn vào qua bàn tay khéo léo của những nghệ nhân trẻ đến già tại Bát Tràng.
Về thợ nghề tai Bát Tràng khá đông, thường là con cháu trong nhà nghệ
nhân và những lao động từ những địa phương lân cận hoặc những người có đam
mê đến làm việc. Thực trạng hiện nay là xu hướng những người thợ trong làng
càng giảm và thay vào đó là người từ nơi khác đến làm ngày càng đông đảo.
Về những trẻ em, thanh thiếu niên ở Bát Tràng không có hiện tượng bỏ
học đi làm nghề từ sớm. Các hộ gia đình tại đây đều cho con học hành từ cấp
một đến cấp ba, và tiếp tục học lên đại học chứ không xảy ra hiện tượng trẻ em
nghỉ học từ sớm đi làm như một số làng nghề khác. Có thể thấy giáo dục nhân
văn tại Bát Tràng rất tiến bộ và phát triển theo hướng tích cực. Những trẻ em ở
đây sau khi học hành xong nếu có đam mê với nghề hoặc muốn theo nghề thì sẽ
chọn ở lại tiếp nối cha mẹ để trở thành một thợ gốm chuyên nghiệp. Nhưng có
những người lại đam mê công việc khác và sẽ không làm gốm. Vì thế đây cũng
là nguyên nhân cho hiện tượng số người thợ lành nghề gốc tại Làng ngày càng ít
đi và chủ yếu là thợ từ nơi khác đến học việc và trở thành thợ gốm.
Về nguồn nhân lực phát triển du lịch tại Bát Tràng vẫn chưa thực sự
nhiều, ít hướng dẫn viên phục vụ trực tiếp tại Làng, thiếu những người phục vụ,
giới thiệu cho du khách. Chủ yếu khách đến với Bát Tràng đều có hướng dẫn
viên tour du lịch đó đi kèm và sẽ giới thiệu cho khách luôn chứ không có sự
tham gia của những hướng dẫn viên tại Làng.
2.4.3. Thực trạng khai thác phát triển du lịch làng nghề Gốm sứ Bát Tràng
2.4.3.1. Thực trạng về chính sách phát triển du lịch làng gốm Bát Tràng.
Theo số liệu thống kê của Sở du lịch, chưa có những dự án đầu tư và
phát triển du lịch tại làng gốm Bát Tràng thực sự có hiệu quả. Hoặc có dự án
37
đầu tư thì lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai đưa các dự án vào
thực tế.
Theo số liệu thống kê từ năm 1999 UBND thành phố đã có "bản quy
hoạch chi tiết làng nghề truyền thống Bát Tràng". Trong bản kế hoạch gồm
những nội dung sau: Cải tạo và nâng cấp đường liên xã qua Bát Tràng, cải tạo
và nâng cấp hệ thống nước, điện đi với đó là sự xây dựng và hoàn thiện cảng
Bát Tràng. Thực tiễn thấy rằng đoạn đường từ UBND xã đến làng cổ Bát
Tràng mới được hoàn thiện khoảng 3/4 và làng Giang Cao qua đê thì vẫn
chưa được hoàn thiện.
Chính quyền xã Bát Tràng đã vào cuộc nhưng chưa thực sự có hiệu
quả, chưa có những biện pháp, hành động cụ thể để thúc đẩy làng gốm Bát
Tràng phát triển. làng gốm Bát Tràng và các điểm tham quan du lịch đã kết
hợp với nhau nhưng chưa được tuyên truyền quảng bá mạnh, chưa thực sự
nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các công ty lữ hành nên việc xây dựng
các tour, tuyến vẫn còn nhỏ lẻ.Những hướng dẫn viên du lịch theo đoàn của
các công ty chưa thực sự trang bị cho mình những kiến thức đầy đủ về làng
gốm, với cách truyền đạt vòng vo, thiếu chuyên nghiệp đôi khi tạo cho du
khách những hiểu biết không đầy đủ về làng, về nghề gốm ở đây.
2.4.3.2. Hoạt động quảng bá để thu hút khách du lịch tại làng gốm Bát Tràng.
Về việc quảng bá để thu hút khách du lịch tại làng gốm Bát Tràng, hiện
nay một số trang web đã được thành lập để quảng bá và giới thiệu về thương
hiệu của làng Gốm Bát Tràng, xây dựng logo riêng cho sản phẩm gốm sứ nơi
đây.
Nhưng thực tế lại cho thấy rằng những nội dung trên trang Web chưa
thực sự đa dạng và phong phú. Hầu hết đây là những quảng bá sản phẩm cho
những công ty và cơ sở cá nhân chứ gần như không nói gì đến làng nghề và
quảng bá giới thiệu du lịch làng nghề. Chỉ có duy nhất trang: Battrang.info là
trang thông tin chung của cả làng nhưng thông tin còn khá sơ sài, đặc biệt là
những thông tin về du lịch. Hiện đã có nhiều ấn phẩm sách, báo, tạp chí để
38
giới thiệu về Bát Tràng cho du khách cũng như những người quan tâm muốn
tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng.
Về việc xây dựng những không gian riêng cho khách du lịch, Bát Tràng
đã mở những cơ sở nặn gốm chuyên cho khách du lịch để khách có thể trải
nghiệm thực tế công đoạn, quy trình làm gốm. Tại đây có những thợ lành
nghề hướng dẫn nhiệt tình cho du khách từ khâu sử dụng bàn quay đến cách
tạo hình, tạo khối, tô màu và nung chính là công đoạn cuối để tạo ra một sản
phẩm hoàn thiện theo ý thích của du khách.
Dự án Trung tâm tinh hoa Làng nghề Việt đã hoàn thiện từ năm 2021
sau 3 năm xây dựng và đã đón rất nhiều lượt khách du lịch đến tham quan.
Nhờ kiến trúc xoáy ốc độc đáo và phong cách bố trí đậm chất làng gốm Bát
Tràng. Đây vừa là địa điểm lưu giữ, bảo tồn văn hóa của làng Bát Tràng mà
vừa còn là nơi để khách tham quan du lịch đến chụp ảnh, chiêm ngưỡng,
thưởng thức những giá trị của các tác phẩm nghệ thuật này.
2.4.3.3. Khách du lịch đến làng gốm Bát Tràng.
Trong số khách quốc tế đến Hà Nội thì lượng khách đến với Bát Tràng
chiếm khoảng 9 - 11%. Tương đương mỗi năm làng gốm Bát Tràng đón
khoảng 9000 – 11.000 khách quốc tế đến đây để chiêm ngưỡng các sản phẩm
và thực hiện các giao dịch thương mại với các nhà sản xuất và người bán lẻ.
Và hàng vạn khách du lịch nội địa đến đây tham quan mua sắm, nghiên cứu
tìm hiểu.
Những thực khách quốc tế đến với Bát Tràng cũng vô cùng đa dạng với
nhiều quốc tịch khác nhau chủ yếu là Anh, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc.
Khách quốc tế đến đây cũng với nhiều mục đích khác nhau là tham quan mua
sắm đơn thuần chiếm 85% còn khách đến đây tham quan tìm hiểu đặt quan hệ
làm ăn bằng các đơn đặt hàng chiếm khoảng 25%.
Khách nội địa chủ yếu là học sinh, sinh viên; các chuyên gia, nhà
nghiên cứu tìm hiểu về gốm Bát Tràng chiếm khoảng 60% và các doanh
nhân, một số khách đến tham quan mua sắm đơn thuần chiếm 40%.
39
Tùy vào mục đích của khách mà họ có thể đến và lưu lại tại Bát Tràng
với thời gian dài ngắn khác nhau. Khách hay đến với Bát Tràng vào dịp cuối
tuần, các ngày lễ, tết và thường tham quan trong vòng một ngày thỉnh thoảng
cũng có khách sẽ lưu lại tham quan Bát Tràng 2 ngày.
2.4.3.4. Các loại hình du lịch được khai thác tại Bát Tràng.
* Những hoạt động chính trong các công ty du lịch làng gốm Bát
Tràng.
Tham quan đình, chùa, đền và văn chỉ của làng: Khi tham quan tại các
công trình di tích này du khách sẽ được nghe hướng dẫn viên thuyết minh
cung cấp những thông tin về lịch sử hình thành và phát triển của làng cũng
như của nghề, những bước đi trong tiến trình lịch sử của làng. Đồng thời sẽ
được nghe giới thiệu những nét khái quát chung nhất về các công trình di tích
này. Vì thế mà du khách sẽ được tự mình quan sát, ngắm nhìn kiến trúc, cách
bài trí trong các công trình kiến này để phần nào hiểu được những giá trị lịch
sử, văn hóa, tâm linh tinh thần mà nó mang trong mình.
Khi tham quan các cơ sở sản xuất, kinh doanh gốm: Du khách sẽ được
tham quan các xưởng sản xuất, trực tiếp quan sát quá trình làm gốm, giao lưu
với các nghệ nhân, tham gia vào một công đoạn nào đó để tạo ra sản phẩm.
Tham quan mua sắm tại chợ gốm du khách sẽ được thỏa sức quan sát, chiêm
ngưỡng và mua sắm các sản phẩm theo ý thích.
* Những hoạt động tạo hứng thú cho du khách.
Hoạt động nặn gốm là hoạt động thu hút nhiều sự yêu thích nhất cho du
khách đến tham quan. Chỉ với vài chục nghìn tiền phí, du khách đã có thể vào
vị trí của một người làm gốm, tự tay mình trải nghiệm thực tế các công đoạn
làm gốm. Tại hoạt động này thì du khách có thể thoả sức sáng tạo, thoải mái
tạo hình cho sản phẩm của mình từ hình dáng đến màu sắc. Sau đó sản phẩm
của du khách sẽ được nung và tặng lại cho du khách, nêu thời gian nung lâu
thì sản phẩm sẽ gửi cho du khách qua đường bưu điện.
40
Hoạt động tham quan những bảo tàng, các khu vực sản xuất gốm cũng
tạo ra nhiều hứng thú cho du khách đến tham quan.
Ngoài ra còn có những hoạt động giao lưu trao đổi với nghệ nhân về
đặc trưng của gốm Bát Tràng, sự phát triển của gốm Bát Tràng. Trò chuyện
giao lưu cùng các nghệ nhân, được được tận mắt quan sát các khâu khác nhau
của quá trình tạo ra một sản phẩm, được ngắm nhìn các sản phẩm thô chưa
qua quá trình nung.
Bên cạnh đó, hoạt động tham quan mua sắm tại chợ gốm cũng tạo cho
du khách nhiều hứng thú. Với các mẫu mã đa dạng từ hình thức màu sắc đến
kiểu dáng bắt mắt của gốm Bát Tràng đã thu hút được nhiều sự quan tâm và
yêu thích của du khách.
2.4.4. Áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động phát triển
nghề
Công nghệ hệ thống đổ rót áp lực bán tự động cùng sự thành công trong
việc chế tạo thành công hệ thống chế biến nguyên liệu gốm sứ mỏng đã
nâng cao thêm năng suất lao động cho làng nghề. Cùng với đó công nghệ
tận dụng nhiệt độ dư trong máy nung gốm để dùng cho việc sấy đã tiết
kiệm được nhiều nguồn nhiên liệu. Vấn đề ô nhiễm môi trường được giảm
xuống vì đã hạn chế được nguồn khí thải, nước thải ra môi trường nhờ
vào việc áp dụng các thành tựu khoa học.
Hệ thống nung gốm bằng lò gas tiết kiệm nhiên liệu cũng đã được áp dụng
trong quá trình sản xuất gốm. Lò con thoi là tên gọi khác của lò gas nung gốm có
nguyên lí hoạt động là vận hành theo từng số lượng gốm. Với nguyên lý
cấu tạo gồm các bộ phận như tường, cửa lò, nền, trần, vòi đốt, ống khói và
được thiết kế theo từng kích cỡ khac nhau phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Hệ thống nung gốm bằng lò gas tiết kiệm nhiên liệu đã giúp tiết kiệm
đươc khá nhiều tài nguyên, góp phần hạn chế chất thải ra môi trường mà
41
vẫn đảm bảo công dụng sử dụng của nó.
Máy tạo hình gốm sứ cũng là một thành tựu khoa học đã được áp dụng vô
cùng thành công vào quy trình sản xuất gốm số lượng lớn tại làng. Với máy tạo
hình gốm thì tiết kiệm được nhiều thời gian hơn, công sức mà kết quả cho ra có
độ tỉ mỉ và chuẩn xác cao hơn là làm thủ công nặn tay. Điều này mang lại năng
suất vô cùng lớn, có thể gấp mấy chục lần so với nặn thủ công.
Công trình xử lý đất đang là công trình được áp dụng nhiều nhất tại làng,
với các công dụng như xử lý đất, phân loại và loại bỏ các tạp chất để tạo ra
nguyên liệu sạch, chuẩn để làm gốm. Vì trước đây khâu xử lý đất rất quan trọng
nhưng lại có rủi ro lớn khi làm thủ công vì độ chính xác thấp nên hiên tại công
nghệ xử lý đất bằng máy móc đang rất được ưa chuộng và sử dụng phổ biến tai
làng. Kết hợp với đó là máy li tâm, đánh hồ sẽ tạo ra nguyên liệu vừa nhanh
chóng vừa đảm bảo cho quy trình sản xuất gốm.
2.4.5. Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến, phát triển làng nghề
Chương trình “Giải pháp tiếp thị số sản phẩm gốm sứ Bát Tràng” là
chương trình do trung tâm gốm Làng cổ Bát Tràng tổ chức nhằm quảng
bá, xúc tiến những sản phẩm gốm sứ tại Làng ờ trong nước nói riêng và nước
ngoài nói chung.
Những buổi triển lãm Gốm Bát Tràng được tổ chức rộng rãi và đa dạng
cũng là một hoạt động quảng bá gốm Bát Tràng đến du khách và người tiêu
dùng. Quảng bá sản phẩm gắn liền với du lịch tại làng nghề là một hoạt động
nhằm giới thiệu quảng bá sản phẩm tới mọi người.
Các kênh mạng xã hội như tiktok và Youtube, Facebook cũng đã và đang
ngày càng nhiều những bài viết về gốm Bát Tràng, về làng gốm Bát Tràng, về
sản phẩm, về các nghệ nhân và về du lịch làng nghề Bát Tràng. Đây là một cách
thức quảng bá hình ảnh, thông tin làng Gốm có sự tiếp cận rộng rãi nhất vì bất cứ
ai cũng có thể đọc được những bài viết trên Facebook hay những video trên
Tiktok và Youtube.
Ngoài ra tại những xưởng gốm Bát Tràng cũng có dịch vụ nặn gốm, để
thu hút khách đến khám phá, tự mình nặn những tác phẩm gốm. Dịch vụ này
42
hiện có giá chung là 50 nghìn Việt Nam đồng cho một du khách vào nặn gốm
không giới hạn thời gian và được sấy, tô vẽ tác phẩm của mình sau đó được cầm
về làm kỉ niệm. Đây là dịch vụ có từ rất lâu tại Bát Tràng được nhiều du khách
ưa chuộng bởi tính lạ của nó, muốn thử tay mình làm một người thợ nặn gốm.
Và nổi tiếng hơn cả đó chính là địa điểm “Trung tâm Tinh hoa Làng nghề
Việt” tại địa chỉ số 28, thôn 5, xã Bát Tràng. Đây là công trình độc lạ được xây
dựng với kinh phí hơn 150 tỉ đồng ở làng Gốm thu hút vô cùng đông đảo mọi
người đến tham quan và chụp ảnh. Với chức năng là bảo tang và trung tâm bán
hàng những sản phẩm gốm, sản phẩm thủ công, những tác phẩm nổi tiếng của
làng Gốm. Bên trong và bên trên chính là chuỗi nhà hàng và quán café được bố
trí đầy cây xanh và đẹp mắt, thuận tiện cho việc nghỉ ngơi ngắm cảnh của khách.
2.4.6. Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề Gốm sứ Bát Tràng
Các sản phẩm gốm Bát Tràng có doanh thu tiêu thụ lớn ở các địa phương
trên Việt Nam, nhiều nhất là tại Hà Nội. Không chỉ có sự ưa chuộng trong nước
mà gốm Bát Tràng được bán ở hơn 21 đất nước trên toàn cầu như Mỹ, Nhật, Bắc
Âu… Bát Tràng ngày càng vươn xa hơn, thâu tóm nhiều thị trường và chinh
phục được các khách hàng khó tính trên thế giới. Để có thể đáp ứng được nhu
cầu của các thị trường xuất khẩu thì gốm Bát Tràng đã được sản xuất nhiều
những mẫu mã cũng như nâng cao chất lượng gốm. Hiện nay tại xã có hơn 500
nhà dân là sản xuất làm nghề gốm Bát Tràng từ các sản phẩm đa dạng như nội
thất đến trang trí. Theo thống kê thì doanh thu của nghề gốm mỗi năm lên tới
hơn 2100 tỷ đồng và thu nhập bình quân mỗi người làm nghề đạt hơn 70 triệu
đồng một năm.
Có một điều phải khẳng định rằng gốm Bát Tràng rất có chỗ đứng trên thị
trường hàng ra nước ngoài nhưng thị trường tiêu thụ trong nước thì vẫn còn
chưa được ổn định. Lý do có lẽ là do gốm Bát Tràng có giá thành cao hơn
so với các thương hiệu khác 20% và có khi là 30% vì nó được sản xuất chủ
yếu là thủ công.
2.4.7. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm tại làng nghề.
UBND xã ra quyết định thành lập Đoàn kiểm tra việc chấp hành Luật bảo
43
vệ môi trường đối với các hộ gia đình sản xuất kinh doanh, trên địa bàn xã.
Kiểm tra, và xử lý cơ sở sản xuất gây ô nhiễm tại các thôn, từ đó yêu cầu
cơ sở tạm dừng hoạt động, hoàn thiện các kế hoạch bảo vệ môi trường đối với
sản xuất. Và một số cơ sở khác gây tiếng ồn khi sản xuất trong khu dân cư cũng
được nhắc nhở và có mức độ xử lý khi vi phạm.
Xã đã xây dựng và triển khai phương án “Nâng cao chất lượng vệ sinh
môi trường trên địa bàn” Triển khai ký cam kết bảo vệ môi trường đối với các hộ
sử dụng lò hấp hoa trong khu dân cư. Kiểm tra, nhắc nhở, xử lý đối với các
trường hợp đổ chất thải rắn công nghiệp không đúng nơi quy định. Phối hợp với
Công ty Môi trường Đô thị huyện Gia Lâm tổ chức, duy trì thực hiện thu gom
vận chuyển rác thải sinh hoạt tại nguồn trên địa bàn làng gốm Bát Tràng.
2.4.8. Công tác nghiên cứu định hướng phát triển sản phẩm
Về vấn đề định hướng để phát triển sản phẩm gốm Bát Tràng là vấn đề
quan trọng để có thể phát triển làng nghề bền vững. Để phát triển sản phẩm thì
việc cải tiến mẫu mã là điều không thể thiếu. Các cơ sở sản xuất có khả năng
thẩm mỹ, nắm được xu hướng về màu mã sẽ được ưa chuộng trong những năm
gần tới. Vì những sản phẩm làm ra luôn có nguy cơ bị lỗi thời, không hợp với
thời đại, vì vậy cần đi trước cái nhìn của thời đại để sản xuất ra những mẫu mã
mà vài năm tới cũng không bị lỗi mốt. Mặc dù đang có xu thế thiết kế theo ý
kiến của khách hàng nhưng việc sáng tạo ra những sản phẩm độc lạ từ mẫu mã
đến công dụng luôn luôn cần thiết để phát triển sản phẩm gốm Bát Tràng.
Nâng cao tay nghề của thợ làm gốm để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay nhiều thợ gốm tay nghề còn kém và thiếu tâm huyết đối với nghề vì
vậy sản phẩm làm ra không có chất lượng cao và mang lại doanh thu kém. Để
phát triển sản phẩm cần tiếp tục nâng cao, trau dồi kiến thức cho thợ gốm.
Sử dụng đa dạng hóa nhiều hình thức quảng bá sản phẩm thông qua các
phương tiện truyền thông, thông tin đại chúng như tivi, mạng xã hội để quảng bá
cho nhiều người biết thêm về thông tin của gốm Bát Tràng.
44
2.5. Đánh giá công tác khai thác và phát triển bền vững làng nghề Bát
tràng
2.5.1. Những thành tựu
Môi trường Bát Tràng hiện tại đã có nhiều sự thay đổi tích cực. Hạn chế
được tình trạng nồng nặc mùi than khó chịu trong không khí hay những con
đường đầy bụi bặm, kênh mương đen đặc mùn than. Thay vào đó là một không
khí và môi trường xanh, sạch, đẹp hơn.
Ngoài áp dụng các ứng dụng công nghệ để phát triển du lịch thông minh
theo đúng xu hướng của du lịch hiện đại, Bát Tràng còn thực hiện chỉnh trang
đường phố, xây dựng nhà tiếp đón, hướng dẫn du khách; tạo những không gian
đậm chất văn hóa để làm nơi “check in” thu hút giới trẻ.
Việc sử dụng công nghệ thông tin vào quảng bá sản phẩm, kết nối khách
hàng, bán sản phẩm gốm sứ ra nước ngoài cũng được chú trọng.
Sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của làng gốm Bát Tràng. Khi du
lịch được đưa vào khai thác sẽ tạo ra một thị trường khách mới cho làng gốm Bát
Tràng - đó là thị trường khách du lịch. Thị trường này tuy nhỏ bé với số lượng
sản phẩm bán ra không lớn nhưng giá trị lợi nhuận mang lại sẽ tăng. Mặt khác,
nếu là khách du lịch quốc tế thì khi bán sản phẩm cũng chính là Bát Tràng đã
xuất khẩu được một sản phẩm của mình tại chỗ mà không mất một đồng tiền vận
chuyển và thuế xuất hàng như sự xuất khẩu thông thường. Đây là một thị trường
khách đầy tiềm năng để làng nghề Bát Tràng khai thác phát triển.
2.5.2. Những tồn tại hạn chế
Thiếu mặt bằng sản xuất nên các doanh nghiệp phải thuê, mua đất ở các
làng lân cận. Có nhiều người không có điều kiện thì phải sản xuất luôn tại nhà,
vừa sản xuất vừa sinh hoạt. Điều này rất ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân
vì các khí đốt khi nung gốm rất độc hại.
Tình trạng thiếu vốn. Ông Hà Văn Lâm, cho hay: "Lò nung gốm bằng gas
hiện đại đang cho thấy kết quả tích cực, tuy nhiên, do chi phí xây dựng, lắp đặt
cao (khoảng 100 - 150 triệu đồng/lò), nên nhiều gia đình không đủ sức xây dựng.
Thị trường gốm cũng ngày càng cạnh tranh, nên việc bỏ số vốn lớn để đầu tư
45
cũng khiến nhiều cơ sở sản xuất phân vân, e ngại".
Khi mà việc sản xuất một cách đại trà bằng các phương pháp hiện đại như
hiện nay sản phẩm gốm thủ công truyền thống đã trở thành một loại hàng
hóa phổ biến trên thị trường hàm lượng giá trị văn hóa trong các sản phẩm
bị giảm đi một cách nhanh chóng, các sản phẩm đó cũng đã ngày càng bị
thương mại hóa để đạt được lợi nhuận tối đa. Chính điều này đã phần nào
làm mất đi các giá trị văn hóa truyền thống, những gì là tinh hoa, tinh túy
trong sản phẩm gốm truyền thống.
Thiếu tính đào tạo chuyên sâu, làng nghề thu hút được nhiều những người
đến học nghề nhưng những cơ sở nhận hướng dẫn chưa có kĩ năng sư phạm, chủ
yếu dựa trên kinh nghiệm cá nhân để truyền đạt.
Sự phát triển của du lịch cũng sẽ làm mất đi những nét văn hóa truyền
thống, làm thương mại hóa làng nghề. Khi du lịch phát triển cũng đồng nghĩa với
việc hàng loạt các dịch vụ xuất hiện theo điều này đã tạo ra một sự thay đổi trong
cơ cấu lao động.
2.5.3. Nguyên nhân
Thiếu mặt bằng sản xuất vì Bát Tràng vốn chỉ có đất thổ cư, từ ngày xưa
đã rất chật hẹp, mặt bằng sản xuất chật hẹp không đưa được những thiết bị hiện
đại vào sản xuất, các khâu kĩ thuật đòi hỏi chính xác cao lại phải làm thủ công.
Tình trạng thiếu vốn trong quá trình sản xuất gốm đang tồn tại làng. Vì
muốn sản xuất được lâu thì các lò gốm phải có tiền trữ nguyên liệu, trả công thợ,
mở rộng sản xuất.
Làng nghề gốm Bát Tràng khó cạnh tranh với các làng nghề khác vì thiếu
tính đồng bộ trong quy hoạch sản xuất. Nguyên nhân là do thiếu công nghệ vì
hiện nay công nghệ sản xuất gốm ngày càng hiện đại hóa, việc áp dụng các thành
tựu khoa học của Bát Tràng mới nằm ở mức thấp.
Thiếu tính đào tạo chuyên sâu nguyên nhân còn là do các tâm lý bảo thủ,
giấu ghề, chưa mạnh dạn thay đổi cho hợp với xu thế. Nghề gốm được duy trì
chủ yếu là “cha truyền con nối” vào ngày xưa, nhưng hiện nay có rất nhiều
người từ nơi khác mong muốn được học nghề nhưng lại chưa có những lớp học
thật sự bài bản và chuyên sân, đầy đủ những kĩ năng sư phạm.
46
Tiểu kết chƣơng 2
Xã Bát Tràng nằm bên tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội. Các sản phẩm gốm, sứ và gạch của Bát Tràng được làm từ đất sét
và đưa lại giá trị cao cho xã Bát Tràng nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thực tế cho thấy, thực trạng về cơ sở hạ tầng nơi đây đang trên đà phát
triển, tuy nhiên chưa thật sự đạt chất lượng để phục vụ cho du lịch. Môi trường
được chú trọng nhưng chưa được giải quyết một cách triệt để. Nguồn nhân lực
ngày càng được nâng cao về chất lượng lần số lượng trong việc phát triển bền
vững làng nghề. Theo số liệu thống kê từ năm 2010 đến nay, các chính sách phát
triển của Bát Tràng đưa ra phù hợp với thực trạng của xã, lãnh đạo xã Bát Tràng
đã chỉ ra được các tồn tại, hạn chế và những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao
chất lượng đời sống nhân dân và sự phát triển bền của làng.
Qua quá trình khảo sát thực tế tại xã Bát Tràng cho thấy thực trạng phát
triển bền vững trong làng nghề truyền thống gốm sứ đang phát triển một cách
mạnh mẽ. Tuy nhiên đâu đó còn những tồn tại cần có các chuyên gia đưa ra
những giải pháp thiết thực nhất mà người dân nơi đây chính là những người
thực hiện.
47
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KHAI
THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NHỀ TRUYỀN THỐNG
GỐM SỨ BÁT TRÀNG, HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
3.1. Giải pháp nâng cao, phát triển bền vững hoạt động làng nghề
truyền thống Gốm sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
3.1.1. Giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng
- Về công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Phối hợp thực hiện đề án Bảo tồn làng nghề truyền thống kết hợp với du
lịch, làng nghề truyền thống Bát Tràng được UBND Thành phố phê duyệt ý
tưởng thiết kế năm 2016. UBND xã đã chủ động đề xuất với cấp trên phê duyệt
đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Các công trình được đầu tư đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc ổn định và phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh -
quốc phòng, hoàn thiện các thiết chế văn hoá xã hội, góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân trong xã; Phối hợp thực hiện các dự án cấp
trên làm chủ đầu tư như: Trường Mầm non, trường THCS, trụ sở UBND xã,
đường giao thông liên thôn... triển khai các dự án do xã làm chủ đầu tư như: cải
tạo nâng cấp đường, tường rào Nghĩa trang nhân dân; Tăng cường công tác giám
sát các dự án đảm bảo tiến độ, thời gian, chất lượng, kỹ thuật công trình, phát
huy hiệu quả dự án sau đầu tư.
Tuy nhiên vấn đề về cơ sở hạ tầng vẫn đang còn nhiều hạn chế nhất định
đã được nêu ở phần thực trạng. Để đưa ra giải pháp thiết thực, phù hợp với hiện
tại và tương lai. Để khắc phục những hạn chế đang tồn tại làng gốm xã Bát
Tràng, lãnh đạo xã Bát Tràng đã bám sát quan điểm, chỉ tiêu, nhiệm vụ của
chương trình và thực tế tại địa phương, xác định rõ nội dung, nhiệm vụ và các
giải pháp trọng tâm để triển khai thực hiện.
Sự xuất hiện của những cơ sở sản xuất được đầu tư toàn diện đã giúp
người dân từ bỏ thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và thụ động trong sản xuất
hàng hóa. Tính liên kết trong sản xuất giữa các cơ sở sản xuất lớn, nhỏ được
hình thành, có tác dụng hỗ trợ đắc lực trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, dự báo
nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để sản xuất phù hợp.
48
Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, thống nhất giữa các phòng,
ban, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện
hiệu quả các nội dung đã đề ra. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị,
phân công cụ thể nội dung, trách nhiệm; quy định rõ chế độ thông tin báo cáo
tiến độ trong quá trình thực hiện.
- Về giao thông, công tác vệ sinh môi trường, thu gom rác thải, một số
đoạn đường bị chiếm dụng đổ nguyên vật liệu gây ảnh hưởng đến giao thông. Vì
vậy, cần có những chính sách hợp lý tác động trực tiếp đến ý thức mỗi người dân
và các hộ gia đình. Đẩy mạnh tuyên truyền trong việc giữ gìn vệ sinh môi
trường, tập trung thu gom rác thải tập trung về một nơi để không làm ảnh hưởng
đến các tuyến đường giao thông. Tích cực kêu gọi đầu tư để sửa chữa các tuyến
đường đang trong tình trạng ổ gà, gồ ghề. Quy hoạch hợp lý và đúng tiến độ để
không làm ảnh hưởng đến quá trình đi lại của người dân và khách du lịch khi
đến địa phương.
- Về cơ sở sản xuất, theo thực trạng, có đến hơn 200 cơ sở sản xuất riêng
lẻ và không gian nhỏ nhưng lại vừa là nơi ở vừa là nơi kinh doanh khiến cho việc
sản xuất và kinh doanh không được hiệu quả tối ưu. Vì vậy lãnh đạo xã Bát
Tràng cần phối hợp với các hộ dân và Thành phố Hà Nội để đưa ra giải pháp hợp
lý nhất. Việc hợp nhất các cơ sở sản xuất trong việc tập trung lò nung gốm về
một nơi để giảm thiểu sự sản xuất riêng rẽ, tiết kiệm nhiên liệu và đạt hiệu quả
cao hơn là một trong những giải pháp tối ưu nhất hiện nay.
- Về việc đầu tư, xây dựng các nhà vệ sinh công cộng, để phục vụ cho
hoạt động du lịch ngày càng phát triển và phù hợp với tình hình phát triển của
Bát Tràng hiện nay, cần đầu tư xây dựng những nhà vệ sinh công cộng, phục vụ
nhu cầu của khách du lịch và góp phần vào phát triển kinh tế của xã.
3.1.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực
Làng nghề gốm sứ Bát Tràng có từ hàng ngàn năm nay, trải qua những
bước thăng trầm của lịch sử đất nước, làng nghề Bát Tràng có những giai đoạn
phát triển rực rỡ, nhưng cũng có giai đoạn tiêu điều không phát triển được.
Trong thời kỳ bao cấp cả nước chỉ có hơn một nghìn làng nghề, nhưng bước
49
sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội Chủ nghĩa, làng nghề ngày càng phát triển cả về qui mô sản xuất
lẫn số lượng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, nguồn nhân lực chính là một
trong những nhân tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển bền vững làng
nghề truyền thống Bát Tràng vì vậy cần có những giải pháp cụ thể và thiết thực.
Về giáo dục phổ thông, xây dựng và triển khai Đề án Quy hoạch mạng
lưới trường học thành phố Hà Nội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm
2045; Đề án nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông; Kế hoạch thực hiện Đề án
đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ
thông.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, triển khai hiệu quả
Đề án “Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo huyện Gia Lâm giai đoạn 2021
-2025 và những năm tiếp theo.
Về giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho người dân, khuyến
khích học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông tham gia học
nghề trình độ trung cấp, cao đẳng. Thực hiện tốt công tác phân luồng và định
hướng nghề nghiệp cho học sinh; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi thu hút
học sinh vừa học văn hóa vừa học nghề sau tốt nghiệp THCS. Tăng cường công
tác xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo nghề.
Về thực hiện các chính sách xã hội:
Công tác lao động việc làm: Tiếp tục giải quyết việc làm cho các lao động
trong và ngoài xã, trong đó đảm bảo chỉ tiêu chất lượng lao động qua đào tạo và
lao động có việc làm ổn định.
Công tác giảm nghèo bền vững được xúc tiến tích cực bằng các hình thức
như vay vốn phát triển kinh tế, đào tạo nghề - giới thiệu việc làm, trao tặng học
bổng,... mỗi năm Bát Tràng cần đặt chỉ tiêu giảm số hộ nghèo, không phát sinh
hộ nghèo mới.
3.1.3. Giải pháp quảng cáo xây dựng thương hiệu gốm Bát Tràng nhằm
phát triển kinh tế
Cần mở một trang web chính thống để giới thiệu về làng gốm Bát Tràng
50
cũng như tất cả các thông tin cần thiết, tạo ra cơ hội quảng bá thương hiệu và sản
phẩm một cách hiệu quả nhất để kích cầu kinh tế làng nghề phát triển. Đây cần
phải là địa chỉ tin cậy để du khách có thể tự tìm kiếm, nghiên cứu và đầu tư kỹ
lưỡng những thông tin cần thiết trước khi du khách cũng như các công ty du lịch
đến với làng gốm Bát Tràng. Bên cạnh đó, việc sản xuất các sản phẩm truyền
thống Bát Tràng cần phải chú trọng hơn nữa đến việc sản xuất các sản phẩm
mang tính chất làm quà lưu niệm ý nghĩa để bán cho du khách khi đến thăm
quan. Những sản phẩm đó có thể mang hình ảnh của làng, của những nghệ nhân
làm gốm, của thủ đô Hà Nội, của đất nước và con người Việt Nam để thông qua
các sản phẩm này ta có thể quảng bá, giới thiệu tới du khách về làng gốm Bát
Tràng cũng như về đất nước và con người Việt Nam.
Cần xây dựng các chương trình quảng cáo, giới thiệu về điểm du lịch làng
nghề gốm Bát Tràng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như trên báo
chí; tạp chí du lịch, các chương trình giới thiệu về văn hóa làng nghề cũng như
văn hóa ẩm thực trên internet tại các trang web của các công ty du lịch; trên đài
phát thanh với những chương trình nhỏ mà địa phương tự giới thiệu; trên đài
truyền hình với các chương trình du lịch, tham quan qua màn ảnh nhỏ. Đây là
một hình thức quảng cáo trực tiếp đến tận khách hàng rất có hiệu quả. Việc tổ
chức hội chợ triển lãm hàng thủ công truyền thống được tổ chức hàng năm, tham
gia các Festival làng nghề. Đây chính là một trong những phương thức quảng bá
thương hiệu gốm Bát Tràng nói riêng và làng gốm Bát Tràng nói chung tới du
khách trong và ngoài nước một cách hiệu quả nhất.
3.1.4. Các chính sách khuyến khích phát triển bền vững trong hoạt
động tại làng gốm Bát Tràng
* Các chính sách khuyến khích của địa phương
Để gốm sứ của làng phát triển một cách bền vững và khai thác có hiệu
quả cao thì chính quyền xã Bát Tràng cần đưa ra những chủ trương, chính
sách cụ thể, chi tiết cho xã nói chung và cho làng gốm Bát Tràng nói riêng trong
từng giai đoạn nhất định để xúc tiến sự phát triển của các hoạt động tại làng
nghề và để có thể chủ động thích ứng với những thay đổi của thị trường cũng
51
như nhu cầu của khách hàng. Chính quyền xã cần có những biện pháp phát triển
kinh tế chung cho cả xã sao cho phù hợp, tránh tình trạng phân hoá sâu sắc trong
tổ chức sản xuất kinh doanh, cũng như trong cơ cấu lao động giữa hai làng Bát
Tràng và Giang Cao như hiện nay. Lãnh đạo xã Bát Tràng nên có những biện
pháp khuyến khích phát triển sản xuất gốm và hoạt động du lịch tại làng như
tuyên dương, khen thưởng các hộ sản xuất kinh doanh giỏi; các cá nhân có
những thành tựu, sáng kiến, những sản phẩm gốm độc đáo có ảnh hưởng lớn tới
làng gốm; nên mở những lớp học đào tạo các thế hệ trẻ và những cá nhân, tổ
chức nhằm nâng cao kỹ năng, nâng cao nhận thức và tay nghề cũng như những
giá trị văn hóa của làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Khuyến khích những tổ chức,
cá nhân có những ý kiến đóng góp, việc làm thiết thực cho sự phát triển hoạt
động du lịch của làng nói riêng, hoạt động kinh tế của làng nói chung. Chính
quyền xã cần phải có những biện pháp khuyến khích để thu hút nguồn nhân lực
có kĩ thuật, chuyên môn nghiệp vụ và lòng yêu nghề về xã làm việc, đặc biệt là
đội ngũ lao động có chuyên môn nghiệp vụ về du lịch.
* Chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển du lịch làng
nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng
Đảng và Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển làng
nghề thủ công truyền thống.
Chính sách cho vay vốn dài hạn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh
gốm truyền thống, tạo một hành lang pháp lý thông thoáng cho việc phát triển
mở rộng làng nghề. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất áp
dụng các công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất. Cần có những chính sách
thuế cụ thể và những ưu đãi đối với việc sản xuất kinh doanh tại các làng nghề,
đặc biệt là các làng nghề đã và đang được đưa vào khai thác phục vụ hoạt động
du lịch. Các chính sách trong quản lý phát triển du lịch làng nghề của Nhà
nước phải đồng bộ. Bên cạnh việc khôi phục làng nghề thủ công truyền thống
nên đồng thời đưa các làng nghề này vào khai thác phát triển du lịch nhưng
song song với nó là việc giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống vốn có của
làng nghề.
52
3.2. Những giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực trong
hoạt động làng nghề gốm sứ Bát Tràng.
3.2.1. Giải pháp về bảo vệ môi trường
Vấn đề hạn chế ô nhiễm không khí tại Bát Tràng là vấn đề hàng đầu bởi
phát triển bền vững phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Đối với vấn đề ô nhiễm
tại Bát Tràng thì đã có rất nhiều giải pháp được đề ra và thực hiện nhưng hiệu
quả vẫn chỉ nằm ở mức trung bình.
Cần xây dựng thêm hệ thống xử lý khí thải từ các lò nung, sao cho lượng
khí thải ra môi trường không khí ngoài không được vượt quá mức cho phép.
Cũng cần xây dựng thêm những hệ thống xử lý rác thô, phân loại rác và tiến
hành quy trình xử lý rác thải.
Cần xây dựng thêm những nhà vệ sinh công cộng để phục vụ cho nhu
cầu của người mua hàng từ xa và du khách đến chơi. Đặc biệt là những khu di
tích để mọi người có thể thuận lợi xử lý nhu cầu cá nhân khi đến tham quan
các khu di tích.
Đưa ra một số quy định khắt khe và có tính răn đe hơn cho những cơ sở
kinh doanh về việc giữ vệ sinh chung, đảm bảo cảnh quan cho làng. Nhất là
những hàng quán bán đồ ăn sáng, cần có những biện pháp xử lý đối với những
hành vi không tuân thủ bảo vệ môi trường.
Quan trọng hơn là phải tăng cường giáo dục từ cấp trường đến cấp làng xã
để từ già đến trẻ đều nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường. Ý thức tự giác của
người dân cần được giáo dục thông qua các trương trình về bảo vệ môi trường,
vì thế việc tổ chức những chương trình về chung tay bảo vệ môi trường tại làng
là rất cần thiết. Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức.
3.2.2. Giải pháp về an ninh trật tự
Qua công tác chỉ đạo hằng năm, lãnh đạo xã Bát Tràng ban hành Nghị
quyết, UBND xã có kế hoạch về công tác đảm bảo an ninh trật tự, thường xuyên
tổ chức tuyên truyền, thực hiện các chủ trương, biện pháp bảo vệ an ninh Tổ
quốc có hiệu quả. Trên địa bàn xã không xảy ra các hoạt động, chống đối Đảng,
chính quyền, các hoạt động tuyên truyền trái pháp luật, lương giáo đoàn kết, tình
53
hình an ninh chính trị được giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân. Công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm được đẩy mạnh và kiềm chế việc gia tăng tội phạm,
không để xảy ra các tụ điểm phức tạp về hình sự và tệ nạn xã hội. Không xảy ra
cháy nổ, tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn xã.
Ngoài ra, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục, nâng cao tinh thần cảnh
giác của người dân trong việc phòng chống tội phạm và các tệ nạn khác như (ma
túy, mại dâm…). Cần sự phối hợp tổ chức các phong trào, các lễ phát động về
phòng chống tệ nạn xã hội để tuyên truyền hướng đến những lớp trẻ trong làng.
Tiểu kết chƣơng 3
Những giải pháp nhằm nâng cao, phát triển bền vững hoạt động làng nghề
gốm Bát Tràng đã được những nhà nghiên cứu và các cấp chính quyền đưa ra và
triển khai thực hiện. Tuy nhiên hiệu quả cũng chỉ còn nằm ở mức trung bình chứ
chưa thực sự giải quyết triệt để được những vấn đề còn tồn tại cản trở sự phát
triển bền vững hoạt động làng nghề. Cần thực hiện những giải pháp về nâng cao
cở sở hạ tầng, đổi mới cơ sở hạ tầng cũng như nâng cao, đào tạo nguồn nhân lực
thêm mạnh. Việc quảng bá gốm thương hiệu Bát Tràng đến với khách hàng
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế cũng rất cần thiết để tạo ra một nền kinh tế bền
vững cho làng Gốm. Tiếp đó cần đưa ra thêm những giải pháp chính sách
khuyến khích phát triển bền vững trong các hoạt động kinh doanh, du lịch tại
đây. Quan trọng hơn chính là phát triển bền vững nhưng vẫn phải đi song song
với bảo vệ môi trường và an ninh trật tự, vì thế những giải pháp về an ninh trật
tự cũng như chung tay bảo vệ môi trường cần được triển khai và thực hiện.
54
PHẦN KẾT LUẬN
Từ kết quả quá trình nghiên cứu của đề tài nhóm tác giả rút ra những kết
luận sau:
Đầu tiên: Trên cơ sở hệ thống hóa lại các lý thuyết về làng nghề, làng
nghề truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề tác giả đi sâu
nhận diện các giá trị văn hóa của làng nghề cũng như phân tích, mô tả nội dung
và hình thức của công tác bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gốm sứ
Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội nhóm tác giả rút ra những kết luận
sau:
Thứ nhất, làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội có các giá trị văn hóa bao gồm: Phong tục, tập quán, giá trị
nghệ thuật, lễ hội gắn với làng nghề, tri thức và kinh nghiệm trong sản xuất, văn
hóa tổ chức sản xuất, kinh doanh và các giá trị kinh tế của làng nghề.
Thứ hai, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề gốm sứ
Bát Tràng đã được chính quyền, địa phương quan tâm phát triển, tuy nhiên đang
chú trọng khai thác giá trị kinh tế của làng nghề thể hiện qua các tiêu chí và vai
trò của việc khai thác và phát triển bền vững làng nghề truyền thống gốm sứ Bát
Tràng: Tiêu chí con người, tiêu chí môi trường và tiêu chí kinh tế. Công tác
tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến, phát triển làng nghề, quảng bá hình ảnh và
thương hiệu làng nghề; Chính sách phát triển làng nghề gốm sứ Bát Tràng;
Nguồn nhân lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của làng nghề, thực trạng
khai thác phát triển du lịch; Áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt
động phát triển làng nghề; Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làng nghề gốm sứ Bát
Tràng; Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến phát triển làng nghề; Sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề; Công tác thanh tra, kiểm tra vi phạm tại làng
nghề; Công tác nghiên cứu định hướng phát triển sản phẩm gốm sứ Bát Tràng.
Thứ ba, công tác phát huy những giá trị văn hóa của làng nghề khác như
phong tục tập quán, nghệ thuật, tri thức dân gian cơ bản đã được chính quyền
quan tâm đặc biệt là những chính sách ưu đãi nghệ nhân, đầu tư ngân sách cho
việc truyền nghề. Đồng thời, trên địa bàn xã Bát Tràng có hai thôn Giang Cao và
55
thôn Bát Tràng là hai làng nghề thủ công truyền thống được chính quyền địa
phương chú trọng quan tâm khai thác những giá trị văn hóa để phát triển du lịch.
Thứ tư, Đề tài đã phân tích những ưu điểm và những hạn chế tồn tại, chỉ
ra nguyên nhân, từ đó, đề xuất các giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa làng nghề truyền thống Bát Tràng: 1/ Giải pháp nâng cao và phát triển bền
vững làng nghề gồm có: Giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng, giải pháp đào tạo
nguồn nhân lực, giải pháp quảng bá, xây dựng thương hiệu nhằm phát triển kinh
tế và các chính sách khuyến khích phát triển bền vững; 2/ Giải pháp nhằm hạn
chế những tác động tiêu cực trong hoạt động làng nghề truyền thống gốm sứ Bát
Tràng gồm có: Giải pháp bảo vệ môi trường và giải pháp về an ninh trật tự.
Tóm lại: Nghề gốm Bát Tràng từ khi hình thành cho đến nay có rất nhiều
tiềm năng và thách thức. Dân làng Bát Tràng nói riêng và trong toàn huyện Gia
Lâm nói chung cần phải phát huy hơn nữa những tiềm năng sẵn có để đưa nghề
gốm ngày càng phát triển thịnh vượng, gặt hái được nhiều thành quả hơn nữa
trong công cuộc xây dựng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đồng thời
hạn chế tối đa những mặt tiêu cực do nghề gốm gây nên để đem lại cuộc sống
ấm no hạnh phúc cho người dân nơi đây.
Nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề truyền thống
gốm sứ Bát Tràng mang lại ý nghĩa hết sức to lớn trong quy hoạch định hướng
bảo tồn giá trị văn hóa làng nghề mà Đảng và chính quyền địa phương xã, huyện
Gia Lâm đang quan tâm. Hàng thủ công gốm, sứ là một trong những ngành thủ
công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng, trước tiên là giải quyết vấn đề việc
làm, giải quyết được chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao thu nhập, giá trị
kinh tế cho người dân để từ đó chúng ta có cơ sở để khai thác và bảo tồn lại
những giá trị văn hóa cốt lõi bên trong làng nghề như giá trị lễ hội, giá trị trong
phong tục hay giá trị nghệ thuật được chính tay những người thợ thổi hồn vào
các tác phẩm.
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Bát Tràng (2020), Lịch sử Đảng bộ và
Nhân dân xã Bát Tràng (1930 – 2015), Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
2. UBND huyện Gia Lâm (19/3/2021), Nghị quyết số 14-NQ/HU ngày
09/4/2018 của Huyện ủy Kế hoạch số 116/KH.
3. Bùi Xuân Đính (2013), Bát Tràng làng nghề làng văn – Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
4. Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến và Nguyễn Quang Ngọc (2004),
Gốm Bát Tràng thế kỷ XIV-XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội.
5. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển các làng nghề
trong quá trình công nghiệp hóa (phần 1), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Nguyễn Mỹ Thanh (2010), Nghệ thuật tạo hình và trang trí gốm Bát
Tràng ngày nay.
8. Bùi Văn Vượng, "Nguyễn Trãi với Dư địa chí" in trong Tổng tập dư
địa chí Việt Nam (tập 1). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2012.
Tài liệu nƣớc ngoài
9. Sylvie Fanchette và Nicholas Stedman (2009), Khám phá các làng
nghề ở Việt Nam, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Tài liệu trang web
10. Battrang.info
11. https://luatminhkhue.vn/amp/phat-trien-ben-vung-la-gi---quy-dinh-
phap-luat-ve-phat-trien-ben-vung.aspx#1-khai-niem-phat-trien-ben-vung
12. http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintMagazineStory.aspx?ID
=1029&print=true
13. https://toquoc.vn/trien-lam-nghe-gom-bat-trang-truyen-thong-va-
hien-dai-99213720.htm
14. https://nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn/tin-tuc/du-
57
lich/824963/trung-tam-tinh-hoa-lang-nghe-viet-diem-nhan-moi-cua-lang-gom-
bat-trang
15. https://vovworld.vn/vi-VN/chuyen-cua-lang/lang-gom-bat-trang-
phat-huy-the-manh-noi-luc-xay-dung-nong-thon-moi-257775.vov
16. https://www.vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/33040
58
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI THAM GIA PHỎNG VẤN
1. Ông Phạm Huy Khôi – Chủ tịch xã Bát Tràng
2. Nghệ nhân ưu tú Trần Đức Tân
3. Anh Nguyễn Đức Hưng – Chủ cơ sở cho nặn gốm
59
PHỤ LỤC 2
CÂU HỎI PHỎNG VẤN
1. Ông Phạm Huy Khôi – Chủ tịch UBND xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội.
- Ông nghĩ gì về tình trạng trẻ em nghỉ học sớm đi theo nghề?
- Ông thấy những hoạt động quảng bá, xúc tiến các sản phẩm qua truyền
thông đã được phát huy một cách tối đa hay chưa?
- Về phát triển kinh tế - xã hội, làng nghề đã áp dụng thành công những
biện pháp nào? Biện pháp nào là hiệu quả nhất?
2. Nghệ nhân ưu tú Trần Đức Tân
- Ông cảm thấy những chính sách phát triển của Nhà nước đưa ra về việc
khai thác và phát triển bền vững làng gốm có được áp dụng hiệu quả trong thực
tiễn của làng nghề hay không?
- Ông cảm thấy nguồn nhân lực của làng gốm hiện nay có đủ đáp ứng
cho các cơ sở sản xuất gốm tại làng nghề hay không?
- Nguồn nhân lực chủ yếu là người từ trong làng hay ở nơi khác đến?
3. Anh Nguyễn Đức Hưng – Chủ cơ sở nặn gốm
- Anh đã vào nghề được lâu chưa và điểu gì khiến anh gắn kết với nghề
trong thời gian từ trước đến nay?
- Anh nghĩ sao về việc ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với kinh tế của
cơ sở mình nói riêng và của làng gốm nói chung?
60
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH SẢN PHẨM GỐM SỨ
Ảnh 1: Các sản phẩm gốm sứ đa dạng
(Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm)
Ảnh 2: Gốm sứ Bát Tràng với những hoa văn đặc sắc
(Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm)
61
Ảnh 3: Tham quan và tìm hiểu các sản phẩm gốm sứ tại chợ Bát Tràng
(Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm)
Ảnh 4: Kỹ thuật nặn gốm của nghệ nhân
(Nguồn: Internet)
62
PHỤ LỤC 4
QUÁ TRÌNH KHẢO SÁT THỰC TẾ
Ảnh 1: Nhóm phỏng vấn chú Phạm Huy Khôi – Chủ tịch UBND xã Bát Tràng
(Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm)
Ảnh 2: Trung tâm tinh hoa làng nghề Việt tại xã Bát Tràng
(Nguồn: Khảo sát thực tế của nhóm).
63
PHỤ LỤC 5
VĂN BẢN QUẢN LÝ