
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. VIRUS VIÊM GAN
Viêm gan virus là một bệnh do nhiều căn nguyên gây ra và đƣợc mô tả
lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Khi Hippocrates mô tả bệnh
dịch vàng da, chắc chắn ông đã đề cập đến những ngƣời bị viêm gan B (VGB)
cấp tính cũng nhƣ các tác nhân viêm gan khác. Các đợt dịch vàng da đƣợc mô
tả nhiều lần trong lịch sử nhân loại nhƣng phổ biến trong các cuộc chiến tranh
ở thế kỷ 19 và 20. Nhiều vụ dịch là do virus viêm gan A, nhƣng virus VGB
có khả năng là một trong các tác nhân gây nên những đợt dịch vàng da do
việc sử dụng phổ biến các chế phẩm máu [11].
Năm 1883, Lurman ở Bremen (Đức) nhận thấy có một bệnh viêm gan
có thể lây truyền trực tiếp sau tiêm chủng vắcxin đậu mùa chiết tách từ máu
ngƣời. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, những vụ dịch viêm gan có thời
gian ủ bệnh dài ở những nhóm bệnh nhân đến khám vì có bệnh hoa liễu, đái
tháo đƣờng, lao, sau truyền máu, sau tiêm chủng vắcxin từ huyết thanh ngƣời.
Nghiên cứu theo dõi dọc sau này (trong những năm 1980) đã cho thấy 97,0%
những ngƣời nhận vắcxin huyết thanh sốt vàng có bằng chứng huyết thanh
học của nhiễm VRVGB so với 13,0% ở nhóm nhận vắcxin không chứa huyết
thanh, điều này đã chứng tỏ VRVGB là nguyên nhân của những vụ dịch này.
Trƣớc đó, vào năm 1947, MacCallum và Bauer đƣa ra thuật ngữ viêm gan A
cho viêm gan truyền nhiễm và viêm gan B cho viêm gan liên quan đến huyết
thanh. Trong những năm 1960-1970, Krugmam mô tả hai loại viêm gan virus
MS-1 và MS-2. Trong đó MS-1 chính là viêm gan A của MacCallum, lây
truyền qua đƣờng phân miệng và có thời gian ủ bệnh ngắn 30-38 ngày. MS-2