
KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014
266
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA BÃO Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1961 – 2010
Triệu Thị Thắm, Lớp K62TN, Khoa Địa lí
GVHD: TS. Đào Ngọc Hùng
Tóm tắt: Bão là một loại hình thời tiết nguy hiểm hàng đầu đối với con người và xã hội. Đối với nước
ta hoạt động của bão cùng với hệ quả của tai biến thiên nhiên này đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng về môi trường và thiệt hại nặng nề về kinh tế - xã hội. Đề tài “Đánh giá hoạt động của bão ở
Việt Nam giai đoạn 1961 – 2010” sẽ cung cấp thêm những hiểu biết chung về bão, giúp chúng ta thấy
được nguyên nhân vì sao nước ta thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, biểu hiện của bão và tác
động của bão ở vùng ven biển Việt Nam trong giai đoạn 1961 – 2010, đồng thời tác giả cũng tiến
hành tìm hiểu và tổng hợp các biện pháp phòng chống bão ở các vùng miền nước ta.
Từ khóa: Bão, Việt Nam
I. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu các thiên tai diễn ra ngày càng cực đoan hơn, các
cơn bão trên thế giới đã gây thiệt hại lớn về ngƣời và của. Theo số liệu thống kê của Liên
hợp quốc hàng năm trên thế giới có khoảng 23.000 ngƣời chết; 2,6 triệu ngƣời mất nhà ở
do bão gây ra. Việt Nam với đƣờng bờ biển dài 3260 km, lại nằm trong vùng nhiệt đới nên
chịu tổn thất nặng nề bởi bão. Chính vì vậy đề tài “Đánh giá hoạt động của bão ở Việt
Nam giai đoạn 1961 – 2010” ngoài việc nâng cao nhận thức của bản thân về bão còn
nhằm mục đích tìm hiểu và tổng hợp các biện pháp phòng chống bão hiệu quả.
II. NỘI DUNG
1. Những hiểu biết chung về bão
Bão là một xoáy thuận nhiệt đới với sức gió mạnh nhất từ cấp 8 trở lên và có thể có
gió giật. Bão có thể đƣợc gọi bằng những thuật ngữ khác nhau tùy theo từng khu vực, ở
khu vực tây bắc Thái Bình Dƣơng và biển Đông bão đƣợc gọi chung là “Typhoon”.
Các thành phần chính của bão bao gồm: các dải mƣa ở rìa ngoài, mắt bão nằm ở
chính giữa và thành mắt bão nằm ở ngay sát mắt bão.
Thời gian tồn tại trung bình của bão khoảng 7 – 8 ngày đêm tính từ thời điểm bão
hình thành cho đến khi đổ bộ vào bờ hoặc tan rã trên biển. Theo Riehl có thể chia quá trình
hình thành và phát triển của bão thành bốn giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai đoạn trẻ,
giai đoạn chín muồi và giai đoạn tan rã.
Điều kiện hình thành bão: cơ chế hình thành và phát triển của bão rất phức, tuy nhiên
đa số các nhà khoa học thừa nhận những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành bão là: khu
vực đại dƣơng có diện tích đủ lớn với nhiệt độ mặt biển đủ cao (từ 26º - 27ºC trở lên); vị trí
hình thành bão phải có lực Coriolis đủ lớn để tạo xoáy; khả năng làm lạnh nhanh luồng
không khí nóng ẩm bay lên tạo ra lƣợng ẩn nhiệt ngƣng tụ đủ để duy trì cơn bão tại thời
điểm phát sinh bão (Erik Palmen); ở trên cao trƣờng khí áp phải phân kỳ đủ để đảm bảo
giải tỏa khối lƣợng không khí hội tụ ở mặt đất và duy trì bão; ở mặt đất phải có sự nhiễu
động áp thấp ban đầu (Riehl).

KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014
267
2. Biểu hiện, nguyên nhân, tác động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961–2010
2.1. Nguyên nhân nước ta thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão
Bão ở nƣớc ta hình thành chủ yếu do tác động của dải hội tụ nhiệt đới và xoáy thuận
trên đƣờng đứt gãy; vị trí địa lí nƣớc ta nằm trong khu vực nội chí tuyến Bắc bán cầu
(8º34´B đến 23º23´B) – khu vực có lực Coriolis đủ lớn để hình thành nên luồng gió đủ
mạnh trên cao nhằm tạo xoáy cho các cơn bão; nƣớc ta tiếp giáp với biển Đông và tây Thái
Bình Dƣơng - một vùng biển kín, ẩm nóng, ẩm – đây là trung tâm phát sinh bão lớn nhất
thế giới.
2.2. Biểu hiện của bão và áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam
2.2.1. Đặc điểm hoạt động của bão khu vực ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010
Theo thống kê của Trung tâm Khí tƣợng – Thủy văn Quốc gia, trong giai đoạn 1961 –
2010 đã có 245 cơn bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ bộ vào vùng ven biển Việt Nam.
Trung bình mỗi năm nƣớc ta chịu ảnh hƣởng của 4,9 cơn bão và ATNĐ.
Bảng 1. Số lượng bão ở các khu vực ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010
Vùng ven biển
Số lƣợng bão
Tỉ lệ (%)
Bắc Bộ - Thanh Hóa
86
35,1
Trung Trung Bộ
88
35,9
Nam Trung Bộ
55
22,5
Nam Bộ
16
6,5
Tổng số
245
100
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Trung tâm Khí tượng – Thủy văn Quốc gia
Bảng 2. Số lƣợng bão ở các thập kỉ vùng ven biển Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010
Các thập kỉ
Số lƣợng bão
Tỉ lệ (%)
1961 – 1970
43
17,6
1971 – 1980
54
22
1981 – 1990
53
21,6
1991 – 2000
40
16,3
2001 – 2010
55
22,5
Tổng số
245
100
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Trung tâm Khí tượng – Thủy văn Quốc gia
Trong đó, riêng các tỉnh từ Nghệ An đến Quảng Bình chịu ảnh hƣởng trực tiếp của
42 cơn bão và ATNĐ, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi là 46 cơn, chiếm tỉ lệ tƣơng ứng là
17,1% và 18,8% số lƣợng bão của cả nƣớc từ trong 50 năm qua.
Trung bình trên tất cả các vùng ven biển cả nƣớc, số lƣợng bão có sự khác nhau rõ
rệt giữa các thập kỉ. Nhìn chung số lƣợng bão có sự tăng lên không liên tục theo thời gian.
Trong đó, thập kỉ 1991 – 2000 có ít bão nhất (40 cơn) và nhiều nhất là thập kỉ 2001 – 2010
(55 cơn).

KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014
268
2.2.2. Đặc điểm hoạt động của bão ở các khu vực ven biển Việt Nam theo thời gian
Dựa trên đặc điểm mùa bão trong năm và tần suốt bão xuất hiện ở từng khu vực, có
thể chia vùng bờ biển nƣớc ta từ bắc xuống nam thành 4 khu vực sau:
Vùng bờ biển Bắc Bộ - Thanh Hóa (phía bắc vĩ tuyến 19º50´B).
Vùng bờ biển Trung Trung Bộ (từ 19º40´B đến 15º50´B).
Vùng bờ biển Nam Trung Bộ (từ 15º40´B đến 11º50´B).
Vùng bờ biển Nam Bộ (dƣới 11º40´B).
Bảng 3. Số bão và ATNĐ ảnh hưởng đến các khu vực ven biển Việt Nam
trung bình tháng và năm giai đoạn 1961 - 2010
Vùng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Cả
năm
Bắc
Bộ-
Thanh
Hóa
0,2
0,54
0,46
0,4
0,1
0,02
1,72
Trung
Trung
Bộ
0,04
0,1
0,1
0,34
0,66
0,44
0,06
0,02
1,76
Nam
Trung
Bộ
0,02
0,02
0,04
0,02
0,02
0,04
0,44
0,42
0,08
1,1
Nam
Bộ
0,06
0,08
0,18
0,32
Tổng
cộng
0,06
0,02
0,02
0,04
0,34
0,66
0,82
1,1
1,06
0,68
0,1
4,9
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia
Nếu quy định mùa bão bao gồm những tháng có số bão trung bình đạt từ 8% số bão
trung bình năm trở lên thì mùa bão ở Việt Nam bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng
11. Thời gian có bão, thời gian bão mạnh có sự khác nhau ở các khu vực ven biển nƣớc ta.
- Hoạt động của bão ven biển Bắc Bộ - Thanh Hóa (từ Móng Cái – Quảng Ninh đến
Thanh Hóa): Mùa bão kéo dài khoảng 4 tháng, bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 9,
thời gian có bão nhiều nhất từ tháng 7 đến tháng 9. Trung bình trong 50 năm qua, mỗi năm
khu vực này chịu tác động của 1,72 cơn bão. Từ năm 1961 đến năm 2010, số lƣợng bão có
sự chênh lệch lớn giữa các thập kỉ. Trong đó thập kỉ 1971 – 1980 có nhiều bão nhất với 23
cơn bão (Bảng 3).
- Hoạt động của bão ở vùng ven biển Trung Trung Bộ (từ Nghệ An đến mũi Ba Làng
An – Quảng Ngãi): Mùa bão kéo dài khoảng 3 tháng, bắt đầu từ tháng 8 và kết thúc vào
tháng 10. Trong đó số lƣợng bão tập trung nhiều nhất vào tháng 9 với 0,66 cơn. Trung bình
mỗi năm khu vực này chịu tác động của 1,76 cơn bão – đây là vùng thƣờng xuyên chịu tác

KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014
269
động của bão nhất nƣớc ta. Nhìn chung số lƣợng bão có giảm đi trong 1 – 2 thập kỉ gần
đây nhƣng không liên tục. Thập kỉ 1981 – 1990 có nhiều bão nhất với 23 cơn bão, thập kỉ
có ít bão nhất là từ 1991 – 2000 với 11 cơn (Bảng 4).
Bảng 4. Số lượng bão ở các khu vực ven biển nước ta theo thập kỉ,
giai đoạn 1961 - 2010
Các thập kỉ
Số lƣợng bão
Các thập kỉ
Số lƣợng bão
Bắc Bộ -
Thanh Hóa
Trung
Trung Bộ
Nam
Trung Bộ
Nam Bộ
1961 – 1970
17
17
1961 – 1970
7
2
1971 – 1980
23
20
1971 – 1980
10
1
1980 – 1991
15
23
1980 – 1991
13
2
1991 – 2000
13
11
1991 – 2000
12
5
2001 – 2010
19
17
2001 – 2010
12
7
Tổng số
87
88
Tổng số
54
17
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia
- Hoạt động của bão vùng ven biển Nam Trung Bộ (từ mũi Ba Làng An – Quảng Ngãi
đến Mũi Dinh – Ninh Thuận): Mùa bão của vùng bị lệch vào thu – đông, bắt đầu từ tháng
10 và kết thúc vào tháng 11. Các tháng còn lại, tần suất bão xuất hiện không đáng kể.
Trung bình mỗi năm vùng chịu tác động của 1,1 cơn bão, ít hơn khá nhiều so với khu vực
phía bắc. Cùng với sự suy giảm về tần số bão của khu vực, sự chênh lệch về số lƣợng bão
giữa các thập kỉ của vùng cũng không lớn (Bảng 4).
- Hoạt động của bão vùng ven biển Nam Bộ (từ Mũi Dinh – Ninh Thuận đến Hà Tiên –
Kiên Giang): Mùa bão của khu vực bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 1, bão tập trung
chủ yếu vào tháng 10, tháng 11. Đây là khu vực ít chịu ảnh hƣởng của bão nhất trên cả nƣớc
với tổng số bão trong 50 năm qua là 16 cơn, trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 0,32 cơn. Có
tới 35 năm trên tổng số 50 năm gần đây vùng không có bão đổ bộ trực tiếp vào. Từ năm 1961
đến nay, số lƣợng bão tăng lên trong hai thập kỉ từ năm 1991 đến năm 2010. Đây là dấu hiệu
cho thấy số lƣợng bão ngày càng có xu hƣớng xuất hiện nhiều hơn ở khu vực ven biển phía
nam (Bảng 4).
2.2.3. Đặc điểm của các yếu tố trong bão
Chế độ gió trong bão: Tƣ liệu lịch sử về bão cho thấy rằng ở ven biển Việt Nam gió
bão có thể mạnh tới cấp 12 cấp 13. Ở ven biển Việt Nam, bão có cƣờng độ mạnh từ cấp 12
trở lên thƣờng xuất hiện ở các tỉnh ven biển miền Bắc và Bình - Trị - Thiên. Vùng ven biển
từ Quảng Nam tới Ninh Thuận gió bão mạnh nhất thƣờng đạt tới cấp 10 – 11. Các siêu bão
xuất hiện nhiều hơn.
Đặc điểm khí áp trong bão: Ngƣời ta đã chứng minh đƣợc rằng ở biển thoáng, khí áp
tăng 1mb sẽ làm cho mực nƣớc biển giảm xuống 1cm và ngƣợc lại. Những cơn bão đổ bộ
vào Việt Nam thƣờng có trị số khí áp thấp nhất vào khoảng 970 – 1000mb. Trị số kỉ lục

KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014
270
của khí áp trong bão trong giai đoạn 1961 – 2010 là 959,9mb đo đƣợc trong cơn bão
CECIL – cơn bão số 8 năm 1985.
Đặc điểm quỹ đạo của bão: Hƣớng di chuyển trung bình của bão khác nhau theo
mùa. Thời kì nửa đầu mùa bão, quỷ đạo bão có hƣớng tây bắc, bắc và đông bắc, thƣờng đổ
bộ vào đông nam Trung Quốc, Nhật Bản. Thời kì sau, quỷ đạo thiên hƣớng tây về phía
Việt Nam. Trung bình, từ tháng 1 đến tháng 5, bão ít có khả năng ảnh hƣởng đến Việt
Nam. Từ tháng 9 đến tháng 11, bão có nhiều khả năng ảnh hƣởng đến Trung Bộ. Ở nửa
đầu mùa bão, quỷ đạo của bão ít phức tạp, và ngƣợc lại bão thƣờng di chuyển phức tạp
trong nửa cuối mùa bão.
Chế độ mưa trong bão: Khi đổ bộ vào ven biển nƣớc ta, bão thƣờng gây ra mƣa lớn
kéo dài từ 2 – 4 ngày, tuy nhiên khi bão kết hợp với không khí lạnh thì diện mƣa lớn sẽ mở
rộng và thời gian mƣa lớn sẽ kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Lƣợng mƣa một ngày đêm ở vùng có
bão đạt khoảng 150 – 300 mm, có cơn bão gây mƣa tới 400 mm, thậm chí còn lớn hơn. Mƣa
lớn trong bão tập trung trong bán kính 100 – 200 km, nhƣng phạm vi mƣa lớn không hoàn
toàn đồng đều quanh tâm bão. Thông thƣờng ở phần phía bắc của bão mƣa lớn hơn phần
phía nam.
2.3. Tác động của bão ở Việt Nam giai đoạn 1961 - 2010
Gió mạnh trong bão: Trong tổng số 245 cơn bão đổ bộ vào Việt Nam thời kì 1961 –
2010 đƣợc phân thành 4 nhóm có gió mạnh nhất khác nhau: 60 cơn có gió mạnh nhất đạt
cấp 8 - cấp 9 (chiếm 24,5% ); 44 cơn có gió đạt từ cấp 10 - cấp 11 (chiếm 18 % ); 27 cơn
có gió đạt từ cấp 12 - cấp 13 (chiếm 11% ); 114 cơn là áp thấp nhiệt đới (chiếm 46,5%).
Gió bão không những mạnh, kéo dài mà còn có đặc tính giật và xoay chiều phá hoại các
công trình kiên cố nhƣ nhà cửa, cột điện, cầu cống và lật đổ cây to. Gió bão còn gây sóng
lớn và nƣớc dâng, lật úp tàu thuyền, phá vỡ đê biển, làm ngập mặn đất đai.
Mưa trong bão: mƣa do bão hoặc những quá trình mƣa có liên quan tới bão chiếm
khoảng 50% tổng lƣợng mƣa cả năm của nhiều địa phƣơng thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ. Theo số liệu mƣa bão thời kì 1957 – 1986: có khoảng 45% bão và ATNĐ đổ bộ vào
Việt Nam có tổng lƣợng mƣa 200 – 300 mm, 20% bão và ATNĐ có tổng lƣợng mƣa trên
300 mm, 20% bão và ATNĐ có tổng lƣợng mƣa 150 – 200 mm, chỉ có khoảng 15% bão và
ATNĐ có tổng lƣợng mƣa dƣới 150 mm. Mƣa bão thƣờng gây ngập úng cho nhiều khu
vực, lũ lớn trên nhiều triền sông. Trung bình có 30% đợt lũ trên các lƣu vực sông Bắc Bộ,
từ 80 – 90% lũ trên các lƣu vực sông Bắc Trung Bộ là do mƣa bão hoặc áp thấp nhiệt đới
gây ra.
Nước biển dâng do bão: Nƣớc biển dâng do bão là một thiên tai nghiêm trọng đối
với vùng ven biển Việt Nam. Tổng độ cao lớn nhất của thủy triều và nƣớc biển dâng do
bão ở vịnh Bắc Bộ và vùng ven biển có thể lên đến 5 – 7 m. Vùng ven biển từ Đà Nẵng trở
vào có thể cao từ 3 – 5 m. Mực nƣớc đó làm nền cho những con sóng con 5 – 8 m có khả
năng hủy diệt tất cả những gì tồn tại ở nơi chúng tràn qua. Vì vậy, bão đổ bộ vào lúc triều
cƣờng là cực kỳ nguy hiểm, ngƣợc lại khi bão đổ bộ vào lúc triều kém thì mức độ nguy
hiểm về nƣớc biển dâng do bão giảm đi.
Tố lốc, vòi rồng và một số hiện tƣợng khác khi có bão và áp thấp nhiệt đới.