NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

30

GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỤC CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUổN Gốc NGÔN

NGỮ DÂN TỘC THIỂỤ sô ử THỪA THIÊN - HUÊ

TRẦN VẰN SÁNG

1. Dan nhập

nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số nói riêng, là một hướng tiếp cân liên ngành ngôn ngữ - văn hoá học về một vùng địa lí hội tụ nhiều lớp, nhiều tầng văn hóa có sự giao thoa, tiếp biến giữa các dân tộc chung sông trên địa bàn cư trú (Kinh, Chăm, Cơ Tu, Pa Cô - Ta Ôi). Trong quá trình hình thành và chuyển biến, địa danh không chỉ chịu tác động bởi các yếu tố ngôn ngữ mà còn cả các yếu tô" ngoài ngôn ngữ. Các yếu tô" này làm cho địa danh trỏ thành những “trầm tích sống” bằng ngôn ngữ, kí thác nhiều thông tin tư liệu quý giá đôì với các ngành khoa học: ngôn ngữ học, dân tộc học, văn hoá học, lịch sử và khảo cổ học.

1.3. ở Việt Nam, vấn đề địa danh từ lâu đã được nhiều nhà ngôn ngữ học, dân tộc học, địa lí học quan tâm (2). Tuy nhiên, mảng địa danh ngôn ngữ dân tộc thiểu sô' trên địa bàn Thừa Thiên - Huê" lâu nay vẫn đang còn chưa được ai nghiên cứu. Tiếp theo các nghiên cứu của chúng tôi gần đây(3), trong bài viết này, địa danh có nguồn gô"c ngôn ngữ dân tộc được xem xét trên cả hai phương diện: ngôn ngữ và văn hoá tộc'người; qua đó chỉ ra giá trị phản ánh hiện thực của mỗi địa danh trên địa bàn nghiên cứu.

1.1. Địa danh, trước hết, là một hiện tượng ngôn ngữ. Nó là những “khôi ngôn ngữ kí sinh” được dùng để định danh các đôì tượng địa lí. Nhưng địa danh được sinh ra cùng văn hoá, phát triển cùng văn hoá, do vây, nó cũng là một hiện tượng vãn hoá. Địa danh không chỉ thực hiện chức năng cơ bản là định danh sự vật, cá thể hoá đối tượng mà còn thực hiện chức năng phản ánh. Mỗi địa danh đều ra đòi trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nên nó phản ánh nhiều mặt xã hội xung quanh. Đây cũng có thể quan niệm là chức năng xã hội của địa danh. Ngoài ra, địa danh còn biểu hiện đặc điểm vãn hoá ngôn ngữ của cộng đồng. Mỗi địa danh hay một lớp địa danh đều gắn với văn hoá của cộng đồng hay từng khu vực cụ thể. Nói như A.V.Superanskaja, nhà địa danh học ngưối Nga, địa danh chính là “những tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thòi đại của mình”* (1). Theo đó, địa danh phản, ánh nhiều khía cạnh địa lí, lịch sử, văn hóa, dân tộc, kinh tế... nơi mà nó chào đời.

ở Thừa Thiên - Huê", các tộc người thiểu sô" chủ yếu cư trú ỏ huyện Nam Đông và A Lưổi, ngoài ra còn có một sô" nhỏ sinh sông ở các huyện Phú Lộc, Hương Trà và Phong Điền. Pa Cô - Ta Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều là ba tộc ngưòi thiểu sô" sông tựa vào sơn hệ Trưồng Sơn, tạo thành một bộ phận gắn kết lâu đời trong bức tranh dân cư Thừa Thiên - Huế. Nghiên cứu giá trị phản ánh hiện thực của địa danh là một cánh cửa rộng mỏ cho việc tiếp cận bức tranh văn hoá - tộc người đầy sinh động và giàu màu sắc 1.2. Nghiên cứu địa danh ỏ Thừa Thiên - Huế nói chung, địa danh có

31

TẠP CHÍ VHDG SỐ 5/2010

trong đời sông của các dân tộc thiểu số định cư trên dải Trường Sơn Bắc này.

2.2. Địa danh phản ánh các phương diện văn hoá của các tộc người sôhg trên địa bàn nghiên cửu

2. Nội dụng vấn đề 2.1. Khảo sát, thống kê 2.248 địa danh ở Thừa Thiên - Huế, chúng tôi tiến hành phân loại chúng theo hai tiêu chỉ sau:

Địa danh ra đời trong một khoảng không gian và thòi gian nhất định và gắn với một chủ thể định danh nhất định; nó ghi lại rõ nét nhất những đặc điểm về địa lí tự nhiên của một vùng đất và đặc điểm văn hoá, tâm lí tộc người của chủ thể văn hoá. Đặc điểm văn hoá - tộc người của địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu sô' ỏ Thừa Thiên - Huê' thể hiện qua ba nhân tô': chủ thể văn hoá, không gian văn hoá và thòi gian văn hoá. Căn cứ vào ngôn ngữ tạo địa danh, các địa danh ở Thừa Thiên - Huế được phân thành hai nhóm chính: a) Nhóm các địa danh tiếng Việt, bao' gồm Hán Việt và Thuần Việt (1763 địa danh); b) Nhóm các địa danh tiếng dân tộc thiểu số (485 địa danh).

2.2.1. Sự phản ánh đặc điểm không gian văn hoá qua địa darìh ngôn ngữ dân tộc

Không gian văn hoá của địa danh tiếng dân tộc ở Thừa Thiên - Huê' thể hiện qua các phương diện: đặc điểm địa hình tự nhiên, thê' giói thực vật, thế giới động vật gắn với vùng đất chứa địa danh. Căn cứ vào 'đối tượng địa lí mà địa danh phản ánh, chúng tôi chia địa danh Thừa Thiên - Huế thành ba nhóm chính: a) Nhóm các địa danh hành chính - cư trú (1327 địa danh, chiếm 59%); b) Nhóm các địa danh công trình xây dựng (382 địa danh, chiếm 17%); c) Nhóm các địa danh chỉ đối tượng địa hình tự nhiên (539 địa danh, chiếm 24%).

Trong số 485 địa danh dân tộc thiểu số thu thập được, nhóm địa danh có nguồn gốc tiếng Pa Cô - Ta Ôi và Cơ Tu chiếm đa số; nhóm các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc khác Bru - Vân Kiều, Chăm cổ chiếm một phần nhỏ và một sô' địa danh hiện vẫn chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc ngôn ngữ tạo nên chúng.

2.2.1.1. Sự phản ánh đặc điểm địa hình tự nhiên: địa danh ngôn ngữ dân tộc phản ánh qua cách định danh theo đặc điểm địa thế, hình dáng, vị trí riêng của một vùng đất. Qua các địa danh, chúng ta biết thêm về những thông tin thú vị về địa lí tự nhiên tỉnh Thừa Thiên - Huế, đặc biệt vùng cao nguyên Trung Trường Sơn. Cư dân các dân tộc thiểu sô' chủ yếu định cư ỏ miền tây Thừa Thiên - Huế, với đặc điểm địa hình núi non hiểm trở, nhiều đèo nhiều suối nằm chênh vênh giữa núi rừng heo hút. Đặc điểm địa lí tự nhiên nổi bật này được phản ánh rõ nét qua nghĩa của các địa danh.

Sự có mặt đầy đủ các loại hình địa danh và sự phong phú về ngôn ngữ tạo địa danh qua sồ' liệu thống kê ở trên cho thấy rõ: Thừa Thiên - Huế là một vùng đất có bề dày lịch sử văn hoá và giàu bản sắc. Bức tranh ngôn ngữ văn hoá tộc người giàu bản sắc ấy, trước hết, được thể hiện qua hệ thông địa danh. Mỗi địa danh là một “vật dẫn văn hoâ” về vùng đất mà nó chào đòi. + Địa danh phản ánh đúng hiện thực •đặc điểm hình dáng và kích thước của đôĩ tượng địa lí nơi vùng đất chứa nó. Nhóm địa danh Pa Cô - Ta Ôi: động Tam Boi

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

32

Lưng (Arum Karrrúm: núi phía dưới mặt trăng). Nhóm địa danh Cơ Tu: núi Bơ Lạch (Parleech: điểm cuôì); khe Tu'Chùn (Tíí Chưnh: ngọn núi đá); núi A Tây Luật (Atilượt: đi qua, vượt trước đi); núi Cha Lu (Challuch: tuột xuống); núi Bol Dol (BồZ Dol: động ngang qua).

Các đặc điểm về . hình dáng, kích thước, vị trí được chủ thể định danh lựa chọn để gọi tên các đối tượng địa lí đã phản ánh trung thực những đặc điểm nổi bật về địa hình nơi địa bàn mà các dân tộc thiểu số đang cư trú.

(Tambơơi: động nhô ra như cằm người), sông Tà Rình (Tarreenh: từng miếng/lát một), núi A Sáp (Asap: hình ảnh như tô’ ong), đồi Đon Pa Ní (DoZ Pamis: đồi hình cái chổi), đầm A Roi (Aroi: đầm hình cái đuôi con vật), sông Bơ Lung (PaZZiZng: sông hình cái bụng của người/động vật), núi A Pi Lát (ẠpZaí: hình lép không bình thường); khe A Ve (Avér: ngắn, nhỏ), thôn Tru (Tru: sâu), thôn Tà Kêu (Takêu: cao chỏng), núi Ka Tanh (Katăng: căng ra}. Nhóm địa danh Cơ Tu: núi A Sap (Asap: hình dáng tổ ong); núi A Hô (Ahơaq: hố miệng); núi Cha Vung (Chagung: cong que, co quắp).

2.2.1.2. Sự phản ánh thế giới thực vật qua địa danh: Việc dùng tên cây cỏ để đặt địa danh là một hiện tượng phô’ biến bởi thực vật là yếu tố tự nhiên gần gũi với con người, trực quan và thường được nhận biết sớm. Thế giới thực vật được phản ánh một cách phong phú nhất qua địa danh phải nói đến các địa danh dân tộc thiểu sô', tạo nên một nét văn hoá dân dã trong lối định danh của cư dân bản địa. Loại địa danh dân tộc thiểu số, chẳng hạn địa danh tiếng Pa Cô - Ta Ôi, gọi theo tên thực vật có thể phân chia theo đặc điểm của từng loại thực vật do tính phong phú của nó:

+ Địa danh miêu tả rõ tính chất của đối tượng được gọi tên. Nhóm địa danh gốc Pa Cô - Ta Ôi: thôn Loá (Loah: sạch trơn), thôn Chai (Chaih: tháo vát), núi Cô Bung (Kapúng: ôm ấp), suối Tà Ay (Ta-ăi: làm cho đau), núi Cù Mông (Kammoóng: siêng năng), sồng Tà Hàm (Taham: làm cho chảy máu), núi Li Leng (Lileng: chắc, bền), thôn Cô Lênh (Kléng: làm cho mặn mòi, ngọt ngào), thôn A Bã (A6õg: chỉ sự mặn mòi, đằm thắm), thôn Ka Lô (Klô: có nghĩa là xấu hổ). Nhóm địa danh Cơ Tu: sông Bao Lác (Parlak: khoái cảm); thôn Cha Đu (Chadu: nấp, che); thôn Poi Ring (Paring: làm cho thấu đáo); khe Nà Sặt (Rsặt: chật chội).

+ Các thực vật thông thưòng, phổ biến: thôn A Roh (Aróh: lá tơi), thôn A Ho (Aho: cây trúc), thôn La Ngà (Langa: cây tre vàng), thôn A Ngo (Ango: cây thông dùng đun củi, thắp lửa), thôn A Sam (Ạsam: một thứ rau như rau dền), núi Ta Vi (Taviar: cây giang), núi A Túc (Atuk: một loại cây vả), đồi Kru (Krul: cây chôm chôm), núi A Chét (Acheat: cây tranh lợp nhà), đèo A Năm (Anăm: một loại rêu có thể ốn được), thôn A Min (Amin: một loại cây cùng họ với cây mây), thôn Mù (Mu: + Địa danh phản ánh đúng vị trí, địa điểm hình thành đối tượng được gọi tên. Nhóm địa -danh Pa Cô - Ta Ôi: đồi Tu Nơ Trong (Tu Ntrong: đầu của một chiếc cầu), đồi Tu Ắt (Tu Ầt: đầu nguền cư trú của gấu k h ỉ), đồi Ka Lâm (Kallơơm: điểm tiểu tiện), gò A Xin (Asil: điểm dốc nghỉ ngơi khi đi rừng về), khe Tu Tôm (Tu Toóm: đầu một con sụôì), suối Ka Tê (Katéh: phía trên kia), núi À Rum Cà

TẠP CHÍ VHDG SỐ 5/2010

31

trong đời sông của các dân tộc thiểu số định cư trên dải Trường Sơn Bắc này.

2.2. Địa danh phản ánh các phương diện văn hoá của các tộc người sống trên địa bàn nghiên cứu

2. Nội dụng vân đề 2.1. Khảo sát, thống kê 2.248 địa danh ở Thừa Thiên - Huế, chúng tôi tiến hành phân loại chúng theo hai tiêu chí sau:

Địa danh ra đời trong một khoảng không gian và thòi gian nhất định và gắn với một chủ thể định danh nhất định; nó ghi lại rõ nét nhất những đặc điểm về địa lí tự nhiên của một vùng đất và đặc điểm văn hoá, tâm lí tộc người của chủ thể văn hoá. Đặc điểm văn hoá - tộc ngưòi của địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu sô' ỏ Thừa Thiên - Huê' thể hiện qua ba nhân tố: chủ thể văn hoá, không gian văn hoá và thòi gian văn hoá. Căn cứ vào ngôn ngữ tạo địa danh, các địa danh ở Thừa Thiên - Huế được phân thành hai nhóm chính: a) Nhóm các địa danh tiếng Việt, bao' gồm Hán Việt và Thuần Việt (1763 địa danh); b) Nhóm các địa danh tiếng dân tộc thiểu số (485 địa danh).

2.2.1. Sự phản ánh đặc điểm không gian văn hoá qua địa darìh ngôn ngữ dân tộc

Không gian văn hoá của địa danh tiếng dân tộc ở Thừa Thiên - Huê' thể hiện qua các phương diện: đặc điểm địa hình tự nhiên, thê' giới thực vật, thế giới động vật gắn vói vùng đất chứa địa danh. Căn cứ vào đôĩ tượng địa lí mà địa danh phản ánh, chúng tôi chia địa danh Thừa Thiên - Huế thành ba nhóm chính: a) Nhóm các địa danh hành chính - cư trú (1327 địa danh, chiếm 59%); b) Nhóm các địa danh công trình xây dựng (382 địa danh, chiếm 17%); c) Nhóm các địa danh chỉ đôĩ tượng địa hình tự nhiên (539 địa danh, chiếm 24%).

Trong sô' 485 địa danh dân tộc thiểu sô' thu thập được, nhóm địa danh có nguồn gốc tiếng Pa Cô - Ta Ôi và Cơ Tu chiếm đa sô'; nhóm các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc khác Bru - Vân Kiều, Chăm cổ chiêm một phần nhỏ và một sô' địa danh hiện vẫn chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc ngôn ngữ tạo nên chúng.

2.2.1.1. Sự phản ánh đặc điểm địa hình tự nhiên: địa danh ngôn ngữ dân tộc phản ánh qua cách định danh theo đặc điểm địa thế, hình dáng, vị trí riêng của một vùng đất. Qua các địa danh, chúng ta biết thêm về những thông tin thú vị về địa lí tự nhiên tỉnh Thừa Thiên - Huế, đặc biệt vùng cao nguyên Trung Trường Sơn. Cư dân các dân tộc thiểu sô' chủ yếu định cư ở miền tây Thừa Thiên - Huế, vổi đặc điểm địa hình núi' non hiểm trỏ, nhiều đèo nhiều suối nằm chênh vênh giữa núi rừng heo hút. Đặc điểm địa lí tự nhiên nổi bật này được phản ánh rõ nét qua nghĩa của các địa danh.

Sự có mặt đầy đủ các loại hình địa danh và sự phong phú về ngôn ngữ tạo địa danh qua sô' liệu thông kê ỏ trên cho thấy rõ: Thừa Thiên - Huê' là một vùng đất có bề dày lịch sử văn hoá và giàu bản sắc. Bức tranh ngôn ngữ văn hoá tộc người giàu bản sắc ấy, trước hết, được thể hiện qua hệ thông địa danh. Mỗi địa danh là một “vật dẫn văn hoá” về vùng đất mà nó chào đòi. + Địa danh phản ánh đúng hiện thực ■đặc điểm hình dáng và kích thước của đôì tượng địa lí nơi vùng đất chứa nó. Nhóm địa danh Pa Cô - Ta Ôi: động Tam Boi

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

32

Lưng (Arum Karrrúm: núi phía dưới mặt trăng). Nhóm địa danh Cơ Tu: núi Bơ Lạch (Parleech: điểm cuối); khe Tu'Chùn (Tu Chưnh: ngọn núi đá); núi A Tây Luật (Atiỉượt: đi qua, vượt trước đi); núi Cha Lu (Chálluch'. tuột xuống); núi Bol Dol (Bôl Doi', động ngang qua).

Các đặc điểm về hình dáng, kích thước, vị trí được chủ thể định danh lựa chọn để gọi tên các đối tượng địa lí đã phản ánh trung thực những đặc điểm nổi bật về địa hình nơi địa bàn mà các dân tộc thiểu sô" đang cư trú.

(Tambơơi: động nhô ra như cằm ngưòi), sông Tà Rình (Tarreenh: từng miếng/lát một), núi A Sáp (Asap: hình ảnh như tổ ong), đồi Đon Pa Ní (Dol Parnis: đồi hình cái chổi), đầm A Roi (Ạroi: đầm hình cái đuôi con vật), sông Bơ Lung (Pallúng: sông hình cái bụng của ngưdi/động vật), núi A Pi Lát (Ạplat: hình lép không bình thường); khe A Ve (Ạvér: ngắn, nhỏ), thôn Tru (Tru: sâu), thôn Tà Kêu (Takêu: cao chỏng), núi Ka Tanh (Katăng: căng rạ). Nhóm địa danh Cơ Tu: núi A Sap (Asạp: hình dáng tổ ong); núi A Hô (Ạhơaq: há miệng); núi Cha Vung (Chagung: cong que, co quắp).

2.2.1.2. Sự phản ánh th ế giới thực vật qua địa danh: Việc dùng tên cây cỏ để đặt địa danh là một hiện tượng phổ biến bởi thực vật là yếu tố tự nhiên gần gũi với con người, trực quan và thường được nhận biết sớm. Thế giổi thực vật được phản ánh một cách phong phú nhất qua địa danh phải nói đến các địa danh dân tộc thiểu sô", tạo nên một nét văn hoá dân dã trong lối định danh của cư dân bản địa. Loại địa danh dân tộc thiểu sô", chẳng hạn địa danh tiếng Pa Cô - Ta Ôi, gọi theo tên thực vật có thể phân chia theo đặc điểm của từng loại thực vật do tính phong phú của nó:

+ Địa danh miêu tả rõ tính chất của đôĩ tượng được gọi tên. Nhóm địa danh gốc Pa Cô - Ta Ôi: thôn Loá (Loah: sạch trơn), thôn Chai (Chaih: tháo vát), núi Cô Bung (Kapúng: ôm ấp), suồì Tà Ay (Ta-ăi: làm cho đau), núi Cù Mông (Kammoóng: siêng năng), sông Tà Hàm (Taham: làm cho chảy máu), núi Li Leng (Lileng: chắc, bền), thôn Cô Lênh (Kléng: làm cho mặn mòi, ngọt ngào), thôn A Bã (Abăq: chỉ sự mặn mòi, đằm thắm), thôn Ka Lô (Klô: có nghĩa là xấu hổ). Nhóm địa danh Cơ Tu: sông Bao Lác (Parỉak: khoái cảm); thôn Cha Đu (Chadu: nấp, che); thôn Poi Ring (Paring', làm cho thấu đáo); khe Nà Sặt (Rsặt: chật chội).

+ Các thực vật thông thưòng, phổ biến: thôn A Roh (Ạróh: lá tơi), thôn A Ho (Aho: cây trúc), thôn La Ngà (Langa: cây tre vàng), thôn A Ngo (Ạngo: cây thông dùng đun củi, thắp lửa), thôn A Sam (Ạsam: một thứ rau như rau dền), núi Ta Vi (Taviar: cây giang), núi A Túc (Atuk: một loại cây vả), đồi Kru (Krul: cây chôm chôm), núi A Chét (Ạcheat: cây tranh lợp nhà), đèo A Năm (Ạnăm: một loại rêu có thể ăn được), thôn A Min (Amin: một loại cây cùng họ với cây mây), thôn Mù (Mu: + Địa danh phản ánh đúng vị trí, địa điểm hình thành đối tượng được gọi tên. Nhóm dia~-danh Pa Cô - Ta Ôi: đồi Tu Nơ Trong (Tu Ntrong: đầu của một chiếc cầu), đồi Tu Ắt (Tu Ầt: đầu nguồn cư trú của gấu k h ỉ), đồi Ka Lâm (Kallơơm: điểm tiểu tiện), gò A Xin (Ạsil: điểm dốc nghỉ ngơi khi đi rừng về), khe Tu Tôm (Tu Toóm: đầu một con sựối), suôi Ka Tê (Ratéh: phía trên kia), núi A Rum Cắ

TẠP CHÍVHDG SỐ5/2010

33

một loại cây mây), thôn A Bung (Ạbung: cây lồ ô).

+ Các loại cây mang tính tâm linh, thường là nơi ngự trị của các vị thần*linh. Chẳng hạn, thôn Pi Ring (Piring: một thứ quả ổi rừng), thôn A Đâng (Ạdâng: một thứ rau cải rừng), thôn Ỷ Ri (Iri: cây đa), thôn Ta Rã (Taraq: cũng thuộc họ cây đa), suối A Xôm (Ạsoom: tua cây nêu ngày 'yết).

Thiên Huế được gọi tên theo, tên các loài vật chiếm số lượng đáng kể. Chẳng hạn, các địa danh tiếng Pa Cô - Ta Ôi phản ánh vãn hoá dân dã về lốì ứng xử với môi trường tự nhiên qua thế giói loài vật. Đó là những loài vật sồng trên cạn: sông A Ling (Aỉing: con kiến nói chung), sông A Lin (Ạỉin: sinh linh bé nhỏ), suôĩ Hu (Hu: động vật đầu lợn mình chó), sông Pling (piỉng: chim phượng), khe Cà Xinh (Kaseénh: con rắn), đồi A Ria (Abỉáh: một loại sóc), suôĩ A Á (Ạ-aq: con quạ), thôn A Đớt (Ạdơơs: một loại khỉ), sông A Lim (Alim: con châu chấu),... Và 'có cả những loài vật sông dưới nước: thác Ra Ka (ơrka: một loại cá suối), núi A Ha (Ahar: một loại ếch đá), núi A Rur (Abrur: một loại cá trắm), thôn A Hưa (Ạkơơar: ếch ộp). Dân tộc Cơ Tu cũng lựa chọn những động vật quen thuộc, gắn với đời sống sinh hoạt của cộng đồng để đặt tên cho sông, núi, khẹ, suôi, thôn bản: sông Dòng (Joong: một loại nai), khe Dong (Yong: một loại chim sáo); nứi Tà Lu (Tilu: con thằn lằn nhỏ); thôn Ka Dong (Kajoong: con kì nhông).

+ Các địa danh gọi tên theo các sản vật địa phương, phần lớn là những loại sản vật được trồng trên đồi núi như: thôn Ka Rôn (Karông: một loại sắn ngon), thôn Pa Ri (Paris: củ riềng thưòng dùng trong chế biến các món thức ăn hàng ngày), thôn Poi Ring (Poiring: thứ trái cây ngon dùng đãi khách quý), núi A Lau (ơrlau: một loại cây tiêu rừng), núi A Tùng (Atúng: một loại mía ngon), thôn Ta Lo (Talo: cây cọ). Ngoài rà còn có những sản vật được thiên nhiên ban tặng riêng cho ngưòi dân bẳn đỉạ như: thôn Chỉ Hóa (chihoar: tiêu rừng được xem là loại gia vị đặc biệt của người Ta Ôi), thôn Priêng (tên một loại quả rừng), thôn A Tia (Aíia: một loại tiêu rừng), thôn A Đên (Ạdên: một loại môn rừng)...

Nhóm các địa danh ngôn ngữ Cơ Tu tuy ít hơn nhóm địa danh Pa Cô - Ta Ôi song cụng phản ánh được những loại cây cỏ hết sức đặc trưng cho vùng đất mà tộc người Cơ Tu cư trú. Chẳng hạn, khe Ta Ra (Taraq: bồ kết); thôn Ky Ré (Ịữre: cây mây); động Kam (K3m: môn tía); khe A Ro (Ạroq: môn đỏ); núi A Vi (Aviq: cơm); núi Chà Tang (Chitang: cây nứa).

2.2.1.3. Sự phản ánh th ế giới động vật qua địa danh: So với các địa danh thuần Việt và Hán Việt, địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu 8ố ỗ Thừa Như vậy, môi trường tự nhiên hội đủ các đặc điểm về tính chất và địa hình vùng đất, một thế giới động - thực vật phong phú gắn với đặc trưng vùng cao nguyện miền Trung, tất cả đều được “hoá thân” thành địa danh, qua đó khắc hoạ rõ nét nhất một không gian văn hoố của các tộc người ỏ Thừa Thiên - Huế giàu bản sắc. Sinh tụ trên dạng môi trường đặc thù, các dân tộc ít ngưòỉ nơi đầy đều xem rừng núi, cây cỏ, sông suối như bà mẹ lớn, không chỉ nơi cung cấp thức ăn, thức uống, nguyên liệu làm nhà mà còn là chôn nuôi dưỡng đời sống tâm linh, tinh thần, khỗi nguồn cho mạch sống văn hoá. Con người và rừng gắn chặt với nhau, hoà

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

34

quyện vào nhau, và sức sông và âm vang của núi rừng đã tạo nên một không gian văn hoá đầy sinh khí.

2.2.2. Sự phản ánh các giá trị văn hoá lịch sử qua địa danh tiếng dân tộc

Nếu “văn hoá là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả” theo cách nói của Edouart Herriot® thì cũng có thể nói địa danh là một trong những “cái còn lại” đó, trở thành “vật hoá thạch” lưu giữ nhiều thông tin lịch sử văn hoá của một thời đại. Ngoài các tài liệu thư tịch cổ, địa danh là một trong những nguồn ngữ liệu quý giá có thể phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử, ghi lại rõ nét tất cả những dấu ấn về lịch sử đã từng xảy ra trên vùng đất mà địa danh chào đời. Giá trị phản ánh hiện thực về phương diện thời gian văn hoá, tức m ặt lịch sử phát triển và hình thành của địa bàn cư trú, của địa danh dân tộc thiểu số ở Thừâ Thiên - Huế rấ t phong phú và đa dạng, thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau.

2.2.2.1. Mỗi địa danh ra đòi trong một hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định. Do vậy, các địa danh ngôn ngữ dân tộc ở Thừa Thiên - H uế là một trong những nguồn tàỉ liệu có thể giúp các nhà sử học, dân tộc học nghiên cứu về quá trình di trú của một hay nhiều tộc người trong lịch sử. Thừa Thiên - Huế, trước khi trở triều thành vùng đất kinh sư của Nguyễn, xét về lịch sử hình thành và phát triển, nó được biết đến là vùng đất “phên dậu”, “biên viễn xa xôi”, nơi cư trú của tộc người Chăm, và cư dân Môn - Khơ Me bản địa. Nhiều địa danh còn bảo lưu những “dấu vết” của dân tộc Chăm (Chàm) và các cuộc di dân của người Kinh (Việt) trong tiến trình lịch sử văn hoá vùng Thuận Hoá. Dựa vào những tài liệu lịch sử và địa chí có giá trị phản ánh hiện thực vùng đất Thừa Thiên - Huế ngày nay, chúng ta có thể nêu lên giả thuyết rằng những địa danh được cấu tạo bằng các yếu tố không phải Hán Việt và thuần Việt là những chứng tích ghi lại dấu vết cư trú của người Chăm và cư dân nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me như Ta Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều. Bằng cách truy tìm từ nguyên các địa danh, chúng ta có thể lí giải nguồn gốc các địa danh: sông Ô Lâu, Thành Lồi có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chăm cô’; các địa danh Sịa, Truồi, nơi hiện đa số người Kinh sinh sông, lại có nguồn gốc từ các ngôn ngữ nhóm Môn - Khơ Me. Bằng chứng là, “Lồi” trong Thành Lồi có thể là biến âm của từ “Hồi” (ngưồi Hồi, tức người Chăm); “Ô” trong Ô Lâu vốn có nghĩa chỉ đôì tượng “sông” trong tiếng Chăm cổ, theo quy luật biến âm “0” - “lô” tương tự: “lặng” - “ắng”, “lì” - “ì”), một sự thể hiện của nhóln các yếu tố khloong, lương, loong, lô, lâu... chỉ sông trong các ngôn ngữ Đông Nam Á cổ đại®. Trong khi đó, theo nguồn tư liệu điền dã chúng tôi có được, “Sịa” có hình thức ngữ âm cổ là “Séaq”, âm hiện nay là “Asiu” có nghĩa là “cá” trong tiếng Ta Ôi; hay “Truồi” là địa danh gốc dân tộc thiểu số, có nghĩa là “con gà” trong tiếng Bru - Vân Kiều (ntruôỉ) hay trong tiếng Pa Cô - Ta Ôi (atruôi). Có thể nói, những vùng đất mà người Kinh (yiệt) đang sinh sống với xóm làng đông đúc, thực chất trước đây đã là nơi cư trú của người Chăm hoặc cư dân Môn - Khơ Me. Điều này chứng tỏ, trong lịch sử phát triển vùng đất Thừa Thiên - Huế, đã có những cuộc di trú của cư dân Môn - Khơ Me (Ta Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiểu) từ vùng đồng bằng lên vùng núi cao để tụ cư, lập làng. Hay nói cách' khác, trước khi người Kinh (Việt) đặt

TẠP CHÍ VHDG SỐ 5/2010

35

chân đến, vùng đất này vốn trước đây là nơi cư trú của người Chăm và cư dân Môn - Khơ Me bản địa.

kiện lịch sử đã xảy ra trên một vùng đất. Nhắc đến đồi A Bia thuộc huyện A Lưới, chúng ta liên tưởng ngay đến những trận đánh khốc liệt trong thời kì kháng chiến chông Mỹ. Đồi A Bia được gọi là “Đồi thịt băm” cũng do tính khốc liệt nói trên, mặc dù theo nguồn gốc tiếng Cơ Tu, A Bia là cách Việt hoá của “Abiah”, nghĩa là một loại sóc có ỗ chôn này. Hiện nay, địa danh này trở thành di tích lịch sử chiến tranh nổi tiếng và là nơi hàng trăm du khách ghé thăm mỗi lần lên vùng cao A Lưối. Mỗi ngọn núi, dòng sông, con suối từ Hồng Vân - Cu Tai phía bắc đến A Đớt, A Roàng phía nam, những cái tên động A So - A Túc, A Bia - Lam Sơn, động Tiên Công, sân bay A So, A sầu, A Lưới, dốc con Mèo,... tấ t cả những địa danh lịch sử đó đều gắn liền với những sự tích anh hùng, gắn liền với lịch sử quê hương, mà mỗi khi nhắc tởi, chúng ta không giấu nổi niềm tự hào, xúc động về những đóng góp to lổn của bao thế hệ cán bộ chiến sĩ, đồng bào đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

Lịch sử phát triển hơn 700 năm vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân, kể từ cuộc hôn nhân lịch sử Chăm - Việt, Châu Ô, Châu Rí đã thuộc về chủ quyền quốc gia Đại Víệt(1306) và cũng từ đó cho đến nay hên tiếp, dồn dập diễn ra những đợt di dân lổn nhỏ từ Bắc vào, từ Nam ra trên đất Thừa Thiên - Huế, trong đó đợt di dân thời kỳ các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI) là lổn, ồ ạt và đáng quan tâm nhất, nhưng đáng kể nhất vẫn là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh chuyển vào. Quá trình di trú nói trên phần nào được phản ánh qua các địa danh. Chẳng hạn, các làng Khuông Phò, Dương Nỗ, Mỹ Xuyên vôh có tên cũ từ các làng Phò Lê, Nguyệt Viên, Đa cảm di cư từ Thanh Hoá vào. Đặc biệt, khi tìm hiểu các địa danh gốc dần tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện được nhiều “dấu vết” cho quá trình di trú của cư dân sông trên địa bàn. Có những địa danh được đem từ bên nước bạn Lào sang theo con đường di dân của dân tộc Ta Ôi như thôn A Rum Cà Lưng, thôn AĐổt,...; có những địa danh được hình thành theo con đưdng di dân của người Kinh sau 1975 lên vùng núi sinh sông bằng cách giữ nguyên tên gọi vùng đất cố hương của mình ở đồng bằng như Hương Giang, Qúảng Phú, Hồng Thượng, Hồng Quảng, Hồng Thuỷ,... của huyện Nam Đông, A Lưới.

2.2.2.2. Địa danh là một phạm trù lịch sử, mang những dấu vết của thòi điểm mà nó chào đòi. Vì thế, nó được xem là “đài kỷ niệm” hay là “tấm. bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thòi đại của mình”. Vì vậy, địa danh ỗ Thừa Thiên - Huế còn cho chúng ta biết được các biến cố - sự Ngoài ra, địa danh ở Thừa Thiên - H uế còn cho chúng ta biết thêm những thay đổi về địa giới và các đơn'vị hỳrih chính của vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân với lịch sử trên 700 năm hình thành và phát triền. Quá trình hình thành, m ất đi của các địa danh hành chính đánh dấu sự phát triển, mỗ rộng không ngừng của vùng đất mới sau khi trỏ về vối Đại Việt. Thừa Thiên - Huế từ thời điểm đó đến nay đã phải chứng kiến nhiều lần “thay da, đổi thịt” qua nhiều giai đoạn và triều đại thông trị khác nhau. Theo Ô Châu cận lục (1555) của Dương Văn An(6), Thừa Thiên - Huế thòi điểm đó có 170 xã, 21 thôn, 89 sách; trong Phủ biên tạp lucm(1776), Lê Quý Đôn

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

36

góp cho đồng bào, quê hương, Tổ quốc. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các địa danh nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc ở Thừa Thiên - Huế phản ánh tên ngưòi thể hiện trên mấy khía cạnh sau:

thông kê được 23 tông, 234 xã, 23 thôn, trang; 84 phường, 9 giáp, ấp, sách, Những năm 1810 - 1818, Gia Long cho lập địa bạ dinh Quảng Đức, thống kê được 20 tổng, có khoảng 354 xã thôn(8). Sự thay đổi, hình thành các đơn vị hành chính mới cho thấy sự phát triển lớn mạnh của cư dân Thuận Hoá - Phú Xuân theo dòng lịch sử.

Sự duy trì tên gọi các làng cổ cho đến ngày nay là những bằng chứng sông động về chức năng bảo tồn của địa danh, góp phần lưu giữ những giá trị lịch sử và sự phát triển về mặt kinh tế - xã hội của Thừa Thiên - Huế qua các thời kì khác nhau. Những tên làng hiện nay như: Sình, Sịa, Sam, Nong, Truồi,... có thể có nguồn gốc Việt cổ hoặc ngôn ngữ dân tộc thiểu số Chăm, Pa Cô - Ta Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều.

2.2.3. Sự phản ánh phương diện chủ Địa danh dân tộc thiểu số được đặt theo tên người đã góp phần phản ánh đặc điểm văn hoá của chủ thể văn hoá là cư dân Môn - Khơ Me sông trên mảnh đất Thừa Thiên - Huế. Phần lổn các địa danh dân tộc đặt theo tên những vị anh hùng của cộng đồng, là nhân vật trong các truyền thuyết, sử thi hay những ngưòi có công khai phá làng bản thôn xóm. Chẳng hạn, các địa danh Pa Cô - Ta Ôi: đồi Pơ Rok (Prók: tên một nhân vật tiêu biểu trong làng ỏ xã A Đớt), núi Quỳnh Trên (Koonh Trên: tên nhà cách mạng, nhà lãnh đạo huyện A Lưới), thôn A Lưối (Ạỉơaiq: nhân vật anh hùng của cộng đồng trong sử thi), thác A Nô (Ạnôr: nhân vật lịch sử trong sử thi). thề văn hoá qua địa danh tiếng dân tộc

Mỗi địa danh là những bài học ngắn gọn viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc mình. Đặc biệt, địa danh gắn vối danh nhân là những ngưòi được sinh ra trên mảnh đất Thừa Thiên - Huế sẽ mãi là “tấm gương”, “đài tưởng niệm” cho thế hệ con cháu ồ địa phương noi theo.

2.2.3.2. Địa danh phản ánh tên các Mỗi địa danh đều được ra đòi và hình thành gắn liền với đặc điểm văn hoá của chủ thể tạo nên chúng. Do vậy, địa danh có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin về văn hoá - tâm lí của một tộc người, cũng như nguồn gốc dân cư vói tư cách là những chủ thể của một vùng văn hoá, chủ thể tạo nên các địa danh. dòng họ tiêu biểu: 2.2.3.1. Địa danh phản ánh tên ngưòĩ

Đối với các địa danh thuần Việt và Hán Việt, chúng phản ánh tên các dòng họ có công khai canh khai khẩn lập làng. Sự cố mặt tên các dòng họ qua địa danh đã để lại những “dấu tích” về thời điểm lịch sử hình thành làng xã của cư dân trên địa bàn cư trú: Văn Xá, Lê Xá, Cao \£ố, Võ Xá, Lê Xá Đông, Lê Xá Tây, Cao Xá Hạ, Cao Xá Thượng,... Theo các nhà nghiên cứu, loại địa danh “X + Xá”(9) có thể hình thành từ một trong hai lí do sau: Địa danh là sản phẩm do con ngưòi tạo ra. Giữa địa danh và nhân danh lại có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cả hai đều có thể biểu thị tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người, nhưng địa danh phần lổn “sông thọ” hơn nhân danh. Vì vậy, từ xa xưa, người Việt đã rất thích lấy tên ngưòi, tên dòng họ đặt cho tên làng, tên sông, suôĩ nơi mình cư trú để ghi nhổ những ngưòi đã có những đóng

TẠP CHÍ VHDG s ố 5/2010

37

một dòng họ chiếm địa vị độc tôn hoặc đa sô' trong một khu dân cư; hoặc một dòng họ vốn nổi tiếng nhất trong khu vực ấy. Đối vôi các địa danh dân tộc thiểu số ở Tây Thừa Thiên - Huế, nhờ các địa danh mà tên một số dòng họ đã đổi theo họ người Kinh nhưng vẫn còn được bảo lưu cho đến tận ngày nay. Các dòng họ người dân tộc thiểu số ỗ Thừa Thiên - Huế có đến hàng trăm, song những dòng dọ được dùng để đặt tên cho các địa danh phải là những dòng họ tiêu biểu của công đồng, có những đóng góp to lớn và có một quá trình hình thành phát triển lâu đời. Các địa danh được đặt theo tên các dòng họ của người Pa Cồ - Tà Ôi thưòng gặp là: suôĩ Ven (Véan: tên dòng họ kiêng ăn thịt chó), sông Pa Rin (Paring", tên dòng họ kiêng ăn thịt con sóc), thôn A Hô' (Ạhọoq: tên dòng họ kiêng làm côì xay), thôn Kê (Kê: tên dòng họ kiêng con bìm bịp), suôi Pi Ây (Pi - âi: tên -dòng họ kiêng ăn thịt chó), sông Y Reo (Ireau: tên dòng họ kiêng ăn bìm bịp), thôn Ta (Ta: tên dòng họ kiêng làm tấm ván), thôn Pĩ Re (Pireq: tên dòng họ kiêng làm cối xay), thôn Tu Vây (Tiíưăi: tên dòng họ kiêng chặt mây nước); Các địa danh phản ánh các dòng họ của tộc ngưòi Cơ Tu: thôn Mù Nú (Ăfunuợ: tên một dòng họ); thôn Ap Rung (Ạprung: dòng họ kiêng vật tổ là cái bẫy cung; aprung: cái hô' đặt bẫy).

Rõ ràng, mỗi dòng họ đều thờ những vật tổ của mình và đó cũng là những con vật kiêng đốì với cả cộng đồng thôn bản. Mỗi địa danh mang tên dòng họ đều kí thác trong mình những câu chuyện cổ tích mang đậm dấu ân văn hoá của dân tộc mình.

Qua việc khảo sát địa danh trên địa bàn Thừa Thiên - Huế, chúng tôi nhân thấy: nhóm các địa danh Hán Việt và thuần Việt phản ánh phương diện tâm lí văn hoá của chủ thể định danh qua nghĩa của các thành tô' tạo địa danh là hết sức phổ biê'n(10). Chụng thể hiện ước vọng sự giàu có, thịnh vượng như “phú” (44 địa danh): Phú Xuân, Đại Phú, Phú An, Phú Điền, Phú Lương, Quảng Phú,...; “lộc” (23 địa danh): Bình Lộc, Phú Lộc, An Lộc, Mỹ Lộc, Điền Lộc, Phước Lộc,...; “lợi” (sáu địa danh): Quảng Lợi, Bình Lòi, Điền Lợi, Mỹ Lợi,...; “hưng” (ba địa danh): Vinh Hưng, Hưng Long, Hưng Thái; ưóc vọng về sự đổi mới, trẻ trung qua các yếu tô' tạo địa danh “tân”: Tân Mỹ, Tân Hội, Tân Dương,...; “xuân”: Lương Xuân, Hương Xuân, Xuân Thiên,...; “dương”: Cảnh Dương, Thuỷ Dương, Vân Dương; khát vọng về một quê hương đẹp đẽ, non nưôc hữu tình vối “mỹ”, “tiên’’, “tú”, “vân”. Chẳng hạn: Mỹ Xá, Mỹ Thạnh, Mỹ An, Mỹ Khánh, Mỹ Phú,...; là những ưóc vọng cho vẻ đẹp trong tâm hồn như “lễ”, “nghĩa”, “nhân”, “chánh”, “đức”, “hiền”, “lương”, “trọng” được thể hiện qua các địa danh hành chính: Hiền Lương, Đức Trọng, Phú Lễ, An Nhơn, Tri Lễ, Xuân Chánh, Thanh Lương, Thanh Cần,... Hơn nữa, cư dân Việt (Kinh) không quên kí thác qua địa danh ước vọng về một vùng đất hoà bình, yên ô’n, cuộc sôhg trưòng tồn, vĩnh cửu thể hiện qua các yếu tô'“an”, “yên”, “hoà”, ‘hình”, “vĩnh”, “diên”, “trường”, “thọ”, “cường”. Chẳng hạn, tên các làng xã An Bằng, An Thuận, Phước Yên, Hiền Hoà, Bình An, Vĩnh Trị, Vinh An, Long Thọ, Phước Thọ, Phú Cưòng,... Qua mỗi tên đất, tên làng, ngưồi Việt đều gửi gắm những điều tốt lành từ sâu thẳm trong tâm hồn. Điều này thể hiện một cách sinh động đặc đỉểm văn hoá tâm lí tộc ngưòi của cư dân sông trên mảnh đất “Ô châu ác địa”, chiến tranh hên miên, thiên tai dồn dập theo suốt dặm dài lịch sử.

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

38

những từ ngữ có trong vốn từ địa phương ỏ Thừa Thiên - Huế, không những cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu phương ngữ học mà còn tạo nên nét văn hoá đặc trưng trong cấu tạo địa danh. Chẳng hạn, mô hình cấu tạo địa danh “Kẻ + X” chỉ tồn tại trong lối định danh của các địa danh làng xã từ Thừa Thiên - Huế trở ra các tỉnh phía Bắc. Trong khi đó, các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ô Thừa Thiên - Huế lại rất hiếm khi được tạo thành theo lối định danh này. Vậy, phải chăng điều này phản ánh đòi sông tâm lí và lối tư duy dân dã, mộc mạc gắn nhiều với cuộc sông thực tại hơn so vổi những ước vọng sâu xa trong đôi sông cộng đồng làng bản của cư dân nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me bản địa..

2.3. Sự phản ánh các phương diện ngôn ngữ học của địa danh dân tộc thỉểu 8ố

Địa danh là sản phẩm của tư duy con người thông qua ngôn ngữ của một hay nhiều dân tộc. Trong quá trình hình thành và chuyển biến, địa danh chịu sự tác động mạnh mẽ của quy luật ngôn ngữ. Do địa danh mang tính bảo lưu tương đôĩ cao nên chúng được xem là “những tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thòi đại của mình”. Mỗi địa danh kí thác những thồng tin ngôn ngữ học khác nhau. Ngôn ngữ tạo địa danh có thể mất đi, thay đổi nhưng địa danh vẫn được bảo tồn nguyện vẹn những giá trị ngôn ngữ học như thủa ban đầu mới đặt tên. Vì vậy, địa danh là nguồn ngữ liệu rất quý giá cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học trên nhiều phương diện khác nhau.

2.3.2. Giá trị ngôn ngữ học của địa danh ở Thừa Thiên - Huế còn thể hiện ỏ quá trình biến đổi ngữ âm của từ trong lịch sử. Đây là những dẫn liệu hết sức quan trọng góp phần soi chiếu địa danh học từ góc nhìn ngữ âm học lịch sử. Chẳng hạn, âm gốc của địa danh Vĩ Dạ là Vỉ Dã, nghĩa là “cánh đồng lau sậy”, được đặt từ thời nhà Lê (1428 - 1788), thuộc huyện Kim Trà. Quá trình biến đổi ngữ âm từ Vi Dã thành Vĩ Dạ phản ánh sự đồng hoá ngữ âm trong tiếng Việt. Từ “Vi” mang thanh ngang là thanh cao, từ “Dã” mang thanh “ngã” là thanh thấp nên khó phát âm; do vậy, thanh “ngã” của “Dã” đồng hoá thanh ngang của “Vi” để trỏ thành “Vì” trong Vĩ Dạ. Sự biến đổi của địa danh góp thêm chứng cứ cho quá trình biên đổi ngữ âm thưòng gặp trong tiếng Việt: mãnh (lực) - mạnh, lãnh (cung), lãnh (nhạt) . - lạnh. Những biến đổi trong các địa danh ở Thừa Thiên - Huế kiểu Dã Lê thành Dạ Lê, Đông Lâm biến đổi thành Đồng Lâm,... đều tuân theo quy luật ngũ âm nói trên.

Tương tự, sự biến đổi địa danh ỏ Thừa Thiên - Huế theo kiểu Lăng Cô do Làng Cò mà có, Huế do Hoá mà ra, đều có thể lí giải được từ góc độ ngữ âm. Chẳng hạn, theo ý kiến của nhiều nhà ngôn ngữ, lịch sử văn hoá, địa danh H uế xuất hiện dưói dạng Quốc ngữ lần đầu tiên trong Từ điền Việt • Bổ - La (1651) của A. de Rhodes. Vì trong mục từ Hóá, 2.3.1. Trước hết, địa danh cung cấp cho chúng ta các ngữ liệu về từ vựng của một ngôn ngữ, phương ngữ, thổ ngữ của tộc người, trong đó, một sô' yếu tô' cổ hầu như ngày nay đã không còn được sử dụng. Chẳng hạn, làng Chuồn, làng Sình, làng Nọ, làng Trài, Kẻ Liệu, làng Cửa, làng Cửa Rào, Kẻ Lừ, làng Nong, làng Sam, Kẻ Né, làng Kệ, làng Eo, làng Chen, Kẻ Độc, xóm Trộ, khe Mạ, thôn Mé, khe Mụ Cô, động Nhụt, núi Đá Kẹp, cồn Trui,... Các địa danh thường bảo lưu

TẠP CHÍ VHDG SỐ 5/2010

39

ông ghi là: Ho(á, Kẻ Ho(á, Tho(ẫn Ho(á, Kẻ Ho(é. Còn ỏ mục từ Huế, tác giả lại viết: Ho(é, xem Ho((á. Cách ghi Ho(é chỉ là do in sót dấu mũ trên chữ “ê”. Do vậy, H uế do Hoá mà thành là cách giải thích được nhiều ngưòi chấp nhận nhất.

một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội đặc biệt quan trọng. Qua một số địa danh, chúng ta có thêm những cứ liệu quan trọng để nghiên cứu về quá trình vay mượn từ ngữ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, qua đó tìm ra ý nghĩa và nguồn gốc các địa danh. Chẳng hạn, các địa danh Truồi, Sịa đều có nguồn gốc từ ngôn ngữ Môn-Khơ Me như Pa Cô - Ta Ôi và Bru- Vân Kiều (séaq, ntruôi, atruôiy, hay Thành Lồi, sông 0 Lâu đều có nguồn gốc tiếng Chăm cổ như đã phân tích ở phần trên. Chúng ta có thể đi đến giả thuyết rằng đã có một sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ở những vùng có các địa danh này xuất hiện.

Khi nghiên cứu địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi nhận thấy đa số các địa danh dân tộc đã được Hán Việt hoá hoặc Việt hoá theo những cách vay mượn khác nhau. Quá trình mã hoá này đã dẫn đến những biến đổi làm sai lệch ý nghĩa ban đầu của các địa danh. Chẳng hạn, A Lưới, A So, A Sầu, A Đớt, A Tây Luật, A Rum Cá Lưng,., đều có nguồn gốc từ địa danh tiếng Pa Cô - Ta Ôi ỏ A Lưới là: A So, A Sầu (Ạso: đỏ hồng), A Đớt (Ạdơơs: một loại khỉ), A Tây Luật (Ạtỉlượt: vượt quá), A Rum Cà Lưng (Arum Karrrúm: núi phía dưối mặt trăng), A Lưối (Alơaiq: tên vị anh hùng nổi tiếng trong sử thi của người Ta Ôi). Những địa danh được ghi theo kiểu Pháp hoá như: núi Atine, núi Talou, động Hagier, động Dỉuon, núi MaiBar, đồi A Shau,... đều là dấu tích của sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt- Pháp trong quá khứ. Rất nhiều dẫn chứng cho thấy cách người Pháp ghi địa danh trên bản đồ đã làm sai lệch và biến đổi ý nghĩa ban đầu của các địa danh dân tộc. Chẳng hạn, A So thành A Shau, rồi A sầu,...

Từ các dẫn liệu được phân tích ở trên cho thấy địa danh có những đóng góp thiết thực vào việc nghiên cứu ngôn ngữ học trên các phương diện: ngữ âm học lịch sử, phương ngữ học, từ nguyên học, tiếp xúc ngôn ngữ, xã hội-ngôn ngữ học và tâm lí-ngôn ngữ học. Quá trình mã hoá các địa danh tiếng dân tộc thiểu số Pa Cô - Ta Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều và Chăm cô’ bằng cách Việt hoá, Hán Việt hoá và Pháp hoá trên các bản đồ đã góp phần làm sai lệch ý nghĩa từ nguyên của địa danh tiếng dân tộc. Việc tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc các địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc có giá trị ngôn ngữ học thiết thực, góp phần bổ sung nguồn ngữ vựng cổ xưa trong các ngôn ngữ này mà chính bản thân người dân tộc thiểu số cũng khó bề lí giải nó một cách rõ ràng và thấu đáo.

3. Kết luận

2.3.3. Ngoài ra, quá trình vay mượn và tiếp xúc ngôn ngữ giữa các cộng đồng dần cư cũng được phản ánh khá rõ nét qua các địa danh. Thừa Thiên - Huế là một tỉnh hội tụ nhiều dân tộc sinh sông nên có sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hoá giữa các dân tộc vói nhau. Vì vậy, vấn đề vay mượn và tiếp xúc giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ỗ đây là phổ biến và tất yếu, hay nói cách khầc, là 3.1. Có thể nghiên cứu địa danh ồ Thừa Thiên - Huế trên nhiều khía cạnh khác nhau để tìm ra những đặc điểm về cấu tạo, ý nghĩa và nguồn gốc các địa

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

4 0

danh. Việc nghiên cứu giá trị phản ánh hiện thực của địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên - Huế từ cách tiếp cận ngôn ngữ-văn hoá học là hướng nghiên cứu liên ngành, góp phần đào sâu những tầng văn hoá ẩn chứa đằng sau các địa danh qua các thời kì khác nhau trong lịch sử của một vùng đất.

nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số đi liền với việc chỉ ra các phương thức định danh của địa danh; đồng thòi chỉ ra được những đặc điểm vãn hoá tộc người' thể hiện qua mỗi đơn vị địa danh. Ý nghĩa các địa danh dân tộc nơi đây không “chuyển tải” nhiều ước vọng cao xa, lí tưỏng, khát vọng, những mĩ từ tượng trưng ước lệ như trong các địa danh Hán Việt hay thuần Việt mà qua đó, thể hiện một lôĩ tư duy dân dã, lôĩ sống hoà hợp với thiên nhiên, cây cô, gắn liền với đòi sông lao động cộng đồng bền chặt, thiêng liêng nhằm khắc hoạ những đặc trưng văn hoá tộc người của cư dân Môn - Khơ Me bản địa của vùng cao nguyên Trưòng Sơn ỗ Thừa Thiên - H uế.o 1 .

T.V.S

CHÚ THÍCH

(1) D ãn theo Lê T rung Hoa (2006), Địa danh học Việt N a m , Nxb. K hoa học xã hội, Hà Nội, tr.52.

(2) Các công trìn h nghiên cứu địa danh phải kể đến ồ V iệt N am là các chuyên luận: Lê T rung Hoa với h a i công trìn h Đ ịa danh ở Thành p h ố H ồ C hí M inh, Nxb. Khoa học xã hội ấn h àn h năm 1991 và Đ ịa danh học Việt N a m do Nxb. Khoa học xã hội ấn h à n h năm 2006; N guyễn T rí Dõi vối công trìn h Ngôn ngữ và sự p h á t triển văn hoá xã hội, Nxb. Văn hoá - Thông tin ấ n h à n h năm 2001. Các luận án tiến sĩ đã bảo vệ: N h ữ n g đặc điềm chính của địa danh H ải Phồng (sơ bộ so sánh vổi m ột số vùng khác) (1996) của N guyễn Kiên Trường; N ghiền cứu địa dan h Q uảng Trị (2003) của Từ T hu Mai; N h ữ n g đặc điềm chính của địa da n h Đ ăk L ă k (2005) của T rần V ăn Dũng; Khảo sát các địa danh ỗ N ghệ A n (2006) của P h a n X uân Đạm .

3.2. Qua việc nghiên cứu các địa danh ở Thừa Thiên - Huế, chúng tôi nhận thấy có sự hội nhập, đan xen văn hoá của những lớp cư dân có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau sinh sông trên địa bàn: văn hoá Việt, văn hoá Chăm, văn hoá các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me bản địa. Những sự giao thoa và tiếp xúc, vay mượn ngôn ngữ - văn hoá giữa dân tộc Kinh (Việt) với các dân tộc thiểu số Chăm, Ta Ôi, Bru - Vân Kiều, Cơ Tu cũng được thể hiện qua địa danh. Chúng trồ thành những vật dẫn văn hoá, kí thác nhiều giá trị lịch sử quan trọng và các đặc điểm tâm lí tộc người của các chủ thể văn hoá đất thần kinh.

3.3. Địa danh không chỉ là một hiện tượng ngôn ngữ mà còn là một hiện tượng vãn hoá, một phạm trù lịch sử. Nghiên cứu các phương diện văn hoá của địa danh ồ Thừa Thiên - Huế, chúng ta có thể biết được đặc điểm địa lí tự nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất chứa địa danh, ghi dấu những sự kiện quan trọng đã xảy ra của cư dân Thuận Hoá - Phú Xuân với hơn 700 năm hình thành và phát triển. Những thay đổi về dân cư và địa lí từng là vùng đất “phên dâu”, “biên viễn xa xôi”, “Ô châu ác địa” của cư dân Chăm đến tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nạy đều dược bảo lưu và ghi dấu trong các địa danh.

(3) Xem th êm các bài viết của chúng tôi: T rần V ãn Sáng(2008), “Bước đầu tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa các địa danh có nguổn gốc ngôn ngữ dân tộc th iểu số ỏ huyện A Lưới, Thừa T h iê n - Huế*’, Bốo cáo Hội thảo

3.4. Việc tìm hiểu ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực củẩ các địa danh có

TẠP CHÍ VHDG s ố 5/2010

41

TẦỈ liệu tham khảo

A. Tiếng Việt 1. Dương V ãn An (2001), Ô châu cận lục, (Trần Đại Vinh, H oàng V ăn Phúc hiệu đính và dịch chú), Nxb. T h u ận Hoá, Huế.

2. Nguyễn Tài c ẩ n (2001), Giáo trình lịch sử ngữ â m tiếng Việt (sơ thảo), tá i bản, Nxb. Giáo dục, H à Nội.

Ngữ học toàn quốc lần th ứ n h ất, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, c ầ n Thơ, ngày 18/4; T rần Văn Sáng (2009), “Cách phiên chuyển địa danh từ tiếng P a Cô - T a Ôi ồ Thừa Thiên - H uế sang tiếng Việt”, Báo cáo Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, th án g 11, H à Nội; T rần V ăn Sáng (2008), “Các phương diện văn hoá của địa danh ồ Thừa Thiên - Huế*’, Hội thảo quốc tế Việt Nam - T rung Quốc, Trưòng Đ ại học Khoa học xã hội và n h â n văn, Đ ại học Quốc gia H à Nội, th áng 11, Hà Nội.

3. Hoàng Thị C hâu (1966), ‘M ối liên hệ về nguồn gốc cổ đại ở Đông N am Á qua một vài tên sông”, Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp H à Nội, số 2, Nxb. Giáo dục.

(4) D ẫn theo: T rần Ngọc Thêm (1997), Tim về bản sắc văn hóa Việt N am , Nxb. T hành phố Hồ Chí M inh, tr. 1.

4. T rần T rí Dõi (1999), N ghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu s ố Việt N a m , Nxb. Đại học Quốc gia H à Nội.

5. T rần T rí Dõi (2001), N gôn ngữ và sự p h á t triển văn hoá xã hội, Nxb. V ăn hoá thông tin, H à Nội.

6. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hoá tộc người ỗ Việt N a m và Đông N a m Á , Nxb. Đ ại học Quốc gia H à Nội.

(5) Xem thêm : Hoàng Thị C hâu (1966), “Mối liên hệ về nguồn gốc cổ đại õ Đông Nam Á qua một vài tên sông”, Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp H à Nội, số 2, Nxb. Giốo dục; T rần T rí Dõi (2001), N gôn ngữ và sự p h á t triển văn hoá xã hội, Nxb. V ăn hoá - Thông tin, H à Nội; Nguyễn Tài c ẩ n (2001), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), tá i bản, Nxb. Giáo dục, H à Nội.

7. Lê Quý Đôn (1977), P hủ biên tạp lục, Nxb. Đại học và tru n g học chuyên nghiệp, Hà Nội.

■'

8. Lê T rung Hoa (2006), Đ ịa danh học

Việt N a m , Nxb. Khoa học xã hội, H à Nội.

(6) Dương V ăn An (2001), Ô châu cận lục, (Trần Đại Vinh, H oàng V ăn Phúc hiệu đính và dịch chú), Nxb. T h u ận Hoá, Huế.

9. Quốc sô quán triề u N guyễn (1997), Đ ại N a m nh ấ t thống chí, Nxb. T huận Hoá, Huế.

(7) Lê Quý Đôn (1977), P hủ biền tạp lục, Nxb. Đại học và tru n g học chuyên nghiệp, H à Nội.

(8) Nguyễn Đ ình Đ ầu (2005), ‘T ìm hiểu Thừa Thiên - H u ế qua sưu tập địa bạ”, in trong CỐ đô Huế, xưa và nay, Nxb. T huận Hóa, Huế, tr. 645 -658.

10. T rần V ăn Sáng (2008), “Bưâc đầu tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa các địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc th iểu số ở huyện A Lưới, T hừ a Thiên - Huê5’, Báo cáo Hội thảo Ngữ học to àn quốc lần th ứ nhất, Hội Ngôn ngữ học v iệ t N am , c ầ n Thơ, ngày 18-4.

11. T rần V ãn Sáng (2009), “Cách phiên chuyển địa d anh từ tiếng Pa-cô, Ta-ôi ỏ Thừa Thiên - H uế sang tiếng Việt”, Báo cáo Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam , th ằ n g 11, H à Nội.

(9) Mô hìn h địa d an h “X + Xá” là một kiểu đ ặ t địa danh m ang đặc trư n g cho quá trìn h tự cư lập làng của ngưòi Việt từ Thừa Thiên - H uế trồ ra. Xem thêm : Lê T rung Hoa(2006), Đ ịa danh học Việt N am , Nxb. Khoa học xã hội, H à Nội.

12. T rần V ăn Sáng (2009), “Các phương diện văn hoá của địa d an h ồ T hừa Thiên - Huế”, Báo cáo Hội thảo quốc tế Việt Nam - T rung Quốc về nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ và văn hoá, Trưòng Đ ại học Khoa học xã hội và n h ân vãn, Đ ại học Quốc gia H à Nội, th án g 11, H à Nội.

(10) Xem thêm : T rần V ăn Sáng (2008), “Các phương diện văn hoá của địa danh ỏ Thừa Thiên - Huế*’, Hội thảo quốc t ế Việt Nam - T rung Quốc, Trưòng Đại học Khóa học xã hội và n h ân văn, Đại học Quốc gia H à Nội, tháng 11, H à Nội.

NGHIÊN CỨ U-TRAOĐỔI

42

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT...

13. Hoàng Sơn chủ biên (2007), Người Tà Ôi ở Thừa Thiên - Huế, Nxb. V ăn hoá dân tộc, Hà Nội.

14. Ngô Đức Thọ (1997), N ghiên cứu chữ huý Việt N a m qua các triều đại, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.

(Tiếp theo trang 66) (7) c. Rajagopalachari (1979), Mahabharata (Cao Huy Đ ỉnh và P hạm Thủy Ba dịch), Nxb. Khoa học Xã hội, H à Nội, tr. 337.

15. Nguyễn H ữu Thông chủ biên (2007), Katu, kẻ sôhg đầu ngọn nước, Nxb. T huận Hoá, Huế.

(8) D ân theo: Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học T hành ph ố Hồ Chí M inh (1998), B ình luận văn học, Nxb. Khoa học xã hội, H à Nội, tr. 208.

(9) , (10), (11), (12) c. R ajagopalachari

(1979), Sdd, tr. 489, 307, 482, 482.

16. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2009), T ìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt N am , Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

17. ủ y ban N hân dân tỉn h Thừa Thiên H uế (2005), Đ ịa chí Thừa Thiên - Huế: p h ầ n tự nhiên, Nxb. Khoa học xã hội, H à Nội.

(13), (14), (15), (16) J e a n Chevalier, Alain G heerbrant (1997), Sdd, tr. 546, 545, 548, 829.

(17) c. R ajagopalachari (1979), Sdd, tr.

40.

18. ủ y ban N hân dân tĩn h Thừa Thiên H uế (2005), Địa chí Thừa Thiên • Huế: p h ầ n lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, H à Nội.

(18) J e a n Chevalier, A lain G heerbrant

B. T iến g A nh

(1997), Sdd, tr. 711.

1. Anderson,

John. M

(19) c. R ajagopalachari (1979), Sdd, tr.

458.

(2007), The G ram m ar o f N am es, Oxford U niversity Press, NewYork

(20) D ân theo: Lưu Đức T rung và nhóm tác giả (1996), Giảng văn văn học nước ngoài, Nxb. Giáo dục, H à Nội, tr. 16.

2. Trask.R .L (1999), Key concepts in language and linguistics, Routledge, London and NewYork.

(21) E.M. M êlêtinxki (1964), L ý luận văn

học, tập II, Nxb. Khoa học, Matxcơva, tr. 83.

(22) , (23), (24) J e a n Chevalier, Alain

G heerbrant (1997), Sđd, tr. 699, 699, 699.

3. M ark J. Alves (2006), A gram m ar o f Pacoh:a M on-Khmer language o f the central highlands o f Vietnam , Pacific Linguistics, Research School of Pacific and A sian Studies, The A ustralian N ational U niversity.

(25), (26), (27) c. R ajagopalachari (1979),

Sđd, tr. 372, 410, 337.

4. Paul Sidwell (2006), A M on - K hm er comparative dictionary, Pacific Linguistics, Research School of Pacific and Asian Studies, The A ustralian N ational U niversity.

(28) M akhan Labsen (1988), Ram ayana, tập 3, (Phạm Thủy Ba dịch), Nxb. Vãn học, H à Nội, tr. 221.

5. R ichart L. W atson (1969), “pacoh III, The •names”, M on-Khmer Studies Linguistic Cừcle of Saigon & The Sum m er In stitu te of Linguistic, 77-88.

(29) M akhan Labsen (1988), R am ayana, tập 2, (Phạm Thủy B a dịch), Nxb. V ăn học, H à Nội, tr. 215.

(30) c. R ajagopalachari (1979), Sđd, tr.

186.

6. W atson K. (1964), “pacoh phonemics”, M on-Khmer Studies I, The Linguistic Circle of Saigon & The Sum m er In stitu te of Linguistic, 135-148.

(31) J e a n Chevalier, A lain G heerbrant

(1997), Sđd, tr. 701.

(32) c.- R ajagopalachari (1979), Sđd, tr.

185.

7. Wanllance J.M (1966), “Katu phonemes”, Mon - K hm er Studies I, The Linguistic Circle of Saigon & The Sum m er In stitu te of Linguistic, 55-68.