50
“ĐĂM GIÔNG”, PHÁT HIỆN MỚI VỀ SỬ THỊ CỦA NGƯỜI XÊ ĐĂNG Ở KON TUM
TS. VÕ QUANG TRỌNG!)
RE l TƯ N,Ỗ, Nghệ nhân A-Ar, 68 tuổi (làng Kon Gu T1, xã Ngọc Vang, huyện Đắc Hà, tỉnh Kon Tum) hát kể sử thi "Đăm Giông”
1. Trung tuần tháng 12 năm 2001, trong đợt đi điều tra, sưu tầm sử thi trên địa bàn tỉnh Kon Tum, nhóm cán bộ của Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia) phối hợp với Số Văn hoá thông tin tỉnh Kon Tum đã phát hiện sử thi của người Xê Đăng.
Đây có thể coi là phát hiện đầu tiên về
("1 xi *N “ . # ˆ . T5, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian.

VÕ QUANG TRỌNG


sử thi của dân tộc Xê Đăng ở Kon Tum. Phát hiện này có ý nghĩa quan trọng, góp phần khẳng định: Người Xê Đăng có sử thị!
Địa điểm phát hiện sử thi là làng Kon Gu I1, gọi theo tên mới là thôn 5 thuộc xã Ngọc Vang, huyện Đắk Hà, tĩnh Kon Tum. Xã Ngọc Vang cách thị trấn Đắk Hà 15km và cách trung tâm thị xã Kon Tum khoảng 35 km. Ngọc Vang có tám thôn người dân tộc Xê Đăng thuộc nhóm Sơdra cư trú và Tất thôn người Kinh mới thành lập. Tám làng cũ là Kon Chon, Kon Ré, Kon Ri,
Kon Tiêu, Kon Gu 1, Kon Gu 9, Kon Prăm, Đăk KDem. Làng Kon Gu 1 thuộc xã Ngọc
Vang hình thành từ lâu, người dân ở đây còn bảo lưu được đi sản văn hoá truyền thống của dân tộc mình, trong đó có sử thi với hình thức diễn xướng nghệ thuật sinh động và hấp dân.
Nghệ nhân hát kể sử thi “Đăm Giông” là A-Ar, 68 tuổi, người Xê Đăng - Sơddra hiện sống cùng gia đình con gái ở làng Kon Gu 1. Ông có giọng diễn xướng sử thi rành rõ và có sức truyền cảm mạnh mẽ. Không giống như nghệ nhân người Ba Na, MNông, Ê Đê, Gia Rai khi hát kể sử thi họ thường nằm nghiêng, đầu kê gối, mắt lim dim, nghệ nhân A-Ar khi hát kể sử thi Xê Đăng ngồi tựa vào vách, mắt mở. Sử thi “Đăm Giông” được ông hát kể một đêm hai ngày, gần như không nghỉ. Giọng ông đều, gương mặt, ánh mắt và miệng ông biểu hiện một cách sinh động trạng thái tính cách cũng như tình cảm của nhân vật trong tác phẩm. Nghe ông hát kể không chỉ bằng tai mà cả bằng mắt, nói cách khác, cảm nhận và thưởng thức sử thi qua ông phải bằng thính giác và thị giác mới thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ nghệ thuật mà ông đem lại. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
DĐ]
=—=—— 5ö 5 5 ễẽễÈŠŸ
Giọng hát kế của ông lúc ngân vang, lúc trầm, lúc nhanh, lúc chậm, lúc giận dữ, mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng tình cảm, Người nghe cảm nhận được tiếng nhạc ngựa, gió thổi, chim kêu và các loại âm thanh của khí giới, giông bão...
Buổi tối đầu tiên khi nghe ông diễn xướng sử thi dân làng kéo đến khá đông “Lâu lắm rồi ông mới hơmonhơri mà!”, A Điểm ngồi bên cạnh nói với tôi như vậy. Xã Ngọc Vang chưa có điện lưới quốc gia, nhưng người dân ở đây vẫn được xem qua máy thu hình và nghe rađiô sử dụng ắc quy. Do vậy hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian sinh động này đang dần dần mai một cùng với các nghệ nhân già đi với thời gian. Nỗi lo lắng của tôi là có cơ sở, khi tôi hỏi nghệ nhân: “Số người biết hát kế như ông ở trong làng và các làng khác bao nhiêu người? Ông cho biết: “Họ chết hết ca rồi!” Qua điều tra khảo sát, xã Ngọc Vang chỉ có một mình nghệ nhân A-Ar hát kể hay nhất hiện nay còn một vài người khác chỉ biết kể tóm tắt và không đầy đủ như ông.
Người Xê Đăng nhóm Sơdra gọi hình thức hát kể sử thi là hơmonhơri. Tác phẩm “Đăm Giông” mà chúng tôi sưu tâm được có độ dài gần 7 băng cátxét 90 phút. Nghệ nhân cho biết, có nhiều tác phẩm về nhân vật Giông. Sử thì “Đăm Giông” chỉ là một trong số nhiều tác phẩm về nhân vật này.
2. Nội dung sử thi “Đăm Giông” như sau: Thuở niên thiếu, Giông rủ em trai là Gldr đi săn thú rừng. Trên đường đi gặp linh Rang và Rinh Rông, thấy Giông là một thiếu niên tuấn tú, khoẻ mạnh, cả hai bắt Giông đem bán cho Jang Mat Na giàu có trong vùng với giá 250 con trâu. Biết Giông là người khoẻ mạnh, Jang Mat Na dẫn Giông đi sắm cho chàng vũ khí. Ông đưa Giông
đến Kít Đrô Dang Dar, thợ rèn giỏi trong vùng để rèn khiên và gươm., jJang Mat Na rất mừng vì thấy Giông là người khoẻ có thể sử dụng được loại khiên gió, khiên nước, khiên lửa.
Em trai của Giông là Gior chạy về báo cho gia đình biết Giông đã bị người lạ bắt đi rồi. Thế là cả nhà tản ra đi tìm. Khi đến làng của ông thợ rèn, anh trai Giông hỏi Kít Đrô Dang Dar đã rèn khiên gió, khiên nước, khiên lửa cho ai chưa và được ông cho biết đã rèn cho Jang Mat Na rồi. Hai người anh của Giông đoán em mình đã bị bán cho jang Mat Na, bèn nhờ con gái của ông thợ rèn đưa đến đấy. Đến nơi, Giông cho hai người anh biết trên đường đi săn bị hai kế xấu bắt đem đi bán. Các anh định xin Giông về nhưng Jang Mat Na không cho mà phải ở hai năm rưỡi, tương đương với 250 con trâu mà ông đã bỏ ra để mua Giông.
jJang Mat Na có cô con gái rất đẹp tên là jang Bar Ma (Bông hoa vàng). Giông rất thích con gái Jang Mat Na và cô gái Jang Bar Ma cũng rất thích Giông vì anh đẹp trai, khoẻ mạnh. jang Bar Ma không dám gọi Giông là đầy tớ mà gọi bằng anh. Cô nói với Giông: Anh không phải là đầy tớ, anh bị người ta bắt đem bán mà. Rồi cô rủ Giông đi rừng chơi. Khung cảnh núi rừng được mô tả thật thơ mộng, hoa nở khoe sắc bên dòng suối róc rách chảy, hương hoa toa ra thơm ngát. Trên cây chìm chóc hót líu lo. Giông và jJang Bar Ma vừa đi vừa chuyện trò rất vui rồi họ cùng hái rau, hoa quả rừng đem về. Về đến nhà, Giông lấy khèn dinh jơn thổi. Tiếng khèn của Giông cất lên nghe rất vul tai. Tiếng khèn lúc réo rắt lúc ngân nga, có sức cuốn hút mọi vật xung quanh khiến nàng ¿Jang Bar Ma chìm vào giấc ngủ. D2
VÕ QUANG TROỌNG


jJang Mat Na giàu có nhưng rất tốt bụng. Ông bảo với Giông rằng đừng nghĩ ta mua con về làm đầy tớ mà chính là muốn cứu con thoát khỏi hai kẻ xấu kia. Ta xem con như là con đề của ta.
Một đêm Giông nằm mơ thấy khiên gió, khiên lửa, khiên nước; dùng nó có thể bay lên trời đánh nhau sẽ phát ra gió, mưa, bão, lửa. Sáng ngủ dậy, Giông chạy đến chỗ ông thợ rèn xin rèn khiên theo ý mình. Giông vào rừng đốt than mang về cho Kít Drô Dang Dar để rèn khiên và gươm giống như đã mơ thấy.
Lúc đưa khiên về, jJang Bar Ma đang giã gạo. Giông đến cùng giúp, jJang Bar Ma bảo đi nghỉ nhưng Giông không chịu và nói: “Anh cũng biết ăn mà”.
Hai người anh của Giông rất tức kẻ đã lừa em mình rồi bắt đem bán nên đi tìm khắp nơi. Đi đến đâu cũng hỏi nhưng không ai biết. Người này nói chúng nó ở trên trời, người kia nói chúng nó ở dưới đất. Tìm mãi không được họ ghé qua nhà Jang Mat Na. Vào đến nơi thấy Giông và Jang Bar Ma đang giã gạo và trò chuyện thân mật, người anh hỏi Giông có phải hai người yêu nhau không. Giông nói: “Anh đừng giỡn, em còn nhỏ tuổi mà”.
jJang Mat Na tiếp hai anh của Giông rất thân mật, sau đó họ cùng đi tới làng của Rinh Rang và Rinh Rông. Lúc đó ca hai đang ngủ trong nhà. Anh em Giông kêu Rinh Rang và Rinh Rông ra hỏi, khi thấy đúng là hai kể đã bắt Giông. Cuộc chiến giữa họ bắt đầu. Giông cầm khiên và gươm bay lên không trung rồi gọi Rinh Rang, Rinh Rông bay lên đánh nhau. Tay Giông ấn vào khiên cả vùng trời mịt mù khói lửa,
mưa gió. Cây cối ở mặt đất ngả nghiêng, núi lở, đá vỡ, đánh hết ngày đến đêm trúng cả những vì sao trên trời. Cuối cùng Giông bắt được Rinh Rang và Rinh Rông. Các anh Giông hỏi nguyên có vì sao bắt Giông, cä hai đều trả lời do biếng làm nên bắt Giông đem bán.
Anh em Giông định bắt Rinh Rang, Rinh Rông về nhà nhưng cả hai đều không chịu. Giông dân Rinh Rang, Rinh Rông đến thác Mang Yang trói cả hai lại và thả xuống nước.
Một hôm Giông xin cha nuôi là jJang Mat Na đi mua muối. Giông cưỡi ngựa Tôm rôn ra đi, giữa đường gặp Turrimu, qua trò chuyện biết Giông đi mua muối, ông cũng xin đi theo để mua.
Khi đến làng để mua muối, thấy có khách lạ Pơtao cho người ra hỏi, Giông tra lời là ở làng Jang Mat Na tới mua muối. Người đi theo không phải là bố mà chỉ gặp giữa đường rồi cùng đến đây.
Sau khi Turrimu mua xong muối ông định về trước nhưng Giông đã nói cùng đi với nhau thì cùng về chứ không để ông về một mình, đừng ngại di chung ngựa.
Trên đường trở về, Turrimu mời Giông vào nhà nghỉ lại, nhưng Giông từ chối. Con gái Turrimu tên là Bar Ma tặng Giông chiếc nhẫn vàng làm kỉ niệm trước khi Giông ra về.
Giơr là em trai Giông ở nhà buồn nên Giông dẫn đi đến nhà cha nuôi chơi. Khi đến thấy con gái Jang Mat Na đang đan nia. Lúc sau cả ba người cùng rủ nhau đi bắt cá. Họ chuyện trò rất vui vẻ. Jang Mat Na thấy bọn trẻ đi bắt cá lâu lấy làm sốt ruột, sai vợ đi xem sao. Người vợ ra thấy ba đứa đang vui NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐÓ


đùa bèn về nhà mà không nói gì. Giơr thấy Jang Bar Ma rất đẹp, nó suy nghĩ mãi vì sao anh Giông lại không thích cô gái này.
Giông bảo em trai đến trò chuyện với jJang Bar Ma còn Giông đến gặp cha nuôi nói chuyện về em trai mình muốn lấy Jang Bar Ma. Cha nuôi không đồng ý, ông muốn gả con gái cho Giông nhưng Giông bảo rằng con đã ở đây coi như con trong nhà rồi. Giông coi Jang Bar Ma như là em gái mình nên không thể làm khác được. Sau đó, Jang Mat Na đồng ý để cho Giơr và Jang Bar Ma đi lại với nhau. Về sau Jang Mat Na cho phép làm lễ ăn hỏi. Sau lễ ăn hỏi, cô bảo với Giơr rằng từ nay anh đã có người thương rồi, thấy bông hoa khác không được hái nữa.
Làng bên có chàng trai Hơne Plinh, nghe tin con gái jJang Mat Na rất đẹp bèn đến xem. Tới nơi chàng gặp Giông, Giông hỏi cần gì, Hơne Plinh nói muốn gặp cô Jang Bar Ma. Giông bảo đó là em tôi nhưng Hơne Plinh không tìn. Khi nhìn thấy Jang Bar Ma thì Hơne Plinh rất thích và rắp tâm chiếm đoạt bằng được Jjang Bar Ma. Hơne Plinh là một chàng trai chuyên bỏ bùa để quyến rũ các cô gái đẹp. Một hôm đang bắt cá dưới suối, Giơr nghe thấy tiếng nhạc ngựa nhìn lên thấy Hơne Plinh đang đến chỗ họ rồi bỏ thuốc mê vào đầu Jang Bar Ma. Nàng xuống bắt cá nhưng đau đầu quá bèn về nhà nằm. Nhưng khi thuốc ngấm, /jJang Bar Ma say đắm Hơne Plinh và muốn chạy đi tìm chàng trai này. Giông chạy theo bắt về nhốt lại. jJang Bar Ma bị nhốt khóc lóc, cô trốn một lần, hai lần không được nhưng đến lần thứ ba thì thoát và đến với Hơne Plinh nhưng khi thấy Hơne
Plinh thì jJang Bar Ma không thích. Bố Hơne Plinh khuyên chàng thả cô gái ra nhưng Hơne Plinh không nghe mà còn muốn cưới jJang Bar Ma. Giơr nghe nói ở bên Nur Lao có thuốc giải mê bèn cất công đi kiếm thuốc về giải mê cho .Jang Bar Ma. Sau khi kiếm được thuốc về, Gidr bảo Giông cùng đi đến làng Hơne Plinh. Đến nơi, Giơr gọi Hơne Plinh ra và bảo răng Jang Bar Ma là vợ chưa cưới sao lại đám bắt về. Hơne Plinh nói rằng anh ta yêu Jang Bar Ma trước. “Vậy hỏi jJang Bar Ma yêu tôi hay là yêu anh?” - Giơr bảo Hơne Plinh. Khi Hơne Plinh kéo nàng ra, Giơr nhanh nhẹn bỏ thuốc giải mê vào đầu, cô dần dần tỉnh ra và trả lời yêu Giơr. Hai bên bèn cãi nhau rồi đánh nhau. Hơne Plinh bay lên không trung và bảo Giơr bay lên đánh nhau để khỏi hại đến dân làng. Cuộc chiến giành người đẹp bắt đầu.
Bầu trời mịt mù lúc mưa, lúc nắng. Đánh nhau ba bốn ngày thì Giơr thắng nhưng chàng không giết Hơne Plinh mà tha bổng. Cha của Hơne Plinh cho con trai của mình kết nghĩa làm anh em với Giơr và xoá bỏ thù hận. Giơr đưa jang Bar Ma về và Jang Mat Na tổ chức đám cưới cho hai người. Đám cưới rất đông, có tới 1.500 người đến dự. Trong số đó có nàng Bar Ma, con gái của Turrimu đã tặng Giông chiếc nhẫn vàng cũng đến dự. Đám cưới tổ chức rất vui, nhưng trong số khách dự có chàng Măng Lăng to cao đẹp trai nhìn thấy nàng Bar Ma xinh đẹp liền theo đuổi, nhưng bị cô từ chối vì đã có chàng Giông rồi. Măng Lăng nói với Bramă rằng tại sao tôi cao to đẹp trai mà cô không yêu. Khi biết Măng Lăng muốn bắt Bar Ma thì Giông rất tức giận. Sau đó đám cưới trở nên hỗn độn. Một bên 54
VÕ QUANG TRỌNG

là anh em Giông và bên kia là Măng Lăng đuổi đánh nhau. Khi chạy đến sa mạc, Măng Lăng bay lên cùng với khiên đánh tứ phía làm cho đất trời rung chuyển, khiến cho anh em Giông người bị gãy răng, người bị gãy chân. Nàng Bra Ma sợ quá ngất đi, Giông đưa cô về nhà rồi quay lại đánh nhau với Măng Lăng. Đánh xuống nước, nước bay lên trời, gió bão ầm ầm làm nhà đổ, cây cối ngả nghiêng. Bầu trời lúc nóng lúc lạnh. Thân Sấm không hiểu có chuyện gì mà ầm 1, náo động, bèn lấy kính thần ra quan sát và nhìn thấy Giông đang đánh nhau với Măng Lăng. Cuộc chiến diễn ra nhiều ngày đêm khiến cho thú rừng trong hang không chịu được chạy ra ngoài. Do đánh nhau, thần Nước cũng bị nóng. Thần Nước cử Gruli Yang hỏi Giông nguyên cớ gì mà đánh nhau. Giông bảo: Măng Lãng muốn cướp người yêu của tôi nên tôi đánh. Khi Grul Yang hỏi Măng Lăng thì bị Măng Lăng mắng lại: “Mày là ai mà dám hỏi tao”. Sau đó thần Nước thấy tất cả sông lớn, sông nhỏ đã cạn bèn họp các thủ lĩnh hợp lực giúp Giông. Thần Nước bắn mũi tên có khói làm cay mắt mũi, khiến Măng Lăng không thổ được và cuối cùng bị bắt.
Sau chiến thắng, thần Nước mời Giông xuống để ăn mừng, ban thưởng nhiều vật quý và nhờ Giông sau này khi có việc cần mong được sự giúp đõ của chàng. Trong buổi lễ ăn mừng, thần Nước cho con trai kết nghĩa anh em với Giông. Giông trở về gặp cha nuôi kể lại trận đánh với Măng Lăng và xin cha nuôi về thăm cha mẹ đẻ. Trên đường về nhà, chàng ghé thăm Bar Ma, vừa thấy Giông, cô đã vội chạy đến ôm chầm lấy anh mà khóc. Grui Yang, con thần
Nước ngắm nhìn người yêu của Giông từ đầu đến chân và thốt lên: “Đây là món quà xứng đáng đối với Giông”.
Cha của Bar Ma giục Giông cưới con gái mình, rồi cho tổ chức ăn hỏi. Anh của Giông đến thấy người yêu của em mình đẹp khen nức nở. Còn Nhong Gặp, anh trai Giông nhìn Bar Ma say đắm, khiến cô phải buông lời: “Anh nhìn gì thế?”. Nhong Gặp giật mình: “Xin lỗi, anh không biết là mình đang
Š3
làm gì”.
Gia đình Giông tổ chức ăn mừng. Thần Sấm xuống chúc mừng và khuyên Giông cần phải giúp đỡ mọi người rồi ban cho Giông nhiều phép lạ.
Cả nhà và dân làng vui vẻ chúc mừng Gilông, người anh hùng mạnh nhất trên thế gian.
3. Vài nhận xét bước đầu
“Đăm Giông” là tác phẩm sử thi tiêu biểu phản ánh cuộc sống lao động, sản xuất và chiến dấu, thể hiện tập trung và sinh động nhất qua nhân vật Giông. Giông là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, tiêu biểu cho chàng trai Xê Đăng: khoẻ mạnh, gan dạ, dũng cảm, thông minh và giàu lòng thương người. Chàng hành động vì lẽ phải, vì sự công bằng, qua chiến công kì vĩ nhằm khẳng định sức mạnh của mình. Giông là nhân vật lí tưởng, là ước mơ của người Xê Đăng trong bề dày truyền thống văn hoá của dân tộc.
Cuộc chiến phản ánh trong sử thi “Đăm Giông” chủ yếu đòi lại sự công bằng, trừng phạt những kẻ làm điều xấu và cuối cùng phần thắng luôn thuộc về người khoẻ mạnh, tài giỏi và đức độ. Sự trợ giúp của lực lượng siêu nhiên như thần Nước, thần Sấm thuộc
(Xem tiếp trang 49)

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 49
"ĐĂM GIÔNG", PHÁT HIỆN... (Tiếp theo trang 54)
về những ai hành động theo lẽ phải. Giông và Giơr chiến thắng Rinh Rang, Rinh Rông, Hơne Plinh và Măng Lăng là vì họ đã hành động chính nghĩa, đòi lại sự công bằng phù hợp với đạo lí của dân tộc Xê Đăng. Trong cảm nghĩ của người Xê Đăng, Giông là nhân vật chính diện, là ước mơ của người Xê Đăng từ ngàn xưa.
Trong sử thi “Đăm Giông”, tính cách của nhân vật được bộc lộ khá rõ, với nhiều chi tiết gây cười. Chẳng hạn khi Giơr tổ chức lễ cưới, Giông trêu em trai mình: “Em lấy vợ trước anh hay sao?” hay khi Nhong Gặp, anh trai Giông, ngắm nhìn Bar Ma say đắm khiến cô phải buông lời: “Anh làm gì thế?” làm cho Nhong Gặp giật mình: “Xin lỗi, anh cũng không biết mình đang làm gì nữa”.
Một điểm đáng chú ý là trong tác phẩm “Đăm Giông” kết thúc rất nhân đạo. Kẻ thua trận thường bị bắt, bị thu phục làm đầy tó hoặc kết nghĩa anh em, xoá bỏ hận thù. Chúng ta không thấy sự trả thù khốc liệt, tàn bạo của người chiến thắng. Đây có thể xem là nét độc đáo của sử thì “Đăm Giông”.
“Đăm Giông” là một tác phẩm độc lập trong bộ sử thi liên hoàn của người Xê Đăng. Đây chỉ là phát hiện đầu. Hy vọng trong thời gian tới, nhiều tác phẩm khác được sưu tầm sẽ tạo nên diện mạo sử thi của một dân tộc góp phần làm phong phú truyền thống văn hoá lâu đời của người Xê Đăng trên vùng đất cao nguyên.
V:Q.T