Đặc điểm Sinh sản và
phát triển của giáp xác
Giáp xác sinh sản hữu tính nhưng ở một số giáp
xác thấp lại có khả năng x nữ và có hiện tượng
xen kẽ thế hệ theo mùa. Trứng phát triển ph
thuộc vào lượng noãn hng nhiều hay
ít.Trng giàu noãn hoàng thì phân cắt bề mặt.
Phôi phát triển ở giai đoạn đầu như giun đốt:
Dải tế bào phôi gia tạo thành 2 đốt ấu trùng
(đốt mang đôi râu 2 và đốt mang đôi hàm trên)
nằm phía sau đốt mang mắt và đôi râu 1.
Sau đó mới hình thành các đốt sau ấu trùng t
vùng sinh trưởng phía đuôi. Giai đoạn phát triển
tiếp theo có sự sai khác với giun đốt là các tế
bào lát thành thể xoang đã được hình thành b
phân tán tạo thành các cơ quan có nguồn gốc
từ lá phôi giữa như tim, cơ, mô liên kết, xoang
thứ sinh nhập với phần còn li của xoang
nguyên sinh tạo thành xoang hỗn hợp
(mixocoelum). Sau giai đoạn phôi, giáp xác biến
thái phức tạp. Dạng ấu trùng đầu tiên
nauplius tương ứng với metatrochophora ở giun
đốt với 3 đôi phần phđặc trưng là râu 1 (một
nhánh), râu 2 và hàm trên (có 2 nhánh), có mắt
lẻ và có nội quan đơn giản như hạch não, 2 đôi
hạch bụng, một đôi tuyến bài tiết.
Nauplius sống trôi nổi. Sau đó hình thành các
đốt từ vùng sinh trưởng quanh hậu môn và hình
thành các đôi phần phụ như hàm dưới, phần
phụ ngực, mắt kép... để hình thành u trùng
metanauplilus. Sau nauplius và metanauplius,
sự phát triển tiếp theo tủy nhóm giáp xác:
Ở chân kiếm là ấu trùng copepodit, ở mười
chân là Zoea, sau đó là ấu trùng mysis ( tôm)
hay megalopa (ở cua).
Các ấu trùngy không phi bao gi cũng
phát trin đy đủ mà nhiều khi chúng thu
gọn trong giai đoạn phôi. Ví dụ như cua bể n
ngay ra ấu trùng zoea, tôm nước ngọt nở ngay
ra tôm con.