Ðau lưng do hẹp ống sống thắt lưng có nguy

hiểm?

Ống sống là khoang rỗng của đốt sống, trong đó có tuỷ sống và các

rễ thần kinh. Nếu ống sống bị hẹp sẽ chèn ép rễ tuỷ sống và các rễ

thần kinh tương ứng gây đau đớn cho người bệnh.

Nguyên nhân gây hẹp ống sống

Hẹp ống sống là một thể biến dạng của cỡ kích thước ống sống bị

hẹp so với cỡ kích thước bình thường, tương ứng với các tổ chức

có liên quan cùng lứa tuổi. Người ta không xếp vào đây quá trình

viêm (viêm đốt sống) các u và thoát vị đĩa đệm hoàn toàn. Như vậy

chỉ có nguyên nhân bẩm sinh và mắc phải gây nên hẹp lòng ống

sống. Nếu là do bẩm sinh thì thường gặp hẹp ống sống do loạn

dưỡng sụn, dị dạng đốt sống, hẹp ống sống nguyên phát, quá ưỡn

cột sống thắt lưng, gai đôi cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống

sau chấn thương, biến đổi thoái hoá: phản ứng xương ở các cạnh

và khớp đốt sống. Nếu là do mắc phải thì hẹp ống sống lại do biến

đổi thoái hoá như lồi đĩa đệm, giả trượt đốt sống; hẹp ống sống sau

phẫu thuật: sau phẫu thuật cố định cứng, tổ chức sẹo; bệnh xương

toàn thân: bệnh nhiễm độc flo (fluorose), bệnh paget. Tuỳ theo

nguyên nhân, hẹp ống sống có thể ở từng đoạn hay cả toàn bộ ống

sống. Sau khi mổ ống sống thắt lưng, hẹp ống sống có thể xảy ra

do các mảng sẹo hoặc do sự phát triển chồng áp lên nhau ở phía

trong cung đốt sống sau phẫu thuật bất động cột sống ở phía sau.

Các phẫu thuật làm cứng đốt sống cũng có thể xuất hiện tình

huống tương tự. Trong các nguyên nhân gây hẹp ống sống, cần lưu

ý dạng kết hợp hẹp ống sống trên cơ sở của quá trình thoái hoá do

những phản ứng mọc gai xương ở các diện khớp nhỏ, những chỗ

vồng lên của giới hạn sau của đĩa đệm và những dạng xô lệch giữa

các đốt sống với nhau trong thoái hoá đĩa đệm cột sống thắt lưng,

với tình trạng hẹp ống sống nguyên phát bẩm sinh. Dạng kết hợp

gây hẹp ống này đã đóng vai trò quan trọng trong nguyên nhân của

bệnh lý hẹp ống sống.

Hình ảnh ống sống bình thường (bên

trái ảnh) và ống sống bị hẹp.

Hẹp ống sống gây đau ở nhiều vị trí

Người ta xác định độ rộng

của ống sống bằng những

tiêu chuẩn Xquang là

khoảng cách giữa hai cuống

cung đốt sống. Ðường kính

trước - sau của ống sống là

đoạn ngắn nhất giữa cạnh

sau của thân đốt sống và

giới hạn sau của ống sống

hoặc bờ trong của cung đốt

sống. Bằng khoảng cách

liên cuống, người ta đã xác

định được các quá trình

choán thể tích trong ống

sống. Hiện nay, bằng kỹ

thuật chẩn đoán hình ảnh

(chụp cắt lớp vi tính, chụp

cộng hưởng từ), hẹp ống

sống được chẩn đoán rất

chính xác. Theo Verbiest,

đường kính trước - sau của

ống sống vùng thắt lưng nếu

nhỏ hơn 10mm thì được coi

Hẹp ống sống thắt lưng thường gọi là hẹp tuyệt đối. Nếu 10-

là hội chứng hẹp ống sống thắt lưng. 12mm là hẹp tương đối và

Bệnh nhân thường than phiền về đau theo P. Godeau, dưới 15mm

lưng và dây thần kinh hông to trong được coi như hẹp.

nhiều năm và đã điều trị nhiều

không khỏi. Đau đa dạng, trải qua đau mạn tính đến đau dây thần

kinh hông to, rồi đến đau dây thần kinh đùi cả ở hai bên và cuối

cùng là đau rễ thần kinh kiểu lan xuyên xuống hai chân. Hai chân

có phản ứng dị cảm, đôi khi liệt cơ và rối loạn cơ tròn kiểu kín đáo.

Duỗi quá cột sống sẽ gây đau nên bệnh nhân có tư thế đi hơi ngả

người về phía trước. Nếu đau thắt lưng và đau các rễ thần kinh khi

đi hay đau tăng do đi lại và buộc bệnh nhân phải dừng lại thì được

gọi là khập khễnh cách hồi rễ thần kinh. Nếu đuôi ngựa bị xâm

phạm có thể xuất hiện khập khễnh cách hồi của đuôi ngựa (đuôi

ngựa là nơi hội tụ của rất nhiều rễ thần kinh thắt lưng- cùng). Biểu

hiện: giảm cảm giác, muộn hơn có đau và chuột rút cả hai chân sau

khi đi một đoạn đường hoặc đứng lâu. Người ta cho rằng do hẹp

ống sống nên dẫn đến thiếu máu cục bộ của rễ đuôi ngựa. Đau

mang tính chất phụ thuộc vào tư thế và liên quan đến khoanh đoạn

tuỷ tương ứng là những đặc điểm quan trọng để chẩn đoán đau do

nguyên nhân mạch máu.

Khập khễnh cách hồi đuôi ngựa xuất hiện trước hết khi bị áp lực

trọng tải trong tư thế ưỡn cột sống. Đặc trưng của đau kiểu đó là:

đau chân tăng mạnh khi đi xuống dốc, xuống thang và lại ngừng

đau khi cúi nhẹ ra trước. Chẩn đoán phân biệt với trượt đốt sống do

tiêu eo đốt sống (lyse isthmique) vì cũng có hội chứng này và

ngoài ra còn chẩn đoán phân biệt với suy yếu khớp.

Hẹp ống sống tiển triển tốt khi được phẫu thuật

Chỉ được đặt ra khi đã chẩn đoán xác định. Trước tiên cần phải áp

dụng các biện pháp điều trị giống như chứng đau do đĩa đệm. Nếu

điều trị bảo tồn không có kết quả thì chỉ định phẫu thuật. Phương

pháp nới rộng bằng thủ thuật cắt nửa cung sau hoặc toàn bộ cung

sau đốt sống ở đoạn có hẹp ống sống. Mục đích của phẫu thuật là

giải phóng sự chèn đẩy. Nếu rễ thần kinh ở ngách bên bị chèn ép

do ngách bên bị mất độ lõm sâu, có thể chỉ cần cắt bỏ một phần

diện khớp trên. Trường hợp có hội chứng ở cả hai bên cần chỉ định

cắt toàn bộ cung sau, kết quả điều trị phẫu thuật thường là tốt.