TRƯỜNG THCS HUỲNH TỊNH CỦA
TỔ NGỮ VĂN
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KIẾN THỨC GIỮA KÌ II
NGỮ VĂN 9
A. Kiến thức trọng tâm:
I. Tri thức ngữ văn:
Truyện ngắn:
- Nhận biết và phân tích được sự việc, việc làm tiêu biểu của nhân vật trong văn bản.
Liên hệ được ý tưởng, thông điệp trong văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội.
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố trong truyện như: không gian, thời
gian, chi tiết, cốt truyện, nhân vật chính, lời người kể chuyện.
- Nhận biết và phân biệt được lời người kể chuyện và lời nhân vật, lời đối thoại và
lời độc thoại trong văn bản truyện. Nêu được nội dung bao quát của văn bản; bước
đầu biết phân tích các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, nhân vật trong tính
chỉnh thể của tác phẩm.
2. Thơ song thất lục bát:
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố về thi luật của thơ song thất lục bát
như: vần, nhịp, số chữ, số dòng trong một khổ thơ; sự khác biệt so với thơ lục bát.
- Nhận biết và phân tích được nét độc đáo của bài thơ thể hiện qua từ ngữ, hình
ảnh, bố cục, mạch cảm xúc.
- Nhận biết và phân tích được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo của người
viết thể hiện qua văn bản. Nhận biết và phân tích được chủ đề, tư tưởng, thông
điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn
bản; phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề.
II. Tri thức tiếng Việt.
1. Câu đơn và câu ghép, các kiểu câu ghép và phương tiện nối các vế của câu
ghép:
* Lựa chọn câu đơn - câu ghép:
- Câu đơn (câu có một cụm chủ ngữ - vị ngữ nòng cốt) để biểu thị một phán đoán
đơn.
- Câu ghép (câu hai cụm chủ ngữ - vị ngữ nòng cốt trở lên) để biểu thị một
phán đoán phức hợp, thể hiện một quá trình duy thông báo tính chất phức
hợp.
- Lựa chọn các kiểu câu ghép và các phương tiện nối các vế câu ghép
* Có nhiều cách phân loại câu ghép. Dưới đây là hai cách phân loại thường gặp:
- Dựa vào quan hệ giữa các vế, thể chia câu ghép thành hai loại: câu ghép đẳng
lập (các vế có quan hệ đẳng lập, không phụ thuộc nhau) và câu ghép chính phụ (các vế có
quan hệ phụ thuộc nhau).
+ Câu ghép đẳng lập: Giữa các vế của câu ghép đẳng lập thường có quan hệ ý
nghĩa: (1) liệt kê; (2) lựa chọn; (3) tiếp nối; (4) đối chiếu
+ Câu ghép chính phụ: Giữa các vế của câu ghép chính phụ thường quan hệ ý
nghĩa: (1) nguyên nhân - kết quả ; (2) điều kiện/ giả thiết - kết quả ; (3) nhượng bộ -
tương phản ; (4) mục đích - sự kiện
- Dựa vào phương tiện nối các vế, có thể chia câu ghép thành hai loại: câu ghép có
từ ngữ liên kết câu ghép không từ ngữ liên kết (chỉ dùng dấu phẩy (,), dấu chấm
phẩy (;), dấu hai chấm (:) để ngăn cách các vế).
- Câu ghép có từ ngữ liên kết
* Lưu ý: Ngoài các kết từ (và, rồi, hay, còn,...), các cặp kết từ (vì ... nên, nếu ... thì,
tuy ... nhưng,...), từ ngữ liên kết còn thể các cặp từ ngữ ứng như càng ... càng,
vừa ... vừa, mới ... đã, bao nhiêu ... bấy nhiêu, nào ... ấy,...
- Câu ghép không có từ ngữ liên kết
2. Câu rút gọn và câu đặc biệt: đặc điểm và chức năng
- Câu rút gọn là loại câu bị lược bỏ một hoặc một vài thành phần nào đó và có thể
khôi phục lại (các) thành phần bị rút gọn nhờ ngữ cảnh. Việc rút gọn câu có tác dụng làm
cho câu ngắn gọn hơn, tránh lặp lại những từ ngữ đã xuất hiện trước đó.
- Câu đặc biệt chứcng thông tin về thời gian, nơi diễn ra sự kiện, sự việc.
Do đặc điểm không thể khôi phục được các thành phần câu sau khi lược bỏ nên những
thông tin người nói, người viết truyền tải đến người nghe, người đọc qua câu đặc biệt
đảm bảo thông tin chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu
B. THỰC HÀNH ĐỀ MINH HỌA
ĐỀ 1
I. ĐỌC- HIỂU (5.0 điểm): Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
[…] (1) Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm. Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa
chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ
không quay lại. Vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bảo chắc ông để bụng chuyện
con của chồng trước nên ngược đãi, khắc, đuổi xua. Ông đau không nói được một
lời, ông đã nâng niu khi mới thôi nôi, đã vui khi người bảo con nhỏ giống ông in
hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời), đã sướng rơn khi gọi tiếng ba ơi,
con Cải đi rồi, ông đã xuống nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa,
ông hụi ém mùng, rồi ngồi một góc, nhìn chiếu gối thênh thang, lòng chết điếng nỗi
nhớ con, lolưu lạc giữa đời. Như thế ông không thương sao? Như thế
không thương à? Nhà buồn u buồn ám, đã ít người rồi bây giờ lại chẳng nhìn, chẳng
cười nói với nhau. Sau, người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào,
họ kìn kìn lại coi (ai giàu tưởng tượng vậy không biết). Ông khăn gói bỏ xứ ra đi,
bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về.
[…] (Tóm tắt đoạn lược: Biển người mênh mông, tìm đâu cho thấy, vậy là ông xin làm
chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, trước giờ diễn sẽ xin nói vài câu trên sân khấu: “Cải
ơi! Ba là Năm Nhỏ nè con”. Khi đoàn ca múa nhạc giải tán ông theo thằng Thàn (ca sĩ ở
đoàn ca múa nhạc) về ngã Ba Sương, đi bán xe kẹo kéo, khuya thì đậu ngã ba nhắn
tìm con “Cải ơi!”, tiếng gọi nghe ngoắc ngoải cả một vùng. Một đêm…)
(2) Thàn giật mình tỉnh giấc, không thấy ông già, nó ngật ngừ ngồi dậy, trên bụng rớt
xuống một gói tiền. Xe kẹo kéo vẫn còn nguyên, Thàn kéo cửa bước ra ngoài. Ngã ba
Sương đã tắt đèn, những con đường hun hút mù mịt dưới mưa, như không cần biết đến từ
đâu, chỉ biết gặp đây, phút này. Thằng Thàn làu bàu, hỏng biết ông già chừng này
đi đâu vậy cà.
(3) Ông Năm đi ăn trộm chớ đâu. Ông lội bộ gần năm cây số trong mưa sụt sùi
trong xóm, ghé chỗ lò mổ, dắt đôi trâu đem đi. Ông làm gọn gàng như với đôi trâu ở nhà.
Sáng ra ông trở lại, ghé đúng ngôi nhà hàng so đũa cặp lộ, ông thấy một đám
người đang tao tác đứng ngồi, ông hỏi, mua trâu hôn, tui kẹt tiền đem bán đây nè. Chủ
nhà chạy ra la lên, trời ơi, bắt ổng lại, ổng ăn trộm của tôi. Ông Năm giả đò hết hồn,
nhưng trong bụng thấy trúng ý, bảo, từ từ, tui chạy đâu sợ. Người ta đưa ông lên
ấp, ấp giải lên xã, ông luôn miệng nhắc, mấy chú nhớ kêu đài truyền hình xuống nghen,
phải quay tui để dân người ta cảnh giác. May, đài tỉnh xuống thật, phóng viên một tờ báo
cũng chạy theo, dọc đường hăm hở rút sẵn tít "Đạo tặc đãng trí" (thì ai cũng tưởng vậy).
Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm của người khác thiệt tưng bừng. Họ phỏng vấn ông
chủ mổ, phỏng vấn trưởng công an xã, cuối cùng, ông Năm xin được nói đôi lời, còn
dặn, mấy chú làm ơn đừng cắt bỏ tiếng tui, rằng "Cải ơi, ba Năm Nhỏ nè, nhà mình
Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ
đôi trâu cộ nhằm nhò gì... Về nghen con, ơi Cải...".
(4) Nghe đâu, hôm đó, nhiều người rơi nước mắt, vì vậy vụ trộm trâu không
được lên ti vi, sống giữa cái rẻo đất nhân hậu này nhiều khi cũng hơi phiền. Nghe đâu,
hôm đó đài truyền hình đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng một cách tuyệt
vọng: “Cải ơi”. Như đã nói, nhà đài người ta chớ phải chợ trời đâu, thể thoải
mái gọi”.
(Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr.7 – 16)
* Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (1.0 điểm): Nêu chủ đề và dấu hiệu nhận biết chủ đề của văn bản trên?
Câu 2 (1,0 điểm): Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy? Ngôi kểy tác
dụng như thế nào trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của đoạn trích?
Câu 3 (1,0 điểm) Xác định nêu chức năng của câu đặc biệt trong đoạn văn
sau: Nghe đâu, hôm đó đài truyền hình đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng
một cách tuyệt vọng: Cải ơi! Nđã nói, nhà đài người ta chớ phải chợ trời đâu,
có thể thoải mái gọi”.
Câu 4 (1,0 điểm): Tìm những chi tiết miêu tả nhân vật ông Năm trong đoạn (1) của
văn bản. Qua những chi tiết vừa tìm được, em hiểu gì về nhân vật này?
Câu 5 (1,0 điểm): Nêu cách hiểu của em qua câu Như đã nói, nhà đài người ta
chớ có phải chợ trời đâu, mà có thể thoải mái gọi, "Cải ơi”?
Từ cách hiểu đó, em sẽ làm gì khi bắt gặp một hoàn cảnh như ông Năm nhỏ?
II. VIẾT (5.0 điểm):
Viết bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề cần giải quyết:"Em hãy đề xuất
một số giải pháp phù hợp để giúp các bạn trẻ hiện nay vượt qua thói quen trì
hoãn?”
ĐỀ 2
I. ĐỌC- HIỂU ( 5,0 điểm)
Đọc sau và trả lời các câu hỏi:
[…]
Sao ba[1] hay đánh mắng em vậy anh?- Thằng Tèo ngồi nhấp nhổm trên lưng
anh, ngây thơ hỏi.
– Chắc tại ba say rượu.
– Tại sao ba say rượu?
– Thì tại ba…uống rượu.
– Tại sao ba uống rượu?
Đối với Tí, đó là câu hỏi quá khó.tuổi của Tí, làm sao nó biết được người lớn
số do để tìm đến hơi men, trong đó do mượn rượu giải sầu. không biết.
Nhưng nó biết một câu tục ngữ nó vẫn nghe người lớn nói. Thế là nó vui vẻ giải thích cho
em nó:
– Người ta thường nói “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” đó em.
– Vậy ba đánh em là vì ba thương em hả anh?
– Chứ gì nữa.
– Nhưng ba đánh đau quá anh à. Tèo sờ tay xuống mông xuýt xoa – Em muốn ba
thương em in ít thôi. Như vậy ba sẽ nhẹ tay hơn.
Nghe em nói thằng rơm rớm nước mắt. lớn hơn thằng Tèo bốn tuổi nên
cũng khôn hơn. Ngay cả nó, cũng đâu muốn ba thương nó theo kiểu ba
nó thương thằng Tèo. Nó chỉ nói để em nó vui. Tự nhiên, nó thấy ân hận. Nó có cảm giác
như đang dối gạt em mình. không dám đưa tay gạt nước mắt, sợ thằng Tèo biết
khóc. xốc thằng trên lưng, lếch thếch đi. cứ đi, đi mãi. cũng chẳng biết đi
đâu, chỉ khi nào mỏi chân thì thả thằng em xuống.
Suốt tuổi ấu thơ của mình, những chuyện mắng mỏ hay đòn roi thằng Tèo phải
chịu một cách bất công cứ lặp đi lặp lại. Nhưng Tèo không cảm thấy khổ tâm lắm.
nghĩ đó cách ba thương đối với nó, kiểu thương của ông thật kỳ cục thật
lòng thì nó thích ba nó thương nó theo kiểu mẹ nó thương nó hơn.[…]