
Phần một: Lời mở đầu
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền
kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu,
sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không
thể thoát khỏi những thách thức đầy gam go như các nước khác trong khu
vực. Tuy vậy, năm 2002 đã khép lại bằng những thành tựu kinh tế_xã hội mà
Việt Nam đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền
kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, đạt 7,04%, giá trị sản lượng
công nghiệp tăng 14,5%. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn
định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự
đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư
hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng
góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước .Riêng với ngành Dầu khí
Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào
đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn
đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày
11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị
Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động
chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan
trọng của năng lượng Dầu khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm
năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển
ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà
trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào
phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn
các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự

phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải
pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa
ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót
và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết
được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Thạc sỹ:
Trần Mai Hương. Em xin chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội: 11.2003.

Nội dung
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy
động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự
phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu
tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công
cuộc đầu tư.
I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hi
sinh”. Từ đó có thể coi “Đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết
quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,
tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản
tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm
việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất
xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi
lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những 1kết quả này
không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương
mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc
thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Vậy Đầu tư cho phát triển là gì?

Đầu tư cho phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh
tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
* Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn nằm
khế đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái
giá khá lớn của Đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động
xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với
các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do
đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực, tiêu cực) của các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế …
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn
như các công trình nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La
Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của
Campuchia ). Điều này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt
động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa
hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như
tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của
không gian.

Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động
đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát
triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội
nói chung.
* Vai trò của Đầu tư phát triển:
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước:
+ Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1
đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm,
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích
sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ,
phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế
giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa
kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các
đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến
E1.
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:
D’
D
E2
E1
S
S’
Eo
Qo Q1 Q2
Po
P2
P1
Q
P

